intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh THPT

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:51

12
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Nâng cao năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh THPT" đã đưa ra được một số kỹ năng, biện pháp góp phần nâng cao năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh THPT. Từ đó góp phần nâng cao kỹ năng, năng lực tự học tự học, đảm bảo mục tiêu giáo dục đề ra, đáp ứng nhu cầu của thời đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh THPT

  1. ĐỀ TÀI NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH THPT LĨNH VỰC: LỊCH SỬ
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT BẮC YÊN THÀNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH THPT LĨNH VỰC: LỊCH SỬ GIÁO VIÊN: NGUYỄN THỊ HÀ TỔ: KHOA HỌC XÃ HỘI ĐIỆN THOẠI: 0965277989 NĂM HỌC: 2021 – 2022
  3. PHẦN 1: Đặt vấn đề 1.1. Lí do chọn đề tài Trong thời đại bùng nổ tri thức, khối lượng thông tin kiến thức đang ngày một gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Do khối lượng kiến thức tăng như vũ bão nhưng quỹ thời gian học tập ở nhà trường lại có hạn nên không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là một công việc có vị trí cực kì quan trọng trong các nhà trường. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi học sinh mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri thức khoa học, về đời sống xã hội. Từ đó các em có được sự tự tin trong cuộc sống, công việc bởi năng lực toàn diện của mình. Môn Lịch sử trong chương trình THPT giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc, củng cố các giá trị nhân văn, lòng khoan dung, nhân ái, tinh thần cộng đồng và hình thành những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại. Nhưng thực tế hiện nay kết quả điểm thi môn Lịch sử trong kỳ thi tốt nghiệp phổ thông quốc gia trong những năm gần đây tiếp tục rơi vào tình trạng báo động. Nguyên nhân tình trạng này như thế nào? Có phải thế hệ trẻ hôm nay quay lưng lại với quá khứ? Mặc dù trong thời gian qua, nhiều giáo viên đã có những nỗ lực để đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn Lịch sử, để thay đổi tinh thần thái độ của học sinh trong các giờ học lịch sử, để tránh tình trạng ì cho các em, tránh tình trạng học sinh thờ ơ với bài giảng, tiếp thu kiến thức một cách thụ động, khó có khả năng chủ động, sáng tạo tiếp nhận kiến thức cho riêng mình. Hơn nữa, với khối lượng kiến thức trong sách giáo khoa, giáo viên không thể truyền đạt hết tất cả cho học sinh trong các buổi học trên lớp mà cần định hướng cho các em tự động não, suy nghĩ tìm hiểu khám phá kiến thức trong sách giáo khoa, tự đọc sách, tự tra cứu tài liệu mở rộng kiến thức. Đây là cơ hội tốt nhất cho sự phát triển năng lực tự học ở học sinh. Từ đó chúng ta thấy được việc nâng cao năng lực tự học môn học Lịch sử cho học sinh THPT là vấn đề cần thiết, sát thực, đúng với xu thế đổi mới phương pháp, phù hợp mục tiêu giáo dục. Đặc biệt là trong tình hình dịch bệnh Covit 19 đang diễn biến phức tạp như hiện nay. Nhiệm vụ của giáo viên hiện nay không chỉ dạy kiến thức mà điều quan trọng là dạy phương pháp, rèn luyện khả năng tự làm việc, tự tìm hiểu để nắm bắt tri thức, đáp ứng mục tiêu giáo dục như Nghị quyết Trung Ương khóa VIII đã khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện hình thành nếp tư duy sáng tạo của người học, phát triển mãnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân...” 1
  4. Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của Đảng, thực tế giảng dạy ở trường THPT, trong quá trình dạy bộ môn của mình, tôi luôn tìm tòi, suy nghĩ và hình thành con đường, phương pháp cụ thể để nâng cao năng lực tự học cho học sinh. Vì những lí do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề “Nâng cao năng lực tự học môn lịch sử cho học sinh THPT” làm đề tài sáng kiến của mình. 1.2. Nội dung và nhiệm vụ nghiên cứu - Nội dung nghiên cứu: Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn của giải pháp nâng cao năng lực tự học thực chất là hình thành và sử dụng tốt các kĩ năng tự học cho học sinh. - Nhiệm vụ nghiên cứu + Tìm hiểu thực trạng dạy học lịch sử ở trường THPT của học sinh. + Nghiên cứu cơ sở lí luận về khái niệm, vai trò của tự học và đặc điểm của dạy học lịch sử. + Nghiên cứu các giải pháp hình thành kĩ năng tự học cho học sinh ở bộ môn lịch sử. + Đánh giá kết quả nghiên cứu dựa trên kết quả học tập của học sinh. 1.3 Phạm vi, đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Năng lực tự học của học sinh trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THPT. - Phạm vi nghiên cứu + Nghiên cứu trên cơ sở lí luận chung. + Nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn dạy học ở trường chúng tôi trong hai năm học: 2019 – 2020; 2020 – 2021. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết Nghiên cứu các tài liệu có liên quan dạy học lịch sử trong nhà trường THPT; các tài liệu liên quan đến năng lực tự học, các phương pháp và hình thức dạy học theo hướng phát triển năng lực tự học. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn + Phương pháp điều tra, khảo sát: Xây dựng phiếu điều tra lấy ý kiến của học sinh về việc tổ chức dạy học lịch sử trong nhà trường 2
