Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo chuyên đề học tập Ngữ văn 10
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm giúp các em được “học đi đôi với hành” nhằm phát triển toàn diện năng lực của học sinh, phát huy năng lực phẩm chất cần có của học sinh từ đó tạo hứng thú học tập để từ đó nâng cao năng lực và rèn luyện kỹ năng, trau dồi phẩm chất cho học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo chuyên đề học tập Ngữ văn 10
- PHẦN ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới nêu rõ mục tiêu: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.” Trong đó mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông cụ thể hoá mục tiêu giáo dục phổ thông, giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và phát triển hài hoà các mối quan hệ xã hội, có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại. Hiện nay, chúng ta thường hay nói đến việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của học sinh. Trong đó, yếu tố được cho là quyết định chính là sự tương tác đồng bộ của các thành tố trong các phương pháp dạy học tích cực: người dạy, người học, học liệu, môi trường... Việc nắm rõ ưu thế của từng phương pháp dạy học trên cơ sở phân hóa đối tượng, phân tích căn cứ về điều kiện, loại hình năng lực và phẩm chất cần phát triển ở người học từ đó lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học phù hợp, tăng cường hoạt động trải nghiệm sáng tạo để đáp ứng mục tiêu giáo dục mới. Phẩm chất và năng lực của người học sẽ được hình thành và phát triển qua các hoạt động giao lưu, kết nối, tương tác với thực tiễn đời sống để khơi dậy hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng sống, nâng cao hiểu biết về cuộc sống xung quanh. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 có nội dung cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức, kĩ năng cơ bản, thiết yếu về tiếng Việt và văn học, đáp ứng các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng cấp học; được phân chia theo hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp. - Giai đoạn giáo dục cơ bản: Môn Ngữ văn (Tiếng Việt) giúp học sinh sử dụng tiếng Việt thành thạo để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống và học tập tốt các môn học và hoạt động giáo dục khác; hình thành và phát triển năng lực văn học, một biểu hiện của năng lực thẩm mĩ; đồng thời bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm để học sinh phát triển về tâm hồn, nhân cách… 1
- - Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Môn Ngữ văn củng cố các mạch nội dung của giai đoạn giáo dục cơ bản, giúp học sinh nâng cao năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học, nhất là tiếp nhận văn bản văn học; tăng cường kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, văn bản thông tin có độ phức tạp hơn về nội dung và kĩ thuật viết; trang bị một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết về văn học. Ngoài ra, trong mỗi năm học, những học sinh có định hướng khoa học xã hội và nhân văn được chọn học một số chuyên đề học tập. Các chuyên đề này nhằm tăng cường kiến thức về văn học và ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đáp ứng sở thích, nhu cầu và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Theo chương trình Ngữ văn 10, Phân bổ số tiết cho các chuyên đề học tập ở mỗi lớp như sau: - Chuyên đề 1: Tập nghiên cứu và viết báo cáo về một vấn đề văn học dân gian 10 tiết. - Chuyên đề 2. Sân khấu hoá tác phẩm văn học 15 tiết. - Chuyên đề 3. Đọc, viết và giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặt 1 tiểu thuyết 10 tiết. Với những lí do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo chuyên đề học tập Ngữ văn 10” để nghiên cứu nhằm đóng góp thêm những ý kiến giúp giáo viên và học sinh có những cơ sở tiến hành việc dạy học các chuyên đề Ngữ văn ở lớp 10 nói riêng và ở cấp THPT một cách có hiệu quả nhất. Qua đây, chúng tôi cũng mong muốn góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học và tạo nên hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Đổi mới dạy học Ngữ văn THPT, chuyển từ dạy nội một bài, một môn, một phân môn sang dạy tích hợp nội môn, liên môn. Thông qua đề tài, tôi muốn học sinh có niềm đam mê, hứng thú đối với môn học Ngữ văn trong nhà trường, từ đó thay đổi nhận thức và kết quả học tập theo chiều hướng tích cực; giúp các em được “học đi đôi với hành” nhằm phát triển toàn diện năng lực của học sinh, phát huy năng lực phẩm chất cần có của học sinh từ đó tạo hứng thú học tập để từ đó nâng cao năng lực và rèn luyện kỹ năng, trau dồi phẩm chất cho học sinh. Qua kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy các phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh liên hệ đến các vấn đề liên quan một cách cụ thể để các em sử dụng vốn kiến thức, phát huy được kinh nghiệm sống của bản thân. Các em đã thể hiện bằng hành động, việc làm, thái độ tích cực. Học sinh biết phân tích, lí giải, tranh luận, giải quyết các tình huống, các sự kiện thực tế từ đó giúp các em học sinh yêu thích các tác phẩm văn học. 2
- Các em học sinh trực tiếp tham gia các hoạt động học tập, được rèn luyện các kĩ năng sống như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện học tập nghiên cứu, kĩ năng ứng xử có văn hóa, kĩ năng hợp tác, kĩ năng nêu và giải quyết vấn đề... Đề tài cũng tìm hiểu, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao phát triển năng lực của người học để góp phần hình thành ở học sinh những năng lực cần hướng đến của môn Ngữ văn cụ thể như: năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản lí, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực thưởng thức văn học, năng lực cảm thụ thẩm mỹ... 3. Đối tượng nghiên cứu Với đề tài “Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo chuyên đề học tập Ngữ văn 10” tôi sẽ đi sâu tìm hiểu vấn đề liên quan đến việc đọc hiểu và viết bài giới thiệu tập thơ, truyện hay một tiểu thuyết liên quan chương trình Ngữ văn lớp 10. Qua đó giáo dục cho học sinh biết cách đọc, viết bài giới thiệu, trình bày một tập thơ, một tập truyện hoặc một tiểu thuyết. Qua giờ học, giúp học sinh tích hợp với các hoạt động khác của phong trào xây dựng Thư viện xanh, Cuộc thi Đại sứ văn hóa đọc, Câu lạc bộ Văn học hay một số môn học khác như Trải nghiệm hướng nghiệp, Hoạt động ngoài giờ lên lớp để hiểu được giá trị của sách, xây dựng văn hóa đọc trong nhà trường. Từ đó học sinh áp dụng vào thực tiễn cuộc sống của các em, nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc rèn luyện phẩm chất năng lực chung và đặc thù của bộ môn. Trong năm học 2022 – 2023 chuyên đề “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết theo chuyên đề học tập” đã được chúng tôi vận dụng ở chương trình Ngữ văn lớp 10, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống ở Trường THPT Đô Lương 2, và một số trường THPT trên địa bàn huyện Đô Lương như Trường THPT Đô Lương 1, Trường THPT Đô Lương 3... 