Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
1. Sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ, kéo theo là sự phát triển theo <br />
cấp số nhân của tri thức nhân loại đòi hỏi người lao động có trình độ, năng lực, có <br />
khả năng thích ứng cao. Đáp ứng nhu cầu của sự phát triển ấy của đất nước là <br />
nhiệm vụ của giáo dục nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực năng động, chủ động, sáng <br />
tạo. <br />
2. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Tiếp tục nâng cao chất <br />
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học. Phát huy tinh <br />
thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, <br />
tự hoàn thiện học vấn và tay nghề...". Đổi mới cách học đồng nghĩa người dạy <br />
phải đổi mới phương pháp dạy. <br />
3. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học của người dạy nhằm thay đổi cách <br />
dạy từ truyền đạt thụ động sang phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. <br />
Việc này đòi hỏi người dạy phải nỗ lực đổi mới phương pháp để thoát khỏi cách <br />
dạy truyền thống. Người học phải được đặt vào các tình huống có vấn đề, được <br />
quan sát, giải quyết vấn đề theo suy nghĩ của bản thân, động não tư duy các <br />
phương án giải quyết khác nhau trong một thời gian nhất định. Từ đó, không những <br />
nắm được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn nắm được cách thức và con đường đi <br />
tới tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó. Hiện nay rất nhiều phương pháp dạy học tích cực <br />
đang được áp dụng trong các trường học như phương pháp dạy học giải quyết vấn <br />
đề, phương pháp gợi mở vấn đáp, phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, <br />
phương pháp trực quan, phương pháp dạy học luyện tập và thực hành, phương <br />
pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, phương pháp dạy học trò chơi...<br />
4. Phương pháp Bàn tay nặn bột là một trong số những phương pháp dạy học tích <br />
cực có nhiều tính ưu việt đáp ứng yêu cầu "lấy người học làm trung tâm" của quá <br />
trình dạy học. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp Bàn tay <br />
nặn bột còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng tư duy, kỹ năng diễn đạt thông <br />
qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh trong quá trình người học tự tìm tri thức.<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 1 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
5. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia là trích đoạn, có thể nói, thâu tóm gần <br />
như toàn bộ giá trị nội dung, nghệ thuật của tiểu thuyết Số đỏ. Tuy nhiên, để dạy <br />
được vừa có sức hút lại vừa phải thể hiện được những đặc sắc trong nghệ thuật <br />
trào húng của Vũ Trọng Phụng sử dụng các phương pháp, các kỹ thuật dạy học tích <br />
cực là điều không phải dễ.<br />
Từ những lý do trên, với mong muốn tạo dựng một tiết dạy khơi gợi được <br />
hứng thú với bộ môn mà hiện nay các em đang dần mất niềm yêu thích cũng như <br />
phát huy được tính tích cực của người học từ việc sử dụng các phương pháp, các <br />
kỹ thuật dạy học tích cực, tôi thực hiện đề tài Phương pháp bàn tay nặn bột <br />
trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.<br />
B. PHAM VI TRIÊN KHAI TH<br />
̣ ̉ ỰC HIÊN<br />
̣<br />
1. Pham vi triên khai <br />
̣ ̉<br />
Đề tài thực hiện trên tiết dạy thuộc bộ môn Ngữ văn lớp 11, chương trình <br />
học kỳ I, nên đối tượng hướng tới là học sinh lớp 11.<br />
2. Pham vi nghiên c<br />
̣ ưu <br />
́<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột.<br />
Sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh <br />
phúc của một tang gia.<br />
C. NÔI DUNG <br />
̣<br />
1. Tinh trang giai phap <br />
̀ ̣ ̉ ́<br />
1.1. Tinh trang chung <br />
̀ ̣<br />
Đổi mới phương pháp dạy học là xu hướng tất yếu ở tất cả bộ môn trong <br />
nhà trường. Tuy nhiên, với đặc thù riêng của môn Ngữ văn, so với các bộ môn khác, <br />
việc đổi mới diễn ra tương đối chậm và dè dặt, người dạy vẫn dạy theo phương <br />
pháp diễn giảng truyền thống, người học vẫn tiếp nhận thụ động là chủ yếu.<br />
Bàn tay nặn bột là phương pháp đang được sử dụng trong nhiều môn học <br />
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc khám phá, tìm tòi tri <br />
Phạm Thị Thương Huyền 2 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
thức. Phương pháp này có nhiều ưu điểm nhưng lại chỉ được sử dụng chủ yếu ở <br />
các môn khoa học tự nhiên, các môn khoa học xã hội, trái lại, rất ít. <br />
Đối với bộ môn Ngữ văn, phương pháp này hiện nay trên các trang mạng xã <br />
hội chỉ chủ yếu được thực hiện ở các tiết dạy trong chương trình THCS, còn <br />
chương trình THPT chưa có tiết học trình diễn nào được đưa lên. <br />
Thêm nữa, qua theo dõi, đối chiếu, bản thân tôi nhận thấy các tiết học áp <br />
dụng phương pháp Bàn tay nặn bột ở các bộ môn khoa học tự nhiên, các bước <br />
giảng dạy bộc lộ rõ bản chất của phương pháp hơn là ở môn Ngữ văn, đặc biệt là <br />
các tiết dạy đọc hiểu văn bản. Các tiết dạy Ngữ văn sử dụng Bàn tay nặn bột <br />
dường như chỉ mang tính đảm bảo các bước cần có còn về bản chất vẫn là sử <br />
dụng phương pháp truyền thống, giáo viên đặt câu hỏi, học sinh tìm chi tiết trả lời. <br />
Hạnh phúc của một tang gia là một trong số những tiết giảng nằm trong <br />