  5. + Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Xây dựng các biện pháp rèn luyện năng lực tự học môn lịch sử, tiến hành dạy thực nghiệm và rút ra kết luận kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài. 1.5. Tính mới của đề tài: Sáng kiến đã đưa ra được một số kỹ năng, biện pháp góp phần nâng cao năng lực tự học môn Lịch sử cho học sinh THPT. Từ đó góp phần nâng cao kỹ năng, năng lực tự học tự học, đảm bảo mục tiêu giáo dục đề ra, đáp ứng nhu cầu của thời đại. Sáng kiến chưa được công bố ở bất cứ cuộc thi hay tạp chí nào. PHẦN 2: NỘI DUNG 2.1. Cơ sở của đề tài 2.1.1. Cơ sở lí luận 2.1.1.1. Vấn đề tự học * Tự học là gì? Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”. Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn về khái niệm tự học:“Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp,…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “Học bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”. Như vậy từ những quan điểm về tự học ở trên, chúng ta có thể xác định được tự học luôn gắn liền với hoạt động tích cực, chủ động của từng chủ thể học sinh mà chúng ta có thể gọi là “tự mình, có nghĩa là các em phải tự mình phát hiện kiến thức, tự mình nắm bắt kiến thức và tự mình vận dụng kiến thức. Điều đó không chỉ có giá trị đối với bản thân các em mà còn giá trị đối với xã hội, đối với nhân loại. Ngoài ra, năng lực tự 3
  6. học đối với học sinh THPT còn tạo ra sự biến đổi về mặt nhận thức, đem lại một ý nghĩa lớn hơn là hình thành thói quen tự học với những suy nghĩ tìm tòi để đặt vấn đề, tự giải quyết vấn đề. Đó là những hoạt động có tác dụng rèn luyện, phát triển tư duy logic đồng thời cũng là một dấu hiệu biểu đạt mức độ của sự phát triển trí tuệ. 2.1.1.2. Vị trí, vai trò của tự học Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình hoạt động dạy học, giáo viên không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu học sinh ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho học sinh tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học, giúp các em không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới phương pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu thì phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống, khoa học đặt ra. Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập. Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Và một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời Học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những 4
  7. thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao. Từ vị trí, vai trò quan trọng nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học. 2.1.1.3. Sự cần thiết của việc rèn luyện năng lực tự học môn Lịch sử. Sự bùng nổ của tri thức, sự phát triển của thời đại đặt ra một yêu cầu hết sức cấp bách cho nền giáo dục nước nhà là phải hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy học, trong đó chú trọng phát triển năng lực tự học của học sinh. Bộ môn Lịch sử cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thực tế cho thấy phân môn Lịch sử giữ một vị trí quan trọng trong các môn học ở trường phổ thông, có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng tự chiếm lĩnh, khám phá tri thức của người học. Thế nhưng, giờ học lịch sử đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với cả giáo viên và học sinh khi sách giáo khoa đưa vào lượng kiến thức khá nhiều, (nhất là chương trình lịch sử lớp 12) trong khi thời gian học tập trên lớp có hạn. Đặc biệt trong thực tế hiện nay, khi cả xã hội đang phải đối phó với đại dịch Covit 19, dịch bệnh Covit 19 cũng đã làm thay đổi nhiều yếu tố của ngành giáo dục. Vì vậy việc rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là điều vô cùng cần thiết dù học trực tiếp hay dạy học trực tuyến. Thực tế trong dạy học, kênh, nguồn tài liệu tham khảo cho học sinh quá rộng mà hiểu biết của học sinh còn nhiều hạn chế. Điều này đòi hỏi người giáo viên cần phải thay đổi phương pháp dạy học tốt nhất để giúp kích thích khả năng ham học hỏi, say mê nghiên cứu, hình thành ở học sinh những kỹ năng tự học nhằm rút ngắn thời gian học tập trên lớp mà vẫn đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của giáo dục và thời đại. Vì thế việc nâng cao năng lực tự học cho học sinh là một sự lựa chọn tối ưu nhất trong hành trình nâng cao hiệu quả dạy học mà người giáo viên đang kiếm tìm. 2.1.2. Cơ sở thực tiễn Trong những năm gần đây dạy học lịch sử ở trường THPT đã có nhiều chuyển biến tích cực và đã đạt được nhiều thành tích. Tuy nhiên, trong dạy học nhìn chung nhiều giáo viên vẫn chưa chú trọng nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng và phát triển năng lực tự học cho học sinh. Giáo viên có tâm lí trình bày trọn vẹn kiến thức sách giáo khoa, ít chú trọng đến việc liên hệ, mở rộng tri thức, rèn luyện các kỹ năng tự học cho học sinh. Vì thế việc học sinh chuẩn bị bài chu đáo ở nhà, chủ động nắm bắt tri thức khoa học bằng con đường tự nghiên cứu, tự học ít khi xảy ra. Chính vì thế cho 5
  8. nên nhiều giờ học lịch sử thường trầm lắng, tạo cảm giác mệt mỏi, không có hứng thú học tập, các em có thái độ dửng dưng, thờ ơ. Qua tiến hành thăm dò khảo sát ngẫu nhiên 100 học sinh cả ba khối lớp (bằng trao đổi trực tiếp lẫn thăm dò qua phiếu trắc nghiệm (ở phụ lục 1), tôi nhận thấy có đến 77% học sinh thừa nhận rất lười đọc sách giáo khoa. Hầu như các em chỉ đọc lướt qua các đề mục mà chưa có sự suy luận, ghi chép, soạn bài, làm bài tập. Các hình thức học tập mang tính tích cực ít được sử dụng, kỹ năng hệ thống kiến thức, sơ đồ hóa...còn thấp, chưa được hình thành. Rất nhiều học sinh soạn bài mang tính chất đối phó bằng cách chép lại từ sách giáo khoa, hoặc từ sách bài tập,...mà không hiểu bài. Khi đã được giáo viên hỏi bài cũ rồi thì không học bài nữa, bỏ qua việc soạn bài, chuẩn bị bài trước khi lên lớp. Việc chưa chú trọng chuẩn bị bài trước ở nhà đã quyết định rất lớn đến các hoạt động tự học chủ yếu của các em trong giờ học trên lớp. Trong giờ học, các em chủ yếu nghe giáo viên giảng và ghi chép vào vở một cách máy móc, rập khuôn. Học sinh ít tham gia thảo luận, bày tỏ quan niệm, ý kiến riêng của cá nhân...Khi giáo viên đặt câu hỏi các em cũng ngại xung phong xây dựng bài, chỉ trả lời khi được cộng điểm hoặc bị chỉ định. Những yếu tố này đã làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học. Vì thế, khả năng phát hiện vấn đề của học sinh rất chậm. Hầu hết các câu trả lời của học sinh chỉ dừng lại ở việc đọc nội dung tương ứng trong sách giáo khoa. Do đó, học sinh nắm kiến thức chưa có tính hệ thống, dễ dàng quên ngay sau khi tiết học kết thúc. Điều đó cho thấy phương pháp, hình thức trong dạy học lịch sử mặc dầu đã có nhiều thay đổi tích cực, tuy nhiên chưa thực sự đồng bộ trong tất cả các giáo viên. Vậy nên chưa tạo sự hứng thú, chưa kích hoạt được tính chủ động, tích cực của học sinh cũng như chưa được hình thành và phát triển năng lực tự học. Trước tình hình thực tế trên, mỗi giáo viên cần mạnh dạn tìm tòi, đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh để từ đó các em tích cực, chủ động, sáng tạo tự mình chiếm lĩnh kiến thức. Điều này đặt ra vấn đề cần rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trong nhà trường THPT là điều rất cần thiết. 2.2. Vai trò của giáo viên khi tổ chức hoạt động nhằm hình thành kỹ năng tự học cho học sinh Tổ chức tự học cho học sinh là một bộ phận của hoạt động học tập, để hoạt động tự học của học sinh diễn ra một cách có hiệu quả thì hoạt động đó phải được tổ chức, sắp xếp một cách khoa học. Nói cách khác, giáo viên phải là người thiết kế, hoạch định và tổ chức để hướng dẫn học sinh thực hiện việc học của mỗi cá nhân một cách chủ động và hiệu quả. Tổ chức tự học cho học sinh là quá trình giáo viên thiết 6
  9. kế, sử dụng các biện pháp và tổ chức hoạt động học tập có mục đích nhằm phát huy tối ưu năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Để tổ chức hoạt động nhằm hình thành kỹ năng tự học cho học sinh đạt hiệu quả thì người giáo viên phải thực hiện đúng vai trò của mình như sau: Thứ nhất, giáo viên định hướng hoạt động học tập cho học sinh thông qua việc xác định mục đích, mục tiêu học tập và chuyển giao mục đích, mục tiêu ấy cho học sinh qua yêu cầu của bài tập, bài học để hình thành kỹ năng cần thiết. Thứ hai, giáo viên lựa chọn và áp dụng phương pháp dạy học tương ứng để hình thành tri thức, kỹ năng và phương pháp tiếp cận tri thức ở học sinh. Giáo viên là người tổ chức, điều khiển và giám sát việc tự học của học sinh khi giao nhiệm vụ học tập cho các em, qua đó giáo viên giúp học sinh một số việc như xây dựng nội dung tự học, hướng dẫn phương pháp tự kiểm tra, tự giám sát quá trình thực hiện để thúc đẩy tự học của học sinh có hiệu quả. Mặt khác học sinh khi xác định vấn đề tự học là các em biết cách lựa chọn nội dung học tập, các em coi việc giải quyết vấn đề đặt ra là một nhu cầu của bản thân, trong đó giáo viên chỉ là người đưa ra tình huống có vấn đề. Khi học sinh có nhu cầu tiếp nhận và biết cách giải quyết có hiệu quả những vấn đề đặt ra, trên cơ sở đó học sinh từng bước phân tích vấn đề nhận thức theo đơn vị kiến thức để có phương án giải quyết vấn đề, nghĩa là học sinh hình thành kỹ năng lập kế hoạch tự học. Thứ ba, giáo viên tổ chức cho học sinh giải quyết các bài tập đã chiếm lĩnh kiến thức ở trên lớp, thông qua đó hình thành kỹ năng tự học, năng lực tư duy, và tự giải quyết vấn đề. Hoạt động tự học của học sinh được xác định bởi mức độ hoàn thành các bài tập mà giáo viên giao cho. Bài tập không những là sự tiếp nối các vấn đề cần phải giải quyết sau khi đã học trên lớp mà còn là sự khởi đầu cho việc lĩnh hội tri thức ở bài học tiếp theo. Một số dạng bài tập giáo viên có thể giao cho học sinh như: bài tập củng cố hay mở rộng tri thức đã học; bài tập phát hiện vấn đề mới; bài tập lĩnh hội tri thức mới; bài tập tự kiểm tra đánh giá kết quả tự học. Mỗi dạng bài tập sẽ tạo điều kiện để học sinh hình thành và phát huy được một số kỹ năng tự học tương ứng. Thứ tư, giáo viên kiểm tra quá trình lĩnh hội của học sinh, điều chỉnh sự tác động của mình đối với học sinh và xác nhận kết quả học tập của học sinh, từ đó mở ra quy trình dạy học mới, giao cho học sinh nhiệm vụ học tập mới. 7
