
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động ngoại khóa môn GDCD
lượt xem 4
download

cung cấp thêm cho học sinh đề xuất ra một số giải pháp giúp nâng cao kĩ năng định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông. Đặc biệt là ở huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, vẫn chưa có nghiên cứu nào về kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động ngoại khóa môn GDCD
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT BÌNH XUYÊN =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: NÂNG CAO KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA MÔN GDCD Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Huyền Trang Mã sáng kiến: 31.53.03 1
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. LỜI GIỚI THIỆU Bước vào thế kỉ XXI, dưới sự bùng nổ của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhiều phát minh và ngành nghề mới được ra đời để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội. Do đó người lao động có thêm nhiều cơ hội trong việc lựa chọn lĩnh vực nghề nghiệp phù hợp với sở thích, nhu cầu, khả năng của mình. Lựa chọn nghề nghiệp là một vấn đề mang tính quyết định đối với cuộc sống của mỗi người. Để việc chọn lựa nghề nghiệp đƣợc thuận lợi và có hiệu quả, người lao động cần phải có kỹ năng trong việc định hướng nghề nghiệp. Kỹ năng định hướng nghề nghiệp là một kỹ năng quan trọng của mỗi cá nhân trong xã hội. Có kỹ năng định hướng nghề nghiệp tốt giúp người lao động chọn lựa được công việc phù hợp, phát huy được năng lực của bản thân, đóng góp cho sự phát triển ngành nghề và xã hội. Trái lại, thiếu kỹ năng định hướng nghề nghiệp sẽ dẫn đến hậu quả như chọn lựa sai ngành nghề, thay đổi nghề nghiệp thường xuyên, giảm năng xuất lao động, hao tổn chi phí, mất nhiều thời gian đào tạo… Học sinh Trung học phổ thông là lực lượng lao động tương lai của xã hội. Ngoài việc trau đồi những tri thức, kỹ năng trong học tập tại nhà trường phổ thông, học sinh còn cần phải có kỹ năng định hướng nghề nghiệp như là công cụ giúp chọn lựa và gắn bó với nghề sau khi ra trường. Theo số liệu điều tra 2
- của sở Lao Động – Thương binh – Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc cho biết: tỉ lệ học sinh, sinh viên tốt nghiệp muốn được làm việc với nghề lâu dài chỉ chiếm 30%; có 30 % học sinh, sinh viên muốn đổi nghề khác vì không phù hợp với năng lực, có đến 40 % học sinh, sinh viên chưa xác định được mục tiêu nghề nghiệp. Trong số lao động trẻ của thành phố có 40 % sinh viên 1 chọn lựa sai ngành học, học nghề không phù hợp với bản thân. Từ những số liệu thống kê trên cho thấy kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh vẫn còn hạn chế. Việc nghiên cứu về kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông sẽ làm rõ được hệ thống khái niệm cơ bản đồng thời xác định được mức độ các mặt biểu hiện của kĩ năng trên. Từ đó, đề xuất ra một số giải pháp giúp nâng cao kĩ năng định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông. Đặc biệt là ở huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, vẫn chưa có nghiên cứu nào về kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông. Với mong muốn đi sâu nghiên cứu vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài “Nâng cao kỹ năng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động ngoại khóa môn GDCD 2. TÊN SÁNG KIẾN “Nâng cao kỹ năng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động ngoại khóa môn GDCD 3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Họ và tên: Nguyễn Thị Huyền Trang Địa chỉ tác giả sáng kiến: Hương Canh – Bình Xuyên – Vĩnh Phúc Số điện thoại: 0979.160.997 E_mail: huyentrangc3bx@gmail.com 3
- 4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN Bà Nguyễn Thị Huyền Trang – GV trường THPT Bình Xuyên 5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Giảng dạy các tiết ngoại khóa môn GDCD 6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG THỬ: 7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN * NỘI DUNG SÁNG KIẾN Phần I: MỞ ĐẦU 1. Mục tiêu Nâng cao khả năng định hướng nghề nghiệp của HS THPT qua hoạt động ngoại khóa môn GDCD Xây dựng cơ sở khẳng định : + Hoạt động ngoại khóa là cơ sở để hình thành và phát triển khả năng định hướng nghề nghiệp của HS THPT. + Dạy học ngoại khóa để định hướng nghề nghiệp cho HS là hợp lí, có hiệu quả. 2. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn 2.1. Ý nghĩa lí luận Cung cấp cơ sở lí luận cần thiết về dạy học ngoại khóa góp phần nâng cao năng lực định hướng nghề nghiệp của HS. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả dạy học ngoại khóa trong môn GDCD. Đồng thời việc dạy học ngoại khóa giúp HS định hướng được nghề nghiệp tương lai. Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo đối với các GV, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí giáo dục. 4
- 3. Nhiệm vụ Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến việc dạy học ngoại khóa Vận dụng dạy học ngoại khóa môn GDCD cho HS để thiết kế các hoạt động dạy học góp phần giúp HS định hướng nghề nghiệp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Dạy học ngoại khóa giúp HS nâng cao năng lực định hướng nghề nghiệp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Về nội dung nghiên cứu: Áp dụng cho môn GDCD + Về khách thể nghiên cứu: HS trường THPT A năm học 2018 – 2019. + Thời gian nghiên cứu: từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 1 năm 2019. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích, tổng hợp: thu thập, tổng hợp các kiến thức về cơ sở lí luận của đề tài; về nội dung các môn học có thể tích hợp trong bài. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào tiết dạy cụ thể trên lớp. Từ đó, đánh giá hiệu quả thực hiện từ không khí học tập trên lớp và kết quả học tập của HS. Phương pháp thu thập và xử lí số liệu: Thông qua việc cho HS điền vào phiếu đánh giá, làm bài kiểm tra, làm bài tập về nhà, GV thu thập được các số liệu về kết quả học tập. Từ đó, tiến hành xử lí số liệu, đưa ra kết quả tổng hợp để đánh giá khách quan nhất hiệu quả từ việc áp dụng sáng kiến. Phương pháp phỏng vấn: trao đổi với đồng nghiệp về việc áp dụng cách thức này. 6. Đóng góp mới của đề tài Góp phần hoàn thiện cơ sở lí luận về dạy học ngoại khóa trong việc định hướng nghề nghiệp HS Thiết kế các hoạt động ngoại khóa phù hợp với nội dung định hướng nghề trong môn GDCD. 5
- Đề tài là tư liệu tham khảo hiệu quả, thiết thực cho GV trong quá trình thực giảng. 7. Cấu trúc đề tài Ngoài phần Mở đầu, nội dung chính của đề tài được chia làm 3 phần: CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CHO HS THPT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA MÔN GDCD CHƯƠNG 2. TH ỰC TRẠNG KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH THPT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA MÔN GDCD CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ BÀI GIẢNG NGOẠI KHÓA MÔN GDCD NHẰM NÂNG CAO KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT HIỆN NAY CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP ĐỐI VỚI HỌC SINH THPT TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP 1.1. Cơ sở lý luận về nâng cao kỹ năng định hướng nghề nghiệp đối với học sinh THPT trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Khái niệm Giáo dục Theo Anne Sophie du Mortier và Stephanie Mailliot (2011), có nhiều cách hiểu khác nhau về giáo dục và mỗi khái niệm đều phản ánh một hoặc một vài chiều cạnh nhất định tùy theo mục đích nghiên cứu đề ra. Do vậy, khi bàn về nội hàm của thuật ngữ này, các nhà xã hội học đã tổng hợp tri thức của các ngành khoa học từ đó đưa ra lập luận rằng, mặc dù tồn tại nhiều cách hiểu, cách diễn tả, cách sử dụng ngôn từ khác nhau, nhóm tác giả cho rằng: 6