phần trọng tâm của chương trình học lớp 11. Đồng thời, đây cũng là phần văn bản <br />
của "một tác phẩm ghê gớm có thể làm danh dự mọi nền văn học" nên được nhiều <br />
thầy cô đầu tư công sức và cho ra những bài dạy trên các trang học trực tuyến, trang <br />
học cộng đồng hay trang cá nhân là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chủ yếu văn bản vẫn <br />
được các thầy cô tiếp cận trên phương pháp truyền thống: giáo viên đặt câu hỏi, <br />
học sinh tìm các đơn vị kiến thức theo định hướng sẵn của thầy cô. Đối với đoạn <br />
trích này, bản thân tôi cũng chưa tìm được một bài giảng mẫu theo phương pháp <br />
Bàn tay nặn bột.<br />
Để thực hiện đề tài, việc tìm tòi, tham khảo những tài liệu liên quan đến <br />
phương pháp Bàn tay nặn bột cũng như đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia là <br />
điều tất yếu. Thêm nữa, các tiết dạy truyền thống là nguồn tư liệu quý giúp người <br />
viết bám chắc vào cốt lõi của tác phẩm từ đó lĩnh hội, tiếp thu và áp dụng phương <br />
pháp dạy học mới với mong muốn mang đến một cách tiếp cận trong việc giảng <br />
dạy trích đoạn.<br />
1.2. Tinh trang cua nha tr<br />
̀ ̣ ̉ ̀ ương <br />
̀<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 3 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
Không nằm ngoài tình trạng chung của bộ môn, giảng dạy môn Ngữ văn <br />
trong Trường THPT Nà Tấu vẫn theo phương pháp truyền thống, diễn giảng là chủ <br />
yếu. Đồng nghĩa với đó là việc tiếp cận các tác phẩm là tập trung vào phát huy tính <br />
tích cực của... người dạy. Điều này một phần là do bản thân giáo viên "ngại" thay <br />
đổi bởi cách dạy truyền thống đã bám sâu vào ý thức; một phần là do đối tượng <br />
học sinh của nhà trường ít được tiếp cận với các phương pháp dạy học tích cực từ <br />
bậc THCS, mặt bằng nhận thức so với các vùng khác cũng thấp hơn. Thiếu bạo <br />
dạn, hạn chế về ngôn ngữ cũng là "rào cản" khiến các thầy cô cũng khó có thể áp <br />
dụng được các phương pháp dạy học mới.<br />
Trong quá trình giảng dạy, diễn giảng cũng là cách dạy mà bản thân người <br />
viết đã áp dụng trong các tiết dạy của mình. Tuy nhiên, với mong muốn mang đến <br />
một cách tiếp cận nhằm phát huy hơn nữa tính tích cực, chủ động của học sinh <br />
trong chiếm lĩnh tri thức, người viết nhận thấy cần có sự thay đổi dần bằng cách <br />
học hỏi và áp dụng thêm các phương pháp dạy học tích cực. Lựa chọn phương <br />
pháp Bàn tay nặn bột cũng là vì thế.<br />
2. Nôi dung giai phap <br />
̣ ̉ ́<br />
2.1. Muc đich nghiên c<br />
̣ ́ ứu <br />
Nắm rõ bản chất cũng như sự tối ưu của phương pháp Bàn tay nặn bột trong <br />
việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.<br />
Đưa ra một cách tiếp cận trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một <br />
tang gia để khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích cũng như ngòi <br />
bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng.<br />
2.2. Nôi dung sang kiên <br />
̣ ́ ́<br />
2.2.1. Phương pháp Bàn tay nặn bột<br />
Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột", tiếng Pháp là La main à la pâte viết <br />
tắt là LAMAP; tiếng Anh là Handson, là phương pháp dạy học khoa học dựa trên <br />
cơ sở của sự tìm tòi nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 4 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
nhiên. Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải <br />
Nobel Vật lý năm 1992). <br />
2.2.1.1 Cơ sở khoa học của phương pháp Bàn tay nặn bột<br />
Là một phương pháp dạy học tích cực, phương pháp Bàn tay nặn bột được xây <br />
dựng dựa trên các cơ sở khoa học:<br />
Dạy học khoa học dựa trên tiếp cận tìm tòi, khám phá là con đường, cách <br />
thức khác nhau, trong đó các nhà khoa học nghiên cứu thế giới tự nhiên và đề xuất <br />
các cách giải thích dựa trên bằng chứng thu thập được. Là các hoạt động phát triển <br />
các kiến thức và nhận thức được cách thức phát triển các kiến thức đó của người <br />
học.<br />
Kiến thức đó là quá trình tự xây dựng của người học . Hiểu biết khoa học <br />
không chỉ giản đơn là biết thu thập các sự kiện, đó là quá trình học về thế giới và <br />
giải quyết các vấn đề. Vì vậy, học sinh nên được dạy theo cách làm thế nào để <br />
hiểu biết về thế giới hơn là chỉ ghi nhớ các sự kiện. Học sinh nên được dạy để <br />
biết cách tư duy như những nhà khoa học hơn là việc chỉ thụ động thu nhận thông <br />
tin.<br />
Vì vậy, trong tiến trình tìm tòi, khám phá học sinh xây dựng kiến thức và những <br />
hiểu biết mới dựa trên những điều họ đã biết và tin tưởng. Kiến thức và những <br />
quan niệm (niềm tin) mà học sinh mang đến lớp ảnh hưởng rất lớn đến việc học <br />
tập. Vì vậy, học tập không còn là việc phải ghi nhớ cái này hay cái kia mà học sinh <br />
tự xây dựng kiến thức cho bản thân mình trong quá trình học.<br />
Vai trò của môi trường học tập với các mối quan hệ tương tác có tính hợp tác <br />
thì sự phát triển không thể tách rời khỏi bối cảnh cụ thể. Ở đây, ngôn ngữ đóng vai <br />
trò trung tâm trong sự phát triển trí tuệ. Học tập hiệu quả đòi hỏi khả năng kiểm <br />
soát việc học (nhận thức được về quá trình học và có thể phân tích, thay đổi khi <br />
cần thiết).<br />
Các giai đoạn phát triển trí tuệ của người học. Sự phát triển trí tuệ của học <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 5 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
sinh giai đoạn trước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển trí tuệ của các em ở <br />
giai đoạn sau, tức là có sự kế thừa ở các giai đoạn phát triển trí tuệ. Trong tiếp cận <br />
tìm tòi, khám phá phải đưa người học tham gia vào quá trình đó ngay từ khi còn nhỏ <br />
để có được sự kế thừa vững chắc. Ở học sinh cấp THCS, đặc biệt là ở các lớp đầu <br />
bậc, thao tác cụ thể đóng vai trò cơ bản. Chất lượng của các thao tác cụ thể phụ <br />
thuộc vào các biểu tượng, các khái niệm mà người học có được. Vì vậy, trong hoạt <br />
động tìm tòi, khám phá, học sinh cần được thao tác trên các vật liệu thật, dễ cảm <br />
nhận để xây dựng các hiểu biết về thế giới. Đối với bộ môn Ngữ văn, đó là các tài <br />
liệu trực quan như sách vở, tranh ảnh, video liên quan đến tiết học.<br />
Như Georger Charpak nói "Người ta có thể đi chơi lên núi mà không phải là một <br />
vận động viên leo núi, người ta có thể chơi nhạc mà không cần là nhạc sỹ chuyên <br />
nghiệp, cũng như người ta có thể tiến hành các hoạt động tìm tòi nghiên cứu mà <br />
không cần phải là chuyên gia khoa học", thì sẽ trả lời cho những băn khoăn về việc <br />
đưa học sinh vào trong quá trình tìm tòi nghiên cứu thì có sức hay không.<br />
2.2.1.2. Tiến trình sư phạm của phương pháp "Bàn tay nặn bột"<br />
Tiến trình của dạy học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột về hình thức giống <br />
như tiến trình giải quyết vấn đề. Đầu tiên là đề nghị thực hiện một nhiệm vụ, một <br />
dự án, một thí nghiệm hay miêu tả một tình huống. Trên cơ sở các tình huống đó <br />
người đọc được đối đầu với các quan niệm, từ đó nảy sinh vấn đề. Trên cơ sở các <br />
vấn đề sẽ dự đoán, đưa ra các giả thuyết, tiến hành nghiên cứu và giải quyết vấn <br />
đề. Cuối cùng là hợp thức hóa kiến thức. Trong tiến trình này có sự trở đi trở lại <br />
giữa nghiên cứu giải quyết vấn đề với dự đoán giả thuyết, cũng như hợp thức hóa <br />
kiến thức với vấn đề. Trong quá trình hợp thức hóa kiến thức có thể nảy sinh <br />
những vấn đề mới và một chu trình tiếp theo lại bắt đầu. <br />
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi có vấn đề<br />
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, các tình huống đưa ra ban đầu không nhất thiết <br />
phải xây dựng thành tình huống vấn đề. Có thể gọi nó là các nhiệm vụ học tập <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 6 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
hoặc nhiệm vụ khám phá. Đây cũng là thuận lợi cho giáo viên trong việc lựa chọn <br />
các tình huống dạy học. Khi đưa ra các nhiệm vụ, người học phải đối đầu với các <br />
quan niệm, việc này làm nảy sinh vấn đề. Điều này là quan trọng để lựa chọn tình <br />
huống ban đầu cụ thể và có ý nghĩa đối với người học.<br />
Yêu cầu của tình huống là phải khai thác được những quan niệm có trước <br />
hoặc các ý tưởng của người học, phải thách thức kiến thức đã có của người học, <br />
phải kích thích hoạt động học sao cho học sinh tiếp nhận vấn đề cần giải quyết và <br />
bắt tay vào giải quyết. Tình huống phải có nghĩa với người học và phải gần gũi với <br />
học sinh. Vì vậy, quan điểm của phương pháp Bàn tay nặn bột là đưa lớp học trở <br />
về gần với tự nhiên. Tự nhiên ở đây là trạng thái làm việc (hoạt động) được thoải <br />
mái, học sinh có nhiều cơ hội để thể hiện mình trong môi trường học tập an toàn. <br />
Như vậy, phương pháp không chỉ mở ra những bài học trên lớp mà cả những bài <br />
học ngoài lớp học. <br />
Làm thế nào để có thể tổ chức được các tình huống? Đây là câu hỏi mà <br />
trong quá trình vận dụng đặt ra. Có nhiều cách tổ chức tình huống cho phương pháp <br />
như có thể trả lời cho một câu hỏi tình huống, hoặc giáo viên có thể đặt câu hỏi về <br />
các sự kiện thường thấy thường ngày, tình huống cũng có thể yêu cầu học sinh lựa <br />
chọn trong số những mô hình tương tự khác nhau; có thể yêu cầu học sinh thực <br />
hiện các hình vẽ, sơ đồ hóa bên trong; đặt ra những tình huống với các lập luận <br />
giả định; hoặc đặt ra các sự kiện dường như mâu thuẫn và tạo ra các cuộc thảo <br />
luận; hoặc yêu cầu đóng vai, xác định nghĩa một vài từ; hoặc đưa cả lớp đến với <br />
quan điểm rút ra từ lịch sử khoa học.<br />
Bước 2: Dự đoán, giả thuyết<br />
Sau khi tổ chức tình huống, người học sẽ bộc lộ quan điểm, và việc đối đầu <br />
quan điểm sẽ tiếp tục làm nảy sinh vấn đề. Từ vấn đề, người học sẽ đề xuất đáp <br />
án và giả thuyết. Quan niệm ban đầu của học sinh có tính chất cá nhân nên đòi hỏi <br />
sự đa dạng, phong phú. Để đảm bảo quan niệm ban đầu phù hợp để tổ chức theo ý <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 7 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
đồ sư phạm, giáo viên cần chú ý khi lựa chọn quan niệm ban đầu để đưa ra thảo <br />
luận như: không chọn các quan niệm ban đầu hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai so <br />
với câu hỏi; tuyệt đối không có bình luận hay nhận xét gì về quan niệm ban đầu <br />
của học sinh; làm rõ các điểm khác nhau là một mấu chốt quan trọng, tạo động lực <br />
tìm tòi, khám phá.<br />
Bước 3: Đặt ra câu hỏi<br />
Đặc điểm chủ yếu của khoa học là tính khách quan, cái cốt lõi của nó là sự suy <br />
luận, thường được xây dựng từ trực giác, hay giả thuyết: sự chứng minh nó cần <br />
dựa trên kiểm tra bằng thực hành, thí nghiệm. Giáo viên cần khuyến khích học sinh <br />
suy nghĩ, phát vấn đề, đề xuất các phương án, giả thuyết; chú ý đến những kinh <br />
nghiệm, trong đó có thể tiềm ẩn những mâu thuẫn. Việc đưa ra giả thuyết có thể <br />
diễn đạt bằng lời, có thể bằng văn bản, đưa ra thí nghiệm để kiểm chứng những <br />
giả thuyết của mình hoặc của nhóm trước lớp<br />
Bước 4: Nghiên cứu và giải quyết vấn đề (Tiến hành)<br />
Quá trình nghiên cứu giải quyết vấn đề nhằm tập trung những mô tả, những thí <br />
nghiệm, kiểm tra và cô lập các thông số cũng như các biến đổi của chúng. khai thác <br />
thông tin, đối chiếu dữ liệu thực nghiệm với các giả thuyết. Mục tiêu của bước <br />
này là tìm kiếm các luận cứ và bằng chứng cho quá trình thực hiện<br />
Bước 5: Hợp lý hóa kiến thức<br />
Việc tiếp nhận và tái cấu trúc kiến thức thông qua diễn đạt nói hoặc viết sẽ cho <br />
phép người học làm sáng tỏ những yếu tố mới của kiến thức, đối chiếu kiến thức <br />
đã có với kiến thức đã thiết lập, tìm kiếm nguyên nhân bất đồng có thể có. Quá <br />
trình tìm nguyên nhân ấy có thể dẫn tới quá trình tiếp theo. <br />
"Chuẩn bị cho trẻ vào cuộc sống dân chủ, tức là cho trẻ ham thích tham gia tranh <br />
luận, dạy cho các em cách phát biểu ý kiến của mình, đối chiếu với quan điểm của <br />
người khác" Sharpark<br />
2.2.1.3. Đặc trưng của phương pháp Bàn tay nặn bột<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 8 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
Vậy phương pháp Bàn tay nặn bột có gì khác so với các phương pháp dạy học <br />
tích cực khác? <br />
Trước hết, phương pháp này nhấn mạnh rèn tư duy và phương pháp làm <br />
việc của nhà khoa học. Đối với môn Ngữ văn thì chủ yếu sử dụng hình thức <br />
nghiên cứu tài liệu như đọc báo, tài liệu điện tử...; hoặc nghiên cứu qua quan sát để <br />
quan sát hoặc khai thác các tài liệu như hình ảnh, dữ liệu.... Người học, trong quá <br />
trình nghiên cứu phải đối đầu với một tình huống, biết cách khai thác các nguồn tài <br />
nguyên khác nhau, hành động và cùng hành động để nghiên cứu, để đối đầu quan <br />
niệm, để phân tích, hiểu, để sinh ra kiến thức mới...; suy nghĩ và cùng đánh giá về <br />
quá trình vận hành và sản phẩm, tái cấu trúc và nhập kiến thức vào hệ thống kiến <br />
thức đã có giúp các kiến thức trở nên bền vững và vận dụng linh hoạt để giải quyết <br />
các tình huống thực tiễn, chuyển đổi để lý giải những tình huống không phải là <br />
quen thuộc.<br />
Thứ hai, rèn cho học sinh từng bước làm chủ ngôn ngữ nói và viết . Ngôn <br />
ngữ là phương tiện rất đắc lực của hoạt động trí tuệ như tri giác, tưởng tượng, trí <br />
nhớ, tư duy. Việc dạy học sinh tích lũy và phát triển ngôn ngữ chính là tiền đề cho <br />
sự phát triển năng lực cá nhân của người học. Làm chủ ngôn ngữ không chỉ là sự <br />
mong đợi của xã hội, của cha mẹ mà cũng là điều ưu tiên của nền giáo dục quốc <br />
gia, là một trong những mục tiêu mà Bàn tay nặn bột hướng đến. Dạy học môn <br />
khoa học, xét về mặt nào đó là dạy học một ngôn ngữ, một ngôn ngữ đặc biệt, có <br />
tác dụng to lớn trong việc diễn tả các sự kiện, các phương pháp trong các lĩnh vực <br />
khác nhau của khoa học và thực tiễn. Đây cũng là đặc trưng của bộ môn Ngữ văn, <br />
rèn ngôn ngữ của học sinh thông qua sự luân phiên trao đổi ngôn ngữ (tranh luận, <br />
thảo luận), trong cách trình bày rõ ràng về văn phạm, diễn cảm về giọng điệu, qua <br />
cách thức trao đổi để học cách giao tiếp. Không chỉ là ngôn ngữ nói mà còn là ngôn <br />
ngữ viết. Đây là một trong những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất của con người, có <br />
vai trò rất quan trọng trong công việc của bất kỳ cá nhân nào và ở bất kỳ vị trí công <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 9 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
tác nào. Ở bộ môn Ngữ văn, học sinh được rèn qua việc đọc hiểu các văn bản <br />
thuộc các phân môn của bộ môn. <br />
Thứ ba, tạo thuận lợi cho học sinh bộc lộ và thay đổi quan niệm ban đầu <br />
theo con đường kiến tạo. Vư gôt xky đã nhấn mạnh vai trò của những kiến <br />
thức, quan niệm đã có trong quá trình dạy học "Sự hình thành những khái niệm khoa <br />
học chỉ có thể hiệu quả khi trẻ đã xây dựng những khái niệm ấy trong đời sống <br />
hàng ngày". Những quan niệm ban đầu này có nguồn gốc từ yếu tố xã hội, văn hóa, <br />
những sai lầm trong lịch sử khoa học... và ngay cả dạy học cũng có thể gây ra <br />
những quan niệm này. Đặc biệt là nguyên nhân do đặc trưng của hoạt động nhận <br />
thức. Đây là tổng thể các ý nghĩ, hình ảnh được sử dụng để giải thích các vấn đề <br />
trong cuộc sống, là giải thích đơn giản, được học sinh quy chiếu với cuộc sống của <br />
họ và các quan niệm thường được nhân hóa. Trong quá trình thực hiện giờ dạy, <br />
giáo viên cần lưu ý để có thể gộp nhóm các quan niệm. <br />
Đặc trưng của Bàn tay nặn bột là tạo cho học sinh bộc lộ và thay đổi quan <br />
niệm. Do vậy, đối với người học, phải tạo điều kiện cho họ ý thức và nhận ra <br />
quan niệm của mình có điểm gì khác so với quan niệm của các bạn học. Sự đa <br />
dạng của quan niệm sẽ nảy sinh vấn đề và tạo động cơ cho hoạt động học. Đối <br />
với người dạy, giúp làm nổi bật chướng ngại học sinh gặp phải, đánh giá trình độ <br />
học sinh, nhận thức được khoảng cách giữa quan niệm và kiến thức cần đạt, từ đó, <br />
xác định lục tiêu học tập của học sinh để tổ chức các tình huống phù hợp nhất. Đối <br />
với những quan niệm ban đầu của người học, người dạy có rất nhiều cách ứng xử <br />
với nó. Không né tránh hay làm việc một cách hình thức, người dạy phải làm việc <br />
thực sự với quan niệm ban đầu của học sinh để đi đến cách chống lại nó, sử dụng <br />
các quan niệm để chính học sinh nhận ra sai lầm, từ đó phát triển và thay đổi quan <br />
niệm, là thái độ duy nhất phù hợp trong tiến trình xây dựng kiến thức mà phương <br />
pháp Bàn tay nặn bột mong muốn khi giáo viên tổ chức dạy theo phương pháp này. <br />
Vậy làm thế nào để có thể tiếp nhận được quan niệm của học sinh? Người dạy <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 10 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
có thể trao đổi, ghi lại; có thể qua diễn đạt viết; qua tiến hành thí nghiệm... Từ <br />
việc phân tích quan niệm sẽ xác định mục tiêu, thực hiện phân tích kiến thức cần <br />
dạy, sử dụng các quan niệm của học sinh vào các tình huống để làm đối đầu các <br />
quan niệm. <br />
Như vậy, quan niệm là công cụ cơ bản trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức <br />
khoa học. Tuy nhiên, nó chỉ đưa lại tất cả các ý nghĩa khi sử dụng nó một cách đúng <br />
đắn. Việc làm nổi lên các quan niệm sai, phân tích chúng, sau đó đối đầu với chúng <br />
để làm chúng tiến triển là cần thiết vì chúng tạo nên chướng ngại thực sự đối với <br />
việc tiếp thu tri thức khoa học. <br />
Thứ 4, rèn cho học sinh biết cách sử dụng vở thực hành. Vở thực hành chính <br />
là công cụ giúp người học nhìn nhận lại quá trình học, giúp giáo viên nhìn thấy sự <br />
tiến bộ của người học. Điều này có được nhờ những "nhật ký" học sinh ghi lại <br />
trong vở như: Câu hỏi là gì? Làm thế nào để trả lời? Những gì tôi tìm thấy? Tôi đã <br />
làm gì? Làm thế nào tôi có thể làm tốt hơn? Kết quả của tôi là tương thích với <br />
người khác? Kết quả của nhóm tương thích với kết quả của khoa học?...<br />
Như vậy, điểm tương đồng của phương pháp này so với các phương pháp dạy <br />
học tích cực khác là ở chỗ đều nhằm tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực, tự <br />
lực giải quyết vấn đề với 3 bước chính là: chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh; học <br />
sinh hoạt động tự chủ giải quyết vấn đề; báo cáo, hợp thức hóa và vận dụng kiến <br />
thức mới. Điểm khác biệt của phương pháp Bàn tay nặn bột so với các phương <br />
pháp khác là ở chỗ các tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề là những sự <br />
vật hay hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và <br />
các em sẽ thực hành trên những cái đó. Đặc biệt, phương pháp Bàn tay nặn bột chú <br />
trọng việc giúp cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu để tạo ra các mâu thuẫn <br />
nhận thức làm cơ sở đề xuất các câu hỏi và giả thuyết. Hoạt động tìm tòi nghiên <br />
cứu trong phương pháp Bàn tay nặn bột rất đa dạng, trong đó các phương án thí <br />
nghiệm nếu được tiến hành thì chủ yếu là các phương án được đề xuất bởi <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 11 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
chính học sinh, với những dụng cụ đơn giản, dễ kiếm. Đặc biệt, trong phương <br />
pháp Bàn tay nặn bột, học sinh bắt buộc phải có mỗi em một quyển vở thí <br />
nghiệm do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em. <br />
Thông qua các hoạt động như vậy, phương pháp Bàn tay nặn bột nhằm đạt được <br />
mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và kĩ <br />
thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.<br />
2.2.2. Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của <br />
một tang gia<br />
2.2.2.1. Xây dựng tình huống và xác lập câu hỏi có vấn đề<br />
Với đoạn trích, tình huống có vấn đề sẽ khơi gợi được suy nghĩ, phán đoán <br />
của học sinh.<br />
Ở đây, giáo viên có thể lựa chọn video về nỗi đau của dân tộc Việt Nam <br />
cũng như nhân dân thế giới trước sự ra đi của Bác Hồ, người cha già vĩ đại của dân <br />
tộc, một nhà cách mạng lỗi lạc của nhân dân lao động toàn thế giới để đối chiếu <br />
cùng vấn đề đó được đặt ra trong đoạn trích.<br />
Sau khi theo dõi video, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Video nói về sự <br />
kiện nào? Em có nhận xét gì về tình cảm, thái độ của những người trong video về <br />
sự kiện đó? Bản thân em có cảm xúc gì khi theo dõi đoạn video?<br />
Đây là một tình huống có vấn đề, được khơi gợi từ một tình huống thực tế <br />
các em thường thấy trong đời sống: Nỗi đau buồn của con người trước sự ra đi của <br />
người thân, mà ở đây là nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới <br />
trước sự ra đi mãi mãi của Chủ tịch Hồ Chí Minh một nỗi đau không gì có thể bù <br />
đắp được.<br />
Giáo viên chủ động đưa ra câu hỏi có vấn đề để dẫn nhập vào trọng tâm <br />
của bài học: Vậy phải chăng khi sang bên kia thế giới, người ra đi đều nhận được <br />
niềm đau đớn, tiếc thương của những thành viên trong gia đình cũng như những <br />
người xung quanh?<br />
Phạm Thị Thương Huyền 12 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
2.2.2.2. Dự đoán và giải quyết (Bộc lộ biểu tượng ban đầu)<br />
Từ câu hỏi có vấn đề đối chiếu với nhan đề của đoạn trích, học sinh tiếp tục <br />
được khuyến khích nêu ra những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về vấn đề <br />
từ trong đời sống. <br />
Giáo viên có thể yêu cầu học sinh: Viết các từ có cùng trường nghĩa diễn tả <br />
những trạng thái tình cảm của con người khi chứng kiến sự ra đi của một con <br />
người, đặc biệt đó là người thân của họ?<br />
Học sinh lần lượt thống kê các từ diễn tả trạng thái đó. Lúc này, giáo viên <br />
phải chủ động phân loại sắp xếp những ý kiến của học sinh. Ở đây, học sinh có <br />
thể chia thành hai phía với hai trạng thái tình cảm đối lập nhau:<br />
Trạng thái tích cực Trạng thái tiêu cực<br />
Đau buồn Vui mừng<br />
Đau xót Vui sướng<br />
Đau đớn Vui vẻ<br />
Buồn thương Hạnh phúc<br />
Tiếc thương Thoải mái<br />
............ Dễ chịu<br />
..........<br />
2.2.2.3. Đặt câu hỏi<br />
Từ những biểu tượng ban đầu của học sinh về các biểu hiện tình cảm khác <br />
nhau của con người trước cái chết của một con người, giáo viên dẫn dắt học sinh <br />
đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. Ở đây sự khác biệt bắt nguồn từ <br />
chính hiện thực các em được trải nghiệm, có thể là sự trải nghiệm trực tiếp từ thực <br />
tế, có thể là sự trải nghiệm gián tiếp qua các phương tiện thông tin, mạng xã hội... <br />
Chính sự khác biệt trong các biểu tượng ban đầu của các em giúp giáo viên hướng <br />
các kiến thức đó tới trọng tâm của bài học. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 13 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
Từ các trạng thái tình cảm vừa liệt kê, nhìn vào nhan đề đoạn trích, các em <br />
nhận thấy cần đặt ra những câu hỏi nào?<br />
Lúc này, học sinh có thể đặt ra những câu hỏi: Tại sao nhà có người mất lại <br />
hạnh phúc? Đặc biệt, học sinh sẽ đặt ra hai câu hỏi hướng đến trọng tâm của bài: <br />
Những người trong gia đình có đau buồn không? Nếu có thì họ đau buồn như thế <br />
nào? Họ có hạnh phúc không? Nếu có thì họ hạnh phúc như thế nào? Đây là hai câu <br />
hỏi bao quát được hai trạng thái đối lập của những con người trong tang gia: giữa <br />
vẻ ngoài (đau buồn) và bên trong (hạnh phúc). Đây cũng chính là yếu tố tạo nên <br />
chất trào phúng cho tác phẩm. Và đây cũng chính là cơ sở để bản thân tôi lựa <br />
chọn làm cách thức dẫn dắt các em khám phá đoạn trích.<br />
Cùng với đó, các em cũng sẽ đặt thêm những câu hỏi khác như: Đoạn trích <br />
nói về cái chết của ai? Người mất có quan hệ như thế nào với những người trong <br />
gia đình? Gia đình được nhắc đến ở đây là gia đình như thế nào? Sự việc này xảy <br />
ra ở thời đại nào? <br />
Từ việc đặt ra các câu hỏi, giáo viên đưa câu hỏi định hướng: Vậy, dựa <br />
vào hiểu biết và suy nghĩ của bản thân, bạn nào có thể đưa ra dự đoán cho những <br />
vấn đề được các bạn đặt ra ở trên?<br />
Từ hiểu biết thực tế về đời sống, vốn kiến thức đã có cũng như sự suy đoán <br />
của bản thân, học sinh có thể đưa ra các phương án trả lời:<br />
Nói đến tang gia, chắc chắn người mất phải là một người thân trong gia <br />
đình.<br />
Gia đình này có người mất mà vẫn thấy hạnh phúc khả năng là người mất <br />
là người xấu khi sống làm những việc không tốt, hại người; hoặc đây là người mắc <br />
bệnh khó chữa, khi sống phải đau đớn nên người nhà coi cái chết như là sự giải <br />
thoát cho họ..<br />
Nếu người chết là người tốt thì những người trong gia đình này phải chăng <br />
là những người sống vô cảm, thiếu tình thân?<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 14 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
Nếu họ là những người thiếu tình thân thì chắc chắn xã hội lúc đấy là xã <br />
hội có nhiều điều "chướng tai gai mắt", giống như xã hội trong buổi giao thời khi <br />
người Pháp vừa hoàn thành xong quá trình xâm lược Việt Nam, khi nền tảng đạo <br />
đức xã hội ngày càng suy đồi, khi những giá trị tốt đẹp của xã hội cũ bị mất đi uy <br />
tín và mai một dần mà nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương từng nhắc đến trong bài <br />
thơ "Đất Vị Hoàng": Nhà kia lỗi phép con khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi <br />
chồng.<br />
Từ các câu hỏi đề xuất, giáo viên định hướng đến việc đề xuất phương <br />
án để tìm câu trả lời cho các câu hỏi được đặt ra: Vậy làm thế nào để tìm được câu <br />
trả lời cho các câu hỏi đó? Học sinh phát biểu đề xuất các phương án: Phải tìm <br />
hiểu về cuộc đời với các yếu tố: gia đình, quê hương, thời đại, bản thân; Phải tìm <br />
hiểu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm; Phải tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ <br />
thuật của đoạn trích...<br />
Như vậy, các câu hỏi đặt ra đều xoay quanh chủ đề trung tâm của bài đó là <br />
sự mâu thuẫn được đặt ra trong nhan đề đoạn trích: Hạnh phúc tang gia. Và <br />
các phương án đưa ra cũng đều nhằm tới việc lý giải chủ đề trung tâm ấy. <br />
Có thể biểu diễn mối quan hệ ấy như sau:<br />
<br />
Khơi gợi Làm sáng tỏ<br />
Đặt câu hỏi Nhan đề Đề xuất <br />
Chủ đề trung phương án<br />
tâm<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
cơ sở<br />
<br />
<br />
2.2.2.4. Nghiên cứu và giải quyết vấn đề<br />
Lúc này, giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh tiến hành nghiên cứu dựa vào các <br />
phương án đề xuất của học sinh đi vào đọc hiểu chung về tác giả, tác phẩm; đọc <br />
<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 15 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
hiểu văn bản để tìm câu trả lời thích đáng cho các vấn đề học sinh đặt ra và đối <br />
chiếu, kiểm nghiệm với các giả thuyết ban đầu. <br />
Nếu như trước đây, việc tìm hiểu chung này học sinh tìm hiểu theo mệnh <br />
lệnh của giáo viên thì giờ học sinh luôn phải tự đặt ra câu hỏi và tự tìm thông tin để <br />
trả lời cho các câu hỏi đó, dưới sự giám sát, gợi ý của người dạy.<br />
2.2.2.4.1. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu khái quát về tác giả, tác phẩm<br />
? Điều gì trong cuộc đời Vũ Trọng Phụng khiến ông có thể có cái nhìn như thế <br />
về cuộc sống? <br />
Gia đình<br />
Quê hương<br />
Thời đại<br />
? Hoàn cảnh nào đã chi phối đến nội dung của tác phẩm?<br />
Hoàn cảnh sáng tác<br />
2.2.2.4.2. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu mâu thuẫn trào phúng của đoạn trích<br />
? Tại sao tác giả đặt nhan đề của chương tiểu thuyết như vậy? Nó có ý nghĩa <br />
gì?<br />
? Ngoài mâu thuẫn thể hiện ở nhan đề thì đoạn trích có những mâu thuẫn trào <br />
phúng nào khác nữa?<br />
2.2.2.4.3. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu giá trị nội dung của đoạn trích<br />
? Nguyên nhân nào dẫn đến việc những người trong gia đình cụ cố Hồng lại <br />
vui mừng trước cái chết của cụ cố tổ?<br />
? Niềm vui ấy là niềm vui gì? Nó được thể hiện cụ thể như thế nào trong tác <br />
phẩm?<br />
? Phải chăng chỉ có người trong tang gia mới hạnh phúc hay cái chết của cụ cố <br />
tổ còn đem lại hạnh phúc cho những ai nữa?<br />
2.2.2.4.4. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu giá trị nghệ thuật của đoạn trích<br />
<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 16 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
? Để thể hiện được hạnh phúc của tang gia ấy, Vũ Trọng Phụng sử dụng nghê <br />
thuật nào?<br />
2.2.2.4.5. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu chiều sâu của đoạn trích<br />
? Qua vấn đề được phản ánh, nhà văn Vũ Trọng Phụng thể hiện tư tưởng gì?<br />
? Vấn đề được gợi ra trong tác phẩm có ý nghĩa như thế nào trong xã hội ngày <br />
nay?<br />
Có thể biểu diễn mối quan hệ ấy như sau:<br />
<br />
Cuộc đời, <br />
<br />
<br />
<br />
Tư tưởng, phong <br />
cách, quan niệm <br />
nghệ thuật<br />
<br />
<br />
<br />
Nhan đề <br />
<br />
Chủ đề <br />
trung <br />
Bên ngoài tâm Bên trong<br />
(Bình (Bất bình <br />
thường) thường)<br />
<br />
<br />
<br />
Mâu thuẫn trào <br />
phúng<br />
<br />
2.2.2.5. Hợp lý hóa kiến thức<br />
Dưới sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên, học sinh đối chiếu với nhận định ban <br />
đầu để chốt lại kiến thức về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. <br />
Đồng thời, từ đó rút ra được tư tưởng của nhà văn gửi gắm thông qua đoạn trích.<br />
Không những thế, học sinh còn khắc sâu kiến thức hơn nữa khi đặt vấn đề <br />
trong thời đại ngày nay. Từ việc đối chiếu với hiện thực đời sống để đưa ra những <br />
ý kiến bình xét, thể hiện thái độ, đánh giá, học sinh tự hình thành cho mình cách ứng <br />
Phạm Thị Thương Huyền 17 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
xử đúng mực trong những trường hợp tương tự, và ngay cả những trường hợp mới <br />
nảy sinh trong thực tiễn. Đây cũng chính là cách dạy của phương pháp Bàn tay nặn <br />
bột khi hướng đến tự nhiên. <br />
2.2.3. Thiết kế bài soạn sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy <br />
đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia"<br />
* Mục tiêu<br />
1. Kiến thức<br />
Bộ mặt thật của xã hội tư sản thành thị lố lăng, kệch cỡm.<br />
Thái độ phê phán mạnh mẽ xã hội đương thời khoác áo văn minh, Âu hóa nhưng <br />
thực chất hết sức giả dối, đồi bại và nỗi xót xa kín đáo của tác giả trước sự băng <br />
hoại đạo đức con người.<br />
Bút pháp trào phúng đặc sắc: tạo dựng mâu thuẫn và nhiều tình huống hài hước, <br />
xây dựng chân dung biếm họa sắc sảo, giọng điệu châm biếm.<br />
2. Kỹ năng<br />
Đọc hiểu văn bản tự sự được viết theo bút pháp trào phúng.<br />
3. Thái độ<br />
Giáo dục phong cách sống, thái độ sống, cách ứng xử lành mạnh, văn minh, có đạo <br />
lý.<br />
A. Hoạt động khởi động<br />
Cảm nghĩ của em sau khi xem xong đoạn video nói về ngày Bác mất? <br />
GV (đặt câu hỏi): Viết các từ có cùng trường nghĩa diễn tả những trạng thái tình <br />
cảm của con người khi chứng kiến sự ra đi của một con người, đặc biệt đó là <br />
người thân của họ?<br />
Trạng thái tích cực Trạng thái tiêu cực<br />
Đau buồn Vui mừng<br />
Đau xót Vui sướng<br />
Đau đớn Vui vẻ<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 18 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
Buồn thương Hạnh phúc<br />
Tiếc thương Thoải mái<br />
............ Dễ chịu<br />
..........<br />
<br />
<br />
GV (Dẫn dắt): Vậy phải chăng khi sang bên kia thế giới, người ra đi đều nhận <br />
được niềm đau đớn, tiếc thương của những thành viên trong gia đình cũng như <br />
những người xung quanh? Lấy đó làm đề tài cho một chương văn trong tiểu thuyết <br />
Số đỏ của mình, nhà văn Vũ Trọng Phụng phản ánh liệu có theo quy luật tự nhiên <br />
ấy? Chúng ta cùng nhau đến với đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.<br />
<br />
<br />
Từ tình huống trên, nhìn vào Tại sao nhà có người mất lại hạnh phúc?<br />
nhan đề đoạn trích, đối Người mất ấy là ai? <br />
chiếu với các từ cùng trường Người mất có quan hệ như thế nào với những <br />
nghĩa đã liệt kê, các em nhận người trong gia đình? <br />
thấy cần đặt ra những câu Gia đình được nhắc đến ở đây là gia đình như thế <br />
hỏi nào? nào? <br />
Những người trong gia đình có đau buồn không? <br />
Nếu có thì họ đau buồn như thế nào? <br />
Họ có hạnh phúc không? Nếu có thì họ hạnh <br />
phúc như thế nào?<br />
Sự việc này xảy ra ở thời đại nào mà lại có <br />
nghịch lý đó?<br />
...<br />
Vậy, dựa vào hiểu biết và Nói đến tang gia, chắc chắn người mất phải là <br />
suy nghĩ của bản thân, bạn một người thân trong gia đình.<br />
nào có thể đưa ra dự đoán Gia đình này có người mất mà vẫn thấy hạnh <br />
cho những vấn đề được các phúc khả năng là người mất là người xấu khi sống <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 19 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
bạn đặt ra ở trên? làm những việc không tốt, hại người; hoặc đây là <br />
người mắc bệnh khó chữa, khi sống phải đau đớn <br />
nên người nhà coi cái chết như là sự giải thoát cho <br />
họ..<br />
Nếu người chết là người tốt thì những người <br />
trong gia đình này phải chăng là những người sống <br />
vô cảm, thiếu tình thân?<br />
Nếu họ là những người thiếu tình thân thì chắc <br />
chắn xã hội lúc đấy là xã hội có nhiều điều <br />
"chướng tai gai mắt", giống như xã hội trong buổi <br />
giao thời khi người Pháp vừa hoàn thành xong quá <br />
trình xâm lược Việt Nam, khi nền tảng đạo đức xã <br />
hội ngày càng suy đồi, khi những giá trị tốt đẹp <br />
của xã hội cũ bị mất đi uy tín và mai một dần mà <br />
nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương từng nhắc đến <br />
trong bài thơ "Đất Vị Hoàng": Nhà kia lỗi phép con <br />
khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.<br />
<br />
<br />
GV: Vậy những câu hỏi và những phán đoán của các bạn về đoạn trích như thế có <br />
đúng không? Làm thế nào để tìm được câu trả lời cho các câu hỏi đó? <br />
HS (Đề xuất phương án)<br />
Phải tìm hiểu về cuộc đời với các yếu tố: gia đình, quê hương, thời đại, bản thân. <br />
Phải tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm.<br />
Phải tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích...<br />
HS (Đặt câu hỏi):<br />
? Điều gì trong cuộc đời Vũ Trọng Phụng khiến ông có thể có cái nhìn như thế <br />
về cuộc sống? <br />
<br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 20 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
? Hoàn cảnh nào đã chi phối đến nội dung của tác phẩm?<br />
? Tại sao tác giả đặt nhan đề của chương tiểu thuyết như vậy? Nó có ý nghĩa <br />
gì?<br />
? Ngoài mâu thuẫn thể hiện ở nhan đề thì đoạn trích có những mâu thuẫn trào <br />
phúng nào khác nữa?<br />
? Nguyên nhân nào dẫn đến việc những người trong gia đình cụ cố Hồng lại <br />
vui mừng trước cái chết của cụ cố tổ?<br />
? Niềm vui ấy là niềm vui gì? Nó được thể hiện cụ thể như thế nào trong tác <br />
phẩm?<br />
? Phải chăng chỉ có người trong tang gia mới hạnh phúc hay cái chết của cụ cố <br />
tổ còn đem lại hạnh phúc cho những ai nữa?<br />
? Để thể hiện được hạnh phúc của tang gia ấy, Vũ Trọng Phụng sử dụng nghê <br />
thuật nào?<br />
? Qua vấn đề được phản ánh, nhà văn Vũ Trọng Phụng thể hiện tư tưởng gì?<br />
? Vấn đề được gợi ra trong tác phẩm có ý nghĩa như thế nào trong xã hội ngày <br />
nay?<br />
B. Hoạt động hình thành kiến thức<br />
1. Đoc văn ban<br />
̣ ̉<br />
? Những yếu tố nào về I. Tìm hiểu chung<br />
cuộc đời Vũ Trọng 1. Tác giả<br />
Phụng chi phối cách nhìn a. Cuộc đời<br />
của ông về cuộc đời? * Gia đình<br />
Vũ Trọng Phụng (), xuất thân trong một gia đình bình <br />
dân, “nghèo gia truyền” (Ngô Tất Tố), bị giày vò bởi <br />
miếng cơm manh áo hàng ngày. Cha mất khi ông mới 7 <br />
tuổi. <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 21 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia<br />
<br />
* Bản thân<br />
Tính cách: bình dị, khuôn phép, nền nếp (Lưu Trọng <br />
Lư), căm ghét XHTD nửa PK. <br />
Ông là người chăm học và có sức sáng tạo dồi dào.<br />
* Thời đại<br />
Thực dân Pháp thực thi những chính sách khuyến khích <br />
lối sống ăn chơi sa đọa trụy lạc hóa thanh niên Việt <br />
Nam. Ở thành thi, những tiệm hút, nhà chứa, sòng bạc <br />
mọc lên như nấm. Phong trào Âu hóa, "vui vẻ trẻ trung" <br />
như một nạn dịch lan tràn...<br />
* Quá trình trưởng thành<br />
Chỉ được học hết tiểu học, phải đi làm kiếm sống <br />
nhưng chẳng bao lâu thì mất việc; sống chật vật, bấp <br />
bênh bằng nghề viết báo, viết văn. <br />
Ông mất năm 27 tuổi vì mắc bệnh hiểm nghèo nhưng <br />
không có điều kiện chạy chữa.<br />
Thường xuyên tiếp xúc thân tình, bỗ bã trước các tầng <br />
lớp dưới đáy xã hội và bằng những học hỏi không mặc <br />
cảm, Vũ Trọng Phụng có được vốn sống phong phú và <br />
sự hiểu biết kỹ càng những người nghèo khổ nơi thành <br />
thị, những hạng cùng đinh mạt hạng, lưu manh... đồng <br />
thời với đó là sự thông thuộc cả tầng lớp trên như dân <br />
biểu, viên chức...<br />
=> Tất cả những hiện thực bát nháo, lố lăng, trụy lạc, <br />
tha hóa, đầy rẫy bất công, cách biệt sang hèn, tiếng <br />
khóc chen lẫn tiếng cười đủ các giọng điệu in đậm và <br />
hiện rõ nét trên những trang viết của ông, tạo thành bức <br />
<br />
Phạm Thị Thương Huyền 22 Trường THPT Nà Tấu<br />
Phương pháp Bàn tay nặn b