  10. Thứ năm, giáo viên cần phát hiện ra những khó khăn mà học sinh gặp phải trong quá trình học tập, tìm tòi, nghiên cứu để can thiệp hợp lý, khuyến khích tính chủ động tích cực, độc lập và sáng tạo của học sinh. Trong các yếu tố khách quan ảnh hưởng tới sự tự học của học sinh. Ngoài yếu tố môi trường, yếu tố xã hội thì yếu tố người giáo viên được xem là ảnh hưởng trực tiếp đến cách thức tự học của học sinh. Vì trong quá trình dạy học giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh tiếp cận tri thức khoa học và hình thành những nhóm kỹ năng tự học cho học sinh. Tóm lại, biện pháp tổ chức tự học cho học sinh là một bộ phận của quá trình dạy học, giáo viên cần sử dụng một cách khoa học phối hợp các yếu tố của quá trình dạy học như phương pháp, phương tiện, công cụ, tài liệu, môi trường, thời gian, công nghệ dạy học để tổ chức, điều khiển hoạt động tự học cho học sinh đạt mục tiêu của bài học. 2.3. Các hình thức tự học trong dạy học Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp hay không trực tiếp của giáo viên, tự học thực hiện qua nhiều bước khác nhau như: tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh khác nhau, xử lý thông tin đã tiếp nhận dựa vào kinh nghiệm hiểu biết của bản thân, tự kiểm tra, đánh giá thông tin thu được và giải quyết các vấn đề do nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn đạt ra, tự học diễn ra với các hình thức sau: 2.3.1. Tự học hoàn toàn Là hình thức mà người học hoàn toàn độc lập hoàn thành các nhiệm vụ học tập của mình, vai trò của người học là nhân tố trọng yếu nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Hình thức tự học này còn gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. 2.3.2. Tự học có sự hướng dẫn của thầy nhưng không giáp mặt Hình thức này hiện nay đang được các trường học và các cấp học thực hiện khá phổ biến. Trước tình hình dịch bệnh Covit 19 đang diễn ra phức tạp. Nhiều nơi trên cả nước, các trường học đang chuyển từ hình thức dạy học trực tiếp sang dạy học trực tuyến hoặc kết hợp cả dạy học trực tiếp với dạy học trực tuyến. Vì vậy hình thức tự học có sự hướng dẫn của thầy nhưng không giáp mặt được giáo viên sử dụng trong tiết học là điều không thể thiếu, đặc biệt là trong các tiết học online. Hình thức tự học này đòi hỏi người học phải có tính tự giác và tính tự lực cao, phải tuân thủ theo chỉ dẫn của thầy. Hiệu quả của hình thức tự học này phụ thuộc vào vai trò của người 8
  11. hướng dẫn, và vai trò tích cực, chủ động hoàn thành các nhiệm vụ học tập của người học. 2.3.3. Tự học dưới sự tổ chức, chỉ đạo, điều khiển trực tiếp của thầy Thông qua biện pháp tổ chức, định hướng, thiết kế chỉ đạo của người thầy nhằm giúp cho người học tự tổ chức, tự thiết kế, tự thi công hoạt động học tập của mình bằng hoạt động tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự kiểm tra, tự điều chỉnh nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập. Kết quả tự học của học sinh trong hình thức này phụ thuộc vào mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa người dạy và người học, yếu tố đóng vai trò quan trọng là sự tổ chức, chỉ đạo của thầy, yếu tố đóng vai trò quyết định là sự tích cực, tính tự giác, năng lực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động tự học của học sinh. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của người thầy trong hình thức tự học này là phải phát huy được tính chủ động tích cực, tính tự giác, tính độc lập hoàn thành các nhiệm vụ học tập của học sinh, hình thành phương pháp tự học cho học sinh để các em có khả năng tự học, tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập của mình. 2.4. Một số kỹ năng và biện pháp nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh môn lịch sử. 2.4.1. Một số kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh để hình thành năng lực tự học môn lịch sử. 2.4.1.1. Kỹ năng làm việc với sách giáo khoa Sách giáo khoa là một trong những công cụ không thể thiếu để phục vụ cho quá trình tự học. Đó là phương tiện trực quan có giá trị nhất mà học sinh có thể sử dụng để nắm bắt tri thức một cách chủ động, sâu rộng và bước đầu hình thành năng lực tự học. Việc đọc sách giáo khoa như là một hoạt động cơ bản đầu tiên của năng lực tự học để tránh tình trạng “thiếu kiến thức nhưng lại thừa giáo khoa”. Kỹ năng đọc hiểu nội dung sách giáo khoa là một quá trình vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để tiến hành một cách thành thạo các thao tác, hành động, trí tuệ nhằm chiếm lĩnh nội dung tri thức, kinh nghiệm chứa đựng trong sách, biến nội dung tri thức đó thành kinh nghiệm của bản thân. Khác với sách giáo khoa lịch sử trung học cơ sở, sách giáo khoa trung học phổ thông được biên soạn (có thay đổi ít nhiều) nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập và soạn bài. Về mặt nội dung, cũng giống như sách giáo khoa của các môn học khác, sách giáo khoa môn lịch sử cấu thành hai phần: Phần bài viết- kênh chữ- và phần kênh hình. Mỗi bài trong sách đều có phần mở đầu rất ngắn gọn ở từng tiết, từng bài, đó là những vấn đề học sinh cần lưu ý để tập trung theo dõi khi học tập, đồng thời là vấn đề mà giáo viên phải thực hiện qua việc hướng dẫn học sinh tự học. 9
  12. * Vai trò của giáo viên khi hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng sách giáo khoa khi học môn lịch sử Đối với học sinh, sách giáo khoa là tài liệu cơ bản để tự học tập. Nó có ý nghĩa lớn đối với học sinh về các mặt như cung cấp kiến thức, giáo dưỡng và phát triển, cho nên có thể nói, sách giáo khoa là người thầy thứ hai của học sinh. Vì vậy biết sử dung sách giáo khoa trong học tập trên lớp và ở nhà là rất cần thiết. Giáo viên cần có kỹ năng hướng dẫn học sinh biết sử dụng sách giáo khoa. * Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa trong giờ học trên lớp Sách giáo khoa là người bạn đồng hành, thân thuộc với học sinh trong quãng đời đi học của mình, vì vậy biết sử dụng và sử dung như thế nào là vấn đề đặt ra đối với giáo viên. Muốn vậy, giáo viên cần: - Yêu cầu học sinh chăm chú nghe giảng, tích cực suy nghĩ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi mà giáo viên đặt ra, nắm vững nội dung chính và ghi theo ý hiểu của mình vào vở ghi. - Rèn luyện cho học sinh thao tác nhanh nhẹn khi sử dụng sách giáo khoa trong các trường hợp: + Nghiên cứu sách giáo khoa để trao đổi, thảo luận trong nhóm nhằm giải quyết vấn đề mà giáo viên đặt ra. + Quan sát kênh hình trong sách, đi theo gợi ý của giáo viên để tìm ra nội dung chính trong kênh hình. + Nghiên cứu nội dung kênh chữ kết hợp sơ đồ, lược đồ và các ký hiệu trong lược đồ để trình bày diễn biến của sự kiện lịch sử. + Tự đọc các đoạn có nội dung ít phức tạp trong sách, theo hướng dẫn của giáo viên để rút ra kiến thức. - Hướng dẫn học sinh hiểu sự thống nhất giữa bài giảng của giáo viên và nội dung của sách giáo khoa, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tự học ở nhà. - Hướng dẫn học sinh nắm vững các mối liên hệ giữa các mục bài, các bài, các chương trong sách giáo khoa để giúp các em thấy được tính hệ thống của kiến thức lịch sử. * Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa trong học tập ở nhà để học bài cũ và chuẩn bị bài mới. Muốn giúp học sinh làm tốt việc này, giáo viên cần: - Hướng dẫn học sinh biết học bài cũ trên cơ sở nắm vững nội dung sách giáo khoa và vở ghi để nắm vững nội dung cơ bản trong sách, hiểu rõ những điều phân tích, bổ sung làm sâu sắc hơn kiến thức trong sách của giáo viên. Ví dụ: khi học mục 2.IV, Bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950)”, chương trình lịch sử 12- ban cơ bản THPT: Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, học sinh bổ sung những hiểu biết đã được học và nhớ lại lời dạy của giáo viên về các vấn đề: Tại sao mở màn chiến dịch 10
  13. quân ta lại đánh Đông Khê? Tại sao ta chủ động mở chiến dịch? Tại sao ta thắng lợi ở chiến dịch Biên giới? - Biết tự trả lời các câu hỏi, làm được bài tập trong sách giáo khoa. Để rèn luyện cho học sinh kỹ năng này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện: Xác định yêu cầu câu hỏi (bài tập), xác định nội dung câu trả lời có trang sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, dự kiến câu trả lời dưới dạng dàn ý, tái hiện lại kiến thức, viết chi tiết câu trả lời và tự trình bày vấn đề. - Đọc trước sách giáo khoa bài tiếp theo để chuẩn bị cho bài mới (đọc và ghi tóm tắt bài viết trong sách giáo khoa, ghi những nội dung khó hiểu, các thuật ngữ và khái niệm khó...) * Các bước tiến hành: - Xác định mục đích đọc sách - Khảo sát - Đọc kỹ có phân tích, nhận xét, đánh giá - Chốt lại - Kiểm tra Ví dụ minh chứng: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tìm hiểu nội dung bài 12“Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925”, (Sách giáo khoa Lịch sử 12, ban cơ bản). - Xác định mục đích đọc sách: Vì đây là bài đầu tiên phần lịch sử Việt Nam của chương trình sách giáo khoa Lịch sử 12 THPT nên giáo viên cần giúp học sinh thấy được nội dung, tính logic, hệ thống của chương trình. Giáo viên đặt ra các câu hỏi định hướng giúp học sinh xác định được mục đích của việc đọc nội dung bài: Nêu được khái quát lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000 gồm mấy chương?,...Với Bài 12- bài mở đầu chương và cũng là bài đầu tiên của chương trình lịch sử 12 phần lịch sử Việt Nam-. Với bài này, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày được những thay đổi của tình hình thế giới và tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp đã tạo ra những chuyển biến mới về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở Việt Nam. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong những năm 1919- 1925 cũng có bước phát triển mới…? Giáo viên gợi dẫn một số vấn đề ban đầu và rèn luyện cho học sinh thói quen tự đặt ra những câu hỏi hay vấn đề còn thắc mắc để học sinh có hứng thú và phương pháp đọc sách hiệu quả. - Khảo sát: Đọc lướt nội dung bài để xác định các vấn đề chính bằng cách đọc tên các mục của bài, nắm sơ qua nội dung của từng mục. 11
  14. - Đọc kĩ có phân tích, nhận xét, đánh giá: Để thực hiện bước này cần đọc kĩ nội dung bài học và hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, luyện tập cuối bài để xác định nội dung trọng tâm. Nội dung trọng tâm của Bài 12: “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925” là tìm hiểu về chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp, những chuyển biến mới về kinh tế và giai cấp xã hội ở Việt Nam, những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919 đến năm 1924. - Chốt lại: học sinh ghi chép lại những ý chính trong mỗi mục (ghi theo cách hiểu của mình). - Kiểm tra: Trong khâu này giáo viên có thể yêu cầu học sinh trình bày lời nội dung các em đã đọc hoặc đưa ra hệ thống câu hỏi kiểm tra mức độ thu nhận kiến thức của học sinh. + Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp: Hoàn cảnh, nội dung và tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đến Việt Nam + Những chuyển biến mới về kinh tế và giai cấp xã hội ở Việt Nam. Thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp. + Hoạt động tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 1919 – 1924 + Cống hiến của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam (giai đoạn 1919 – 1924) Như vậy, việc đọc sách giáo khoa không còn là hoạt động đọc bình thường mà là một hoạt động hoàn toàn mang tính tư duy độc lập có mục đích của học sinh, mang tính định hướng nhằm phát huy cao độ tính tự giác của các em. Đọc trước nội dung bài học trong sách giáo khoa vừa thoả mãn tính tò mò, khao khát tìm tòi, hiểu biết khám phá vừa phát huy được tính chủ động độc lập sáng tạo của học sinh. Đây chính là bước đầu tiên trong quá trình rèn luyện cho học sinh cách đọc sách, thói quen đọc sách, tự nghiên cứu chiếm lĩnh tài liệu. Tóm lại, hướng dẫn học sinh sử dụng tốt sách giáo khoa để học lịch sử là một kỹ năng nghiệp vụ sư phạm bộ môn góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Để rèn luyện kỹ năng này nhằm hình thành và phát huy ở học sinh năng lực tự học, giáo viên cần phải nắm vững nội dung công việc của kỹ năng, nắm vững lý luận dạy học bộ môn và thường xuyên vận dụng trong chuẩn bị, giảng bài để biến những kiến thức đã học, hiểu được trở thành hoạt động thực tiễn và dần dần thành thạo. 2.4.1.2. Kỹ năng nắm bắt hệ thống kiến thức sách giáo khoa Sau khi đọc sách giáo khoa, học sinh phải thể hiện những gì mình đã đọc thông qua việc nắm bắt hệ thống kiến thức. Kiến thức các bài học rất phong phú, là những 12
  15. sự kiện, hiện tượng, những nhận định vừa khái quát vừa cụ thể, là hệ thống kiến thức cơ bản chủ yếu của bài học. Vì vậy, việc phát hiện hệ thống kiến thức, đánh giá, nhận xét đòi hỏi sự căng thẳng về tư duy và các hiểu biết cơ bản về logic học,... Để làm việc có hiệu quả với bài học trong sách giáo khoa, học sinh có thể tóm tắt vấn đề, lập bảng thống kê, bảng biểu về một vấn đề, một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đó trong bài học dưới dạng tóm tắt, giúp nắm chắc hệ thống kiến thức, logic bài học. Như vậy, các em tự làm việc với sách giáo khoa, tiến hành một loạt thao tác: thống kê, so sánh, phân tích, đánh giá, nhận xét, liên hệ, khái quát hóa, hình thành những kết luận, thấy được sự liên quan giữa quá khứ với hiện tại, giữa lịch sử với văn hóa, chính trị,...Có như vậy, các em mới phát huy được tính chủ động trong học tập, thu nhận kiến thức được một cách vững vàng và sâu sắc. * Các bước tiến hành: - Đọc lướt SGK để nắm bắt hệ thống các đề mục trong bài học. - Tìm hệ thống kiến thức cho từng mục, yêu cầu cần giải quyết cho từng mục bài, các em có thể tự đặt câu hỏi: Nội dung này đề cập đến vấn đề gì? Học sinh có thể đi tìm câu chủ đề cho từng mục bài hoặc tập trung vào các từ khóa quan trọng để trả lời cho câu hỏi trên. - Hoàn thiện sơ đồ, bảng hệ thống hóa kiến thức. Ví dụ minh chứng: Với bài 12: “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925”, chương trình lịch sử 12 THPT, ban cơ bản, phần hai, lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa, xác định hệ thống kiến thức và dàn ý hóa sơ đồ kiến thức bài học. Từ đó, học sinh biết cách rèn luyện cho mình kỹ năng đọc sách giáo khoa, đạt được mục tiêu của bài học ở những bài tiếp theo trong chương trình. + Đọc lướt SGK, xác định bài học có 2 mục lớn với nhiều các đề mục nhỏ. + Tìm hệ thống kiến thức trọng tâm cho từng đề mục Mục I: Những chuyển biến mới về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất Khái quát được hoàn cảnh, nội dung và đặc điểm của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông Dương (1919 – 1929). Hiểu được tác động của chương trình khai thác đối với nền kinh tế và xã hội Việt Nam: Những chuyển biến mới về kinh tế và giai cấp xã hội Việt Nam. Thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Mục II: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925 13
  16. Nét chính hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919-1925: thời gian, nội dung hoạt động và ý nghĩa + Hoàn thiện sơ đồ, hệ thống hóa kiến thức: Học sinh có thể ghi chép lại hệ thống các kiến thức đã khái quát được thành bảng biểu, sơ đồ kiến thức...theo cách riêng của mình. Như vậy, việc phát hiện hệ thống kiến thức trọng tâm, liên kết các vấn đề theo quan hệ logic là một năng lực rất quan trọng trong việc tiếp nhận kiến thức văn học sử. Do vậy, một mặt các em nắm bắt kiến thức nhanh hơn, dễ nhớ hơn mặt khác rèn luyện được khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, chủ động trong học tập. Ví dụ ,ở mục 1.I: Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp, học sinh có thể biểu thị bằng sơ đồ hóa kiến thức như sau: Vơ vét, bóc lột nhân dân lao TD Pháp thiệt hại Biện pháp động trong nước. nặng nề sau CTTG thứ nhất Tăng cường khai thác, bóc lột thuộc địa. Khai thác triệt để nguồn tài nguyên, nhân công rẻ mạt. Mục đích Toàn quyền Đông Dương An be Xa-rô vạch ra chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai Biến Đông Dương thành thị trường độc chiếm của Pháp. Việc rèn luyện cho học sinh nhóm kỹ năng làm việc với sách giáo khoa theo hướng hình thành năng lực tự học cho người học từ việc đọc hiểu nội dung đến nắm bắt hệ thống kiến thức sách giáo khoa ở bộ môn Lịch sử nhằm mục tiêu lĩnh hội tri thức một cách đầy đủ nhất, nhanh nhất. Người học hoàn toàn chủ động, tự khám phá sách giáo khoa chiếm lĩnh tri thức. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ nắm lấy những khái niệm khoa học dưới dạng vừa tầm với độ tuổi, dần dần đạt tới kỹ năng tự mình phân tích đánh giá các sự kiện lịch sử. 2.4.1.3. Kỹ năng thực hiện các câu hỏi sau mỗi mục bài và phần câu hỏi (bài tập) ở cuối bài học 14
  17. Sau khi đọc, nghiên cứu nội dung sách giáo khoa, các em cần có kỹ năng soạn bài ở nhà theo các câu hỏi sau mỗi mục bài hoặc câu hỏi và bài tập ở cuối bài học, phần luyện tập nhằm mục đích củng cố lại nội dung, kiểm tra lại kiến thức mà mình tự học được. Thực tế việc học sinh soạn bài, chuẩn bị bài ở nhà lại đặc biệt có ý nghĩa đối với những tiết học. Nếu các em không có sự chuẩn bị, hoặc chuẩn bị bài đối phó, qua loa thì tiết dạy dễ rơi vào tình trạng độc diễn của giáo viên, tạo cảm giác nhàm chán, học sinh sẽ lúng túng, quá trình nắm bắt tri thức chậm chạp, khó khăn và chắc chắn hiệu quả tiết sẽ không cao. Ngược lại, một học sinh chuẩn bị bài kỹ lưỡng ở nhà sẽ tự tin và hăng hái hoạt động, phát biểu, nắm bắt vấn đề nhanh, sâu sắc. Điều này có được là bởi quá trình trả lời câu hỏi chính là quá trình bước đầu học sinh tự mình khám phá, phân tích, cắt nghĩa, chiếm lĩnh kiến thức bài học cả về mặt nội dung lẫn hình thức. Hệ thống câu hỏi sẽ có tác dụng dẫn dắt các em từng bước khám phá, định hướng tiếp cận bài học. Tổ chức cho học sinh hoạt động làm việc trong giờ học chính là cách giáo viên kiểm soát, rèn luyện cho các em kỹ năng soạn bài ở nhà hiệu quả. * Các bước tiến hành: - Xác định yêu cầu các câu hỏi trong sách giáo khoa. - Quan sát, tìm ý chính, giải thích, phân tích, trình bày,...trả lời cho câu hỏi. - Đọc thêm sách tham khảo, các tài liệu trên trang web bổ sung cho vấn đề (nếu có). Ví dụ minh chứng: Trong sách giáo khoa Lịch sử 12 ; Bài 20: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc( 1953-1954), trang 156, phần câu hỏi và tập bài có câu hỏi: Chứng minh chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi quân sự lớn nhất của ta trong kháng chiến chống Pháp và là thắng lợi quyết định buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ năm 1954, chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Đông Dương? Học sinh phân tích và thực hiện câu hỏi: Xác định yêu cầu: Làm rõ chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi quân sự lớn nhất của ta trong kháng chiến chống Pháp và là thắng lợi quyết định buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Như vậy yêu cầu của bài tập là đòi hỏi học sinh phải động não suy nghĩ để chứng minh vấn đề. Phải suy nghĩ về từ khóa của câu hỏi đến việc lấy các dẫn chứng để minh chứng cho nhận định đó. Quan sát, tìm ý chính, giải thích, phân tích, trình bày...trả lời cho câu hỏi: yêu cầu làm nổi bật các ý sau: + Chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm thất bại hòan toàn kế hoạch Nava. Đây là quân bài cuối cùng của Pháp, Mĩ trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương. + Phá vỡ được tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “pháo đài bất khả xâm phạm” của Pháp. 15
  18. + Đây là trận đánh được quân và dân ta chuẩn bị chu đáo với tinh thần: tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng. + Thắng lợi quân sự lớn nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã quyết định đến thắng lợi ngoại giao trên bàn đàm phán, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ. Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng lợi quân sự lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, góp phần quyết định vào thắng lợi trên bàn đàm phán ở Hội nghị Giơnevơ. Như vậy, kỹ năng thực hiện các câu hỏi trong sách giáo khoa phần câu hỏi và bài tập hoặc phần câu hỏi sau các mục trong bài học là một hoạt động hoàn toàn mang tính tư duy độc lập có mục đích nhằm phát huy cao độ tính tự giác của học sinh. Việc thành thạo kỹ năng này chính là một mắt xích quan trọng giúp các em tiếp thu nội dung bài học tốt nhất. 2.4.1.4. Kỹ năng thu thập và xử lí thông tin liên quan đến bài học Một đặc điểm dễ nhận thấy của kiến thức lịch sử chính là có tính hệ thống, logic về mặt kiến thức. Mỗi một chương là xâu chuỗi hệ thống kiến thức. Do đó, muốn hiểu được bản chất vấn đề, học sinh cần phải nắm vững các kiến thức về lịch sử của từng bài. Mặt khác, phải biết thu thập và xử lí thông tin liên quan đến bài học. Bên cạnh đó, hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển, tài liệu để phục vụ cho bài học vô cùng phong phú. Ngoài sách giáo khoa bắt buộc, sách tham khảo, học sinh có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin trên mạng xã hội. Nếu học sinh không biết thu thập và xử lí các thông tin sẽ dễ dẫn đến tình trạng lệch hướng, xa rời trọng tâm bài học, thậm chí các em bị rối trong một số lượng kiến thức lớn liên quan bài học. Có thể khẳng định, để học tốt bài học lịch sử, học sinh phải biết cách thu thập và xử lí những tư liệu có liên quan đến bài học để phục vụ cho bài học lịch sử thêm sâu và rộng. * Các bước tiến hành: - Tìm kiếm tài liệu. - Lưu trữ, xâu chuỗi kiến thức, sắp xếp trật tự, rõ ràng, ghi chú thông tin tham khảo đầy đủ để tiện cho bài học. - Đọc tài liệu và ghi chép những vấn đề có liên quan đến nội dung bài học. - Giáo viên kiểm tra, kích thích hoạt động thu thập, chọn lọc, sắp xếp tài liệu phục vụ cho việc nắm bắt tri thức. Ví dụ minh chứng: Trong sách giáo khoa Lịch sử 12 THPT, Bài 20: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc( 1953-1954), trang 156, sau tiểu mục IV.2. 16
  19. có câu hỏi: Phân tích nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945- 1954? Để trả lời câu hỏi này, nếu chỉ dừng lại ở kiến thức trong bài 20 thì chưa đủ. Do đó, đòi hỏi học sinh phải có kỹ năng thu thập, lựa chọn, sắp xếp kiến thức liên quan đến câu hỏi này. Đó chính là nhận thức được về quá trình diễn tiến của lịch sử Việt Nam kể từ Đảng ra đời, đặc biệt là giai đoạn lịch sử Việt Nam 1945 - 1954 + Tìm kiếm tài liệu: Học sinh có thể đọc SGK Lịch sử lớp 12 THPT, Tiến trình lịch sử Việt Nam, Tư liệu lịch sử lớp 12,...hoặc tìm kiếm các thông tin trên mạng Internet. + Sau khi tìm kiếm các tài liệu liên quan đến câu hỏi, các em sắp xếp, ghi chú thông tin đầy đủ. + Đọc tài liệu và ghi chép những vấn đề có liên quan đến nội dung bài học. + Giáo viên kiểm tra, kích thích hoạt động thu thập, chọn lọc, sắp xếp tài liệu phục vụ cho việc nắm bắt tri thức. Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi: Vai trò của Đảng, của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được thể hiện như thế nào đối với cách mạng Việt kể từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1954? Tại sao nói: toàn dân, toàn quân ta đoàn kết dũng cảm trong chiến đấu, lao động, sản xuất. Có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, có mặt trận dân tộc thống nhất, có lực lượng vũ trang sớm xây dựng và không ngừng lớn mạnh. Có hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt cũng là những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?...Đối với Việt Nam và đối với thế giới, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 -1954 thắng lợi có ý nghĩa gì? Nếu học sinh trình bày đầy đủ, giáo viên có thể tuyên dương và khuyến khích cho điểm các em để tạo động lực, sự ham thích trong việc tìm kiếm tài liệu liên quan bài học và sự chuẩn bị ở nhà. Việc biết sưu tầm những tài liệu, xâu chuỗi kiến thức có liên quan đến bài học là cách để học sinh vừa hiểu sâu vừa hiểu rộng vấn đề được học một cách bền vững và chắc chắn nhất, góp phần nâng cao nhận thức, phát triển tư duy, năng lực tự học cho các em. Từ đó học sinh rút ra cho mình những bài học bổ ích về cách học, cách sưu tầm tài liệu, cách chiếm lĩnh và sử dụng kiến thức, có nghĩa là học sinh đang được rèn luyện một kỹ năng tự học, một thói quen tự học tốt nhất. 2.4.1.5. Kỹ năng tranh luận trong giờ học lịch sử Giờ học hiệu quả là tạo ra được không khí tự do dân chủ, thoải mái để cho học sinh có điều kiện phát huy hết khả năng của mình. Vì vậy giờ học không còn mang tính chất độc thoại như trước đây mà trở thành một giờ học đối thoại. Học sinh được tự do tranh luận, đưa ra vấn đề phản bác và bảo vệ ý kiến của mình. Rèn luyện cho học sinh kỹ năng tranh luận là một cách học mang tính tư duy vừa có tác dụng hoàn 17
  20. thiện tri thức vừa rèn luyện khả năng tư duy độc lập và khả năng tự học. Đây chính là phép biện chứng của học - hỏi - hiểu. Với việc tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình hay phản bác lại ý kiến của người khác, học sinh trải qua một quá trình suy nghĩ, nghiền ngẫm, cân nhắc, đánh giá vấn đề, kết hợp với việc thuyết phục người nghe bằng hệ thống lý luận phù hợp. Các em trao đổi và lập luận trong hoạt động học và chia sẻ với nhau những ý tưởng của mình. Như vậy các em biết nghe người khác, hiểu người khác và biết bảo vệ ý kiến của mình. Khác với bộ môn văn, kiến thức của bộ môn lịch sử đã được khẳng định và tường minh trên các tiêu đề, các nhận định của bài học. Vì thế, trong giờ học lịch sử, giáo viên cần chuyển các nhận định đó thành“vấn đề” khi nó có “tình huống”. Những tình huống này có chứa mâu thuẫn và kích thích học sinh vận dụng hiểu biết một cách linh hoạt, sáng tạo trong tình huống mới để giải quyết vấn đề. Học sinh tự tư duy độc lập suy nghĩ, phán đoán, lập luận và bảo vệ ý kiến của mình mà không chịu ảnh hưởng của người khác, đồng thời huy động được vốn kiến thức để giải quyết vấn đề. Hình thành cho học sinh một thói tranh luận cũng đồng thời chúng ta hình thành cho học sinh khả năng thẩm định đánh giá các vấn đề, và chỉ khi đó, các em mới thật sự là một chủ thể có ý thức, một chủ thể sáng tạo. * Các bước tiến hành: - Giáo viên cần đưa ra được các tình huống học tập có chứa mâu thuẫn và kích thích học sinh tranh luận (tình huống có vấn đề). - Học sinh huy động vốn hiểu biết, khả năng phân tích, tổng hợp, giải quyết tình huống. - Giáo viên định hướng cách lí giải đúng, hợp lí, củng cố, mở rộng vấn đề. Ví dụ minh chứng: Giáo viên đưa ra được các tình huống học tập: Khi giảng dạy bài 16 – lịch sử lớp 12: Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng 8( 1939 -1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ở hoạt động luyện tập, giáo viên có thể đưa ra một vấn đề cho học sinh tranh luận: Có ý kiến cho rằng cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng ăn may?”. Bày tỏ quan điểm của em về vấn đề này như thế nào?. + Học sinh huy động vốn kiến thức vừa nhận thức được qua bài học cũng như sự hiểu biết, khả năng phân tích, tổng hợp, giải quyết tình huống: trên thực tế, Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam có phải là “một sự ăn may” không? Đứng trước vấn đề này, học sinh hoàn toàn bị lôi cuốn và kích thích với ham muốn tìm hiểu, vận dụng kiến thức để lý giải. Các em sẽ có cách lý giải riêng của mình dựa vào sự hiểu biết và khả năng phân tích, tổng hợp. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2