- Giáo dục là sự truyền đạt tri thức, kinh nghiệm lũy tích từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, đồng thời nó cũng là quá trình lĩnh hội các tri thức mới. Theo nghĩa này, giáo dục vừa mang tính chủ động, vừa mang tính thụ động. Tính chủ động của giáo dục thể hiện qua quá trình truyền giao tri thức và tính thụ động của nó thể hiện qua quá trình tiếp thu tri thức được truyền giao. ● Khái niệm nghề nghiệp Theo Anne Sophie du Mortier và Stephanie Mailliot (2011), nghề nghiệp là một khái niệm bao hàm 02 chiều kích, đó là cộng đồng và cá nhân. Yếu tố cộng đồng miêu tả một nhóm xã hội, các nhà kỹ thuật và các nhà đào tạo của một nghề cụ thể, trong khi đó, yếu tố cá nhân đề cập đến kinh nghiệm, tri thức mà cá nhân đó học được từ một nghề nào đó. Theo Descolonges (1996), khái niệm nghề nghiệp không đồng nhất với các khái việc làm, công việc, bởi chúng mang bản chất khác nhau. Việc làm, công việc là những khái niệm mang bản chất miêu tả hình thức tổ chức xã hội, thuộc tính nhận diện và tính chất thị trường, trong khi đó, nghề nghiệp mang bản chất tri thức đặc thù, kỹ năng, nghiệp vụ gắn với cá nhân theo sự phân công lao động xã hội. Do vậy, Latreille (1980) định nghĩa, nghề nghiệp thể hiện ra ngoài như một đặc tính ổn định của hoạt động chuyên môn trong một lĩnh vực cụ thể, nó bao hàm một tập hợp các tri thức, bí quyết hoặc kỹ năng, kỹ thuật mà một cá nhân tích lũy, học hỏi được. ● Khái niệm giáo dục nghề nghiệp Giáo dục nghề nghiệp là khái niệm được hình thành trên cơ sở tổ hợp của khái niệm giáo dục và nghề nghiệp. Căn cứ theo nội hàm của 02 khái niệm nêu trên, giáo dục nghề nghiệp được hiểu là sự truyền đạt và tiếp thu từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác một tập hợp các tri thức, bí quyết hoặc kỹ năng, kỹ thuật thể hiện đặc tính ổn định của 7
- một hoạt động chuyên môn cụ thể. Luật giáo dục nghề nghiệp năm 2014 của Việt Nam quy định rõ hơn về các cấp bậc đào tạo, theo đó, giáo dục nghề nghiệp là một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác cho người lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, được thực hiện theo 02 hình thức là đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên. Cũng theo quy định của luật trên: Đào tạo nghề nghiệp chính quy là hình thức đào tạo theo các khóa học tập trung toàn bộ thời gian do cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục đại học, doanh nghiệp có đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp thực hiện để đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng. Đào tạo nghề nghiệp thường xuyên là hình thức đào tạo vừa làm vừa học, học từ xa hoặc tự học có hướng dẫn đối với các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác, được thực hiện linh hoạt về chương trình, thời gian, phương pháp, địa điểm đào tạo, phù hợp với yêu cầu của người học. ● Khái niệm định hướng nghề nghiệp Định hướng nghề nghiệp là một khái niệm giáo dục toàn diện và liên tục được thiết kế để cung cấp cho các cá nhân ở cấp trung học với các thông tin và kinh nghiệm để chuẩn bị cho họ sống và làm việc trong một luôn thay đổi nền kinh tế, xã hội và môi trường cần thiết. Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường, nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào 8
- trình độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do “hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm… Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề và chuyên môn nhiều như vậy nên người ta gọi hệ thống đó là “Thế giới nghề nghiệp”. Nhiều nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác. Hơn nữa, các nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nước ta, mỗi năm ở cả ba hệ trường (dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng đại học) đào tạo trên dưới 300 nghề bao gồm hàng nghìn chuyên môn khác nhau. ● Khái niệm kỹ năng và kỹ năng định hướng nghề nghiệp Định nghĩa về kỹ năng Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng của các tác giả trong và ngoài nước. Ở đề tài này, người nghiên cứu tập trung vào hai quan điểm chính về kỹ năng: Quan điểm thứ nhất coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động, hoạt động. Từ điển Tâm lý học của Mỹ do tác giả J. P. Chaplin chủ biên (1968) định nghĩa kỹ năng là “thực hiện một trật tự cho phép chủ thể tiến hành hành động một cách trôi chảy và đúng đắn” Từ định nghĩa này cho thấy tác giả nhìn nhận kỹ năng ở cả hai góc độ gồm thứ tự thực hiện hành động của một cá nhân và tính chất của những hành động đó. Từ điển Tâm lý học (1983) của Liên Xô (cũ) định nghĩa: “Kỹ năng là giai đoạn của việc nắm vững một phương thức hành động mới cái 9
- dựa trên một qui tắc (tri thức) nào đó và trên quá trình giải quyết một loạt các nhiệm vụ tương ứng với tri thức đó, nhưng còn chưa đạt đến mức độ kỹ xảo” Từ cách định nghĩa này có thể hiểu rằng, khi đề cập đến kỹ năng của một ai đó tức là xem xét người đó có biết rõ những cách hành động mới mà cơ sở của những cách này là sự ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn hay không. Tác giả V. A. Kruchetxki thì cho rằng: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động đã được con người nắm vững từ trước”. Quan điểm thứ hai xem xét kỹ năng là một biểu hiện của năng lực của con người trong hoạt động. Trong từ điển Tâm lí học của A. M. Colman, kỹ năng đƣợc hiểu là: “Sự thông thạo, hiểu biết chuyên môn sâu, là khả năng đạt được thành tích cao trong một lĩnh vực nhất định; cụ thể là một cách thức thực hiện hành vi có sự phối hợp, có tổ chức, đạt được thông qua sự huấn luyện và thực hành” Định nghĩa trên đề cập đến kỹ năng như là sự tổng hợp hai khía cạnh trong khả năng của một cá nhân gồm nắm vững cơ sở lý thuyết của việc gì đó và hoàn thành tốt việc đó trong thực tế. Khi cụ thể hóa khả năng này thì có thể hiểu đây chính là phương pháp làm điều gì đó dựa trên sự huấn luyện và thực hành. Các tác giả V. S. Cudin và A. G. Covaliop cho rằng: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động với mục đích và điều kiện hành động”. Theo các tác giả, kết quả của hành động phải phụ thuộc vào yếu tố, trong đó quan trọng hơn cả là là năng lực của con ngƣời chứ không đơn giản là cứ nắm vững cách thức hành động thì đem lại kết quả tương ứng Bằng sự tổng hợp các quan niệm về kỹ năng theo hướng thứ hai, người nghiên cứu nhận thấy cách xem xét của các tác giả trên có sự nhất trí trong việc cho rằng kỹ năng là khả năng đạt được thành tích khi giải quyết nhiệm vụ hay công việc. Kỹ năng cần dựa trên sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã biết của chủ thể. Để có được kỹ năng, chủ thể cần có sự luyện tập trong thực tế. 10
- Tóm lại, những nghiên cứu theo hướng này xem xét kỹ năng như là sự kết hợp của tri thức, kinh nghiệm nhằm thực hiện một nhiệm vụ nào đó một cách có hiệu quả. Kỹ năng không chỉ là thao tác mà còn là biểu hiện của năng lực. Cách xem xét kỹ năng theo hƣớng này cũng đã giải thích đƣợc mối quan hệ giữa kỹ năng và năng lực của chủ thể, có chú ý đến vai trò của nhận thức và mục đích của hành động. Kỹ năng định hướng nghề nghiệp là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố, không chỉ đơn thuần bởi các thao tác. Người nghiên cứu nhận thấy cần có sự kết hợp trong việc xem xét khái niệm kỹ năng từ cả quan niệm thứ nhất và quan niệm thứ hai. Cũng từ sự phân tích và lập luận bên trên, người nghiên cứu quan niệm: Kỹ năng là khả năng vận dụng có hiệu quả những tri thức, kinh nghiệm trong quá trình chủ thể thực hiện một nhiệm vụ, công việc nào đó bằng cách thức đúng đắn nhằm đạt được kết quả mong đợi. Trong phạm vi đề tài này, người nghiên cứu tán thành việc xem tính linh hoạt là một đặc điểm của kỹ năng như tác giả trên. Bên cạnh đó, dựa vào sự phân tích định nghĩa về kỹ năng ở phần trước, có thể rút ra ba đặc điểm sau của kỹ năng: Một là, tính đúng đắn của kỹ năng, tức là chủ thể vận dụng tri thức và kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ hay công việc nào đó phải đảm bảo các thao tác, hành động đơn giản hay phức tạp đều có sự chính xác. Để đạt được độ chính xác cao, chủ thể có thể đã mắc rất nhiều lỗi trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, sai phạm giảm dần theo quá trình luyện tập của chủ thể. Dần dần chủ thể sẽ rút được kinh nghiệm qua lần thực hiện kỹ năng trước, mắc ít hoặc rất ít lỗi sai trong những lần sau. Kỹ năng càng đạt tới mức độ hoàn hảo thì chủ thể càng gần nhƣ không mắc lỗi sai nào. Hai là, tính linh hoạt của kỹ năng, tức là năng lực tâm lý mà chủ thể cố gắng thử nhiều cách khác nhau có thể để tổ chức và lập kế hoạch các bước trong tương lai của một vấn đề. 11
- ● Khái niệm giáo dục trải nghiệm Định nghĩa của Hiệp hội Giáo dục trải nghiệm quốc tế: “Giáo dục trải nghiệm là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người học tham gia trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kỹ năng, định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội.” Người dạy ở đây có thể là: giáo viên, tình nguyện viên, hướng dẫn viên, huấn luyện viên, bác sĩ tâm lý... Nó nói lên tính đơn giản, đa dạng, phổ biến và ứng dụng của “Giáo dục trải nghiệm”. “Giáo dục trải nghiệm” cũng có cơ sở lý thuyết dựa trên một nghiên cứu (Edgar Dale 1946) chỉ ra rằng: Chúng ta nhớ...20% những gì chúng ta đọc, 20% những gì chúng ta nghe, 30% những gì chúng ta nhìn và 90% những gì chúng ta làm Các đặc điểm nổi bật của “Giáo dục trải nghiệm”: Quá trình học qua trải nghiệm diễn ra khi trải nghiệm được lựa chọn kỹ càng và sau khi thực hiện được tổng kết bởi quá trình chia sẻ, phân tích, tổng quát và áp dụng. Người học được sử dụng toàn diện: trí tuệ, cảm xúc, thể chất, kỹ năng và các quan hệ xã hội trong quá trình tham gia. Trải nghiệm được thiết kế để yêu cầu người học phải sáng tạo, tự chủ, tự ra quyết định và thỏa mãn với kết quả đạt được. Qua “Giáo dục trải nghiệm”, người học được tham gia tích cực vào việc: đặt câu hỏi, tìm tòi, trải nghiệm, giải quyết vấn đề, tự chịu trách nhiệm. Kết quả của trải nghiệm không quan trọng bằng quá trình thực hiện và những điều học được từ trải nghiệm đó. Kết quả đạt được là của cá nhân, tạo cơ sở nền tảng cho việc học và trải nghiệm của cá nhân đó trong tương lai. Các mối quan hệ được hình thành và hoàn thiện: người học với bản thân 12
- mình, người học với những người khác, và người học với thế giới xung quanh. 1.1.2. Khái quát đặc điểm của học sinh THPT Khái niệm học sinh THPT Học sinh THPT là thuật ngữ để chỉ nhóm học sinh đầu tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì: + Thời kì từ 1518 tuổi: giai đoạn đầu của tuổi đầu thanh niên + Thời kì từ 1825 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên sinh viên) Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng, nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp vì không phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lý cũng trùng hợp với các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành về mặt thể chất, nhân cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của lứa tuổi. Đặc điểm về phát triển thể chất của học sinh THPT Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hòa, cân đối. Cơ thể của các em đã đạt tới mức phát triển của người trưởng thành, nhưng sự phát triển của các em còn kém so với người lớn. Các em có thể làm những công việc nặng của người lớn. Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát triển tới mức cao. Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt có thể hình thành mối liên hệ thần kinh tạm thời phức tạp hơn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em dễ bị kích thích và sự biểu hiện của nó cũng giống như ở tuổi 13
- thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích này không phải chỉ do nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó còn do cách sống của cá nhân (như hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao động, vui chơi…) Nhìn chung ở tuổi này các em có sức khỏe và sức chịu đựng tốt hơn tuổi thiếu niên. Thể chất của các em đang ở độ tuổi phát triển mạnh mẽ rất sung sức, nên người ta hay nói: “Tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”. Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách đồng thời nó còn ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp sau này của các em. Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ Hoạt động học tập Hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo đối với học sinh THPT nhưng yêu cầu cao hơn nhiều đối với tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em. Muốn lĩnh hội được sâu sắc các môn học, các em phải có một trình độ tư duy khái niệm, tư duy khái quát phát triển đủ cao. Những khó khăn trở ngại mà các em gặp thường gắn với sự thiếu kĩ năng học tập trong những điều kiện mới chứ không phải với sự không muốn học như nhiều người nghĩ. Hứng thú học tập của các em ở lứa tuổi này gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp nên hứng thú mang tính đa dạng, sâu sắc và bền vững hơn. Thái độ của các em đối với việc học tập cũng có những chuyển biến rõ rệt. Học sinh đã lớn, kinh nghiệm của các em đã được khái quát, các em ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời tự lập. Thái độ có ý thức đối với việc học tập của các em được tăng lên mạnh mẽ. Học tập mang ý nghĩa sống còn trực tiếp vì các em đã ý thức rõ ràng được rằng: cái vốn những tri thức, kĩ năng và kĩ xảo hiện có, kĩ năng độc lập tiếp thu tri thức được hình thành trong nhà trường phổ thông là điều kiện cần thiết để tham gia có hiệu quả vào cuộc sống lao động của xã hội. Điều này đã làm cho học sinh THPT bắt đầu đánh giá hoạt động chủ yếu theo quan điểm tương lai 14
- của mình. Các em bắt đầu có thái độ lựa chọn đối với từng môn học. Rất hiếm xảy ra trường hợp có thái độ như nhau với các môn học. Mặt khác,ở lứa tuổi này các hứng thú và khuynh hướng học tập của các em đã trở nên xác định và được thể hiện rõ ràng hơn. Các em thường bắt đầu có hứng thú ổn định đặc trưng đối với một khoa học, một lĩnh vực tri thức hay một hoạt động nào đó. Điều này đã kích thích nguyện vọng muốn mở rộng và đào sâu các tri thức trong các lĩnh vực tương ứng. Đó là những khả năng rất thuận lợi cho sự phát triển năng lực của các em. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Cảm giác và tri giác của các em đã đạt tới mức độ của người lớn. Quá trình quan sát gắn liền với tư duy và ngôn ngữ. Khả năng quan sát một phẩm chất cá nhân cũng bắt đầu phát triển ở các em. Tuy nhiên, sự quan sát ở các em thường phân tán, chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất định, trong khi quan sát một đối tượng vẫn còn mang tính đại khái, phiến diện đưa ra kết luận vội vàng không có cơ sở thực tế. Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các em đã biết sắp xếp lại tài liệu học tập theo một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Có nghĩa là khi học bài các em đã biết rút ra những ý chính, đánh dấu lại những đoạn quan trọng, những ý trọng tâm, lập dàn ý tóm tắt, lập bảng đối chiếu, so sánh. Các em cũng hiểu được rất rõ trường hợp nào phải học thuộc trong từng câu, từng chữ, trường hợp nào cần diễn đạt bằng ngôn từ của mình và cái gì chỉ cần hiểu thôi, không cần ghi nhớ. Nhưng ở một số em còn 15
- ghi nhớ đại khái chung chung, cũng có những em có thái độ coi thường việc ghi nhớ máy móc và đánh giá thấp việc ôn lại bài. Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh. Các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích khái quát, thích tìm hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu…Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu sắc hơn. Thanh niên cũng thích những vấn đề có tính triết lí vì thế các em rất thích nghe và thích ghi chép những câu triết lý. Nhìn chung tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ linh hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề một cách rất nhanh. Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn nhược điểm là chưa phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Đặc điểm về phát triển tâm sinh lý của học sinh THPT Sự phát triển của tự ý thức Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống… Điều đó khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, những phẩm chất nhân cách và năng lực riêng. Các em không chỉ 16
- nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập dù có thể có sai lầm khi đánh giá. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình… Nhìn chung thanh niên mới lớn có thể tự đánh giá bản thân một cách sâu sắc nhưng đôi khi vẫn chưa đúng đắn nên các em vẫn cần sự giúp đỡ của người lớn. Sự hình thành thế giới quan Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý thanh niên vì các em sắp bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có quan điểm về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu cái đẹp, cái thiện cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên vẫn có em chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng bảo thủ lạc hậu như: có thái độ coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, ý thức tổ chức kỉ luật kém, thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ hoặc sống thụ động… Nhìn chung, ở tuổi này các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những khái niệm, biết xử sự một cách đúng đắn trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng có khi các em lại thiếu tin tưởng vào những hành vi đó. 17
- Xu hướng nghề nghiệp Thanh niên đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy. Xu hướng nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt hoạt động và điều chỉnh hoạt động của các em . Càng cuối cấp học thì xu hướng nghề nghiệp càng được thể hiện rõ rệt và mang tính ổn định hơn. Nhiều em biết gắn những đặc điểm riêng về thể chất, về tâm lý và khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp. Tuy vậy, sự hiểu biết về yêu cầu nghề nghiệp của các em còn phiến diện, chưa đầy đủ, vì cậy công tác hướng nghiệp cho học sinh có ý nghĩa quan trọng. Qua đó giúp cho học sinh lựa chọn nghề nghiệp sao cho phù hợp với hứng thú, năng lực và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Hoạt động giao tiếp Các em khao khát muốn có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và có nhu cầu sống cuộc sống tự lập. Tính tự lập của các em thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức, giá trị. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Trong tập thể, các em thấy được vị trí, trách nhiệm của mình và các em cũng cảm thấy mình cần cho tập thể. Khi giao tiếp trong nhóm bạn sẽ xảy ra hiện tượng phân cực – có những người được nhiều người yêu mến và có những người ít được bạn bè yêu mến. Điều đó làm cho các em phải suy nghĩ về nhân cách của mình và tìm cách điều chỉnh bản thân. Tình bạn đối với các em ở tuổi này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tình bạn thân thiết, chân thành sẽ cho phép các em đối chiếu được những thể nghiêm, ước mơ, lí tưởng, cho phép các em học được cách nhận xét, đánh giá về mình. Nhưng tình bạn ở các em còn mang màu sắc xúc cảm nhiều nên thường có biểu hiện lí tưởng hóa tình bạn. Có nghĩa là các em thường đòi hỏi 18
- ở bạn mình phải có những cái mình muốn chứ không chú ý đến khả năng thực tế của bạn. Ở tuổi này cũng đã xuất hiện một loại tình cảm đặc biệt – tình yêu nam nữ. Tình yêu của lứa tuổi này còn được gọi là “tình yêu bạn bè”, bởi vì các em thường che giấu tình cảm của mình trong tình bạn nên đôi khi cũng không phân biệt được đó là tình bạn hay tình yêu. Do vậy mà các em không nên đặt vấn đề yêu đương quá sớm vì nó sẽ ảnh hưởng đến việc học tập. Tình yêu của nam nữ thanh niên tạo ra nhiều cảm xúc: căng thẳng vì thiếu kinh nghiệm, vì sợ bị từ chối, vì vui sướng khi được đáp lại bằng sự yêu thương. 1.1.3. Các yếu tố tác động đến kỹ năng định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT Nhóm tác giả hiểu rằng để có một tương lai vững chắc sẽ được hình thành khi có một nghề nghiệp vững chắc. Tuy nhiên, làm thế nào để lựa chọn đúng nghề nghiệp, để có một công việc ổn định không hề đơn giản, với mỗi cá nhân khác nhau sẽ có những yếu tố khác nhau tác động đến việc lựa chọn nghề nghiệp, trong nghiên cứu nhóm tác giả có tiến hành phỏng vấn khảo sát một nhóm các bạn học sinh về các yếu tố tác động đến việc định hướng lựa chọn nghề nghiệp của mình, ngoài các yếu tố về chính trị kinh tế của quốc gia và văn hóa của vùng miền thì có năm yếu tố lớn được các bạn học sinh đưa ra gồm: Gia đình Sở thích bản thân Năng lực bản thân Nhu cầu xã hội Sức khỏe Stt Các yếu tố Số lượng % 1 Gia đình 50 19.4% 19
- 2 Sở thích bản thân 67 26.1% 3 Năng lực bản thân 40 15.6% 4 Nhu cầu xã hội 35 13.6% 5 Sức khỏe 65 25.3% Tổng 257 100% Bảng khảo sát các yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Dựa trên kết quả điều tra nhóm tác giả nhận thấy các bạn học sinh hiện nay đa phần lựa chọn nghề nghiệp dựa trên định hướng của gia đình, tuy nhiên sau khi nghiên cứu và phỏng vấn một số anh chị thành đạt của trường, lắng nghe những chia sẻ nhóm tác giả đề xuất các yếu tố tác động đến việc định hướng nghề nghiệp cho các bạn học sinh theo thứ tự như sau: Thứ 1: Sở thích công việc Theo nhóm tác giả thì sở thích là điều đầu tiên bạn nghĩ đến, khi chọn công việc không có đam mê bạn làm bất cứ điều gì rồi cũng sẽ thất bại, nhất là trong những lúc khó khăn. Ngược lại nếu bạn yêu thích công việc đó, bạn sẽ luôn tìm ra cách khắc phục nó. Và đây là một trong những bí quyết hàng đầu giúp bạn luôn thành công. Thứ 2: Khả năng của bản thân Trước khi quyết định lựa chọn một nghề nào đó bạn cần biết mình có năng khiếu gì, và năng khiếu đó sẽ phù hợp với nghề nào? Ví dụ, bạn thích viết lách, thì nên theo đuổi nghề báo hoặc nhà văn, thích vẽ thì nên học họa sỹ hoặc thiết kế… Điều này sẽ làm cho cơ hội thành công với nghề nghiệp của bạn cao hơn. Tuyệt đối đừng bao giờ lựa chọn một công việc chỉ để làm hài ai đó, bởi nếu không có niềm yêu thích, sự say mê với nghề thì sớm muộn bạn cũng sẽ phải bỏ cuộc. Thứ 3: Sức khỏe Đây là yếu tố đầu tiên quyết định định hướng nghề nghiệp trong tương lai của bạn, bởi bất kỳ nghề nghiệp nào cũng cần phải có sức khỏe. Có những nghề đòi hỏi cao hơn về sức khỏe như phi công, thuyền trưởng, lái xe 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả dạy – học môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh qua tiết 32 – Bài 7: Tác hại của ma túy và trách nhiệm của học sinh trong phòng, chống ma túy"
20 p |
435 |
77
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p |
60 |
10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p |
35 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p |
35 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p |
38 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên và kỹ năng sống cần thiết cho học sinh lớp 12 thông qua Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
29 p |
31 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả phát triển năng lực lập bản vẽ chi tiết thông qua dạy học chủ đề bản vẽ cơ khí cho học sinh lớp 11 THPT
48 p |
40 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p |
28 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích Vợ nhặt (Kim Lân)
33 p |
32 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học phần Lịch sử Thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại qua phương pháp lập bảng hệ thống kiến thức
19 p |
116 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p |
36 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p |
31 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p |
19 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy - học qua việc tích hợp nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong bài 14 và 15 Địa lí 12
32 p |
34 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hứng thú học tập phần Công dân với đạo đức lớp 10 thông qua việc sử dụng chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
13 p |
19 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p |
50 |
4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p |
63 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p |
35 |
3


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