4. Phương pháp nghiên cứu Với sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thảo luận nhóm - Phương pháp đóng vai - Phương pháp nghiên cứu tình huống - Phương pháp thực nghiệm khoa học - Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm - Phương pháp so sánh - Phương pháp điều tra. 3
- 5. Đóng góp mới của đề tài Ngày nay con người có nhiều cách để tiếp cận, bổ sung, lĩnh hội nguồn thông tin kiến thức phục vụ cho cuộc sống. Hàng loạt các loại hình công nghệ thông tin xuất hiện như: truyền hình, báo chí, mạng internet phủ sóng rộng khắp… hấp dẫn người xem. Văn hóa nghe nhìn lên ngôi dần chiếm ưu thế so với văn hóa đọc. Nếu trước đây đọc sách là một thú vui, sở thích, thói quen của nhiều người thì ngày nay thói quen ấy đang có nguy cơ mất dần. Điều đó ảnh hưởng lớn đến trình độ nhận thức, kỹ năng, phẩm chất, nhân cách của con người Việt Nam. Vì vậy, tôi thiết nghĩ Một số giải pháp nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết theo chuyên đề học tập nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết là việc làm có ý nghĩa thiết thực góp phần tạo ra thú vui, sở thích, thói quen đọc sách… cũng như đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 4
- PHẦN II: NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài 1.1 . Cơ sở lí luận Chương trình môn Ngữ văn vận dụng các phương pháp giáo dục theo định hướng chung là dạy học tích hợp và phân hóa; đa dạng hoá các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Căn cứ vào chương trình, giáo viên chủ động, linh hoạt xây dựng và tổ chức các bài học theo định hướng sau: Thực hiện yêu cầu tích hợp nội môn (cả kiến thức và kĩ năng), tích hợp liên môn và tích hợp những nội dung giáo dục ưu tiên (xuyên môn); thực hiện dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh ở tất cả các cấp và phân hóa góp phần định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Rèn luyện cho học sinh phương pháp đọc, viết, nói và nghe; thực hành, trải nghiệm việc tiếp nhận và vận dụng kiến thức tiếng Việt, văn học thông qua các hoạt động học bằng nhiều hình thức trong và ngoài lớp học; chú trọng sử dụng các phương tiện dạy học, khắc phục tình trạng dạy theo kiểu đọc chép, phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện cho học sinh. Tăng cường, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh; dành nhiều thời gian cho học sinh nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu học tập, luyện tập, thực hành, trình bày, thảo luận, bảo vệ kết quả học tập để học sinh biết tự đọc, viết, nói và nghe theo những yêu cầu và mức độ khác nhau; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. Môn Ngữ văn có nhiều ưu thế trong việc góp phần hình thành và phát triển toàn diện các năng lực chung, nêu trong “Chương trình tổng thể” những năng lực chung này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới với việc chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản. Môn Ngữ văn cũng cần hình thành, phát triển các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Đây là công cụ quan trọng để học sinh học các môn học khác và tự học. Học sinh biết tự tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn nguồn tài liệu phù hợp với các mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau; biết lưu trữ và xử lí thông tin bằng các hình thức phù hợp. Thông qua đọc, viết, nói và nghe các kiểu, loại văn bản đa dạng, môn Ngữ Văn mang lại cho học sinh những trải nghiệm phong phú; nhờ đó, học sinh phát triển được vốn sống; có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính và khả năng của bản thân; biết tự làm chủ để có hành vi phù hợp, sự tự tin và tinh thần lạc quan trong 5
- học tập và đời sống. Môn Ngữ Văn cũng giúp học sinh có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự nhận thức, tự học và tự điều chỉnh để hoàn thiện bản thân. Môn Ngữ văn là môn học đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành, phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh. Qua môn Ngữ văn, học sinh biết xác định mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung, kiểu văn bản và thể loại, ngôn ngữ và các phương tiện giao tiếp khác phù hợp với ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp để thảo luận, lập luận, phản hồi, đánh giá về các vấn đề trong học tập và đời sống; biết tiếp nhận các kiểu văn bản và thể loại đa dạng; chủ động, tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ trong giao tiếp. Cũng qua môn Ngữ văn, học sinh phát triển khả năng nhận biết, thấu hiểu và đồng cảm với suy nghĩ, tình cảm, thái độ của người khác; biết sống hoà hợp và hoá giải các mâu thuẫn; thiết lập và phát triển mối quan hệ với người khác; phát triển khả năng làm việc nhóm, làm tăng hiệu quả hợp tác. Năng lực giải quyết vấn đề trong môn Ngữ văn được thể hiện ở khả năng đánh giá nội dung của văn bản, biết làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ các nguồn thông tin khác nhau; biết phân tích các nguồn thông tin độc lập để thấy được khuynh hướng, độ tin cậy của những thông tin và ý tưởng mới; biết quan tâm tới các chứng cứ khi nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng; biết đánh giá vấn đề, tình huống dưới những góc nhìn khác nhau. Môn Ngữ văn đề cao vai trò của học sinh với tư cách là người đọc tích cực, chủ động, không chỉ trong hoạt động tiếp nhận mà còn trong việc tạo nghĩa cho văn bản. Khi viết, học sinh cần phải bắt đầu từ việc hình thành ý tưởng và triển khai ý tưởng một cách sáng tạo. Qua việc học môn Ngữ văn, nhất là đọc và viết về văn học, học sinh có được khả năng đề xuất ý tưởng, tạo ra sản phẩm mới; suy nghĩ không theo lối mòn, biết cách giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, phù hợp với tình huống, bối cảnh. 1.2. Cơ sở thực tiễn Hiện nay vấn đề văn hóa đọc đang được xã hội quan tâm và đã có nhiều học giả, nhà khoa học nghiên cứu vấn đề này và đã đưa ra quan điểm về văn hóa đọc khác nhau. Về khái niệm “văn hóa đọc”, nghĩa rộng đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. của cộng đồng xã hội. Ở nghĩa hẹp đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân, cụ thể bao gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Văn hóa đọc xem xét ở góc độ cá nhân bao hàm cả khía cạnh định hướng của chủ thể tới đối tượng đọc, khả năng, trình độ lĩnh hội thông tin (kĩ năng đọc) cả ở phản ứng với đối tượng đọc (ứng xử văn hóa). Như vậy, văn hóa đọc không phải là một khái niệm mới. Qua các quan niệm khác nhau về văn hóa đọc đã góp phần thể hiện đầy đủ bản chất của văn hóa đọc. Vai trò của sách và việc đọc sách ngày nay, cùng với sách các phương tiện thông tin ngày càng trở nên đa dạng, văn hóa đọc được hình thành từ khi có sách đến nay 6
- không còn giữ nguyên ý nghĩa là đọc trong sách mà có thể đọc trên mạng, đọc báo điện tử… Trong cuộc sống hiện đại này sách không chỉ được kê bán ở hiệu sách mà còn ở trên mạng. Dù thế nào thì nhu cầu tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội của con người vẫn không vơi cạn. Vì thế, sách luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Sách giúp con người nhận thức và khám phá về thế giới bao la. Đời sống tinh thần phong phú của con người đã tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị như âm nhạc, hội họa, văn học nghệ thuật… Và sách là một sản phẩm kỳ diệu của loài người, kết tinh mọi trí tuệ, tâm sức và sự sáng tạo của con người. Nhà văn Macxim gorki từng nói: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Sách có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc nâng cao tri thức con người. Sách cung cấp cho ta những tri thức về mọi lĩnh vực đời sống; sách có thể đưa ta lên thám hiểm mặt trăng hay xuống đáy đại dương, ta có thể trở về quá khứ, hiện tại hay hướng đến tương lai cũng là nhờ có sách. Đọc một cuốn sách hay giúp ta bồi đắp thêm tình cảm, tâm hồn, nhân cách. Sách giúp ta biết được thành tựu của thế hệ ông cha để từ đó bản thân cố gắng phấn đấu vượt qua, sống học tập, lao động và cống hiến hết mình cho cuộc đời thêm ý nghĩa. Đồng thời ta tự soi chiếu phần chưa hoàn thiện của bản thân để phấn đấu, rèn luyện. Sách là kho tàng tri thức khổng lồ của nhân loại. Nhân loại không thể tiến bộ nếu không có sách”. Sách là linh hồn bất tử mà cổ nhân đã gửi lại cho hậu thế. Sách có vai trò vô cùng quan trọng trong hành trình cuộc đời của con người thành công. Sách cũng có nhiều loại, sách khoa học tự nhiên, sách khoa học xã hội, sách đạo đức… để chiếm lĩnh các nguồn tri thức quý báu đó thì chúng ta cần phải đọc sách. Bạn đọc nhiều thì vốn kiến thức phong phú và hiểu biết của bạn càng sâu rộng. Đọc sách là nhu cầu thiết yếu và hữu ích cho bất kỳ ai. Việc đọc sách và tạo thói quen đọc sách cho bản thân có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong hành trình rèn luyện bản thân của những người trẻ hôm nay. Mỗi trang sách hay, một câu chuyện cảm động sẽ thanh lọc tâm hồn bạn giúp ta rèn giũa đạo đức, nhân cách mà xã hội cần. Lúc đó, sách trở thành người bạn tâm giao, chân thành giúp ta soi thấu bản thân. Mục đích chủ yếu của dạy đọc trong nhà trường phổ thông là giúp học sinh biết đọc và tự đọc được văn bản; thông qua đó mà bồi dưỡng, giáo dục phẩm chất, nhân cách học sinh. Đối tượng đọc gồm văn bản văn học, văn bản nghị luận và văn bản thông tin. Mỗi kiểu văn bản có những đặc điểm riêng, vì thế cần có cách dạy đọc hiểu văn bản phù hợp. Dạy đọc hiểu văn bản yêu cầu học sinh đọc trực tiếp toàn bộ văn bản, chú ý quan sát các yếu tố hình thức của văn bản, từ đó có ấn tượng chung và tóm tắt được nội dung chính của văn bản; tổ chức cho học sinh tìm kiếm, phát hiện, phân tích, suy luận ý nghĩa các thông tin, thông điệp, quan điểm, thái độ, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,... được gửi gắm trong văn bản; hướng dẫn học sinh liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân học sinh,... để hiểu sâu hơn giá trị của văn bản, biết vận dụng, chuyển hoá những giá trị ấy thành niềm tin và hành vi ứng xử của cá nhân trong cuộc sống hằng ngày. 7
- Văn bản văn học cũng là một loại văn bản, nên dạy đọc hiểu văn bản văn học cũng cần tuân thủ cách đọc hiểu văn bản nói chung. Tuy nhiên, văn bản văn học có những đặc điểm riêng vì thế giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu, giải mã văn bản văn học theo một quy trình phù hợp với đặc trưng của văn bản nghệ thuật. Học sinh cần được hướng dẫn, luyện tập đọc tác phẩm văn học theo quy trình từ tri nhận văn bản ngôn từ đến khám phá thế giới hình tượng nghệ thuật và tìm kiếm, đúc kết nội dung ý nghĩa; kĩ năng tìm kiếm, diễn giải mối quan hệ giữa cái “toàn thể” và chi tiết “bộ phận” của văn bản, phát hiện tính chỉnh thể, tính thống nhất về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức của tác phẩm văn học. Phương pháp dạy đọc phải tập trung kích hoạt việc đọc tích cực, sáng tạo ở chủ thể đọc. Hướng dẫn và khích lệ học sinh chủ động, tự tin, phát huy vai trò “đồng sáng tạo” trong tiếp nhận tác phẩm; hứng thú tham gia kiến tạo nghĩa cho văn bản; biết so sánh đối chiếu, liên hệ mở rộng, huy động vốn hiểu biết cá nhân, sử dụng trải nghiệm cuộc sống của bản thân để đọc hiểu, trải nghiệm văn học, phát hiện những giá trị đạo đức, văn hoá và triết lí nhân sinh, từ đó biết vận dụng, chuyển hoá thành giá trị sống. Khi dạy học đọc hiểu, giáo viên chú ý giúp học sinh tự phát hiện thông điệp, ý nghĩa, góp phần lấp đầy “khoảng trống” của văn bản. Giáo viên có những gợi ý, nhưng không lấy việc phân tích, bình giảng của mình thay thế cho những suy nghĩ của học sinh; tránh đọc chép và hạn chế ghi nhớ máy móc. Sử dụng đa dạng các loại câu hỏi ở những mức độ khác nhau để thực hiện dạy học phân hóa và hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản, hình thành kĩ năng đọc. Tuỳ vào đối tượng học sinh ở từng cấp học, lớp học và thể loại của văn bản văn học mà vận dụng các phương pháp, kĩ thuật và hình thức dạy học đọc hiểu cho phù hợp như: đọc diễn cảm, đọc phân vai, kể chuyện, đóng vai để giải quyết một tình huống, diễn kịch, sử dụng câu hỏi, hướng dẫn ghi chép trong tiến trình đọc bằng các phiếu ghi chép, phiếu học tập, nhật kí đọc sách, tổ chức cho học sinh thảo luận về văn bản, chuyển thể tác phẩm văn học từ thể loại này sang thể loại khác, vẽ tranh, làm phim, trải nghiệm những tình huống mà nhân vật đã trải qua,... Một số phương pháp dạy học khác như đàm thoại, vấn đáp, diễn giảng, nêu vấn đề,... cũng cần được vận dụng một cách phù hợp theo yêu cầu phát triển năng lực cho học sinh. Chương trình Ngữ văn 2018 hướng tới mục tiêu định hướng nghề nghiệp, nội dung dạy học ở cấp THPT bố trí chuyên đề học tập ở cả 3 lớp 10, 11, 12. Mỗi năm học, những học sinh lựa chọn khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là các em có thiên hướng văn chương, được chọn học một số chuyên đề học tập. Những chuyên đề này nhằm tăng cường về kiến thức văn học và ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đáp ứng nhu cầu, sở thích và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Chương trình Ngữ văn 2018 quy định ở cấp THPT, mỗi lớp có 3 chuyên đề nhưng không chi tiết hóa nội dung dạy học của từng chuyên đề nhằm tạo cơ hội cho giáo viên và học sinh được chủ động lựa chọn nội dung phù hợp vứi thực tế của địa phương và sở 8
- thích của học sinh. Trong năm học 2022-2023 tổ chuyên môn đã thống nhất với học sinh và Nhà trường lựa chọ bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống để sử dụng cho học sinh khối 10. Phân bổ số tiết cho các chuyên đề học tập ở Kết nối tri thức với cuộc sống cho mỗi lớp như sau: Lớp Tên chuyên đề Số tiết 1. Tập nghiên cứu và viết báo cáo về một vấn đề văn học dân gian 10 10 2. Sân khấu hóa tác phẩm văn học 15 3. Đọc, viết và giới thiệu một tập thơ, một truyện ngắn hoặc một tiểu 10 thuyết 1. Tập nghiên cứu và viết báo cáo về một vấn đề văn học trung đại 10 11 Việt Nam 2. Tìm hiểu ngôn ngữ trong đời sống xã hội hiện đại 15 3. Đọc, viết và giới thiệu một tác giả văn học 10 1. Tập nghiên cứu và viết báo cáo về một vấn đề văn học hiện đại 10 12 và hậu hiện đại 2. Tìm hiểu về một tác phẩm nghệ thuật chuyển thể từ văn học 15 3. Tìm hiểu phong cách sáng tác của một trường phái văn học: cổ 10 điển, hiện thực hoặc lãng mạn. Mỗi chuyên đề đều có định hướng cụ thể về nội dung, yêu cầu cần đạt và thời lượng dạy học. Nội dung và yêu cầu cần đạt của mỗi chuyên đề được phân bố phù hợp với mạch kiến thức của mỗi khối. Yêu cầu cần đạt được xây dựng theo trục đọc, viết nói nghe nhưng đã được mở rộng và chú trọng nhiều hơn đến tính thực hành, vận dụng. Chú ng tôi sẽ cho ̣n chuyên đề Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo chuyên đề học tập Ngữ văn 10, là m cơ sở tiến hành việc dạy học các chuyên đề Ngữ văn ở lớp 10 nói riêng và từ đó đinh hường da ̣y ho ̣c chuyên đề ở cấp THPT một cách có hiệu quả nhất. ̣ 9
- Chương 2: Tri thức tổng quát về thể loại và kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết 2.1. Tri thức tổng quát về thể loại 2.1.1 Thơ Thơ là dạng thức tổ chức ngôn từ nghệ thuật biểu cảm, có nhạc tính, gần với lời ca, tiếng hát, phân biệt với văn xuôi vốn sử dụng ngôn từ gần với lời nói thông thường. Ý thơ thường hàm súc, cô đọng, xúc cảm trong thơ thường được dồn nén, song thế giới nghệ thuật thơ lại được kiến thiết bởi những hình ảnh, sắc màu sinh động, giàu tính biểu trưng với những phép chuyển nghĩa, những kết hợp ngôn từ ấn tượng, có thể được “lạ hoá”, khơi gợi liên tưởng phong phú, do vậy mà đa nghĩa, có nhiều hàm ý. Với tổ chức ngôn từ như thế, thơ có khả năng diễn tả những suy tư, tình cảm mãnh liệt hoặc những rung cảm tinh tế, phức tạp, đôi khi mơ hồ, khó lí giải của con người đối với những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống. Thơ rất đa dạng về loại và thể. Về loại hình sáng tác, có thể phân biệt thơ trữ tình với thơ tự sự (sử thi, truyện thơ,...), kịch thơ, hoạt cảnh thơ. Về thể thơ, có thể phân biệt những thế thơ có thi luật ổn định như thơ lục bát, song thất lục bát, các thế thơ Đường luật, thợ xon-nê (sonnet), thơ hai-cư (haiku),... với thơ tự do, thơ văn xuôi. Về dung lượng, có thể phân biệt bài thơ nhỏ với trường ca. Về đề tài, có thơ ngụ tình (tình cảm giữa con người với con người, với gia đình, quê hương, Tổ quốc,...), thơ thuyết lí (suy tư về những triết lí nhân sinh, đạo đức,...), thơ tả cảnh (thể hiện cảm xúc trước một cảnh thiên nhiên hay khung cảnh nào đó), thơ tức sự (thể hiện cảm xúc, suy tư trước một sự việc, hiện tượng, một tình huống cuộc sống nào đó) hay những dạng phức hợp của các đề tài trên. Mỗi một thời đại thi ca, cũng như một trào lưu, trường phái thi ca có một vẻ mặt riêng, được xác định bằng những đề tài, chủ đề, thể thơ, hình ảnh thơ, kiểu nhân vật trữ tình, phương thức cấu tứ,... mang tính đặc trưng. Một số bài thơ có thể được chính tác giả hay người tuyển chọn hợp lại thành chùm thơ, dựa trên sự thống nhất hay liên quan với nhau về đề tài, chủ đề, giai đoạn sáng tác, thể loại,... Tập hợp nhiều bài thơ (có thể xen lẫn cả trường ca) trong một cuốn sách làm thành tập thơ. Tập thơ có nhiều loại: Tập thơ của một tác giả có thể được chính tác giả hay người biên soạn, nhà xuất bản tuyển lựa theo các tiêu chí khác nhau: thời gian, địa điểm, giai đoạn sáng tác, hoặc loại hình tác phẩm (thể thơ, đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình tượng; Tập thơ của nhiều tác giả được nhóm tác giả hay người biên soạn, nhà xuất bản tuyển lựa. Việc tuyển lựa có thể được tiến hành theo tiêu chí giai đoạn lịch sử, thời đại, thành phần xã hội, lứa tuổi, giới tính, trào lưu, trường phái,... theo tiêu chí loại hình tác phẩm (thể thơ, đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình tượng,...). 10
- 2.1.2. Truyện ngắn Truyện ngắn thuộc loại hình tự sự, thường được viết bằng văn xuôi, ngắn gọn, súc tích. Hệ thống tình tiết, chi tiết trong truyện ngắn cô đúc, tập trung cao độ vào một câu chuyện diễn ra trong một không gian, thời gian dồn nén, trong đó có thể có một tình huống truyện được “lạ hoá” đến bất thường với một biến cố làm thay đổi cuộc sống của nhân vật. Truyện ngắn thường được tổ chức đơn tuyến, nếu có mở rộng cũng là theo nguyên tắc liên tưởng, tương phản, có thể tỉnh lược những móc nối, những dẫn dắt. Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp, song phông nền, bối cảnh có thể gợi liên tưởng bao quát từ một lát cắt cuộc sống đến cả một đời người, một thời đại, một mô hình cuộc sống. Truyện ngắn khi đăng tải trên báo, tạp chí thường kì có thể được tác giả hay người tuyển chọn móc nối, nhóm lại với nhau thành truyện ngắn bộ đội, bộ ba hay chùm truyện ngắn. Tập hợp nhiều truyện ngắn trong một cuốn sách làm thành tập truyện ngắn. Tập truyện ngắn có thể có các loại: Tập truyện ngắn của một tác giả là kết quả tuyển lựa của chính tác giả hay người biên soạn, nhà xuất bản theo các tiêu chí: thời gian, địa điểm, giai đoạn sáng tác,...; loại hình tác phẩm (loại truyện, đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình tượng,...). Nhan đề của tập truyện ngắn có thể lấy theo nhan đề một truyện nào đó từng được dư luận tán thưởng rộng rãi, cũng có thể lấy tên chung là Tuyển tập (theo tiêu chí đã được xác định từ trước). Tập truyện ngắn của nhiều tác giả được chính nhóm tác giả hay người biên soạn, nhà xuất bản tập hợp theo tiêu chí giai đoạn lịch sử, thời đại, thành phần xã hội, lứa tuổi, giới tính, trào lưu, trường phái,... hay tiêu chí loại hình tác phẩm (loại truyện, đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình tượng,...). Nhan đề của tập truyện ngắn có thể là tên một truyện nổi bật, cũng có thể là một tên mới được đặt ra dựa vào điểm chung nào đó giữa các truyện. 2.1.3. Tiểu thuyết Tiểu thuyết là loại hình tự sự cỡ lớn, có khả năng tạo nên một thế giới nghệ thuật hư cấu bao quát thời gian, không gian sống của nhiều nhân vật. Khác với sử thi, tiểu thuyết có thể bao quát cả cuộc sống cộng đồng, nhưng bao giờ cũng tập trung sự chú ý vào những khía cạnh như cuộc sống sinh hoạt thường ngày, những suy tư, trăn trở, những biến động tâm lí, tính cách của con người đời tư được miêu tả như người đương thời, gần gũi với người đọc. Mạch kể của tiểu thuyết thường được ngắt thành các chương, hồi hay được phân ra thành phần, quyển, tập. Một tiểu thuyết có thể có nhiều nhân vật chính và trong số đó nhân vật nào đóng vai trò quan trọng hơn cả trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm được gọi là nhân vật trung tâm. Nhân vật phụ không tham gia nhiều vào vận động chung của cốt truyện, song vẫn có thể ít nhiều đóng vai trò tạo phông nền, bối 11
- cảnh, vai trò môi giới, xúc tác cho cốt truyện vận động, góp phần làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. 2.2. Cách đọc 2.2.1. Tìm hiểu thông tin khái quát về cuốn sách Bạn có thể đọc phiên bản giấy hoặc phiên bản điện tử của cuốn sách. Dù đọc phiên bản nào, trước hết, bạn cần tìm hiểu những thông tin sau: – Nhan đề cuốn sách, tên tác giả, nhà xuất bản, hình ảnh được vẽ chụp trên bìa 1. Đây là những thông tin tạo nên ấn tượng ban đầu của bạn về cuốn sách. – Năm xuất bản, chân dung tác giả hay phần giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm bìa 4 hay các bìa phụ. Thông tin về năm xuất bản có thể làm nảy sinh nhu cầu tìm hiểu sự thay đổi nội dung sách qua các lần xuất bản khác nhau. – Mục lục được đặt đầu hoặc cuối sách, giúp bạn dễ dàng tra cứu các nội dung trong sách và có được cái nhìn bao quát về cuốn sách (nhờ đọc Mục lục, việc nắm bắt những chủ đề nổi bật của cuốn sách trở nên thuận lợi). – Lời giới thiệu hoặc Lời nói đầu, Lời tựa: Việc đọc các phần này giúp bạn có được định hướng đọc và tâm thế đọc phù hợp. Lưu ý: Nhiều tập Có lời bạt ở cuối sách. Bạn cần đọc phần này để có thêm căn cứ củng cố phần tổng hợp, đánh giá của mình. 2.2.2. Đọc từng tác phẩm cụ thể 2.2.2.1. Đọc từng bài trong tập thơ: Tập thơ của một tác giả hay của nhiều tác giả đều gồm một số bài thơ, được tác giả hoặc người tổ chức bản thảo sắp xếp có chủ định. Vì thế, bạn nên đọc các bài thơ theo thứ tự trong tập để tiện theo dõi và ghi chép những thông tin cần thiết, thuận lợi cho việc tổng hợp, đánh giá ở phần sau. - Với tập thơ có tên trùng với tên một bài thơ trong tập, bạn nên đọc trước bài thơ đó để có được hình dung Sơ lược về nội dung, cảm hứng chung của tập thơ. - Đọc lướt một số bài thơ bất kì để có ấn tượng ban đầu về tập thơ trước khi đi vào đọc kĩ từng bài. - Nếu tác phẩm có thêm kênh hình (tranh, ảnh minh hoạ) thì cần nối kết giữa nội dung của văn bản với hình ảnh để cảm nhận ý nghĩa và sức gợi tả, sự biểu cảm của những hình ảnh gắn với từng văn bản. Ghi chép trong quá trình đọc: Khi đọc từng bài thơ, bạn nên ghi chép nhanh, cụ thể các thông tin cơ bản. Nếu ghi chép đầy đủ, theo thứ tự các bài thơ trong tập, bạn sẽ có một tập tư liệu cần thiết về tập thơ, phục vụ cho việc tổng hợp, đánh giá hoặc để 12
- triển khai bài viết, trình bày bài nói theo yêu cầu ở phần sau của chuyên đề này. Với từng bài thơ, có thể ghi chép theo các nội dung sau: Nội dung cảm xúc của bài thơ + Bài thơ bộc lộ cảm xúc hay suy ngẫm về đề tài, vấn đề gì? + Đối tượng trữ tình của bài thơ là gì? + Nhìn ở cấp độ bao quát nhất, đề tài, vấn đề được chiêm nghiệm hay đối tượng trữ tình của một bài thơ có thể là thiên nhiên, quê hương, đất nước, gia đình, tình bạn, tình yêu, những lựa chọn trong cuộc đời, thái độ con người trước những câu hỏi của kiếp nhân sinh,... Việc xác định đầy đủ đề tài, vấn đề, đối tượng trữ tình của các bài trong một tập thơ sẽ giúp bạn hiểu được những điều cốt lõi khiến tác giải các tác giả rung động, trăn trở, thao thức. Thể thơ - Thông thường, trong một tập thơ, tác giải các tác giả ưa sử dụng một số thể thơ nhất định để sáng tác. Nắm được thể thơ của từng bài, xâu chuỗi lại, bạn sẽ thấy tác giải các tác giả ưa thích hoặc có sở trường về thể thơ nào. Thời điểm sáng tác - Trong một tập thơ, các bài thơ được sáng tác vào những thời điểm khác nhau, thậm chí, có khi rất xa nhau. Nếu tác giả có ghi rõ thời gian sáng tác, bạn cần lưu lại thông tin này, từ đó tìm hiểu bối cảnh cuộc sống khi bài thơ ra đời. Đó là những yếu tố cần thiết giúp bạn hiểu thêm về bài thơ. Thông điệp của bài thơ + Bài thơ muốn nói điều gì?, bạn sẽ hiểu được những nét chính về thông điệp của nó. - Khi tạm cho là cảm nhận được đầy đủ điều cơ bản mà tác giải các tác giả muốn biểu đạt ở tất cả các bài, bạn có điều kiện hiểu được tình cảm, cảm xúc đối với cuộc sống con người mà tập thơ đã khơi dậy trong tâm hồn bạn. Những nét nổi bật về nghệ thuật - Ở mỗi bài, bạn cần chú ý những yếu tố nghệ thuật được tác giả sử dụng thành công. Đó Có thể là cách lập tứ, cách kiến tạo biểu tượng, hình ảnh, cách sử dụng những lớp từ vựng và cú pháp riêng, cách lựa chọn những biện pháp tu từ Có nhiều nét độc đáo, mới lạ. Những câu thơ tiêu biểu - Đọc bài thơ, gặp những câu thơ gây ấn tượng mạnh, bạn cần chép lại. Đó là những câu bộc lộ rõ nhất cảm xúc, tư tưởng của nhân vật trữ tình (chủ thể trữ tình) với nghệ thuật biểu hiện mới mẻ, bất ngờ. Mối liên hệ với các bài thơ khác trong tập - Mỗi tập thơ là một chỉnh thể, do vậy, giữa các bài trong tập luôn có mối liên hệ với nhau về ý tưởng, cảm xúc, hình ảnh, từ ngữ,... Bạn cần đọc mỗi bài trong tương quan so sánh để nhận ra những nét ổn định tạo nên sự nhất quán về bút pháp, phong cách, quan niệm nghệ thuật về con người ở 13
- mỗi tập thơ, hoặc những nét biến đổi Vốn là yếu tố tạo nên sự đa dạng của tổng thể các phong cách hay của từng phong cách cùng hiện diện trong tập thơ. 2.2.2.1. Đọc từng tác phẩm trong truyện ngắn Cách đọc - Giống như khi đọc một tập thơ, với một tập truyện ngắn, bạn cũng nên đọc tuần tự từng tác phẩm theo sắp xếp của người biên soạn. Bạn hãy đọc lướt một số truyện để có cảm nhận chung, sau đó đọc kĩ từng truyện và ghi chép cụ thể các thông tin cần thiết. Ghi chép trong quá trình đọc - Đọc truyện, bạn có thể ghi chép nhanh theo các nội dung sau đây: - Đề tài của truyện - Đề tài của truyện thể hiện ở bức tranh đời sống được miêu tả. Một số đề tài thường gặp trong tác phẩm truyện: nông thôn, đô thị, lịch sử, chiến tranh, tình yêu, thế sự,... Cốt truyện và tình huống truyện - Đọc từng truyện, bạn có thể ghi vắn tắt diễn biến chính của câu chuyện (không cần tóm tắt nội dung truyện một cách đầy đủ). Chính phần dược ghi này giúp bạn nhớ mỗi truyện kể về ai, điều gì – tức là các thông tin quan trọng sẽ giúp cho những phân tích, đánh giá sau đó tránh được tình trạng chung chung. Bạn cũng cần miêu tả được một cách khái quát về tình huống truyện được nhà văn tạo dựng, đồng thời nêu được các ý cơ bản về ý nghĩa của tình huống đó trong việc bộc lộ tính cách nhân vật, làm nổi bật xung đột chính trong truyện và thể hiện rõ tính đặc thù của phong cách nhà văn. Ngôi kể - Bất cứ truyện nào cũng có người kể chuyện ở một ngôi nhất định. Việc chọn ngôi kể luôn được tác giả thực hiện đầy dụng ý. Phạm vi bao quát của từng ngôi kể như thế nào cũng được người viết xác định một cách chủ động. Đây chính là điều cần được đặc biệt lưu ý khi đọc từng truyện ngắn và khi so sánh các truyện trong tập truyện với nhau. Nhân vật - Mỗi nhân vật trong truyện đều có những thông tin đáng chú ý: giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, thành phần xã hội,... Bên cạnh đó, nhân vật còn có ngoại hình, hành động, lời nói, nội tâm,... Những điều này cần được ghi ngắn gọn, rõ ràng. Hơn thế nữa, ở mỗi truyện, bạn còn cần chú ý mối quan hệ giữa các nhân vật. Không gian và thời gian - Không gian và thời gian trong mỗi truyện đều là những yếu tố được nhà văn miêu tả với ý đồ nghệ thuật rõ rệt và đó chính là không gian, thời gian nghệ thuật. Khi ghi chép, bạn cần chọn được từ ngữ thích hợp để gọi đúng tính chất của không gian, thời gian nghệ thuật được xây dựng trong truyện. Ngôn ngữ trần thuật - Tạo nên ngôn ngữ trần thuật trong truyện có lời kể, tả, thông báo, thuyết minh, giải thích; có ngôn ngữ độc thoại, đối thoại,... Tất cả các yếu 14
- tố này đều cần được chú ý quan sát. Bạn có thể ghi nhanh ấn tượng tổng hợp của mình hoặc ghi lại ấn tượng về một phương diện nào đó của ngôn ngữ trần thuật. Những câu văn tiêu biểu - Mỗi truyện có thể có những câu văn đáng nhớ thuộc lời nhận xét, bình phẩm của người kể chuyện hoặc lời nhân vật. Những câu văn như vậy giúp cho người đọc hiểu thêm về tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Cần biết chọn lọc ghi chép một số câu mà bạn cảm thấy tâm đắc. 2.2.2.3. Đọc một cuốn tiểu thuyết Đọc theo chương, phần hoặc mạch truyện. Hình dung về bối cảnh trong truyện, các tuyến nhân vật và diễn biến hành động của từng tuyển nhân vật (nhân vật chính, nhân vật trung tâm và các nhân vật phụ,... ); các sự kiện (thắt nút, cao trào, mở nút); cách kê chuyện và miêu tả của tác giả. Nếu Cốt truyện phức tạp, khó nhớ, bạn có thể tóm tắt theo từng đoạn để khi đọc xong thì có được một bản tóm tắt đầy đủ. Có thể vẽ sơ đồ để nắm bắt được cốt truyện một cách bao quát. Trong khi đọc, có thể lấy ra những sự việc, chi tiết tiêu biểu và nêu những ấn tượng, nhận xét ban đầu về chúng. Luôn chú ý hình dung và nắm bắt được cảm hứng sáng tạo, quan điểm nhìn nhận, đánh giá con người, sự việc của nhà văn, chú ý nét ổn định và sự biến hoá trong cách kể, tả mà nhà văn đã thể hiện để có cơ sở nhận xét chung về bút pháp, phong cách nghệ thuật của người viết. 2.2.3. Đánh giá chung về một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một cuốn tiểu thuyết. Giá trị chung của tác phẩm: Gồm trị gía nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật. Đọc xong tập truyện, tập thơ hay cuốn tiểu thuyết, bạn cần khái quát một cách ngắn gọn điều mà bạn cảm nhận được. Những nét riêng, những cái mới của tác phẩm: Để nêu những nét riêng của tập thơ, tập truyện ngắn hoặc cuốn tiểu thuyết, bạn cần dựa vào những ghi chép cụ thể, tổng hợp lại bằng những nhận xét, đánh giá khái quát. Vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp của tác giả: Tập thơ, tập truyện hoặc cuốn tiểu thuyết được đọc là một bộ phận trong toàn bộ các sáng tác của nhà thơ nhà văn. Do đó, cần nêu được vài nét về tương quan giữa nó với các tác phẩm khác, từ đó thấy được vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp văn học của tác giả. Vị trí của tác phẩm trong nền văn học: Đặt tác phẩm được đọc trong bối cảnh phát triển của văn học để nhận ra những đóng góp của nó. Ý nghĩa của tác phẩm đối với đời sống đương đại: việc đọc chỉ thực sự có hiệu quả nếu được thực hiện một cách chủ động. Sự chủ động đó được thể hiện rõ ở cách chọn tác phẩm để đọc, chọn vấn đề để nghiền ngẫm. Một tác phẩm có thể được viết đã lâu nhưng vẫn có thể khơi gợi trong bạn những suy nghĩ mới về cuộc sống. 2.3. Thực hành đọc 15
- 2.3.1. Gợi ý tác phẩm đọc: Chọn đọc một trong các tập thơ, tập truyện ngắn hoặc tiểu thuyết theo gợi ý sau: Thơ: Nhiều tác giả (1987), Tình bạn – Tình yêu – Thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội: Nhiều tác giả (1994), Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam, NXB Văn hoá, Hà Nội; Lưu Quang Vũ (2010), Gió và tình yêu thổi trên đất nưóc tôi, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; Nguyễn Quang Thiều (2015), Sự mất ngủ của lửa, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; Mai Văn Phấn (2018), Lặng yên cho nước chảy, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội: Nhiều tác giả (2009), Thơ trẻ 360°, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội;... Tập truyện ngắn: An-tôn Sê-khốp (Anton Chekhov, 2012), Truyện ngắn AP Chekhov, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; O. Hen-ry (O. Henry, 2018), Tuyển tập O. Hen- ry, NXB Văn học, Hà Nội, Thạch Lam (2020), Sợi tóc, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; Nguyễn Tuân (2014), Vang bóng một thời, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, Nguyễn Minh Châu (1985), Bến quê, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội; Bảo Ninh (2009), Chuyện xưa kết đi, được chưa?, NXB Văn học, Hà Nội, Phan Thị Vàng Anh (1993), Khi người ta trẻ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội;... Tiểu thuyết: Xéc-van-tét (Cervantes, 2004), Đôn Ki-hô-tê (Don Quijote), NXB Văn học, Hà Nội; Đe-ni-ơn Đi-phô (Daniel Defoe, 2021), Rô-bin-xơn Cru-xô (Robinson Crusoe), NXB Văn học, Hà Nội; Mác Tu-ên (Mark Twain, 2019), Những cuộc phiêu lưu của Tôm Xoi-ơ (Tom Sawyer), NXB Văn học, Hà Nội; Giắc Lớn-đơn (Jack London, 1983), Tiếng gọi nơi hoang dã, NXB Lao động, Hà Nội, Ăng-toan đơ Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Antoine de Saint-Exupéry, 2003), Xứ Con người, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; … 2.3.2. Ghi lại kết quả đọc Bạn có thể ghi lại kết quả đọc theo gợi ý sau: Thông tin chung về tác phẩm: Tên tác phẩm, tác giả, thể loại. Nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản, số trang, khổ.... Thông tin cụ thể: Tập thơ: Yếu tố trong thơ Hình ảnh, từ hay: Tính nhạc: thể thơ, nhịp thơ, gieo vần, từ láy... Chủ thể trữ tình trong bài thơ; Mạch cảm xúc của bài thơ: Thông điệp ... Suy ngẫm và cảm nhận chung về tập thơ Yếu tố trong văn bản truyện: Truyện ngắn/ chương:... Nhân vật/ tuyến nhân vật. Cốt truyện, chi tiết, bối cảnh, ngôi kể, ngôn ngữ, thông điệp... Suy ngẫm và cảm nhận chung về cuốn sách truyện 2.4. Viết bài về một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết 2.4.1. Mục đích viết 16
- Viết về một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết là hình thức trình bày kết quả của sự tiếp nhận, thẩm thấu, đánh giá những nội dung đã được đọc bằng ngôn ngữ viết. Việc viết về một tác phẩm đã đọc Có nhằm tới những mục đích khác nhau, hướng đến những đối tượng người đọc khác nhau như: Khi thiên về nghiên cứu, viết gắn liền với việc đưa ra những phán đoán, bình phẩm, đánh giá và giải thích về tác phẩm, giúp người đọc nhận ra được những giá trị sâu sắc của tác phẩm. Bài viết lúc này có cấu trúc gần như văn bản nghị luận. Khi thiên về thưởng thức, rung cảm, tri âm, viết là bày tỏ những cảm xúc, rung động và trải nghiệm của cá nhân người viết về một số phương diện, giá trị nổi bật của tác phẩm, lấy ra những nét đặc sắc nhất về nội dung và nghệ thuật để bình giá, làm rõ những giá trị thẩm mĩ của văn bản với sự đồng điệu của cái tôi tác giả – người viết. Bài viết lúc này có tính chất của một văn bản biểu cảm. Khi thiên về giới thiệu, quảng bá, viết là truyền tải đến người đọc những thông tin quan trọng về nội dung và nghệ thuật của văn bản, dấu ấn riêng của tác giả, điểm đặc biệt của văn bản trong quá trình sáng tác hoặc những điểm hấp dẫn về xuất bản,... phù hợp với thị hiếu và sự tiếp nhận của người đọc. Văn bản được tạo lập lúc này thường là văn bản thông tin. 2.4.2. Một số hướng viết bài 2.4.2.1. Viết theo hướng nghiên cứu văn học - Để viết bài theo hướng này, người viết phải có sự chuẩn bị công phu, kĩ lưỡng: tìm hiểu từ đặc điểm phong cách của tác giả tới bối cảnh sáng tác của cả thời kì hoặc nền văn học, bên cạnh việc tham khảo nhiều tài liệu nghiên cứu đã có về đối tượng, cần xây dựng được cho mình một quan điểm đánh giá rõ ràng, những luận điểm chính đều phải được triển khai đầy đủ với hệ thống dân liệu, bằng chứng phong phú, sát hợp; đảm bảo sự kết hợp nhuần nhị giữa những đánh giá khái quát và phân tích cụ thể, tinh tế, làm nổi bật được nét đặc sắc của đối tượng (tập thơ, tập truyện ngắn hay cuốn tiểu thuyết). Ngôn ngữ được sử dụng trong bài viết theo hướng này cần đảm bảo tính khách quan, khoa học, nên tiết chế việc biểu lộ cảm xúc chủ quan hay triển khai những liên tưởng, liên hệ “ngoài rìa”, ít gắn với trọng tâm của vấn đề được bàn tới. 2.4.2.2. Viết theo hướng thưởng thức, trải nghiệm Đây là lối viết theo kiểu tản văn hoặc tuỳ bút, mà ở đó, người viết bộc lộ cảm nhận, suy nghĩ riêng đối với những nét nổi bật, xuyên suốt về một đặc điểm nội dung hay nghệ thuật, thể hiện giá trị của tác phẩm hoặc phong cách của tác giả – điều làm nên giá trị và sức hấp dẫn của tập thơ, truyện ngắn hoặc tiểu thuyết, đặc biệt ở phương diện thẩm mĩ. 17
- Lối viết này dẫn người viết đến với bút pháp trữ tình, chấm phá, gợi cho người đọc liên tưởng đến nhiều điều cả trong lẫn ngoài tác phẩm. Qua đó, người viết vừa giới thiệu được về tác phẩm, vừa thể hiện cái tôi trữ tình của mình. 2.4.2.3. Viết theo hướng giới thiệu, quảng bá Đây là cách giới thiệu hướng đến mục tiêu gợi ý đọc sách và phát triển thị trường sách. Khi thực hiện mục tiêu này, cần quan tâm đến nhu cầu và đặc điểm của đối tượng tiếp nhận để chọn lối viết phù hợp. Để quảng bá tác phẩm, thu hút sự chú ý của người đọc, người viết có thể tập trung giới thiệu những nội dung nổi bật nhất của cuốn sách hoặc những điểm đáng chú ý về tác giả, quá trình sáng tác. Cách giới thiệu này giúp người đọc tiếp cận được những thông tin đa dạng có liên quan đến tác phẩm và tác giả trước khi đọc tác phẩm. Sản phẩm của cách viết này có thể là văn bản thông tin đa phương thức (kết hợp kênh chữ và kênh hình). 2.4.3 Thực hành viết 2.4.3.1. Chuẩn bị Chọn giới thiệu tác phẩm Xem lại phiếu đọc sách để hình dung tập thể: + Những thông tin chung về cuốn sách + Những nội dung chính của cuốn sách + Những cảm nhận, ấn tượng của người đọc về cuốn sách Xem lại nội dung và yêu cầu của cách viết mà bạn lựa chọn. 2.4.3.2. Lập dàn ý Bài viết theo hướng nghiên cứu Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhận xét về những giá trị đặc sắc, nổi bật của tác phẩm. Thân bài: Trình bày tổng quan những giá trị nổi bật của tác phẩm hoặc từng khía cạnh về nội dung, nghệ thuật. + Với tác phẩm truyện ngắn hoặc tiểu thuyết chú ý đến đề tài, chủ đề, các tuyến nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, bút pháp… + Với tác phẩm thơ chú ý đến mạch cảm xúc, thế giới hình tượng, nghệ thuật xây dựng hình ảnh, bút pháp… Kết bài: Đánh giá vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp của tác giả và trong nền văn học. 18
- Bài biết theo hướng thưởng thức, trải nghiệm Mở bài: Những ấn tượng đậm nét của người viết về nội dung, nghệ thuật của cuốn sách, về tác giả cuống sách hoặc một kỉ niệm sâu đậm của cá nhân có liên quan đến tác giả, tác phẩm. Thân bài: Bộc lộ trực tiếp cảm xúc, suy nghĩ, trải nghiệm của cá nhân người viết về các vấn đề có liên quan trong tác phẩm, qua đó tái hiện những nét nổi bật nhất về nội dung nghệ thuật hoặc những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của tác giả. Kết bài: Nói về những cảm xúc tiếp nối mà tác phẩm mang lại hay những cảm nhận từ phía độc giả và sức hấp dẫn đặc biệt của tác phẩm. Bài viết theo hướng giới thiệu, quảng bá. Mở bài: Những thông tin chung về cuốn sách. Thân bài: Trình bày những thông tin nổi bật về tác giả, tác phẩm hoặc quá trình sáng tác có thể gây ấn tượng đạm nét đối với người tiếp nhận. Kết bài: Khái quát những nét độc đáo tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm đối với người đọc 2.4.3.3. Viết Chuẩn bị tâm thế, cảm xúc khi viết bài. Chú ý khai thác, vận dụng tối đa những tư liệu thu thập được cũng như những ý nảy sinh trong quá trình đọc đã được ghi chép. Bài viết có thể do cá nhân hoặc nhóm thực hiện, viết ở lớp hay ở nhà tùy theo yêu cầu và điều kiện cụ thể. 2.4.3.4. Chỉnh sửa, hoàn thiện Kiểm tra độ chính xác của những trích dẫn từ văn bản văn học được phân tích, đánh giá, giới thiệu lẫn trích dẫn từ bài nghiên cứu. Rà soát văn bản về phương diện mạch lạc và liên kết. Cân nhắc chọn các hình ảnh minh họa sao cho bài viết đạt được hiệu quả tác động tối đa. Kiểm tra văn bản viết về phương diện chính tả và diễn đạt. 2.5. Báo cáo kết quả 2.5.1. Hình thức tổ chức Đọc và góp ý theo nhóm: + Nội dung hoạt động của nhóm được xác định căn cứ vào một triong hai chủ đề trao đổi chính: một kiểu văn bản đã viết và một thể loại được giới thiệu. 19
- + Đọc một bài để cả nhóm cùng theo dõi hoặc các cá nhân trong nhóm đổi bài cho nhau đọc và nhận xét. + Dựa vào hệ thống tiêu chí các loại bài để tự đánh giá hoặc đánh giá bài viết của bạn trong nhóm Chọn bài tiêu biể u đọc và trao đổi trực tiếp trước lớp 2.5.1.1. Trình bày trước lớp Chuẩn bị: Chuẩn bị bài nói tiến hành theo hai phương án: Phương án 1: Giới thiệu một tập thơ, tập truyện chưa được thực hiện ở phần Viết Phương án 2: Bài nói thực hiện trên cơ sở bài viết đã có. Tóm tắt bài viết và chuyển bản tóm tắt đó thành dàn ý cho bài nói. Mở đầu: - Giới thiệu quan niệm về truyện ngắn của Thạch Lam - Đặc điểm xuyên suốt truyện Triển khai: - Sự thành thực đến mức trở nên can đảm trong văn Thạch Lam. - Những rung động của ngòi bút Thạch Lam và khả năng tác động của nó. - Thiên về cảm giác – bút pháp nổi bật trong thơ ca Thạch Lam. Kết thúc: Nhận định một hướng đi của Thạch Lam trong sáng tác. Trình bày bài giới thiệu Mở bài + Tìm hiểu trước đối tượng tham dự để có cách chào thưa phù hợp + Tự giới thiệu ngắn gọn về bản thân + Nêu mục đích của việc trình bày giới thiệu tác phẩm + Nêu các thông tin tổng quát. Triển khai: + Bám vào đề cương đã chuẩn bị hoặc trình chiếu slide, lần lượt trình bày từng ý. + Nếu có video chiếu xen kẽ, cần làm rõ sự kết nối giữa bài giới thiệu và hình ảnh + Khi trình bày, tùy thái độ, sự phản ứng của người nghe để điều chỉnh, bổ sung thông tin khi cần thiết. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả dạy – học môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh qua tiết 32 – Bài 7: Tác hại của ma túy và trách nhiệm của học sinh trong phòng, chống ma túy"
20 p | 421 | 77
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 36 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên và kỹ năng sống cần thiết cho học sinh lớp 12 thông qua Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
29 p | 26 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả phát triển năng lực lập bản vẽ chi tiết thông qua dạy học chủ đề bản vẽ cơ khí cho học sinh lớp 11 THPT
48 p | 38 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học phần Lịch sử Thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại qua phương pháp lập bảng hệ thống kiến thức
19 p | 112 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích Vợ nhặt (Kim Lân)
33 p | 31 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy - học qua việc tích hợp nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong bài 14 và 15 Địa lí 12
32 p | 32 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hứng thú học tập phần Công dân với đạo đức lớp 10 thông qua việc sử dụng chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
13 p | 12 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn