Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nhà quản lý với công tác giáo dục kỹ năng mềm giúp học sinh sống tích cực và ứng xử có trách nhiệm vì cộng đồng ở trường THPT Quỳnh Lưu 4
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh, giảm thiểu những hành vi lệch chuẩn của các em. Đáp ứng được yêu cầu nâng cao giáo dục toàn diện của trường THPT Quỳnh Lưu 4 nói riêng và của tỉnh Nghệ An nói chung, góp phần tạo ra những con người năng động có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tích cực với mọi người xung quanh và ứng xử có trách nhiệm vì cộng đồng, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nhà quản lý với công tác giáo dục kỹ năng mềm giúp học sinh sống tích cực và ứng xử có trách nhiệm vì cộng đồng ở trường THPT Quỳnh Lưu 4
- ĐỀ TÀI NHÀ QUẢN LÝ VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM GIÚP HỌC SINH SỐNG TÍCH CỰC VÀ ỨNG XỬ CÓ TRÁCH NHIỆM VÌ CỘNG ĐỒNGỞ TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4 Lĩnh vực: Kỹ năng sống
- SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4 ĐỀ TÀI NHÀ QUẢN LÝ VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM GIÚP HỌC SINH SỐNG TÍCH CỰC VÀ ỨNG XỬ CÓ TRÁCH NHIỆM VÌ CỘNG ĐỒNGỞ TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4 Lĩnh vực: Kỹ năng sống Người thực hiện: Nguyễn Thị Quý Tổ bộ môn: Sử - Địa – GDCD – TDQP Số điện thoại: 0976600468 Năm học: 2020-2021
- MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1-2 PHẦN II: NỘI DUNG 2- 2.1.Cơ sở khoa học 2-5 2.1.1 Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh trong trường THPT 2.1.2. Cơ sở thực tiễn của việc giáo dụckỹ năng mềm cho học sinh 5-8 trong trường THPT 2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng hoạt động giáo dục kỹ năng mềm 8 - 10 cho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 4 2.2 Số liệu điều tra khảo sát 10 - 11 2.3. Phân tích đánh giá: 11 - 12 2.4. Nhà quản lý với các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng 12 - 22 giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh ở trường THPT 3.Tính khoa học, tính mới 22 4. Kết quả thực hiện 22 - 25 PHẦN III. KẾT LUẬN 26 Tài liệu tham khảo 27 Hình ảnh minh chứng 28- 54
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Một người muốn thành công ngoài xã hội nếu chỉ có kiến thức không thôi thì chưa đủ mà cần có những kỹ năng mềm cần thiết. Trước nhu cầu phát triển, hội nhập của Việt Nam với thế giới kinh tế tri thức, với kỷ nguyên Internet đã khiến cho giới hạn địa lý, giới hạn dân tộc ngày càng thu hẹp. Trong thời đại làng toàn cầu, công dân toàn cầu thì những kỹ năng mềm (kỹ năng sống) như giao tiếp, làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, chấp nhận sự khác biệt, ứng xử đa văn hóa,… càng trở thành hành trang không thể thiếu với bất cứ một người nào, đặc biệt là giới học sinh - nguồn tài nguyên quan trọng nhất để phát triển đất nước. Nghiên cứu của các nhà xã hội học cho thấy, người thành công chỉ có 25% là do kiến thức chuyên môn 75% còn lại là do nắm bắt, sử dụng thành thục những kỹ năng mềm. Học sinh độ tuổi THPT là giai đoạn chuẩn bị bước ra cuộc đời nên đây là thời điểm quan trọng để giáo dục các em những kỹ năng mềm. Đó là sự cần thiết để các em có đủ hành trang bước vào đời và thành công trong tương lai sau này. Giáo dục kỹ năng mềm tại các trường THPT hiện nay đang được chú trọng và tạo điều kiện thực hiện. Trong đó, được tập trung ở những buổi ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ hay các tổ chức các câu lạc bộ chuyên đề giúp các em có cơ hội được tiếp cận và trải nghiệm thực tế trong việc rèn luyện kỹ năng mềm.Những hoạt động giáo dục ngoài giờ và trải nghiệm giúp học sinh thấy được tầm quan trọng của các kỹ năng mềm đối với lứa tuổi của mình. Từ đó góp phần thúc đẩy mối quan hệ tích cực giữa học sinh với giáo viên, đem đến hứng thú học tập, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tích cực với mọi người xung quanh, sống lành mạnh, chủ động trong cuộc sống và ứng xử có trách nhiệm vì cộng đồng. Để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 4, với tư cách là nhà quản lý, bản thân tôi nhận thấy cần xác định rõ mục đích của công tác đặc biệt quan trọng này. Theo quan điểm cá nhân, giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh trong nhà trường phổ thông phải xuất phát từ nhu cầu giáo dục toàn diện, giúp học sinh có đủ những kiến thức văn hóa, những kỹ năng mềm và trải nghiệm cuộc sống để vừa tránh được những hành vi không tốt và đặc biệt là bệnh vô cảm, tự kỷ của giới trẻ hiện nay vừa giúp đỡ được nhiều người kém may mắn khác trong xã hội. Trong 5 năm qua với tư cách là Phó hiệu trưởng, phụ trách mảng NGLL - hướng nghiệp, tuyên truyền và giáo dục đạo đức học sinh, bản thân luôn trăn trở và tìm tòi để truyền đạt cho giáo viên phải coi trọng việc vận dụng tổ chức hình thức dạy học linh hoạt theo hướng tích hợp. Bên cạnh đó, làm tốt công tác hoạt động NGLL, hoạt động trải nghiệm...vừa gây hứng thú vừa tác động tích cực tới nhận thức của học sinh một cách sâu sắc hơn. Giúp phát triển và hoàn thiện nhân cách của mỗi học sinh, từ đó sẽ giảm thiếu những hành vi lệch chuẩn và không có những chuyện đáng tiếc xẩy ra. Từ những việc làm của bản thân, tôi mạnh dạn xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm với tên gọi “Nhà quản lý với công tác giáo 1
- dục kỹ năng mềm giúp học sinh sống tích cực và ứng xử có trách nhiệm vì cộng đồng ở trường THPT Quỳnh Lưu 4” để làm cẩm nang cho bản thân, đồng nghiệp và học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh, giảm thiểu những hành vi lệch chuẩn của các em. Đáp ứng được yêu cầu nâng cao giáo dục toàn diện của trường THPT Quỳnh Lưu 4 nói riêng và của tỉnh Nghệ An nói chung, góp phần tạo ra những con người năng động có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tích cực với mọi người xung quanh và ứng xử có trách nhiệm vì cộng đồng, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước. PHẦN II. NỘI DUNG 2.1.Cơ sở khoa học 2.1.1 Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh trong trường THPT Kỹ năng mềm là một thuật ngữ xã hội học chỉ những kỹ năng có liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử áp dụng vào việc giao tiếp giữa người với người. Kỹ năng mềm là những kỹ năng có liên quan đến việc hòa mình vào, sống với hay tương tác với xã hội, cộng đồng, tập thể hoặc tổ chức. Kỹ năng mềm chủ yếu là những kỹ năng thuộc về tính cách con người, không mang tính chuyên môn, không thể sờ nắm, không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt, chúng quyết định khả năng bạn có thể trở thành nhà lãnh đạo, thính giả, nhà thương thuyết hay người hòa giải xung đột. Những kỹ năng “cứng” ở nghĩa trái ngược thường xuất hiện trên bản lý lịch - khả năng học vấn, kinh nghiệm và sự thành thạo về chuyên môn. Phong cách sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới... đó là những “kỹ năng” thuộc về tính cách, không mang tính chuyên môn nhưng lại là cực kỳ cần thiết cho con người trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi. Những "kỹ năng" đó giúp con người có thể học tập, làm việc, phát triển đơn lẻ hoặc cộng đồng, thậm chí sinh tồn khi gặp bất trắc. Kỹ năng mềm là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của đời sống hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải ngiệm trực tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong cuộc sống con người. Các chủ đề rất đa dạng tùy thuộc vào chuẩn mực xã hội và mong đợi của cộng đồng. Kỹ năng mềm có chức năng mang lại hạnh phúc và hỗ trợ các cá nhân trở thành người tích cực và có ích trong cộng đồng.... + Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy, như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả. 2
- + Học để làm: bao gồm các kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…. +Học để làm người: gồm các kỹ năng như ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin… + Học để chung sống: gồm các kỹ năng xã hội như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông… Nội hàm kỹ năng mềm của UNESCO nêu ở trên rất rộng, bao hàm nhiều lĩnh vực, nhiều hoạt động của đời sống xã hội. Trong phạm vi vấn đề: Rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh phổ thông chúng tôi chỉ trao đổi những kỹ năng sống cơ bản cho học sinh một số nội dung sau: + Kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân trong nhà trường: giúp học sinh biết thiết lập tình bạn trong sáng với nhu cầu cần có nhiều bạn bè để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, ước mơ khát vọng… trong thời học sinh. Tình bạn rất cần thiết để giúp mỗi người trở nên tốt hơn, nhưng cũng cần có thái độ dứt khoát khước từ kiểu tình bạn đưa chúng ta sa vào những cám dỗ, cạm bẫy không cần thiết hoặc tiềm ẩn sự nguy hiểm. Trong tình bạn cần sự thông cảm, biết đoàn kết, yêu thương và luôn biết coi hoàn cảnh của người khác như chính mình để giúp đỡ nhau, hỗ trợ nhau vượt qua những sự cố, hoàn cảnh rắc rối đang diễn ra trong cuộc sống. Cần phải đứng vững trước những lôi kéo của bạn bè, biết bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc việc làm sai trái của bạn bè. Phải biết dừng lại, dứt khoát không chấp nhận đối với những sai lầm của bạn, biết bảo vệ quyết định của mình, đồng thời phân tích khuyên nhủ bạn bè hành động đúng, tích cực phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. + Trong tình yêu: Đối với học sinh phổ thông đây, thường là tình cảm đầu đời, đó là những rung động mãnh liệt của cảm tính, ít có sự tham gia của lý trí. Vì vậy cần phải giữ gìn tình yêu trong sáng, tình yêu phải trở thành động lực tiếp thêm sức mạnh trong việc học tập rèn luyện tu dưỡng để trở nên tốt hơn. Biết cách ngăn chặn, từ chối tình yêu ích kỷ, những biểu hiện khi yêu thì xa lánh bạn bè, trốn học đi chơi, bỏ bê việc học tập, không tham gia các hoạt động tập thể… đặc biệt kiên quyết chống lại việc đi quá xa, vượt quá giới hạn cho phép, kiểu sống thử… gây hậu quả xấu và những hệ lụy khôn lường trong cuộc sống. + Trong học tập: đứng trước những căng thẳng, áp lực của việc học tập các em cần phải có bản lĩnh, có nghị lực, có ý chí vươn lên, tự nhận thức điểm mạnh điểm yếu của mình để khắc phục. Khi gặp các vấn đề khó khăn cần tham khảo sách vở, trao đổi với bạn bè, hỏi thầy cô để giải quyết. Trong quá trình học tập cần chủ động nắm vững 3 cấp độ: tái hiện, thông hiểu và vận dụng. Cần bố trí thời gian hợp lý, có kế hoạch học tập và thời gian vui chơi giải trí, sinh hoạt tập thể. 3
- + Trong quan hệ ứng xử với thầy cô, bạn bè và những người xung quanh cần thể hiện là người có đạo đức, có văn hóa, có lòng tin và ý thức trách nhiệm với bản thân và tư thế của người học sinh. Khi có mâu thuẫn, va chạm, bất đồng cần phải bình tĩnh, biết kiềm chế hành vi để giải quyết những xung khắc bằng thương lượng, hòa giải tránh việc giải quyết bằng bạo lực. + Có kỹ năng thoát hiểm, kỹ năng ứng phó, ứng biến: khi gặp các tình huống nguy hiểm cần phải biết thoát ra khỏi nơi nguy hiểm một cách an toàn và hiệu quả, những tình huống như: hỏa hoạn, bão lụt, tai nạn xảy ra thương tích, bị xâm hại hay bị bắt cóc … nhiều tình huống chưa phải là nguy hiểm nhưng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cần phải biết cách ứng xử phù hợp để hạn chế thiệt hại cho bản thân. + Kỹ năng hoạt động trải nghiệm: trong nhà trường không chỉ tiếp thu những kiến thức khoa học phổ thông nền tảng mà còn phải trang bị kỹ năng sống cơ bản để học sinh có năng lực hòa nhập vào cuộc sống xã hội. Một trong những biện pháp là tận dụng thế mạnh của các hoạt động trải nghiệm do nhà trường tổ chức như: tổ chức mít tinh, tổ chức thi đấu thể thao, văn nghệ, cắm trại, đi du lịch, hội nghị học tốt và các sinh hoạt khác… Quá trình học sinh tham gia vào các hoạt động trải nghiệm là quá trình các em đặt mình vào một hoạt động thực tiễn giúp các em nâng cao nhận thức, hình thành các kỹ năng, hình thành phát triển thái độ, ý thức tập thể một cách vững chắc. - Mục đích của công tác giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh. Nền giáo dục XHCN mang tính nhân văn cao cả, mục đích của nhà trường là giáo dục học sinh toàn diện: học để làm người có đạo đức, nhân cách tốt, có văn hóa và kỹ năng để xây dựng đất nước trong tương lai. Học sinh THPT có độ tuổi từ 16 - 18, độ tuổi vị thành niên. Ở lứa tuổi này các em tiếp tục có nhiều thay đổi, khủng hoảng vì sự phát triển rõ rệt về cơ thể, thay đổi tâm sinh lý, tình cảm và các mối quan hệ xã hội. Một mặt, các em vẫn muốn níu kéo những ký ức của tuổi thơ, muốn được nâng niu chiều chuộng cùng với suy nghĩ và cách ứng xử vụng dại của thời thơ bé, mặt khác lại muốn khẳng định mình là người lớn. Vì thế bản thân các em có nhiều mâu thuẫn, nhiều suy nghĩ phức tạp trong nội tâm về các mối quan hệ xung quanh cần giải quyết. Do chưa có kỹ năng sống nên các em gặp nhiều khó khăn, răc rối, đôi khi phải gánh chịu những hậu quả không như mong muốn bởi chưa tìm ra phương hướng giải quyết đúng đắn và thông minh nhất. Về phương diện xã hội: các em bắt đầu có ý thức, nhận thức về cuộc sống, nhu cầu kết bạn phát triển mạnh, các mối quan hệ mở rộng, thích tham gia các hoạt động xã hội, thích đi đây đi đó để mở rộng tầm nhìn, thích khẳng định mình là người lớn. Trong lĩnh vực tình cảm: cường độ những rung động tình cảm ngày càng cao nhưng chưa có sự kiểm soát chặt chẽ của lý trí dễ rơi vào tình trạng cảm tính đơn 4
- thuần, cảm xúc tùy hứng nhất thời xuất hiện nhiều khó kiềm chế dễ dẫn đến sai lầm. Đây là độ tuổi muốn khẳng định “Cái tôi cá nhân” nên có nhu cầu tự khẳng định mình rất cao thể hiện ở chỗ: không muốn tham gia vào những sinh hoạt bó buộc của gia đình, muốn có quyền riêng tư, thích tranh luận và hay bình luận nhận xét đánh giá về người khác ... ngại tiếp xúc và chia sẻ với người lớn, người thân hay giấu kín những khó khăn, vấp ngã của bản thân mình. Chính vì những đặc điểm trên nên trong các mối quan hệ đa chiều với bạn bè, với người yêu, với thầy cô, với người thân và bố mẹ … đặc biệt trong môi trường xã hội phức tạp xuất hiện nhiều tình huống khó xử, nhiều cám dỗ các em dễ rơi vào lúng túng, bế tắc, thất bại, dễ chán nản, mệt mỏi bi quan mất phương hướng … dẫn đến những suy nghĩ và hành động tiêu cực trong cuộc sống bởi tâm hồn các em nhạy cảm dễ tổn thương, dễ đổ vỡ do bất lực trong giải quyết các tình huống xảy ra với mình. Mặt khác trong nhà trường hiện nay, tình trạng chú trọng nhiều đến việc dạy chữ, nặng về quan niệm học để thi đỗ đạt, chạy theo bằng cấp, chạy theo thành tích nên việc rèn luyện kỹ năng sống chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều bất cập, học sinh thiếu thực tế và trải nghiệm. Chính vì vậy học sinh phổ thông hạn chế rất nhiều trong giao tiếp ứng xử, xử lý các tình huống trong học tập trong cuộc sống. Để giúp các em vượt qua, đứng vững trước những thay đổi phức tạp và nhiều thử thách trong giai đoạn này chúng ta cần trang bị cho các em kỹ năng sống. - Tác dụng của công tác giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh. Khi học sinh được trang bị kỹ năng sống đúng đắn, lành mạnh các em sẽ có đời sống tinh thần vui tươi thoải mái sẽ trưởng thành, cảm nhận được mái trường là môi trường thân thiện đáng yêu, nơi gắn bó và lưu giữ những kỷ niệm êm đẹp về tuổi ấu thơ không bao giờ trở lại. Các hình thức giáo dục trên sẽ tạo ra môi trường tốt để các em học tập rèn luyện để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời đó cũng là cách thực hiện nguyên lý và phương châm giáo dục của Đảng. 2.1.2. Cơ sở thực tiễn của việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh trong trường THPT - Trên cả nước: Việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh ngày càng trở nên bức thiết khi mà xã hội hiện đại đang tác động tới các em từ quá nhiều phía. Tại sao trong những năm trở lại đây, tỷ lệ trẻ em phạm tội, trẻ em dính vào các tệ nạn xã hội và bỏ nhà, hư hỏng ngày càng nhiều?Tại sao có những phụ huynh phải thốt lên " Bố mẹ không thể hiểu nổi con" , " con càng lớn càng hư", " Bố mẹ cũng chịu con rồi...? Tại sao nhiều bạn học sinh không dám rời xa gia đinh, và gặp khó khăn khi hòa đồng cùng tập thể? Tại sao nhiều học sinh học rất giỏi nhưng lại thất bại trong cuộc sống?Suy cho cùng, những vấn đề trên đều là do các em thiếu kỹ năng mềm một cách trầm trọng. Bởi vậy chúng ta có thể khẳng định: 5
- 1. Thiếu kỹ năng mềm: Dễ sa vào lối sống buông thả và hư hỏng Độ tuổi trẻ em hư hỏng dường như đang ngày càng trẻ hóa. Đó là một thực trạng đáng buồn hiện nay khi mà chúng ta chứng kiến các em học sinh phổ thông đánh nhau, bắt bạn quỳ xuống chỉ vì lỗi nhỏ, đánh hội đồng quay clip. Cha mẹ, thầy cô có nhắc nhở thì các em lập tức thể hiện thái độ căng thẳng, chống đối. Ở nhiều trường phổ thông không hiếm gặp những học sinh hút thuốc, nhuộm tóc, chửi thề, nói tục...Đặc biệt, quan niệm của học sinh về tình cảm nam nữ rất phi truyền thống, yêu là dâng hiến nên có những học sinh mang bầu phải bỏ học giữa chừng để làm mẹ, nạo phá thai... Rõ ràng hiện nay quan niệm của một bộ phận học sinh đang rất sai lệch. Dẫu biết rằng đó chỉ là một số nhỏ, tuy nhiên điều đó cũng cho thấy học sinh bây giờ đang thiếu kỹ năng sống rất nhiều. Kỹ năng mềm không phải là một vài kỹ năng chúng ta thường nghe mà bao gồm rất nhiều các kỹ năng cần trang bị cho con trẻ. Học kỹ năng mềm đã được đưa vào các cấp học khác nhau, theo từng độ tuổi, từng cấp học. Nhưng cả người học và người dạy vẫn còn chưa định hình được làm sao cho hiệu quả. Giáo viên cũng không thể tăng số tiết học để giảng bài về kỹ năng mềm, mà chủ yếu chèn vào các bài học của một số môn học xã hội. 2. Thiếu kỹ năng mềm- Các em dễ ứng xử thiếu văn hóa Học sinh ngày càng có nhiều mối quan hệ ở trường, lớp và cả bạn bè bên ngoài. Những mâu thuẫn nhỏ xảy ra trong cuộc sống hàng ngày khiến các em dễ dàng bị kích động. Các em tỏ ra nghĩa khí khi giúp bạn đánh người khác, dù người đó chưa từng có hiềm khích gì với mình… Tháng nào trên các trang mạng xã hội chúng ta cũng chứng kiến các em học sinh vẫn mặc đồng phục trên người mà nhảy vào đánh, đấm, tát và lăng mạ bạn của mình bằng những lời lẽ thiếu văn hóa. Bố mẹ có con độ tuổi đi học có chung tâm trạng là con càng lớn bố mẹ càng phải đối mặt với nhiều lỗi lo. Có phụ huynh còn tâm sự "định chuyển trường cho con, vì con làm lớp trưởng, bị học sinh cá biệt trong lớp dọa đánh, dọa chặn đường…". Liệu rằng chuyển trường có phải là giải pháp tốt. Lại có em cãi bố mẹ, vùng vằng bỏ nhà đi, ép bố mẹ phải cho tiền, mua thứ này thứ kia… Tất cả những hiện tượng trên đều do các em đang thiếu kỹ năng sống một cách trầm trọng. Thiếu kỹ năng làm chủ bản thân, cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ bản thân khỏi những tác hại tiêu cực, kỹ năng ứng xử… 3. Thiếu kỹ năng mềm - ảnh hưởng nghiêm trọng đến tương lai Trẻ em được trang bị kỹ năng mềm càng sớm thì càng vững vàng và dễ hoàn thiện bản thân. Những trẻ em từ nhỏ không được trang bị các bài học thiết thực từ bé, hoặc thường xuyên nghe cha mẹ cãi vã nhau, hoặc cha mẹ không có phương pháp giáo dục tối ưu… thì thường sai lệch trong suy nghĩ và lối sống. Nhiều học sinh ngoan thì lại nhút nhát, tự ti, không dám nói lên quan điểm của mình hoặc ngại tham gia các hoạt động, ngại xuất hiện ở chốn đông người. Ít chia sẻ với những người xung quanh kể cả người thân nên rất dễ bị trầm cảm, không có những kỹ năng cần thiết để tự bảo vệ bản thân… Đặc biệt trong môi trường xã hội hiện nay, 6
- có rất nhiều những hiện tượng tiêu cực tác động vào khiến nếu như không tự làm chủ được bản thân, các em dễ dàng hư hỏng và dễ bị xâm hại. - Trên địa bàn tỉnh Nghệ An: Ở các trường đều có học sinh hoặc chưa ngoan, vi phạm nội quy , vi phạm pháp luật, ứng xử kém duyên hoặc có những học sinh quá nhút nhát, tự ti, tự kỷ... - Tình hình của đơn vị:Trường THPT Quỳnh Lưu 4 được thành lập từ tháng 9 năm 1975, trải qua gần 45 năm phấn đấu và trưởng thành, đến nay trường có cơ ngơi khang trang bề thế với 3 dãy nhà học cao tầng, một khu hiệu bộ, một dãy nhà đa chức năng; có 89 cán bộ, giáo viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, nhiệt tình trong công tác. Trong đó có 27 thạc sỹ và đang theo học thạc sỹ; có 30 lượt giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh; Có HSG cấp quốc gia và nhiều giải nhất, nhì,ba cấp tỉnh. Những năm gần đây, trường được coi như một điển hình tiên tiến trong công tác quản lý giáo dục có hiệu quả và là một địa chỉ tin cậy. Đội ngũ cán bộ giáo viên tự hào và càng nỗ lực xây dựng trường ngày càng lớn mạnh, giữ vững danh hiệu trường chuẩn Quốc gia. Chất lượng đào tạo ngày càng cao, năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ thu hút học sinh vào trường ngày càng đông, chất lượng giáo dục đạo đức ngày càng có sự chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên, công tác giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh của trường đang có nhiều vấn đề phải nghiên cứu, triển khai để thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm đưa chất lượng giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh ngày càng có chiều sâu hơn, giảm thiểu những học sinh cá biệt, vi phạm pháp luật, nhút nhát, trầm cảm... - Điều kiện kinh tế - xã hội tại địa phương Quỳnh Lưu là một huyện đồng bằng ven biển ở phía đông bắc tỉnh Nghệ An có diện tích 445.1 km2, dân số 307.000 người (theo thống kê năm 2019). Huyện có đường ranh giới với các huyện thị là 122 km, trong đó đường ranh giới đất liền 88 km và 34 km đường biển. Huyện có 1 thị trấn và 32 xã. Trường THPT Quỳnh Lưu 4 đứng chân trên địa bàn xã Quỳnh Châu, một vùng bán sơn địa của huyện nhà. Học sinh của trường gồm các xã Quỳnh Châu, Quỳnh Tam, Quỳnh Thắng, Tân Sơn, Tân Thắng, Ngọc Sơn, Diễn Lâm. Người dân nơi đây chủ yếu làm nông nghiệp, buôn bán và đi xuất khẩu lao động, đi làm ăn xa như Lào, miền Nam... - Thực trạng về kỹ năng mềm của học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 4 Trong những năm gần đây chất lượng giáo dục toàn diện ở trường THPT Quỳnh Lưu 4 đã đạt được kết quả khả quan. Đa số các em học sinh đều có ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của mình và phấn đấu học tập tốt. Bên cạnh đó, tỉ lệ học sinh vi phạm các chuẩn mực đạo đức dẫn đến bị xử lý kỷ luật ở các mức độ khác nhau có dấu hiệu gia tăng. Qua kiểm tra cho thấy số học sinh vi phạm kỷ luật nhiều nhất là bỏ giờ, trốn học, nói tục, chửi bậy và gây gổ đánh nhau. Ngoài ra số học sinh vô lễ, thiếu tôn trọng thầy cô, đánh bài ăn tiền, trộm cắp vặt, chơi lô đề, vi phạm an toàn giao thông, gian lận trong kiểm tra thi cử cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ. Đây là những em chưa có ý thức trong học tập, thiếu sự quan tâm 7
- của gia đình, các em thường xuyên bỏ giờ, trốn học đi chơi bi-a, chơi Game, nghện Game dẫn đến bắt chước theo Game bắt có trẻ em đẫn để giải cứu nhưng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là để em bé tử vong.la cà hàng quán, bạo lực, học yếu, ham chơi nên bị các bạn bè xấu lôi kéo dễ dẫn đến vi phạm các chuẩn mực đạo đức, thậm chí là vi phạm pháp luật. Điều đáng lo ngại hiện nay là tình trạng học sinh vô cảm, ứng xử phi truyền thống; những em ngoan học giỏi thì nhút nhát, ít tham gia hoạt động bề nổi, không dám nêu chính kiến của mình... 2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng hoạt động giáo dục kỹ năng mềmcho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 4 Hoạt động giảng dạy kỹ năng mềm ở trường phổ thông rất khó khăn vì không có bộ môn kỹ năng riêng, không có giáo viên chuyên trách mà chỉ biết lồng ghép, hướng cho học sinh tiếp cận với các kỹ năng thông qua môn học chính khóa, ngoài giờ lên lớp và các hoạt động trải nghiệm. Qua đó bồi dưỡng hàng ngày cho các em các kỹ năng mềm cần thiết như: Kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tạo lập văn bản tiếng Việt, kỹ năng diễn thuyết bằng tiếng Anh, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm đồ dùng học tập, kỹ năng làm mâm cỗ về các ngày lễ cổ truyền của dân tộc, kỹ năng lao động kiếm tiền để giúp đỡ trò nghèo…nhưng chưa đồng bộ và thường xuyên. Phương pháp giảng dạy các môn liên quan đến kỹ năng mềm tuy đã được các thầy, cô quan tâm đổi mới nhưng cũng chưa thực sự phong phú, tạo hứng thú cho học sinh. Hầu hết các thầy, cô đã giảng dạy bằng máy chiếu projector, sử dụng bài giảng powerpoint. Việc đổi mới phương tiện giảng dạy này nếu không khai thác đúng cách và đổi mới phương pháp giảng dạy theo đúng nghĩa nhằm tăng tính tự học, chủ động của người học thì có thể ngay cả người thầy cũng bị rơi vào “trạng thái ỳ” với thao tác chiếu bài giảng lên và ngồi hoặc đứng tại chỗ đọc. Khi thực hiện giáo dục kỹ năng mềm hiện nay thường gặp phải những khó khăn sau: - Số lượng học sinh trong lớp thường khá đông từ 40 đến 42 em trong một lớp; khi thực hiện NGLL hoặc trải nghiệm thì có khi từ 500 đến 1.5000em. Do vậy khó kiểm soát và giáo viên không thể nắm bắt được tính cách, sở trường cũng như ưu, nhược điểm của từng em để có thể định hướng và uốn nắn kịp thời nhằm điều chỉnh nhân cách cho các em trong khi học. - Để có được kỹ năng mềm tốt cũng đòi hỏi học sinh phải đạt được năng lực nhất định mới có thể vận dụng những hiểu biết của mình một cách mềm dẻo, linh hoạt, nhanh nhạy vào giải quyết các tình huống công việc cũng như giao tiếp một cách khôn khéo và thích ứng với môi trường tốt hơn. Nhưng trên thực tế không phải em nào cũng có năng lực, hoặc dám thể hiện năng lực để giáo viên có thể dễ dàng trong việc tiếp cận và hướng các em phát triển nhanh các kỹ năng cần có. - Phần lớn học sinh không có thói quen đọc sách, cách học còn thụ động trông chờ thầy cô giảng. Thời nay, các em giành quá nhiều tâm trí và sức lực cho không 8
- gian mạng, cho các trò chơitrên điện thoại, máy tính…Thêm vào đó là thái độ cứng nhắc, không sẵn sàng tiếp thu để thay đổi, hiểu biết thực tế chưa nhiều nên hạn chế việc tiếp thu và áp dụng các kỹ năng mềm ngay cả khi cần thiết. - Phần lớn họcsinh là con của các gia đình nông dân, số học sinh con của các gia đình trí thức, cán bộ được giáo dục nhân cách một các bài bản chiếm tỷ lệ rất ít. Chính vì vậy, điều kiện về kinh tế của các em hầu như là khó khăn, nên việc quan tâm và thể hiện kỹ năng mềm cũng bị hạn chế rất nhiều. Bởi vì, kỹ năng mềm được hình thành lâu dài từ nhỏ, còn nếu chỉ được đào tạo qua một số môn chính khóa ở trường học thì rất khó có thể thay đổi được nhận thức của các em. Ví dụ: những khó khăn về kinh tế thường làm con người trở nên cáu bẳn và đối xử cục cằn, thô lỗ với nhau ngay cả những thành viên trong gia đình; Hoặc khi giảng dạy phối hợp liên môn để rèn kỹ năng mềm tôi thường khuyên các em nên ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ và lịch sự, đặc biệt là không nên đi dép tông, dép lê đến lớp nhưng rất nhiều em không thể thực hiện hoặc thực hiện rất chậm vì đó là phong cách của các em đã hình thành từ trước mà nguyên nhân là điều kiện kinh tế không có hoặc môi trường giáo dục của gia đình không bài bản. Nếu khi ra trường mà các em vẫn giữ phong cách ấy thì không thể ăn điểm trong các cuộc phỏng vấn xin việc khi mà phải cạnh tranh với rất nhiều học sinh của các trường khác với tư duy hơn hẳn và phong cách của họ thanh lịch hơn,… hoặc chờ đến khi đi xin việc mới lúng túng thay đổi phong cách thì cũng rất khó có thể thích nghi kịp. - Những buổi thảo luận, thuyết trình, đi quan sát thực tế có sự hướng dẫn của giáo viên cũng như những buổi giao lưu, nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm với các diễn giả hoặc doanh nhân thành đạt ( nguyên là HS cũ của trường) và người lao động có kinh nghiệm chưa được thường xuyên. Hoạt động học tập: Theo điều tra của bản thân thì hầu hết học sinh được hỏi về cơ bản đều chưa hiểu được “kỹ năng mềm” là gì. Vì vậy, học sinh đều rất kỳ vọng vào các môn học và hoạt động trải nghiệm có hướng đến kỹ năng mềm và do đó những đòi hỏi từ người dạy cũng cần trang bị nhiều cả về kiến thức chuyên môn (lý luận và thực tế) cũng như phương pháp truyền đạt và phong cách giảng dạy. Nhưng như đã trình bày ở trên, trở ngại lớn nhất là không có môn riêng, không có giáo viên chuyên trách. Tất cả là lồng ghép và kiêm nhiệm. Sau khi học xong các môn học có lồng ghép giáo dục kỹ năng mềm, hầu hết học sinh đều có những thay đổi tích cực hơn về thái độ, quan điểm sống, học tập và phong cách giao tiếp. Song, nhìn chung cũng chỉ một số ít học sinh có thể đáp ứng được yêu cầu của thực tế, các học sinh còn lại chỉ đáp ứng ở mức độ thấp hoặc không đáp ứng nổi. Việc tiếp thu kiến thức của những môn học có lồng ghép kỹ năng mềm không hề khó và thậm chí là dễ so với các môn chuyên khối của các em. Nhưng để ứng dụng những kiến thức đã được học vào thực tế, giải quyết các tình huống và công việc một cách tự tin, linh hoạt, khôn khéo… và nghệ thuật lại không hề dễ. Để có thể vận dụng tốt các kỹ năng mềm đã được trang bị đòi hỏi học sinh phải biết “mềm hóa kiến thức” với một “tư duy động”, để vận dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt, 9
- khôn khéo và tế nhị vào trong từng hoàn cảnh nhất định với từng đối tượng cụ thể, có khả năng làm việc độc lập nhưng vẫn thể hiện tinh thần làm việc và hợp tác với nhóm cao. Khi được hỏi về lý do các môn học và hoạt động trải nghiệm hướng đến vun đắp kỹ năng mềm làm cho học sinh cảm thấy hứng thú học thì hầu hết đều có chung một câu trả lời là do không khí vui nhộn, có nhiều kiến thức và tình huống thực tế bổ ích và được làm việc với nhóm, được thể hiện năng lực bản thân và được tương trợ người khác. Tuy nhiên trong quá trình học tập, học sinh vẫn bị chi phối bởi một tâm lý e ngại và thái độ đề phòng lẫn nhau đang cản trở các em tự tin trong giao tiếp, học tập cũng như trong quá trình khẳng định bản thân. Hơn nữa, học sinh chưa biết cách thể hiện ra ngoài kỹ năng mềm để có thể sẵn sàng giao tiếp, hợp tác và chia sẻ với nhau. Trong suy nghĩ, các em vẫn còn tâm lý e ngại, thậm chí là sợ, sợ sự dò xét, sợ người khác không sẵn lòng giao tiếp, sợ người khác phê bình, chê cười khi đặt câu hỏi hay phát biểu không đúng,… Trong một lớp chỉ có một vài học sinh biết cách thể hiện mình trước đám đông, số còn lại thì chưa tự tin hoặc tự tin thái quá. Vì vậy, người giáo viên khi giảng dạy các môn học kỹ năng mềm cần phải có phương pháp giảng dạy phù hợp, động viên, khích lệ để học sinh có thể ứng xử tự tin hơn với thực tế. Về cơ sở vật chất: Thực trạng quản lý việc mua sắm, sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện giảng dạy phục vụ hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh trong lớp học và các phương tiện phục vụ hoạt động trải nghiệm còn nhiều hạn chế. Mặc dù không phải là các yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng mềm nhưng cũng là một yếu tố có ảnh hưởng không hề nhỏ. 2.2 Số liệu điều tra khảo sát: 2.2.1: Số liệu điều tra ý kiến học sinh về sự cần thiết của giáo dục kỹ năng mềm Tiêu chí điều tra HS khối 10 HS khối 11 HS khối 12 ( %) ( %) ( %) Cần có hiểu biết về kỹ năng mềm 85.0 75,6 100 Không cần có hiểu biết về kỹ 15 24,4 0 năng mềm Thích học liên môn Văn Sử Địa 65,5 70,7 73,2 có nội dung giáo dục kỹ năng mềm 10
- Đưa các hoạt độnggiáo dục kỹ 55,7 69,3 93,2 năng mềm nhiều hơn vào nhà trường Thích hoạt động NGLL và trải 86,4 88,5 93,6 nghiệm 2.2.2 Số liệu học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm Tiêu chí điều tra HS khối 10 HS khối 11 HS khối 12 ( %) ( %) ( %) Trải nghiệm thuyết trình 15 20 22 Trải nghiệm đi catwalk, thi ứng 15 15 20 xử, trình diễn thời trang Trải nghiệm làm mâm cỗ ngày 25 27 28 Tết cổ truyền, làm hoa nghệ thuật Trải nghiệm lao động sản xuất 20 18 15 Trải nghiệm làm thiện nguyện 25 20 15 2.3. Phân tích đánh giá: * Ưu điểm: + Ban giám hiệu nhà trường có kế hoạch chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác giáo dục kỹ năng mềm rất bài bản, khoa học phù hợp tình hình thực tế của nhà trường và địa phương. + Ban giám hiệu thường xuyên đặt vấn đề, trao đổi với lãnh đạo các xã trên địa bàn tuyển sinh của trường tìm kiếm những địa chỉ đỏ để nhà trường có kế hoạch hướng dẫn học sinh làm công tác thiện nguyện hoặc lao động sản xuất giúp nhân dân. Được chính quyên tạo điều kiện, ủng hộ và được nhân dân cảm kích, khen ngợi. + Đội ngũ cán bộ giáo viên làm công tác giáo dục kỹ năng mềm đều nhiệt tình, trách nhiệm. + Đa số học sinh hợp tác, biết lắng nghe, tiếp thu và đối thoại thẳng thắn về công tác giáo dục kỹ năng. *Hạn chế: + Trang thiết bị, tài liệu, phương tiện phục vụ công tác giáo dục kỹ năng mềm còn thiếu. 11
- + Việc tổ chức giáo dục kỹ năng bằng các các hoạt động trải nghiệm, ngoại khóa còn nhiều khó khăn, chưa thường xuyên vì còn phụ thuộc vào thời gian biểu của chuyên môn chính khóa. + Công tác sơ kết, tổng kết đánh giá hoạt động phối hợp giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh không được duy trì thường xuyên. + Ngân sách giành cho giành cho công tác giáo dục kỹ năng mềm còn khó khăn, chưa bố trí kinh phí giáo dục kỹ năng trong trường học thành khỏan riêng để chủ động hoạt động. + Đội ngũ làm công tác tuyên truyền, hướng dẫn các hoạt động trải nghiệm chưa được tập huấn trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết để làm công tác giáo dục kỹ năng mềm. + Nhận thức về công tác giáo dục kỹ năng mềm của một số cán bộ giáo viên, học sinh chưa đúng mức, chưa đầu tư nhân lực, tài lực, thời gian thỏa đáng cho công tác này. + Sự phối hợp giữa các ngành các cấp, các tổ chức đoàn thể trong công tác giáo dục kỹ năng mềm trong trường học còn mang tính thời vụ, chưa đi vào nề nếp thường xuyên. 2.4. Nhà quản lý với các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo kỹ năng mềm cho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 4 2.4.1. Tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ Đảng trong trường học Trong trường học, chi bộ Đảng lãnh đạo toàn diện các hoạt động của nhà trường, là hạt nhân là nền tảng của sự đoàn kết, chính vì thế phải xây dựng chi bộ luôn trong sạch vững mạnh, sự chỉ đạo phải chặt chẽ, luôn thực hiện theo phương châm “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,nhân dân làm chủ” Thường xuyên cập nhật thông tin, quán triệt các quan điểm, đường lối nghị quyết của Đảng và các cấp chính quyền, đề ra các kế hoạch cụ thể tổ chức thực hiện để công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức học sinh đạt hiệu quả cao. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của chính quyền đối với công tác giáo dục pháp luật. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt Chỉ thị số 32/CT-TW của Ban bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục kỹ năng mềm. Qua đó, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của cán bộ giáo viên và học sinh. Phân công nhiệm vụ cho Đảng viên trong chi bộ nhằm tăng cường kiểm tra, đánh giá đạo đức của học sinh thông qua các đợt phát động phong trào chào mừng các ngày lễ lớn, có sơ kết, tổng kết, khen thưởng và phê bình uốn nắn kịp thời. 12
- 2.4.2. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cán bộ quản lý trong công tác giáo kỹ năng mềm cho học sinh Cán bộ quản lý là người đứng mũi chịu sào trong mọi hoạt động của nhà trường vì vậy phải cần nắm vững cơ sở khoa học để xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cụ thể, phù hợp sát đúng với từng thời điểm, từng đối tượng. Phải thường xuyên thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá theo dõi quá trình thực hiện kế hoạch, để có sự điều chỉnh, xử lý kịp thời các trường hợp có thể xảy ra, hoặc mới xảy ra, tránh hậu quả đáng tiếc. Người cán bộ quản lý phải nắm vững Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác giáo dục, Điều lệ trường trung học, các văn bản hướng dẫn của Sở Giáo dục & Đào tạo Nghệ An. Theo từng năm học phải xây dựng kế hoạch, phương án, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá mục tiêu và nhiệm vụ năm học. Người cán bộ quản lý phải đi đầu, gương mẫu trong mọi hoạt động giáo dục: như tác phong, thời gian làm việc, biết kết hợp lý và tình trong mọi tình huống và luôn luôn bình tĩnh. Hiệu quả quản lý càng cao khi người quản lý hiểu về những khó khăn khát vọng, năng lực sở trường của mọi cá nhân, từ đó tạo điều kiện có thể để động viên khuyến khích họ vượt qua các trở ngại để phát huy, cống hiến hết mình cho sự nghiệp chung của nhà trường. Thường xuyên chủ động liên hệ, làm việc với chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội, các nhà hảo tâm ở các địa phương có học sinh theo học tại trường để có sự kết hợp chặt chẽ và tạo được các hỗ trợ về kinh phí cho các hoạt động của nhà trường, tạo được sức mạnh trong việc giáo dục kỹ năng mềmcho học sinh. Chỉ đạo, giám sát, hỗ trợ các hoạt động của tổ chức đoàn thanh niên, đặc biệt là các câu lạc bộ để thu hút học sinh học tập, rèn luyện, có lý tưởng qua những việc làm thiết thực, hữu ích. Học sinh thấy được giá trị của những việc mình làm, thấy vui vì mình đóng góp được cho cộng đồng thì sẽ cản được bước chân của các em đến quán Game và những nơi vô bổ khác một cách rất tự nhiên. Cùng với công đoàn nhà trường xây dựng kế hoạch hoạt động, trong đó đưa phong trào thi đua thực hiện chức năng xây dựng “Dân chủ - Kỷ cương - Tình thương - Trách nhiệm” có nội dung và tổ chức cụ thể như: Ngày 20/11 hưởng ứng phong trào thi đua “Tôn sư trọng đạo”; 27/7 với tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” tổ chức thăm hỏi, tặng quà tri ân những thân nhân gia đình Liệt sĩ, thương binh và người có công với cách mạng; 26/3 thi đua lập thành tích chào mừng tháng thanh niên; … Cùng giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh của học sinh, nhất là những em có hoàn cảnh khó khăn; học sinh cá biệt. Từ đó đề ra các 13
- biện pháp phù hợp để giáo dục kịp thời. Cụ thể người cán bộ quản lý phải luôn luôn có sự thông tin hai chiều với giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh, địa phương để kết hợp với đội ngũ giáo viên chủ nhiệm, các tổ chức trong và ngoài nhà trường, tìm hiểu thật kỹ hoàn cảnh của học sinh để có sự động viên kịp thời về vật và tinh thần đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt, có sự ngăn chặn và biện pháp kịp thời đối với học sinh chưa ngoan. Tăng cường các nguồn kinh phí của nhà nước, cũng như sự hỗ trợ đóng góp của địa phương, nhà hảo tâm, tu bổ cơ sở vật chất nhà trường, điều kiện học tập của học sinh. Tạo môi trường xanh, sạch, đẹp thực hiện “Trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò” để học sinh có tình cảm yêu trường, yêu lớp, tạo mối quan hệ tốt giữa thầy cô giáo và học sinh, giữa học sinh với nhau. Tạo cảm giác mới ở trường cũng như ở nhà, mỗi ngày đến trường là một ngày vui, từ đó hình thành trong các em một niềm tin vào nhà trường, vào thầy cô giáo, một ý thức tập thể có những hành động thiết thực bảo vệ và tạo cảnh quan nhà trường. 2.4.3. Giáo dục kỹ năng mềm thông qua các hoạt động trải nghiệm ở trường, lớp và cộng đồng Những bài học về kỹ năng mềm có thể được lồng ghép trong các tiết chào cờ, sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập thể của trường bằng những cách thức hoạt động cụ thể như: Tạo hoạt cảnh, hỏi – đáp, trò chơi, thuyết trình, hóa trang, những điều em muốn nói, đóng vai theo tình huống bằng hình thức sân khấu hóa, sinh hoạt các câu lạc bộ, làm công tác thiện nguyện, lao động sản xuất, vệ sinh, chăm sóc bồn hoa cây cảnh... giúp các hoạt động trở nên sôi nổi, thú vị, thu hút đông đảo các em tham gia. Nhờ đó, học sinh tiếp thu nhanh chóng các kiến thức được truyền đạt và tự bồi đắp những kỹ năng cần thiết cho bản thân. Tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh tham gia các hoạt động bề nổi, nghiên cứu khoa học kỹ thuật sáng tạo và trải nghiệm như: – Sinh hoạt văn hóa nghệ thuật: Hoạt động văn hóa nghệ thuật bao gồm nhiều thể loại khác nhau như: Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch câm, thi kể chuyện,thi diễn xuất, thuyết trình.. nhằm góp phần hình thành cho các em sự mạnh dạn, tự tin trước đám đông, rèn luyện kỹ năng thể hiện bản thân. – Hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh, hội trại, thể dục thể thao: Hoạt động này sẽ góp phần giúp các em rèn luyện kỹ năng làm việc, hoạt động tập thể. Qua đó, các em được thể hiện bản thân, rèn luyện khả năng ứng phó nhiều tình huống, tự tin hơn trong giao tiếp đặc biệt là rèn luyện kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng hợp tác, tư duy tích cực và sáng tạo. – Hoạt động xã hội, lao động công ích: Thường xuyên liên hệ với chính quyền địa phương để có kế hoạch nhận công trình cho học sinh được trải nghiệm như: nạo vét kênh mương, làm thủy lợi nội đồng giúp bà con nông dân; chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ; phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng; Tìm kiếm các địa chỉ đỏ để làm công tác từ thiện...Thông qua các hoạt động này, học sinh sẽ hiểu thêm về giá trị 14
- lao động, biết vận dụng kiến thức vào đời sống. Các em có thể thích nghi với cuộc sống xung quanh ở nhiều hoàn cảnh khác nhau. Các em được hòa mình vào đời sống xã hội, có tinh thần tập thể, sống có trách nhiệm với cộng đồng, biết sẻ chia và cảm thông. – Tham gia tiếp cận khoa học – kỹ thuật: Những hoạt động như tìm hiểu các danh nhân, các nhà khoa học, tham gia thi hỏi đáp về các kiến thức về khoa học, kỹ thuật sẽ rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghiên cứu khoa học và tự khẳng định mình. Hằng năm, có kế hoạch chỉ đạo cụ thể, chi tiết cho CLB KHKT và tổ chức thi KHKT cấp trường rất bài bản. Công tác tuyên truyền, khuyến khích, khen thưởngcho học sinh đam mê KHKT được chú trọng. Do vậy, cuộc thi KHKT cấp trường thu hút hàng trăm học sinh tham gia với hàng trăm đề tài, trong đó có nhiều đề tài chất lượng. Đó là nguồn đề tài ổn định cho cuộc thi KHKT cấp tỉnh. Các em được nuôi dưỡng ý tưởng, được tự mình thực hiện ý tưởng nên rất hào hứng, phấn khởi và dám dấn thân. Qua đó, các em có thêm nhiều kiến thức về khoa học, kỹ thuật cũng như xã hội. Những hoạt động ngoài giờ tạo điều kiện cho học sinh trải nghiệm, tương tác thực tế với nhiều đối tượng, trải nghiệm qua nhiều hoàn cảnh, rèn luyện các kỹ năng mềm cần thiết cho cuộc sống cho các em. 2.4.4. Chất lượng đội ngũ làm công tác giáo dục Kỹ năng mềm - Củng cố mở rộng lực lượng tham gia giáo dục kỹ năng mềm. Ngoài giáo viên dạy môn Văn, Sử, giáo dục công dân cần phối hợp bồi dưỡng những giáo viên thuộc các môn khác có năng khiếu diễn đạt ngôn ngữ trước đám đông, am tường về kiến thức kỹ năng mềm và dày dạn kinh nghiệm cuộc sống để giúp họ trở thành báo cáo viên, tuyên truyền viên giáo dục kỹ năng mềm để làm tốt công tác giáo dục kỹ năng và truyền cảm hứng cho học sinh. 2.4.5.Giáo dục kỹ năng mềm thông qua sổ tay tuyên truyền Đặt mua những cuốn sổ tay giáo dục kỹ năng mềm trên thị trường để làm tài liệu và giới thiệu cho các em tìm mua, tìm đọc. Nội dung của sổ tay rất hữu ích với học sinh, tuyên truyền bao gồm các kiến thức về kỹ năng sống, kỹ năng mềm cần rèn luyện, cách thức rèn luyện. Cuốn sổ tay nhỏ dễ mang theo bên mình, nội dung dễ đọc, dễ tiếp thu sẽ có tác dụng rất tốt trong việc kết hợp giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh THPT. 2.4.6. Nâng cao vai trò trách nhiệm của đội ngũ giáo viên trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh Để làm tốt công tác giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh thì người giáo viên phải biết được những kỹ năng nào là rất cần thiết cho học sinh THPT để hướng các em làm quen, trau dồi và sử dụng thuần thục trong cuộc sống.Các kỹ năng rất cần thiết đó là: Kĩ năng tự nhận thức Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá 15
- đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,…của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng. Tự nhận thức là một kỹ năng mềm rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể cớ những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá không đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác. Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác. Kĩ năng xác định giá trị Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó… Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, kinh tế,… Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kĩ năng xác định giá trịlà khả năng con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình. Kĩ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người. Kĩ năng này còn giúp người khác biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp. Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn. Kĩ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng xử với người khác và kĩ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần củng cố các kĩ năng này. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng Kĩ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng. Chúng ta cũng có thể hạn chế những tình huống căng thẳng bằng cách sống và làm việc điều dộ, có kế hoạch, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao, sống vui vẻ, 16
- chan hòa, tránh gây mâu thuẫn không cần thiết với mọi người xunh quanh, không đặt ra cho mình những mục tiêu quá cao so với điều kiện và khả năng của bản thân,… Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ giúp chúng ta có thể nhận được những lời khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề khó khăn, giảm bớt được căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp cá nhân không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp chúng ta có cái nhìn mới và hướng đi mới. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ rất cần thiết để giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn và ứng phó với căng thẳng. Đồng thời để phát huy hiệu quả của kĩ năng này, cần kĩ năng lắng nghe, khả năng phân tích thấu đáo ý kiến tư vấn, kĩ năng ra quyết định lựa chọn cách giải quyết tối ưu sau khi được tư vấn. Kĩ năng thể hiện sự tự tin Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ. Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống. Kĩ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra quyết định, đảm nhận trách nhiệm. Kĩ năng lắng nghe tích cực Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kĩ năng giao tiếp. Người có kĩ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác (bằng các cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười), biết cho ý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lí trong quá trình giao tiếp. Kĩ năng tư duy phê phán Kĩ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được những quyết định, những tình huống phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc sống, luôn phải xử lý nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức tạp…thì kĩ năng tư duy phê phán càng trở lên quan trọng đối với mỗi cá nhân. Kĩ năng tư duy phê phán phụ thuộc vào hệ thốn giá trị cá nhân. Một người có được kĩ năng tư duy phê phán tốt khi biết phối hợp nhịp nhàng với kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị. Kỹ năng mềm: Nếu kỹ năng cứng là các môn học chính khóa thì kỹ năng mềm tập trung vào sự phát triển tư duy, kỹ năng quản lý, làm chủ bản thân và tăng cường hiệu quả học tập, làm việc cá nhân lẫn phối hợp đội nhóm. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 279 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý nền nếp đoàn viên thanh niên học sinh của Đoàn trường THPT Bá Thước 3
20 p | 411 | 45
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục ở trường THPT Thớ Lai
26 p | 172 | 34
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p | 28 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT
100 p | 80 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 57 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lựa chọn một số bài tập nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc trong kĩ thuật chuyền bóng cho học sinh lớp 11 trường trung học phổ thông Thuận Thành số 1, Bắc Ninh
25 p | 22 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh xây dựng và sử dụng sơ đồ tư duy trong ôn thi THPT Quốc gia phần Lịch sử thế giới 1945 -2000
31 p | 22 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả daỵ - học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh qua tiết 07 - bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
45 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông Quốc gia chuyên đề Sinh thái học
39 p | 15 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường gắn với trải nghiệm sáng tạo nhằm phát huy giáo dục địa phương ở trường THPT Bình Minh
77 p | 26 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng hệ thống trực tuyến quản lý và giải quyết nghỉ phép cho học sinh trường PT DTNT THPT tỉnh Hòa Bình
35 p | 14 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học trong nhà trường gắn với sản xuất kinh doanh tại địa phương thông qua chủ đề bài học: Các cơ cấu của động cơ đốt trong - Công nghệ lớp 11
35 p | 42 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh chinh phục dạng bài tập tìm lỗi sai
64 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn