Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm đổi mới phương pháp dạy - học của giáo viên và học sinh khối 11 ở Trung tâm GDNN – GDTX Hoa Bằng, giúp giáo viên có thêm một phương pháp dạy mới, học sinh có một cách học mới để tiếp thu và lĩnh hội những tri thức lịch sử hiệu quả, góp phần phát huy năng lực tư duy, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phương pháp kể chuyện lịch sử
- MỤC LỤC Trang 1. Mở đầu 1 1.1. Lý do chọn đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2 2.1. Cơ sở lý luận của SKKN 2 2.2. Thực trạng các vấn đề trước khi áp dụng SKKN 3 2.3. Các SKKN hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 4 2.3.1. Nguyên tắc cần tuân thủ khi sử dụng phương pháp kể chuyện 5 lịch sử trong dạy học lịch sử 2.3.2. Một số phương pháp kể chuyện lịch sử trong chương trình lịch 5 sử Việt Nam lớp 11 ở Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng 2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, 15 đồng nghiệp và nhà trường 3. Kết luận, kiến nghị 16 - Kết luận. 16 - Kiến nghị. 17 Tài liệu tham khảo. 18 Phụ lục. 19
- 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Lịch sử là một bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Lịch sử là quá khứ chứa đựng nhiều giá trị văn hoá và nguồn dữ liệu quý giá để đánh giá sự phát triển ở hiện tại. Bất kì quốc gia nào cũng đều học môn lịch sử bởi lịch sử có giá trị vô cùng quan trọng , sử học nuôi dưỡng đạo đức con người, giáo dục con người tính cần cù, chăm chỉ, sáng tạo, yêu thương, đoàn kết gia đình, yêu quê hương đất nước. Việc học lịch sử lại càng vô cùng quan trọng trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Với tư cách là một môn khoa học, bộ môn lịch sử trong trường phổ thông có vai trò quan trọng trong việc đào tạo giáo dục học sinh trở thành một con người toàn diện, giáo dục đạo đức, thẩm mĩ, thế giới quan khoa học cho học sinh như giáo dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc, lòng biết ơn...Lịch sử không chỉ dạy cho học sinh tình cảm yêu ghét trong đấu tranh giai cấp mà còn bồi dưỡng cho các em năng lực đối xử với mọi người xung quanh, biết yêu quý cái đẹp, yêu lao động, sự căm thù quân cướp nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Khơi dậy ở học sinh sự thông cảm sâu sắc và lòng kính yêu đối với quần chúng nhân dân. Bởi vì lịch sử chính là “cô giáo của cuộc sống”, giúp các em có ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng dân tộc của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay bộ môn lịch sử trong trường THPT chưa thực sự được đề cao. Vị trí, vai trò của lịch sử bị một bộ phận không nhỏ phụ huynh và học sinh thờ ơ xem nhẹ. Bên cạnh đó, trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ nặng về cung cấp kiến thức sự kiện, con số trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu đào tạo. Một biện pháp quan trọng trong đó là sử dụng tài liệu tham khảo trong đó có sử dụng những mẫu chuyện lịch sử kết hợp hình ảnh nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm 1858 - 1918 có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc. Nội dung chính của giai đoạn này là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập và giải phóng dân tộc của nhân dân ta; trong đó, nội dung đấu tranh chống xâm lược được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Trong giai đoạn này gắn với mỗi bước phát triển của lịch sử là những sự kiện, nhân vật - những mẩu chuyện lịch sử. Những câu chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực quan sẽ có tác dụng cụ thể hoá kiến thức, giúp các em tái hiện quá khứ một cách chân thực nhất . Đồng thời có tác dụng mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của học sinh hình thành trong các em lý tưởng sống cao đẹp, ý thức trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, quê hương đất nước. Xuất phát từ thực tế trên, với hơn 10 năm giảng dạy lịch sử ở Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng tôi phải từng bước đổi mới phương pháp dạy học bộ 1
- môn, để tìm ra phương pháp hay, cách dạy mới giúp học sinh có thể tiếp cận kiến thức môn học một cách dễ dàng, gây hứng thú cho học sinh, để các em được sống lại với quá khứ thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt Nam và thế giới. Để nâng cao hiệu quả bài học, nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh tôi xin trình bày đề tài: “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chƣơng trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phƣơng pháp kể chuyện lịch sử”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học lịch sử có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày càng yêu thích môn học. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nhằm đổi mới phương pháp dạy - học của giáo viên và học sinh khối 11 ở Trung tâm GDNN – GDTX Hoa Bằng, giúp giáo viên có thêm một phương pháp dạy mới, học sinh có một cách học mới để tiếp thu và lĩnh hội những tri thức lịch sử hiệu quả, góp phần phát huy năng lực tư duy, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 1.3. Đối tƣợng nghiên cứu Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nghiên cứu và áp dụng cho đề tài là học sinh khối 11 ở ba lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy là 11B1, 11B2, 11B3 Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng năm học 2018 - 2019. 1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã thực hiện các bước cụ thể sau đây: - Nghiên cứu các tài liệu lí luận và vấn đề sử dụng các câu chuyện, giai thoại trong dạy học lịch sử ở trường THPT. - Nghiên cứu tìm hiểu SGK, sách giáo viên, sách bài tập, tài liệu chuẩn kiến thức và kĩ năng, các tài liệu tham khảo kiến thức lịch sử lớp 11. - Thông qua việc thao giảng, dự giờ đồng nghiệp để trao đổi rút kinh nghiệm, đặc biệt là những tiết dạy học có sử dụng kể chuyện lịch sử. - Cho học sinh làm bài kiểm tra, sử dụng phiếu trắc nghiệm khách quan sau những tiết có sử dụng kể chuyện lịch sử để tổng kết kinh nghiệm sư phạm, đúc rút kinh nghiệm kịp thời để điều chỉnh quá trình dạy - học cho phù hợp với đối tượng học sinh. - Phương pháp thực nghiệm: tiến hành soạn và thực nghiệm các tiết dạy cụ thể để khẳng định tính khả thi, hiệu quả của việc sử dụng kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Lịch sử là khoa học nghiên cứu xã hội và con người trong sự phát triển của nó, nghiên cứu quá khứ cuộc sống của nhân loại một cách toàn diện với những quy luật chung và tính cụ thể. Khoa học lịch sử vì thế có những đặc trưng riêng: 2
- Thứ nhất: tri thức lịch sử mang tính khái quát. Đó là những sự kiện lịch sử đã xảy ra, người ta không thể quan sát trực tiếp được lịch sử quá khứ mà chỉ nhận thức chúng một cách gián tiếp thông qua các nguồn tài liệu. Thứ hai: Tính không lặp lại. Mỗi sự kiện, hiện tượng chỉ xảy ra trong một thời gian không gian nhất định. Thứ ba: Tính cụ thể. Mỗi sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian nhất định. Đặc điểm này đòi hỏi khi trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể, sinh động, có hình ảnh bao nhiêu thì càng hấp dẫn hứng thú bấy nhiêu. Thứ tư: Tính hệ thống. Sự vận động từ quá khứ tới hiện tại, từ hiện tại tới tương lai trong hiện thực lịch sử luôn là quá trình phát triển hợp quy luật. Từ đặc trưng trên của bộ môn cho ta thấy trong giảng dạy lịch sử ngoài sách giáo khoa là tài liệu cơ bản thì việc sử dụng tài liệu tham khảo trong đó các mẩu chuyện lịch sử cũng là một nguồn kiến thức quan trọng giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức lịch sử, mà lịch sử là một câu chuyện dài, rất hay và ý nghĩa. Người thầy có nhiệm vụ khơi gợi cho học sinh cảm nhận cái hay của câu chuyện. Sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong giai đoạn lịch sử Việt nam từ 1858 -1918 gắn với biết bao sự kiện, nhân vật sẽ giúp các em hiểu rõ quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Nhờ đó, từng sự kiện, biến cố lịch sử quan trọng sẽ hiện lên với đầy đủ tính cụ thể, gợi cảm và đầy kịch tính của nó, đem đến cho học sinh những cảm xúc mạnh mẽ không thể nào quên. 2.2. Thực trạng vấn đề trƣớc khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Thực trạng chung của Trung tâm Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn cả về cơ sở vật chất và con người nhưng với sự nỗ lực cố gắng của tập thể Trung tâm đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong việc nâng cao chất lượng dạy - học, đặc biệt là tỉ lệ học sinh giỏi và học sinh thi đậu tốt nghiệp, các trường trung cấp, cao đẳng, đại học. Một thực tế vẫn tồn tại là qua nhiều năm Trung tâm vẫn chưa khắc phục được là chất lượng “đại trà” còn thấp, tỉ lệ học sinh yếu kém còn nhiều, trong đó môn lịch sử chiếm một số lượng tương đối . 2.2.2. Về phía giáo viên * Ƣu điểm: Tổ văn hoá của Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng hiện nay có 13 giáo viên trẻ, tuổi đời, tuổi nghề đang bước vào độ chín, được đào tạo chính quy, có năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, yêu nghề, cầu tiến, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác chuyên môn, ham học hỏi, tìm tòi và sáng tạo. * Hạn chế: Trong qúa trình giảng dạy, phần lớn giáo viên chỉ dựa vào sách giáo khoa mà chưa chú trọng vào việc mở rộng nguồn nhận thức, hình thức tổ chức dạy học. Đặc biệt là chưa có phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo khi dạy học, nếu có thì 3
- cũng rất hình thức như giới thiệu vắn tắt nội dung của tài liệu, trích đọc một đoạn tài liệu để minh hoạ, nhắc đến một nhân vật nào đó thì học sinh sẽ quên ngay sau tiết học. Ít giáo viên sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong bài giảng của mình. Bên cạnh đó mặc dù đã cải cách chương trình giảng dạy nhưng vẫn còn một số bài quá dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với cả giáo viên truyền thụ lẫn việc lĩnh hội kiến thức của học sinh. 2.2.3. Về phía học sinh * Ƣu điểm Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng là một trường miền núi, học sinh người dân tộc thiểu số chiếm một tỉ lệ tương đối lớn. Hầu hết các em đều xuất thân từ gia đình thuần nông nên ngoan ngoãn, chịu khó. Trong giờ học lịch sử các em lắng nghe giáo viên giảng bài, tập trung theo dõi SGK, làm bài tập theo yêu cầu của giáo viên, có ý thức vươn lên trong cuộc sống. * ạn chế Về phía học sinh: Là học sinh một huyện miền núi, nhiều em ở vùng sâu vùng xa đi lại khó khăn, gia đình hoàn cảnh, ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập. Đa số các em vẫn còn thói quen học vẹt, không nắm sâu được kiến thức vì vậy sẽ mau quên kiến thức cũ, hoặc có nhớ thì cũng không thực sự chính xác các sự kiện lịch sử. - 2019 Bản thân tôi trong học kì I vừa qua đã đảm nhận việc giảng dạy ba lớp khối: 11B1, 11B2, 11B3. Kết quả đạt được trong học kì I như sau: Giỏi Khá TB Yếu Kém Lớp SLHS SL % SL % SL % SL % SL % 11B1 35 0 7 20 18 51.45 9 25.7 1 2.85 11B2 29 0 3 10.3 20 69 5 17.3 1 3.4 11B3 30 0 3 10 22 73.3 3 10 2 6.7 Trong quá trình giảng dạy, với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh, vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy, tôi thiết nghĩ phải từng bước điều chỉnh phương pháp dạy học của mình cho phù hợp với đối tượng học sinh khối 11 nhằm nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn. Tôi đã thực hiện “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chƣơng trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phƣơng pháp kể chuyện lịch sử”. Với việc thực hiện phương pháp này, tôi từng bước điều chỉnh cách học của học sinh nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác cho người học trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội và vận dụng kiến thức đã học để làm bài kiểm tra đạt được kết quả cao hơn, gây hứng thú cho các em trong mỗi giờ lịch sử. 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 4
- 2.3.1. Những nguyên tắc cần tuân thủ khi sử dụng phƣơng pháp kể chuyện lịch sử trong dạy - học lịch sử Để sử dụng các câu chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hứng thú học tập cho học sinh, đỏi hỏi giáo viên phải tuân thủ một số nguyên tắc sau: - Nguyên tắc đảm bảo tính tư tưởng. Tính tư tưởng trong dạy học lịch sử thể hiện ở việc đứng vững trên lập trường quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nên khi lựa chọn những câu chuyện lịch sử phải xem xét để đảm bảo tính tư tưởng. - Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học, tính chính xác. Đây là yêu cầu quan trọng trong nội dung dạy học để đảm bảo học sinh có cái nhìn đúng về sự kiện, nhân vật, hiện tượng lịch sử. - Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức. Nội dung câu chuyện đưa vào dạy học phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi, hoàn cảnh và trình độ nhận thức của học sinh. Ngôn ngữ phải trong sáng, dễ hiểu, biểu cảm.... - Nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh. Giáo viên cần phải lựa chọn các câu chuyện lịch sử cho phù hợp với những kiến thức sự kiện lịch sử cơ bản, phục vụ cho bài học để từ đó học sinh hiểu sâu sắc bài học, kích thích sự ham học, khơi dậy nội lực của mình. Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện không đơn thuần là để minh hoạ mà còn để cụ thể hoá kiến thức, tái hiện nội dung kiến thức để tạo biểu tượng lịch sử, rút ra bài học lịch sử. 2.3.2. Một số phƣơng pháp kể chuyện lịch sử trong chƣơng trình lịch sử Việt Nam lớp 11 ở Trung tâm GDNN-GDTX Hoa Bằng Trong bài giảng, phương pháp sử dụng kể chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực quan - quan sát tranh ảnh là đặc biệt nhất, để nâng cao tính tích cực của học sinh, làm bài giảng sinh động có hiệu quả. phương pháp kể chuyện phải sử dụng kết hợp với các phương pháp dạy học lịch sử khác một cách đồng bộ. Việc lồng ghép kể các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong bài dạy sẽ được học sinh có thêm cơ sở để nắm vững bản chất sự kiện, ghi nhớ sự kiện, có ấn tượng mạnh và ngưỡng mộ về nhân vật. Qua đó, thực hiện tốt việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hình thành thói quen tư duy, ghi nhớ sự kiện thông qua việc liên tưởng tới các câu chuyện được kể, khắc sâu hơn nội dung lịch sử, vấn đề lịch sử. 2.3.2.1. Sử dụng các câu chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực quan để trình bày diễn biến một cuộc chiến tranh, một cuộc khởi nghĩa, một chiến dịch... từ đó rút ra bài học lịch sử. Khi các bài học có nội dung liên quan đến diễn biến của một cuộc khởi nghĩa, cuộc kháng chiến, một chiến dịch… giáo viên sử dụng bản đồ, lược đồ hay sa bàn… trong quá trình tường thuật sự kiện, có thể cho học sinh xem một đoạn phim tư liệu lịch sử, giáo viên kết hợp kể những câu chuyện có liên quan đến sự kiện đang trình bày, cho học sinh quan sát tranh ảnh. Điều này có tác dụng giúp học sinh nhớ tốt hơn diễn biến, sau đó giáo viên có thể đặt một vài câu hỏi để các em 5
- nêu lên những suy nghĩ của bản thân và rút ra được nội dung bài học hoặc cho học sinh kể trên cơ sở đã chuẩn bị câu chuyện. Ví dụ 1: Khi dạy bài 20: “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1973 đến năm 1984”. Có rất nhiều sự kiện nhưng giáo viên chọn sự kiện tiêu biểu nhất đó là chiến thắng Cầu Giấy lần 1 năm 1873 . Giáo viên sử dụng lược đồ trận Cầu Giấy kết hợp hình ảnh để tường thuật trận phục kích làm nên chiến thắng Cầu Giấy vang dội của nhân dân ta (21/12/1873). Trận Cầu Giấy diễn ra vào ngày 21/12/1873 khi Gác-ni-ê đang bàn luận với các sứ bộ An Nam thì viên thông dịch vào báo rằng quân Cờ Đen (tức quân Lưu Vĩnh Phúc) đang đánh thành ở cửa Tây, lính Pháp đang nã súng ra, buộc quân Cờ Đen phải rút lui sau lùm tre. Gác-ni-ê liền gọi một toán lính hơn một chục người rồi giao cho ba người kéo một cỗ súng đại bác ra ngoài cổng thành đuổi theo quân địch. Vì súng thì nặng nên không đi nhanh được, Gác-ni-ê ra lệnh bỏ lại với vài tên lính. Chín tên lính còn lại thì Gác-ni-ê chia thành ba nhóm. Hai nhóm truy kích vòng ra hai phía tả hữu còn Gác-ni-ê thì dẫn nhóm trực chỉ lối giữa. Đuổi khoảng 1 km rưỡi thì Gác-ni-ê trượt chân ngã xuống ở chân dốc đê. Một toán quân Cờ Đen ẩn đằng sau đê ùa ra, súng bắn tràn. Lúc đó Gác-ni-ê đã bỏ xa hai người lính hộ vệ 100 mét. Một người trúng đạn chết; người kia cũng bị thương. Gác-ni-ê gào to: "Hỡi những binh sĩ dũng cảm, hãy lại đây với tôi, tôi sẽ đánh cho chúng một trận chí tử!" Sau đó Gác-ni-ê cố tự vệ dùng súng côn bắn sáu phát. Quân Cờ Đen xông ra bao vây giết chết Gác-ni-ê và một binh sĩ khác Bốn người đồng đội khác của Gác-ni-ê cũng bị giết trong cuộc truy kích này. Lược đồ chiến trường Hà Nội 6
- Gác-ni-ê tử trận tại Cầu Giấy (21/12/1873) Qua đó học sinh nắm được chiến thắng Cầu Giấy có ý nghĩa lớn khiến cho nhân dân ta vô cùng phấn khích, ngược lại làm cho thực dân Pháp vô cùng hoang mang lo sợ. Tình hình đó mở ra một cơ hội để quân ta tấn công Pháp buộc chúng rút khỏi bắc Kì. Song triều đình một lần nữa lại kí với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất năm 1874 chịu nhiều thiệt thòi . Từ đây, phong trào kháng chiến của nhân dân vừa chống thực dân Pháp vừa chống phong kiến đầu hàng. Ví dụ 2 Khi dạy bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”, phần II mục 4: “ Khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913)” giáo viên kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh và kể : Từ năm 1884 đến năm 1892. Tại vùng Yên Thế có hàng chục toán quân chống Pháp hoạt động riêng lẻ, đặt dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh khác nhau. Thủ lĩnh có uy tín nhất lúc đó là Đề Nắm đã lãnh đạo nghĩa quân đẩy lùi nhiều trận càn quét của quân Pháp vào khu vực Cao Thượng, Hố Chuối. Đến năm 1891, nghĩa quân làm chủ một vùng rộng lớn và mở rộng hoạt động sang Phủ Lạng Thương (vùng thành phố Bắc Giang ngày nay). Trước những đợt tấn công, càn quét mới của giặc, nghĩa quân phải rút dần lên vùng Bắc Yên Thế xây dựng, củng cố hệ thống công sự phòng thủ. Tháng 3-1892, Pháp huy động khoảng 2 200 quân, gồm nhiều binh chủng ồ ạt tấn công vào căn cú của nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân bị tổn thất nặng, nhiều người bị địch bắt và giết hại, một số phải ra hàng. Đề Nắm bị sát hại vào tháng 4-1892. Pháp đem quân đánh mãi mà không được nên năm 1894, Pháp phải xử hoà với ông, cho ông cai quản 22 xã trong vùng YênThế, Ðề Thám lập căn cứ ở Chợ Gò. Dân chúng gọi ông là con “Hùm thiêng YênThế”. Nhưng hai năm sau thì Ðề Thám lại nổi lên đánh Pháp, tới năm 1898 thì Pháp lại xin ký hoà ước nhường cho ông thêm nhiều quyền lợi nữa. Ðề Thám sống yên cho tới năm 1905 thì lại nổi dậy đánh Pháp một lần nữa. Năm 1908, Ðề Thám quyết định đánh một cú lớn để chiếm thành Hà Nội nên đã âm mưu với nhiều người đầu bếp để bỏ thuốc độc (bột datura) cho 200 lính Pháp giữ thành ăn, nhưng vì liều thuốc hơi yếu nên lính Pháp chỉ bị lảo đảo chứ không chết, cuộc âm mưu bất thành. Ðầu năm 1909, quân đội Pháp 7
- quyết định mở chiến dịch lớn để tấn công Ðề Thám trong tận sào huyệt, Ðề Thám thua nên bỏ trốn vào rừng. Pháp ra giải thưởng 25.000 đồng cho ai bắt hay giết được Ðề Thám. Có ba tay lãng tử người Tàu vì ham tiền nên tìm đến Ðề Thám để xin gia nhập rồi thừa lúc ban đêm ông ngủ mà xúm đến chặt đầu ông đem về lãnh thưởng ngày 10 tháng 2 năm quý-sửu (18-3-1913), chấm dứt một cuộc kháng chiến trường kỳ trên một phần tư thế kỷ. Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế Qua đó cho học sinh thấy đây là phong trào đấu tranh lớn nhất của nông dân trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nói lên ý chí, sức mạnh bền bỉ, dẻo dai của nông dân. 2.3.2.2. Sử dụng câu chuyện lịch sử để giải thích tên gọi một địa danh, một vùng đất, bản chất của sự kiện lịch sử Phần lịch sử Việt Nam lớp 11 có rất nhiều sự kiện, địa danh thường rất khô khan và khó nhớ. Để học sinh dễ nhớ và hứng thú hơn trong giờ học, giáo viên cần có những mẫu chuyện sinh động, kết hợp xem tranh ảnh để tạo nên sự hấp dẫn cho bài học hoặc qua phần học sinh tìm hiểu các em tự kể, sau đó giáo viên đặt câu hỏi để các em nhận xét. Còn để cho học sinh nắm được bản chất của sự kiện, tức là trả lời được câu hỏi vì sao thì giáo viên sử dụng các mẩu chuyện lịch sử rồi từ đó nêu tình huống có vấn đề. Ví dụ 1: Khi dạy bài 20, lịch sử Việt Nam lớp 11 phần I mục 3: “Phong trào kháng chiến ở Bắc Kì trong những năm 1973-1974”. Để học sinh hiểu được tinh thần chiến đấu của quân dân Hà Nội khi thực dân Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất 8
- qua việc giải thích vì sao cửa Ô Thanh Hà lại được đổi thành Ô Quan Chưởng, giáo viên kể kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh: Ô Quan Chƣởng Đây là một trong những cửa Ô còn sót lại của toà thành Thăng Long cũ, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ 3 được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay (cho HS xem ảnh của Ô Quan Chưởng hoặc trình chiếu Powerpoint). Hiện ở cửa ô còn nguyên cửa chính và hai cửa phụ hai bên. Bên trên cửa lớn có ghi ba chữ Hán “Đông Hà Môn” tức là cửa ô Đông Hà. Sở dĩ cửa ô còn có tên gọi là Ô Quan Chưởng vì ngày 20.11.1873 Pháp đánh thành Hà Nội, khi đến cửa ô Đông Hà chúng đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của 100 binh sĩ triều đình do một viên quan Chưởng cơ chỉ huy anh dũng chặn giặc, kết cục viên Chưởng cơ cùng toàn thể 100 binh sĩ đều anh dũng hy sinh. Để tỏ lòng ngưỡng mộ người chưởng cơ anh dũng, nhân dân đổi tên cửa ô là Ô Quan Chưởng. Từ bấy đến nay người ta vẫn chưa xác minh được tên gọi của vị chưởng cơ anh hùng. Vì vậy tên Ô Quan Chưởng vẫn còn đó như một tồn nghi của lịch sử. Ô Quan Chưởng - một trong năm cửa ô của thành Thăng Long xưa (Hà Nội nay). Qua đó học sinh hiểu được sự ác liệt của chiến trường Hà Nội và việc đổi tên cửa ô thành Ô Quan Chưởng là do nhân dân đổi để tỏ lòng ngưỡng mộ người chưởng cơ anh dũng khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất. Ví dụ 2: Khi dạy bài 22: “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp”. Để giải thích cho sự bần cùng hoá của giai cấp nông dân và nguồn gốc của giai cấp công nhân Việt Nam khác so với giai cấp công nhân quốc tế, giáo viên sử dụng hình ảnh giai cấp nông dân, công nhân Việt Nam thời Pháp thuộc và kể: 9
- Nông dân Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc Công nhân cạo mủ cao su Để thu những món lãi khổng lồ từ việc kinh doanh cao su, tư bản Pháp đã tìm mọi cách chiếm đoạt những vùng đất đai tốt nhất. Sau khi thâm nhập sâu vào vùng đất mới, vùng đồng bào dân tộc, thực dân Pháp tiếp tục lập thêm các đồn binh và tiến hành đàn áp, bắt dân về làm lao dịch, dùng mọi thủ đoạn từ lừa bịp đến 10
- dùng biện pháp vũ lực cướp đoạt trắng trợn đất đai, nương rẫy, và núi rừng, những vùng cư trú của đồng bào dân tộc để làm đồn điền hoặc lập ra các trại cu ly cho các đồn điền. Thời gian đầu, các công ty cao su chủ yếu sử dụng lao động nhàn rỗi trong nông dân, những người “bán công, bán nông”. Lực lượng này tuy đông nhưng thái độ và thời gian làm việc không ổn định. Vì họ là nông dân tại chỗ, những ngày giáp hạt, thiếu ăn họ vào đồn điền làm công, đến mùa vụ họ trở về với mảnh đất khu vườn của gia đình để sinh nhai. Đồn điền cao su càng phát triển, nhu cầu về lao động càng trở nên cấp thiết. Để có nhiều nhân công, thực dân pháp không bỏ qua một thủ đoạn man rợ nào. Desrousseaux trong một báo cáo mật gởi Toàn quyền Đông Dương đã viết: “Người nông dân chỉ bằng lòng rời khỏi làng, làm việc khi nào họ bị đói. Do đó, phải đi đến kết luận lạ lùng là phương thuốc chữa cái khuẩn bách hiện tại (thiếu nhân công) là phải bần cùng hóa nông thôn, rút bỏ những khoản cấp phát, hạ giá nông sản …”. Nhưng tước đoạt ruộng đất và chính sách thuế khóa nặng đối với nông dân Bắc Kỳ chưa tàn bạo bằng việc phá đê nhằm dồn dân vào chỗ không còn kế sinh nhai. “Ôi! có một xứ nào trên trái đất mà người ta lại như ở đây, nỡ quyết định một cách dễ dàng, trong phút chốc, cho một xứ phải chìm dưới 2 thước nước suốt 5 tháng trường. Dân tộc nào, dù là dân tộc dã man nhất, dân tộc nào lại dám quyết định như vậy”. Qua câu chuyện trên học sinh hiểu được chính sách cai trị tàn bạo của thực dân pháp, để giải quyết việc thiếu nhân công chúng đã từng bước bần cùng hoá người nông dân không từ thủ đoạn nào và từ sự bần cùng đó người nông dân đã dần trở thành giai cấp công nhân; sau này, giai cấp công nông sẽ là lực lượng cách mạng to lớn của dân tộc. 2.3.2.3. Sử dụng các câu chuyện lịch sử kết hợp ảnh chân dung để tạo biểu tƣợng về nhân vật lịch sử. Xuyên suốt trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11 là quá trình kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Ở đó đã xuất hiện không ít những anh hùng dân tộc như: Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám... và đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Những nhân vật này có vai trò rất lớn với lịch sử dân tộc do vậy trong dạy học giáo viên không thể lướt qua, bỏ qua mà phải khắc hoạ, tạo biểu tượng về các nhân vật đó, sử dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử một cách sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học sinh kính trọng, noi gương các anh hùng dân tộc. Giáo viên có thể kể chuyện kết hợp với tranh ảnh để tạo biểu tượng. Ví dụ 1: Bài 20 “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1973 đến năm 1884. Nhà nguyễn đầu hàng”. Để học sinh hiểu về Hoàng Diệu - một người trung quân ái quốc, có chính khí cao, sống mãi cùng đất nước. Giáo viên kể: 11
- Tổng đốc Hoàng Diệu Tổng đốc Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (1829) trong một gia đình có truyền thống Nho giáo tại làng Xuân Đài (Diên Phước, Quảng Nam). Từ năm 1879 đến 1882, Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh, quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và vùng phụ cận. Ông đã lãnh đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25/4 năm ấy (1882), thực dân Pháp cho quân tấn công thành Hà Nội lần thứ hai. Trước sự uy hiếp bằng tàu to súng lớn của quân Pháp, Tổng đốc Hoàng Diệu không hề nao núng, vẫn quyết tâm giữ thành Hà Nội. Sự kháng cự quyết liệt của quân dân thành Hà Nội khiến giặc thiệt hại nặng nề. Chúng phải lui binh ra ngoài tầm bắn của quân ta để bảo toàn lực lượng. Lúc này kho thuốc súng trong thành bất ngờ nổ sung do nội gián đốt phá, khiến khói bụi mịt mù bao phủ khắp thành. Quân Pháp thừa cơ tấn công mạnh mẽ. Chỉ trong chốc lát, cổng Tây thành Hà Nội bị phá tan tành. Biết không thể chống cự, tổng đốc Hoàng Diệu một mình quay về Hành cung soạn di biểu tạ tội với triều đình, rồi ra Võ Miếu dùng dây quấn đầu tuẫn tiết, hy sinh theo thành. Trong bức di biểu gửi nhà vua, tổng đốc Hoàng Diệu viết:“T à sao ứ đ , ậ ổv â ĩ Bắ à ú sinh . T â ế ó q ả , yệ theo N yễ Tri P ơ x đ . Q â v ơ dặ , yế ệ đ à …”. Ví dụ 2: Bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX”, mục II “Các giai đoạn phát triển của phong trào Cần Vương”. Ví dụ giáo viên tạo biểu tượng về Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi. “Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29/3/1839 tại thôn Phú Mộng xã Luân Long nay 12
- thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông chủ trương loại bỏ tất cả những ông vua và bọn quan lại có tư tưởng thân Pháp, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến trong triều đình mà ông dự đoán sẽ bùng nổ. Triều thần, người nào chủ hoà đều bị coi là kẻ thù chung của nước Nam và thù riêng của Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất Thuyết là 1 tử tù của nước Pháp. Nhưng đối với người Pháp chỉ có oán với trọng mà không có khinh”. Tôn Thất Thuyết Để giúp học sinh hiểu về vua Hàm Nghi - Một vị vua yêu nước đã ban chiếu Cần Vương. Giáo viên kể đoạn: “Vua Hàm Nghi tên thậy là Ưng Lịch lên ngôi 13 tuổi. Khi cuộc tấn công quân Pháp của Tôn Thất Thuyết bị thất bại, ông cùng Tôn Thất Thuyết chạy lên Sơn Phòng – Tân Sở (Quảng Trị) thảo chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân Phò Vua cứu nước. Thực dân Pháp vô cùng lúng túng trước phong trào Cần Vương, đãm tìm cách bắt cho được Vua Hàm Nghi để dẹp phong trào từ đầu não. Pháp đã mua chuộc tên hầu cận vua là Trương Quang Ngọc bắt vua Hàm Nghi đưa xuống thuyền về Huế. Ngày 14/11/1888, lúc đó vua Hàm Nghi mới 17 tuổi. Pháp tìm mọi cách thuyết phục Hàm Nghi công tác, làm bù nhìn song đều bị nhà vua thẳng thắn khước từ. Ông nói “Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn giám nghĩ đến cha mẹ, anh chị em ruột”. Không mua chuộc nổi, thực dân Pháp đẩy nhà vua đi an trí tại Angieri (Thuộc đia của Pháp). Về sau người mới học và làm chủ được ngôn ngữ Pháp. Trở 13
- thành một hoạ sĩ có tài. Dù vậy Vua vẫn giữ nguyên tập tục dân tộc: Đầu búi bó, quần the áo dài Việt Nam. ông sống ở Angiêri 47 năm. . Vua Hàm Nghi Ví dụ 3: Bài 24 Lịch sử 11: “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)” Mục 2: “Buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Tất Thành (1911-1918)”. Cho học sinh thấy được quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, giáo viên kết hợp cho học sinh quan sát tranh ảnh và kể đoạn chuyện sau: “..... Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên anh mới nếm mùi kem. Sau ít hôm anh đột nhiêu hỏi: “Anh Lê, anh có yêu nước không? Tôi ngạc nhiên và đáp “Tất nhiên là có chứ”. - Anh có thể giữ bí mật không? - Có. - Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không? - Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi? - Đây, tiền đây - Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay. - Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. - Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành xuống tàu buôn Pháp mang tên La - tu - sơ - Tơ - rê- vin. Giáo viên lại tường thuật về ngày lao động trên tàu của Người để thấy một phần gian khổ trong quá trình đi tìm đường cứu nước. 14
- “Hằng ngày, Nguyễn Tất Thành phải cọ rửa gian bếp lớn trên tàu, sau đó nhóm lò, rồi khuôn than, kéo những sọt rau quả, thịt cá, nước đá... từ dưới hầm lên. Có lần trong lúc giông bão, anh đang kéo một sọt nặng trên boong thì 1 đợt sóng lớn chồm tới, cuốn lấy thân thể mảnh dẻ của anh, và xuýt lôi anh xuống biển. Thật may mắn vào khoẳnh khắc cuối cùng thi anh bám được vào dây cáp và nhờ đó thoát chết”. Nguyễn Ái Quốc Tóm lại, trên đây là một số phương pháp kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử tôi đưa ra nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao hiệu quả bài học, truyền đạt kiến thức mới. Trong quá trình vận dụng đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết học.... 2.4. iệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trƣờng. Với sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chƣơng trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phƣơng pháp kể chuyện lịch sử” năm học 2018 - 2019 tôi đã đạt được một số kết quả như sau: - Học sinh hứng thú hơn trong mỗi giờ học lịch sử, không khí của lớp học sôi nổi, thoải mái. - Học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức, các em đã biết chủ động khai thác kiến thức trong SGK, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế để giải quyết những câu hỏi, bài tập mà giáo viên đưa ra. - Làm thay đổi cơ bản quan niệm và cách học bộ môn lịch sử của học sinh trước đây là lệ thuộc vào sự truyền giảng kiến thức của giáo viên sang phương pháp học mới lấy người học làm trung tâm. Qua đó, phát huy được tư duy độc lập, khả 15
- năng quan sát, óc sáng tạo cũng như hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ xảo đặc thù cần thiết khi học bộ môn. Kết quả môn học lịch sử của ba lớp học sinh khối 11 trong học kì II khi tôi thực hiện “phương pháp kể chuyện lịch sử” đã đạt được kết quả khả quan sau: G K TB K M L P SLHS Sl % Sl % Sl % Sl % Sl % 11B1 35 1 2,5 15 43 17 49 02 5,5 0 11B2 29 0 10 34 16 56 03 10 0 11B3 30 0 08 27 20 67 02 6 0 Tuy kết quả trên đây còn khiêm tốn nhưng nó phần nào khẳng định hiệu quả của việc áp dụng giải pháp vào quá trình giảng dạy. Đồng thời tôi cũng rút ra một số kinh nghiệm để góp phần sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử vào dạy học lịch sử có hiệu quả hơn: - Để phát huy tác dụng của hình thức kể chuyện trong các giờ học Lịch sử, đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi, tích lũy tư liệu Lịch sử - Những câu chuyện được kể cần có sự lựa chọn kĩ lưỡng, phục vụ yêu cầu của bài học, có thể lựa chọn các tình tiết cho phù hợp, lược bớt những chi tiết không cần thiết. Những câu chuyện đó phải phản ánh nội dung lịch sử có liên quan đến bài học, tránh lạm dụng và phải phù hợp với quĩ thời gian trên lớp. - Người giáo viên phải rèn luyện cho mình một ngôn ngữ kể chuyện sao cho sinh động, hấp dẫn, có tác dụng lôi cuốn học sinh. - Trong bài giảng, phương pháp kể chuyện phải sử dụng kết hợp với các phương pháp dạy học lịch sử khác một cách đồng bộ và nhuần nhuyễn như phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan... để nâng cao tính tích cực của học sinh, làm bài giảng sinh động có hiệu quả. Trên đây là một số giải pháp chủ quan của cá nhân tôi được đúc rút trong quá trình dạy học lịch sử, tuy nhiên trong quá trình công tác, do hiểu biết của bản thân còn hạn chế, vẫn còn nhiều thiếu sót trong việc áp dụng và thực hiện giải pháp này, rất mong sự đóng góp, bổ sung của các đồng nghiệp để giải pháp của bản thân được hoàn thiện hơn, áp dụng trong các tiết dạy ngày càng có hiệu quả hơn. 3. Kết luận, kiến nghị - Kết luận: Tóm lại, “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chƣơng trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phƣơng pháp kể chuyện lịch sử” với tôi nhận thấy đã đạt được những mục tiêu cơ bản yêu cầu đề ra của bộ môn là nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Với phương pháp dạy - học này, học sinh đã hứng thú hơn, say mê hơn trong giờ học, phát huy được tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập. Qua đó, giúp các em nhận thức sâu sắc hơn về vị trí và tầm quan trọng của bộ môn lịch sử trong trường THPT mà lâu nay các em chưa thực sự quan tâm. Có thể nói, đây là giải pháp không mới, không đặc biệt nhưng đôi khi chúng ta có thể không để ý và không thấy hết tác dụng của nó khi áp dụng vào bài dạy. 16
- Với kinh nghiệm bản thân tôi mạnh dạn đưa ra đây để đồng nghiệp cùng tham khảo. Tôi hy vọng sẽ góp phần tích cực hơn nữa trong việc đổi mới phương pháp dạy - học bộ môn lịch sử hiện nay ở Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng, hạn chế số lượng học sinh yếu kém hằng năm, nâng cao chất lượng đại trà, để học sinh hứng thú say mê hơn nữa với bộ môn lịch sử. Với bản thân mình, tôi sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, đồng thời không ngừng đúc rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn để đề tài này được triển khai rộng rãi trong các khối lớp một cách hiệu quả và có chất lượng. - Kiến nghị Qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chƣơng trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phƣơng pháp kể chuyện lịch sử” tôi thấy rằng: Sử dụng các câu chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử là điều thực sự cần thiết, có ý nghĩa lớn trên cả ba phương diện giáo dục, giáo dưỡng và phát triển toàn diện học sinh. Đồng thời tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: * Đối với sở GD ĐT Cần quan tâm nhiều hơn đến bộ môn lịch sử ở trường các Trung tâm GDNN - GDTX. Mua sắm nhiều hơn nữa tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học phù hợp với yêu cầu của bộ môn để cung cấp cho các nhà trường trong tỉnh. * Đối với Trung tâm - Nhà trường nên tổ chức các cuộc thi mang tính chất vừa chơi, vừa học, vừa thể hiện sự hiểu biết, vừa tạo điều kiện để học sinh bộc lộ năng khiếu khác của mình. * Đối với giáo viên Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Phải thực sự tâm huyết, tận tình với công việc, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao trước học sinh. Trên đây là một vài đề xuất của bản thân tôi trong sáng kiến giáo dục này. Rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của nhà trường, đồng nghiệp để sáng kiến đạt hiệu quả. X C N ẬN CỦA THỦ Hoa Bằng, ày 9 á 5 9 TRƢƠNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. NGƢỜI VI T SKKN Vũ Thị Tuyết 17
- TÀ L ỆU THAM KHẢO 1. Các triều đại phong kiến Việt Nam , Quỳnh Cư, Đỗ Đức Huy, NXB Thanh niên, 2017. 2. Cao su thiên nhiên hôm qua hôm nay và ngày mai, tập san cao su Việt Nam số 58-59 tháng 9,10 -1977, Đặng Văn Vinh. 3. Giai cấp công nhân Việt Nam , Trần Văn Giàu, NXB Sự thật, Hà Nội, 1979 4. Giới thiệu giáo án lịch sử 11, Nguyễn Hải Châu (chủ biên), NXB Hà Nội, 2007. 5. Giáo trình Phương pháp dạy học Lịch sử - Phan Ngọc Liên chủ biên ,NXB Giáo dục, 2005. 6. Hồ Chí Minh những tên gọi đi cùng năm tháng - Bá Ngọc, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003. 7. Thiết kế bài giảng lịch sử trung học phổ thông , Giáo sư Phan Ngọc Liên (chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 8. Tình hình công nhân Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất, trong sách “Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam” , Dương Kinh Quốc, NXB Lao động, Hà Nội, 1974. 18
- PHỤ LỤC Giới thiệu những câu chuyện lịch sử trong chƣơng trình lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT. 1. Cuộc đời anh hùng và cái chết lẫm liệt của tƣớng Nguyễn Tri Phƣơng Đêm ngày 19, rạng sáng 20/11/1873, quân Pháp đánh úp thành Hà Nội. Chúng chiếm vòng phòng thủ bên ngoài của hai cửa phía Nam, vượt qua cầu trước khi quân trú phòng kịp bắn xuống. Pháo từ các thuyền cũng bắn lên, binh lính phòng thủ nhà Nguyễn không quen với đạn pháo, bỏ chạy tán loạn khỏi thành theo cửa Tây. Cùng lúc đó, quân Pháp cũng bắn vỡ cửa Nam. Chỉ trong một giờ, quân Pháp đã treo cờ tam tài lên vọng lâu thành Hà Nội. Trong trận chiến chớp nhoáng này, phò mã Nguyễn Lâm (con trai Nguyễn Tri Phương) đã chiến đấu anh dũng đến khi hy sinh ngay trên chiến trường. Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và rơi vào tay giặc. Quân Pháp tìm cách mua chuộc ông. Chúng biết rằng nếu Nguyễn Tri Phương quy hàng, người Pháp sẽ dễ dàng đạt được mục đích chiếm nước Nam, sớm hoàn thành âm mưu biến nước ta thành thuộc địa. Nguyễn Tri Phương không màng đến mạng sống, đã từ chối thẳng thừng yêu cầu chữa trị vết thương, tuyệt thực tuẫn tiết để khẳng định tinh thần bất khuất của người Việt. Trước khi qua đời, ông để lại câu nói đi vào sử sách: "Bây giờ nếu ta chỉ lay lắt mà sống, sao bằng ung dung chết vì việc nghĩa". 2. Trận Cầu Giấy Lần 2 Năm 1883 4 giờ sáng ngày 19 tháng 5, lực lượng Pháp do Berthe de Villers chỉ huy bắt đầu xuất phát, Henri Rivière cũng có mặt trong đội quân này, cùng lúc một nhóm quân Pháp do đại úy Jacquin chỉ huy được lệnh canh chừng cho cuộc hành quân. Tới 6 giờ sáng thì trận Cầu Giấy bắt đầu khi các cuộc đụng độ giữa hai bên xảy ra và quân Pháp chiếm được Cầu Giấy. Được thông báo trước về kế hoạch của người Pháp, quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc đã phục sẵn với đại bác ở khu vực làng Hạ Yên Khê (còn gọi là Hạ Yên Quyết) bên trái Cầu Giấy Khi quân Pháp tiến gần làng thì lính Cờ đen bắt đầu nổ súng làm Berthe de Villers thiệt mạng. Nhận thấy đối phương với lực lượng đông đảo có dấu hiệu chặn đường rút lui của mình, Rivière ra lệnh cho quân Pháp vừa đánh vừa lùi, một loạt lính Pháp cùng hai sĩ quan Brisis và Clerc bị giết, một số khác bị thương. Trong khi đang lùi quân thì một khẩu đại bác của quân Pháp bị rơi xuống ruộng lúa, Rivière đã ra lệnh cho binh sĩ cứu pháo vì nếu pháo lọt tay quân Cờ đen sẽ gây nhiều hậu hoạn sau này. Tuy nhiên quân Cờ đen đã tập trung hỏa lực nổ súng vào đám đông binh sĩ Pháp đang cứu pháo khiến Rivière trúng đạn tử vong cùng viên đại úy Jacquin và một lính thủy có tên Moulun. Đến 9 giờ 30 thì tàn quân Pháp rút về tới thành Hà Nội trong sự truy đuổi ráo riết của quân Cờ đen. Trận Cầu Giấy lần 2 kết thúc. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả dạy – học môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh qua tiết 32 – Bài 7: Tác hại của ma túy và trách nhiệm của học sinh trong phòng, chống ma túy"
20 p | 421 | 77
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên và kỹ năng sống cần thiết cho học sinh lớp 12 thông qua Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
29 p | 26 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả phát triển năng lực lập bản vẽ chi tiết thông qua dạy học chủ đề bản vẽ cơ khí cho học sinh lớp 11 THPT
48 p | 38 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học phần Lịch sử Thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại qua phương pháp lập bảng hệ thống kiến thức
19 p | 112 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích Vợ nhặt (Kim Lân)
33 p | 31 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy - học qua việc tích hợp nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong bài 14 và 15 Địa lí 12
32 p | 32 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hứng thú học tập phần Công dân với đạo đức lớp 10 thông qua việc sử dụng chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
13 p | 12 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn