Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phương pháp phiên toà giả định để dạy học phần công dân với pháp luật môn giáo dục công dân 12 trường THPT số 2 Sa Pa
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Sử dụng phương pháp phiên toà giả định để dạy học phần công dân với pháp luật môn giáo dục công dân 12 trường THPT số 2 Sa Pa" nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng các chỉ tiêu mũi nhọn, chất lượng hoạt động giáo dục và hiệu quả học tập của học sinh trường trung học phổ thông số 2 Sa Pa, đặc biệt giúp học sinh 12 của nhà trường có thêm nhiều kiến thức, kỹ năng, trải nghiệm bổ ích cho kỳ thi tốt nghiệm THPT năm 2022.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phương pháp phiên toà giả định để dạy học phần công dân với pháp luật môn giáo dục công dân 12 trường THPT số 2 Sa Pa
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BÁO CÁO TÓM TẮT HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: Sử dụng phương pháp phiên toà giả định để dạy học phần công dân với pháp luật môn giáo dục công dân 12 trường THPT số 2 Sa Pa. Họ và tên tác giả: PHẠM QUỐC PHONG Mã số:………… 1. Tình trạng giải pháp đã biết. 1.1. Thực tiễn vấn đề Đổi mới phương pháp và cách thức tổ chức dạy học là một trong những yêu cầu vô cùng quan trọng trong dạy học, không những thế trong chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 lại càng đòi hỏi người dạy phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học, lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, tăng cường các hoạt động tự học, tự tìm tòi, trải nghiệm, liên hệ thực tế, giải quyết các tình huống trong cuộc sống. ̀ ́ ải pháp nhăm nâng cao chât l Trong rât nhiêu cac gi ́ ̀ ́ ượng giáo dục thi đ ̀ ổi mới phương pháp dạy học được xem la khâu vô cung quan trong hiên nay ̀ ̀ ̣ ̣ ở tất cả các nhà trường phổ thông. Việc đổi mới phương pháp dạy học phụ thuộc rất nhiều vào người dạy, người dạy tâm huyết, tận tâm với nghề thì việc đổi mới phương pháp dạy học không hề khó khăn, tuy nhiên, không phải ai cũng giống ai, không phải môi trường nào cũng giống môi trường nào, để đổi mới phương pháp dạy học cần rất nhiều yếu tố, trong đó nội dung dạy học, đối tượng học sinh vai trò của người thày là những yếu tố quyết định. Thực trạng phương pháp dạy học ngày nay vẫn là phương pháp thuyết trình, giảng giải được sử dụng một cách thường xuyên ở hầu hết tất cả các môn học trong nhà trường. Phương pháp thuyết trình lấy công nghệ dạy học gắn với quan điểm: “Lấy người dạy làm trung tâm” không còn phù hợp với phương phaṕ ̣ ̣ ơi ngay nay. Hê luy c day hoc m ́ ̀ ̣ ̣ ủa phương pháp này là; ̣ ̣ ̉ Day hoc theo kiêu nhồi nhét kiến thức “cái gì cũng biết mà thực chất là cái gì cũng không biết”. Người học tiếp thu được nhiều hay ít là phụ thuộc vào ý thức, vào
- thái độ học tập, kết quả cuối cùng của cach hoc này là các bài ki ́ ̣ ểm tra thường xuyên, giữa kỳ, cuối kỳ bài kiểm tra đủ điểm là được. Học nhiêu nh ̀ ưng thực hành, trải nghiệm quá ít. Học ở trường, học ở trên lớp vẫn là phương pháp hoc ch ̣ ủ đạo của một số nhà trường hiện nay. Thầy thuyết giảng theo kiểu đọc chep, h ́ ọc trò nghe, ghi theo khuynh hướng chung là thầy giảng bài chậm, nói chậm, hoc trò nghe, nhìn, chep nh ̣ ́ ờ vào sự trợ giúp của các công cụ như: Laptop, projector hoặc phần mềm Power Point. Công cụ này ́ ̣ ́ cũng rât tiên ich, giúp th ầy đọc, chép nhiều môn học khác nhau ma không cân phai ̀ ̀ ̉ ̉ ̣ ̀ ̉ chuân bi bai giang ky cang. ̃ ̀ Ngươi hoc ̀ ̣ thụ động tiếp thu kiến thức một chiều. Ngươi day ̀ ̣ đứng lớp truyền đạt kiến thức cho ngươi hoc trong khuôn kh ̀ ̣ ổ giáo trình, bài giảng đã được chuẩn bị sẵn. Như vậy, phương pháp day hoc truy ̣ ̣ ền thống “lấy người dạy làm trung tâm” dựa trên quá trình tích lũy kiến thức từ sách giáo khoa và bài giảng của người thầy được áp dụng phổ biến ở nhiều lớp học, đối tượng học sinh, lớp học. Học sinh học từng phần kiến thức, học hết phần này rồi chuyển sang học phần khác. Trong suốt quá trình học, học sinh càng ghi nhớ được nhiều kiến thức càng tốt, vì bài kiểm tra đánh giá bằng khả năng “ghi nhớ” chứ không chú trọng đến khả năng “vận dụng kiến thức vào thực tế”. Cách học này được dùng trong suốt một thời gian dài. Thực tiễn cho thấy đây không phải là phương pháp day hoc thích h ̣ ̣ ợp và hiệu quả ngay nay, ̀ đặc biệt không thể phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông 2018. 1.2. Ưu khuyết điểm của giải pháp đã, đang được áp dụng tại trường *Ưu điểm Học sinh được thể hiện bản thân nhiều hơn, tự tin, tự học, sáng tạo. Dạy học thống nhất, đại trà và phổ biên. Các môn học và kỹ năng được dạy theo một trật tự cụ thể, chặt chẽ. Đánh giá, nhận xét của giáo viên đơn giản hơn. Đánh giá trường học của hội đồng trường học và các sở giáo dục được thực hiện dễ dàng hơn. *Nhược điểm Hạn chế về việc vận dụng, phân tích, sáng tạo từ kiến thức lí thuyết khi vận
- dụng vào cuộc sống hàng ngày. Hạn chế về việc phát triển các kỹ năng vốn có của học sinh, làm cho học sinh mất tự tin. Hạn chế về mức độ nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trên lớp vào thực tế. Dựa trên một giả định sai lầm rằng trường học là một sân chơi bình đẳng cho học sinh và nhiều học sinh trong số đó “mặc định” thất bại. Chương trình giảng dạy chưa linh hoạt vì thường giáo viên nắm quyền chủ động. Các hệ thống chậm thay đổi và ít có khả năng bắt kịp nhu cầu của học sinh. Việc dạy tập trung vào ghi nhớ thay vì hình thành kỹ năng tư duy ở cấp độ cao hơn, gây trở ngại cho những học sinh gặp khó khăn trong việc ghi nhớ. 2. Nội dung của giải pháp: 2.1. Mục đích của giải pháp Sử dụng phương pháp “Phiên toà giả định” để dạy học phần “công dân với pháp luật” môn giáo dục công dân 12 nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng các chỉ tiêu mũi nhọn, chất lượng hoạt động giáo dục và hiệu quả học tập của học sinh trường trung học phổ thông số 2 Sa Pa, đặc biệt giúp học sinh 12 của nhà trường có thêm nhiều kiến thức, kỹ năng, trải nghiệm bổ ích cho kỳ thi tốt nghiệm THPT năm 2022. Tuyên truyền pháp luật, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng chống các loại tội phạm, phòng chống ma túy, giáo dục an toàn giao thông, an toàn trường học trong thanh thiếu niên. Giáo dục nhân cách, giáo dục ý thức trách nhiệm công dân, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục pháp luật khi học sinh tham gia các mối quan hệ xã hội Nâng cao chất lượng và hiệu quả trong ôn thi tốt nghiệp THPT của bộ môn năm học 2021 – 2022. Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập của học sinh Góp phần quan trọng và có những định hướng phù hợp để thích nghi dần với chương trình giáo dục phổ thông 2018, trong đó yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học của chương trình giáo dục phổ thông mới là hết sức cần thiết.
- 2.2. Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp so với giải pháp đã, đang được áp dụng. Sử dụng phương pháp “Phiên toà giả định” để dạy học phần “công dân với pháp luật” môn giáo dục công dân 12 là điểm mới trong dạy học GDCD 12 mà bản thân tôi đã áp dụng, đồng thời đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới giáo dục “ Lấy hoạt động học tập của học sinh là trung tâm”, hoạt động của học sinh là trung tâm, giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, dẫn dắt các em đi tìm kiến thức khi chúng ta thực hiện phương pháp dạy học này. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng qua đó hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổt thông mới 2018. Sử dụng phương pháp “Phiên toà giả đinh” đã tiếp cận được với những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH trong CTGDPT 2018 ở THPT là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đặc thù của môn GDCD hiện nay lượng kiến thức trong một tiết học tương đôi ngắn vì một số nội dung bài học quá khô khan, quá khó hoặc đã lỗi thời nên đã được giảm tải bớt, trong tiết học việc tích hợp và giáo dục các kỹ năng cho học sinh là vô cùng quan trọng, do vậy áp dụng phương pháp “Phiên toà giả định” rất quan trọng để hoàn thành tốt một bài dạy trên lớp và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong phần “công dân với pháp luật” GDCD 12. Qua đây chúng ta có thể hiểu phương pháp phương pháp “Phiên toà giả đinh” như sau; Phiên tòa giả định là quá trình thực hiện với diễn biến, quá trình xét xử như một cuộc xét xử tại Tòa án, bao gồm đủ các thành phần Hội đồng xét xử do các học sinh, sinh viên, thanh niên, quần chúng nhân dân hoặc sinh viên chuyên ngành tái hiện như một phiên tòa thật. Phiên toà giả định là phương pháp thông qua hình thức mô phỏng lại như phiên toà sự nhập tâm, hoá thân của học sinh vào những nhân vật cụ thể trong phiên toà, học sinh
- trực tiếp được thể hiện thái độ, tư tưởng, hành vi ứng xử của những nhân vật của phiên toà giả định, trên cơ sở đó giúp học sinh thực hành, trải nghiệm và rút ra những bài học nhận thức và kỹ năng sống phù hợp, tích cực. Là phương pháp mà học sinh được hướng dẫn xây dựng phiên tòa xét xử giả định, xét hỏi, nghị án, tuyên án một vụ án, một loại phạm tội liên quan đến nội dung chương trình học GDCD 12 phần công dân với pháp luật như: Hành vi vi phạm hình sự, vi phạm hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm kỷ luật, vi phạm thân thể, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, vi phạm chỗ ở, thư tín, điện thoại, điện tín, tự do ngôn luận… nào đó trong đời sống thực tế hàng ngày ở địa bàn học sinh sinh sống, người học trực tiệp được hóa thân thành chủ tọa phiên toà, thẩm phán, luật sư, bị cáo, bị can, người làm chứng và quần chúng tham gia xét xử, trên cơ sở đó học sinh trực tiếp được trải nghiệm và lĩnh hội kiến thức bài học thông qua phần chuẩn bị của các nhóm được phân công, thông qua phiên toà giả định. Trường THPT số 2 Sa Pa đã quan tâm đến việc sử dụng phương pháp “ Phiên toà giả định” trong dạy học phần “công dân với pháp luật” môn giáo dục công dân 12. Căn cứ vào hiệu quả đã đạt được của phương pháp trước đó giáo viên bộ môn GDCD đã áp dụng năm học trước là “Sử dụng phương pháp đóng vai theo hình thức toà án trong dạy học GDCD 12” đây là tiền đề thuận lợi để GV bộ môn GDCD tiếp tục phát triển và áp dụng phương pháp “Phiên toà giả định” để dạy học phần công dân với pháp luật GDCD 12. Về mặt lý luận, giải pháp góp phần bổ sung, phát triển lý luận về sử dụng phương pháp “Phiên toà giả định” để xây dựng một phiên tòa xét xử ngắn một phần vụ án, tiến trình một vụ án tuỳ thuộc vào thời lượng của bài học, phần học, tiết trải nghiệm đó trong dạy học cho học sinh. Đồng thời cũng góp phần chứng minh hiệu quả của việc sử dụng phương pháp phiên toà giả định trong dạy học môn GDCD 12 phần công dân với pháp luật. Về mặt thực tiễn , giải pháp góp phần phản ánh thực trạng sử dụng phương pháp phiên toà giả định trong dạy học GDCD 12 phần công dân với pháp luật cho học sinh trường THPT số 2 Sa Pa. Trên cơ sở đó, đưa ra biện pháp sử dụng phương pháp phiên toà giả định gắn với việc giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc sống của học
- sinh, giúp các em có những ứng xử phù hợp, góp phần nâng cao nhận thức, hoàn thiện nhân cách, đạo đức tôn trong pháp luật. Giải pháp hoàn thành giúp chúng ta hiểu rõ hơn nữa về phương pháp tổ chức phiên toà giả định, ứng dụng của nó đối với nhiều đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, cung cấp cơ sở lý luận cho việc sử dụng phương pháp phiên toà giả định vào quá trình dạy học môn GDCD 12 nói chung, GDCD 12 phần công dân với pháp luật nói riêng và để nâng cao chất lượng, hiệu quả của dạy và học bộ môn. Qua đó biện pháp sẽ góp một phần nhỏ vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học môn GDCD nói riêng, đặc biệt là việc sử dụng phương pháp phiên toà giả định linh hoạt với những đối tượng học sinh người dân tộc thiểu số. 2.2. Nội dung của giải pháp * Các hình thức tổ chức phiên toà giả định Thứ nhất, dựa theo tiêu chí thời gian chuẩn bị có tổ chức phiên toà giả định ngắn trực tiếp trong cùng một tiết học và tổ chức phiên toà giả định có sự chuẩn bị trước ở nhà. Một là, Tổ chức phiên toà luận tội ngắn trực tiếp là hình thức tổ chức phiên toà mà yêu cầu về việc xây dựng kịch bản theo nhiệm vụ học tập được đặt ra và thể hiện trực tiếp trong cùng một tiết học, đỏi hỏi việc thảo luận giữa các nhóm phải hiệu quả, kết hợp với việc sử dụng công cụ hỗ trợ bằng điện thoại để tìm kiếm các thông tin đáng tin cậy trên mạng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Hai là, Tổ chức phiên toà giả định có sự chuẩn bị trước ở nhà là hình thức tổ chức diễn ra theo một quy trình bắt đầu nhận nhiệm vụ từ khi kết thúc tiết học trước cho đến khi thực hiện ở tiết sau. Hình thức này có ưu điểm là giáo viên và học sinh có sự lựa chọn nội dung, có thời gian để xây dựng kịch bản, lời thoại, tập luyện nên khi thể hiện trên lớp thường chặt chẽ, trôi chảy và đúng định hướng hơn, phiên toà diễn ra lôi cuốn và hấp dẫn hơn. Đây là hình thức được ứng dụng phổ biến nhất khi tôi sử dụng phương pháp tổ chức phiên toà giả định dạy học trên lớp và tiết trải nghiệm sáng tạo phần công dân với pháp luật GDCD 12. Thứ hai, dựa vào yêu cầu nắm kiến thức mục đích học tập
- Một là, tổ chức phiên toà giả định tái hiện ghi nhớ là hình thức tổ chức dựa trên nền kiến thức đã biết, xây dựng nội dung kịch bản phiên toà với những tình huống, vai diễn đơn giản chỉ là kịch bản hoá những kiến thức, kỹ năng đã được phân tích từ trước. Hai là, tổ chức suy luận phát triển là hình thức tổ chức mà kịch bản, lời thoại, những vấn đề đặt ra trong kịch bản phiên toà và vai diễn được xây dựng, phát triển từ những kiến thức đã biết suy luận mở rộng ra nội dung kiến thức và những cách giải quyết, ứng xử mới. Ba là, tổ chức phiên toà mang tính liên hệ ứng dụng là hình thức tổ chức trong đó nội dung kịch bản phiên toà giả định được xây dựng chủ yếu dựa trên những tình huống, những hành vi ứng xử diễn ra phổ biến trong cuộc sống nhưng được hình tượng hoá, kịch bản hoá và thể hiện thông qua các vai diễn của các nhân vật trong phiên toà. Thứ ba, dựa trên tiêu chí sự tương tác giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh, giáo viên với cán bộ tư vấn pháp luật thuộc toà án nhân dân thị xã Sa Pa. Một là, phân vai các thành viên trong phiên toà độc lập là hình thức phân vai trong đó việc xây dựng kịch bản và thể hiện vai diễn trong phiên toà chủ yếu được thể hiện bởi một cá nhân. Hình thức này thường được áp dụng đối với những vai diễn có diễn biến tư tưởng, tâm lý phức tạp trong phiên toà, nhân vật này phải tìm hiểu tương đối nhiều các thông tin để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Hai là, phân vai tổ chức phiên toà theo nhóm là hình thức bao gồm các hoạt động chuẩn bị, xây dựng kịch bản phiên toà, thể hiện kịch bản dựa trên sự tương tác của nhóm học sinh Ba là, tương tác nhờ sự giúp đỡ của cán bộ toà án nhân dân dưới sự hướng dẫn, liên hệ trước của giáo viên bộ môn để các nhóm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Thứ tư, dựa vào nội dung bài học Một là, tổ chức phiên toà giả định cùng chủ điểm, chủ đề là hình thức tổ chức mà các nhóm cùng chuẩn bị, thể hiện kịch bản, diễn xuất theo một chủ đề xác định,
- sau đó việc nhận xét, thảo luận, đánh giá được thực hiện chung của cả lớp trong phiên toà đó. Hai là, tổ chức phiên toà khác chủ điểm, chủ đề là hình thức tổ chức mà mỗi nhóm xây dựng, thực hiện kịch bản phiên toà, vai diễn theo những chủ điểm, chủ đề khác nhau. * Các bước thực hiện phương pháp tổ chức phiên toà giả định Quy trình dạy học tổ chức phiên toà trực tiếp diễn ra trong cùng một tiết học + Bước 1: Giáo viên căn cứ vào nội dung kiến thức của bài, giới thiệu tình huống vi phạm liên quan đến nội dung bài học. Chia nhóm và giao tình huống đó cho từng nhóm, quy định rõ thời gian chuẩn bị “kịch bản phiên toà ngắn chiếm một phần của phiên toà cụ thể nh; phần luận tội hoặc phần nghị án” và thời gian tổ chức thực theo kịch bản của giáo viên đã đề ra và giao nhiệm vụ cho từng nhóm. + Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản phiên toà được giáo viên giao và phân công đảm nhiệm các vai, thành viên nhóm chuẩn bị nhanh việc thể hiện các vai được phân công và phối hợp với các vai diễn khác trong nhóm khác để hình thành kịch bản diễn xuất tổ chức thành công phiên toà ngắn trực tiếp trong một tiết học. + Bước 3: Các nhóm được phân công lên thể hiện tổ chức phiên toà giả định theo bối cảnh và nội dung kịch bản một phần của phiên tòa (có thể có những sáng tạo linh hoạt cả về lời thoai và cách thức, hành vi thể hiện). + Bước 4: Nhận xét, đánh giá cả lớp cùng quan sát, thảo luận, đánh giá về các nhiệm vụ được phân công và sự thể hiện của các thành viên được giao và đưa ra các câu hỏi phản biện, tranh luận hướng vào nội dung trọng tâm bài học mà việc các thành viên trong phiên toà thể hiện hoặc truyền tải, không quá chú trọng vào năng lực thể hiện của các thành viên. Trong bước này, giáo viên và học sinh khác có thể phỏng vấn, đặt các câu hỏi cho các thành viên thưch hiện trong phiên tòa xét xử. + Bước 5: Kết luận và rút ra bài học nhận thức, kỹ năng. Trên cơ sở đánh giá nội dung, ý nghĩa và năng lực thể hiện kịch bản phiên tòa, học sinh tự rút ra các bài học nhận thức và ứng dụng kỹ năng dưới sự điều hành và vai trò “ trọng tài” của giáo viên.
- Quy trình dạy chuẩn bị phiên toà giả định từ trước có sự chuẩn bị ở nhà (đây là quy trình sử dụng phổ biến, mang lại hiệu quả cao) + Bước 1: Giao nhiệm cho các thanh viên. Sau khi kết thúc tiết học trước, giáo viên giao nhiệm vụ học tập phân công đảm trách việc lựa chọn, xây dựng kịch bản phiên toà, luyện tập thể hiện các vai diễn để học sinh về nhà tự chuẩn bị phiên tòa giả định (có sự liên lạc, chia sẻ thông tin với cán bộ tư pháp toà án, giáo viên ). Việc phân công này phải căn cứ vào nội dung của tiết học, tiết trải nghiệm tiếp theo, các nhóm cùng chuẩn bị thực hiện phiên toà cùng theo một chủ đề, chủ điểm và phải rất chú trọng đến sự phân bố thời lượng, thời gian đối với kịch bản sẽ thể hiện một phiên tòa ngắn. Việc phân công giao nhiệm vụ các vai trong phiên toà cho các nhóm có tạo ra hứng thú học tập cho học sinh hay không phụ thuộc rất nhiều vào năng lực nắm bắt, phát hiện và định hướng vấn đề của giáo viên. + Bước 2: Chuẩn bị trước vai diễn tìm tòi, phát hiện vấn đề và xây dựng kịch bản. Căn cứ vào nội dung hay chủ điểm được phân công, học sinh tìm tòi, phát hiện vấn đề, thảo luận đưa ra và lựa chọn tình huống, tiến hành xây dựng kịch bản phiên tòa giả định. + Bước 3: Tập luyện thể hiện kịch bản phiên tòa giả định + Bước 4: Thể hiện kịch bản phiên toà giả định trước lớp. Tiết học mới của buổi học mới bắt đầu, theo thứ tự được phân công, các nhóm sẽ lên thể hiện kịch bản theo hình thức phiên toà giả định. + Bước 5: Thảo luận, nhận xét, kết luận và rút ra bài học nhận thức. Đây là bước quan trọng nhất của quy trình thực hiện phương pháp dạy học tổ chức phiên toà giả định, nó thể hiện sự chú tâm quan sát, lắng nghe và tham gia vào hoạt động dạy học, đánh giá và tiếp nhận, vận dụng kiến thức, kỹ năng của cả giáo viên và học sinh. * Yêu cầu sư phạm trong việc sử dụng phương pháp tổ chức phiên toà giả định Tất cả học sinh đều được tham gia vào quá trình thảo luận, xây dựng kịch bản phiên toà, được đóng vai các thành viên của phiên tòa hoặc phục vụ cho công việc của phiên toà. Giáo viên nên khích lệ cả các bạn nhút nhát tham gia vào các vai diễn trong việc tổ chức phiên toà.
- Tình huống vi phạm để tổ chức phiên toà phải thật rõ ràng, tình huống nên để mở, không nên cho trước “kịch bản”, lời thoại phiên tòa mà yêu cầu tất cả các nhóm tự xây dựng tổ chức phiên toà dưới sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn. Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị kịch bản phiên tòa giả định (nếu là tổ chức trực tiếp trong tiết học một phàn của phiên toà giả định). Trong khi các nhóm chuẩn bị, giáo viên nên đến từng nhóm, quan sát, lắng nghe, kịp thời phát hiện những khó khăn, lúng túng của học sinh để có sự hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời. Định hướng cho học sinh xây dựng kịch bản phiên tòa phải có kịch tính (các xung đột, các mâu thuẫn giữa các nhân vật trong quá trình chất vấn, xét hỏi) để gây hứng thú, gây sự chú ý và mang tính thuyết phục cao về tư tưởng, hành vi. Người được giao vào vai các nhân vật phiên toà phải hiểu rõ vai của mình trong để không lạc đề và kết hợp tương tác với các thành viên khác của phiên toà. Khi thấy cần thiết giáo viên có thể thông báo dừng diễn biến phiên toà để chuyển sang nhiệm vụ khác. Sau khi tổ chức, cần thực hiện đàm thoại để rút ra những kiến thức, những kết luận cần nhớ. Việc bình luận sau phiên toà phải tạo bầu không khí thân thiện, cởi mở, cầu thị và xây dựng. Ở đây, giáo viên phải chú ý sao cho lời bình luận của những người quan sát không quá gắt gao. Chuẩn bị tốt những điều kiện vật chất, phương tiện hỗ trợ cho tiết dạy tổ chức phiên toà giả định. * Ưu điểm và hạn chế của phương pháp tổ chức phiên toà giả định Ưu điểm Học sinh được rèn luyện, thực hành kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. Phương pháp này gây chú ý và hứng thú cho học sinh. Với phương pháp tổ chức phiên toà giả định học sinh được trực tiếp khám phá, tìm tòi tri thức nên các em sẽ cảm thấy hào hứng hơn trong học tập và chất lượng của giờ học cũng đạt hiệu quả cao. Ví dụ: bằng việc tổ chức phiên tòa xét xử, học sinh được thực hành với các nhiệm vụ mới lạ, các phiên tòa không giống với mình trong thực tế (như: cảnh sát giao thông, giáo viên, kẻ cắp, thẩm phán, bị can, bị cáo, bị hai, luật sư), khi đó các em sẽ cảm thấy hứng thú, muốn khám phá, thể hiện năng lực của mình. Đây là phương pháp tổ chức dạy học khích lệ sự thay
- đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực, rèn luyện cho học sinh kỹ năng giải quyết vấn đề, chủ động xử lý tình huống trong thực tế. Bởi, phương pháp tổ chức phiên toà giả định giúp học sinh phân biệt được những hành vi đúng, sai trong thực tế, do đó, các em sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội, điều chỉnh hành vi đúng pháp luật. Thông qua hoá thân vào các vai diễn của phiên toà có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm mà các thành viên đã thực hiện. Bởi, mỗi vai diễn đều mang một nội dung truyền tải nhất định tới người xem, thông qua những lời nói và việc làm của vai diễn đó người xem sẽ đánh giá ngay được điều đó là phù hợp hay không phù hợp. Vì vậy, từng cử chỉ, lời nói của nhân vật trong phiên toà đều có tác động nhất định tới nhận thức của người xem (tuy rằng, đấy chỉ là phiên toà giả định) Tổ chức phiên toà giả định tạo điều kiện phát triển tư duy sáng tạo của học sinh, là nơi để các em có thể thể hiện năng lực, tài năng của mình trước tập thể. Bằng hình thức dạy học thông qua phiên toà giả định, học sinh là người chủ động tìm tòi, lĩnh hội tri thức, đồng thời còn khơi dậy ở các em sự sáng tạo và tài năng vốn có của mình. Hoá thân thành các nhân vật trong các phiên tòa giúp học sinh khắc phục được tính nhút nhát, e ngại, rụt rè khi xuất hiện trước đám đông để các em trở nên tự tin hơn, mạnh dạn và trưởng thành hơn. Bằng phương pháp tổ chức phiên toà giả định, học sinh sẽ được hóa thân vào nhân vật, do đó, đối với các em luôn cảm thấy tự ti về bản thân thì khi được xuất hiện bằng một vai diễn khác với mình sẽ giúp học sinh không còn tự ti nữa, ngược lại các em còn có thể thỏa sức thể hiện nhân vật bằng khả năng của mình. Hạn chế Nếu không kiểm soát và phân bố tốt thời gian thì dễ dẫn đến thiếu thời gian để hoàn thành tiết dạy theo hình thức tổ chức phiên toà giả định Nếu học sinh vào vai các nhân vật trong phiên toà không hiểu rõ nhiệm vụ của mình (lạc đề) thì sẽ không thu được kết quả như mong muốn, có khi kết quả ngược lại. Nếu không có yếu tố hóa trang hoặc đạo cụ thì sẽ giảm hiệu quả của giờ học, không gây được hứng thú cho học sinh.
- Nếu giáo viên không bao quát, quản lý lớp tốt trong quá trình tiến hành phiên tòa giả định thì trật tự lớp học rất dễ bị phá vỡ, lớp học trở nên mất trật tự, ồn ào. Sau phiên tòa, lớp học dễ bị lộn xộn, khó tập trung để giáo viên tiếp tục phần giảng dạy tiếp theo hoặc củng cố bài học. * Biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp tổ chức phiên toà giả định để dạy học phần công dân với pháp luật GDCD 12 trường THPT số 2 Sa Pa Nhóm biện pháp về chuẩn bị cho việc tổ chức dạy học Xây dựng kịch bản phiên tòa giả định Yêu cầu về xây dựng kịch bản phiên toà + Biểu thị mục tiêu hoạt động dạy học + Nội dung chứa các tình huống dạy học + Học sinh hoạt động và tương tác + Kiến thức, kĩ năng tiêu biểu, chọn lọc + Nội dung hoạt động theo trình tự + Khống chế thời lượng của chương trình + Được phân bổ thời gian cho mỗi hoạt động + Hoạt động dạy học mang tính giao tiếp + Ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ giao tiếp, ngôn ngữ đặc thù để tổ chức phiên toà Yêu cầu thực hiện kịch bản phiên tòa giả định + Tác giả là thành tố của lớp học + Kịch bản không thể để đọc mà phải thuộc kịch bản + Nội dung mang tính khoa học + Có thể tiếp xúc trực tiếp với hiện thực đời sống + Các hoạt động dạy học có thể linh hoạt + Tình huống đưa ra xét xử có thể không giải quyết ngay + Đối thoại đa chiều thông qua tranh luận, luận tội, nghị án, tuyên án + Lời nhân vật lệ thuộc vào kịch bản phiên toà + Kịch bản mở Xây dựng kịch bản gắn với nội dung bài học
- Trong quá trình học tập theo chương trình môn GDCD 12, khi sử dụng phương pháp tổ chức phiên toà giả định cho bất kì một bài nào, tiết nào, những chủ đề giáo viên đưa ra cho học sinh xây dựng kịch bản cũng phải gắn liền với nội dung của từng tiết học đó. Giáo viên xác định chủ đề tổ chức phiên toà cho học sinh từ phần mở đầu bài học, nội dung bài học hay kết luận, củng cố bài học đều phải thực hiện bám sát vào nội dung, chủ đề của bài học. Phần xây dựng phiên tòa giả định không nhất thiết bám và nắm chắc các điều luật mà làm theo tính chất của hành vi vi phạm và kết luận vi phạm đấy là nghiêm trọng hay không, xử phạt thế nào, vi phạm luật gì. Yêu cầu về thực hiện nội dung giáo dục học sinh của bộ môn. Để thực hiện tốt những yêu cầu đó đòi hỏi giáo viên phải là người hướng dẫn, định hướng cho học sinh làm tốt những điều đó bằng cách: + Hệ thống hóa kiến thức cho từng bài học, tiết học sử dụng phiên toà giả định + Yêu cầu học sinh chuẩn bị đọc trước bài + Thông qua các chủ đề giáo viên giao nhiệm vụ tổ chức phiên toà cho từng nhóm theo từng chủ đề của bài học + Yêu cầu học sinh chuẩn bị những điều kiện cần thiết về vật chất, đạo cụ phù hợp với nội dung của bài học, tình huống được giao để tổ chức phiên toà. Một tiết học hiệu quả, sử dụng phương pháp tổ chức phiên toà giả định thành công thì đòi hỏi người dạy phải phải xây dựng kịch bản dạy học gắn với nôi dung môn học. Dự kiến phân công các thành viên trong phiên toà + Yêu học sinh xây dựng kịch bản gắn với nội dung và thực tế môn học + Tình huống gắn với thực tiễn cuộc sống vai diễn trong phiên toà thể hiện đúng tính chất vi phạm + Dựa vào đặc điểm tính cách học sinh trong nhóm để lựa chọn các thành viên của phiên toà giả định. + Xây dựng kịch bản phiên toà không kén vai diễn, huy động được tất cả thành viên trong các nhóm tham gia + Kịch bản được xây dựng dưới sự làm việc của tất cả nhóm Xác định mục tiêu, phương tiện, phương pháp cho dạy học tổ chức phiên toà giả định.
- Thứ nhất, xác định mục tiêu bài học: Khi xác định mục tiêu bài học là chương trình GDCD 12 phần công dan với pháp luật, giáo viên cần chú ý khai thác các định hướng về mục tiêu bài học được gợi ý trong sách giáo khoa và sách giáo viên kết hợp với đặc điểm cụ thể của học sinh và điều kiện dạy học của nhà trường. Nó được xem như là mô hình về kết quả mà học sinh cần đạt được sau bài học, gồm các yếu tố: về kiến thức, về kỹ năng, về thái độ, hành vi. Theo quan điểm dạy học tích cực, giáo viên cần phải có mục tiêu giảng dạy và giúp người học thực hiện hoàn hảo mục tiêu đó. Xác định mục tiêu bài học sẽ giúp người dạy thiết kế được các hoạt động dạy và học, xác định được phương pháp, phương tiện để thực hiện mục tiêu bài học. Đối với người học, khi xác định được mục tiêu, họ sẽ chủ động và có ý thức trong việc xây dựng kế hoạch học tập, do đó việc học trở nên tích cực hơn. Thứ hai, xác định phương pháp, phương tiện và tài liệu: Căn cứ vào nội dung cụ thể của các phần của bài giảng mà giáo viên lựa chọn phương pháp, phương tiện hỗ trợ phù hợp. Một là, phương pháp dạy học được sử dụng trong bài học dựa trên cơ sở nội dung dạy học và đặc điểm của người học là chủ yếu. Trong đó, việc xác định kiến thức của người học giữ vai trò quan trọng, quyết định sự lựa chọn phương pháp dạy học. Tùy theo nội dung, kiến thức của từng bài cụ thể mà giáo viên sử dụng phương pháp tổ chức phiên toà giả định linh hoạt với các phương pháp khác, sao cho đạt được mục tiêu bài học đã đề ra. Hai là, cũng như các phương pháp dạy học khác, phương tiện dạy học chủ yếu vẫn là mô hình, bảng biểu, số lượng thống kê. Ngoài ra, do đặc thù của phương pháp tổ chức phiên toà giả định, tùy theo cơ sở vật chất của trường, có thể có những trang phục, dụng cụ phục vụ cho phiên toà tăng thêm phần hấp dẫn. Ba là, chủ yếu là sách giáo khoa đối với người dạy và người học. Ngoài ra giáo viên còn có thêm các tài liệu khác như: sách giáo viên, các tài liệu phục vụ nghiên cứu chuyên môn, các clip, video, luật, bộ luật liên quan đến phương pháp tổ chức phiên toà giả định. 3. Khả năng áp dụng của giải pháp. Ở phạm vi môn học.
- + Biện pháp có thể áp dụng cho từng bài học có nội dung phù hợp với đặc thù của phương pháp ở khối 12 phần công dân với pháp luật. + Biện pháp áp dụng hiệu quả nhất đối với chương trình GDCD 12 phần công dân với pháp luật. Ở phạm vi trường học: Biện pháp có thể áp dụng vào dạy học ở tất cả các lớp học, trường học trong và ngoài tỉnh Lào Cai. Ở phạm vi đối tượng dạy học : Biện pháp có thể áp dụng cho tất cả các đối tượng học sinh (Theo đặc thù dân tộc, theo vùng miền và theo đối tượng trong lớp) 4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp. Theo ý kiến của nhà trường, giáo viên đã áp dụng . Học kỳ I vừa qua biện pháp đã được áp dụng trong dạy học chuyên đề pháp luật, tiết trải nghiệm sáng tạo, các tiết hội giảng cấp tổ, cấp trường được chuyên môn nhà trường dự giờ và đánh giá cao về biện pháp đã được áp dụng, đặc biệt trong các tiết dạy chính khóa phần công dân với pháp luật GDCD 12 buổi sáng, học sinh tham gia tổ chức phiên toà giả định, tham gia xây dựng phiên tòa xét xử rất hiệu quả và gây hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập, lôi cuốn hầu hết tất cả học sinh tham gia. Nhà trường yêu cầu giáo viên giảng dạy thực hiện giải pháp phù hợp với từng bài học, nội dung tổ chức trải nghiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn, chất lượng thi tốt nghiệp THPT.. Theo ý kiến của tác giả. + Trước khi áp dụng biện pháp: Bảng 1. Mức độ hứng thú của học sinh đối với môn GDCD 12 phần công dân với pháp luật. (Đơn vị tính %) Không Rất hứng Hứng Bình Ít hứng Lớp hứng thú thú thường thú thú Thực nghiệm 1 10 15,5 30 40 4,5 Thực nghiệm 2 9 17 32 38 4
- Tổng 2 lần thực 9,5 16,3 31 39 4,3 nghiệm Khi chưa áp dụng biện pháp, qua điều tra cho thấy mức độ rất hứng thú và hứng thú trong tiết học thường thấp và mức độ bình thường, ít hứng thú và không hứng thú cao hơn (Được thể hiện qua bẳng phiếu điều điều tra và kết quả trên) Bảng 2. Mức độ hiểu bài của học sinh đối với môn GDCD 12 phần công dân với pháp luật khi chưa áp biện pháp phiên toà giả định. (đơn vị tính %) Mức độ % Lớp Không hiểu Rất hiểu bài Hiểu bài Bình thường bài TN1 12 26,5 55 6,5 TN2 14 24 57,5 4,5 Tổng 13 25,3 56,3 5,5 Khi chưa thực hiện biện pháp mức độ rất hiểu bài và hiểu bài của học sinh thường thập, mức độ bình thường và không hiểu bài thường chiếm tỉ lệ cao (Được thể hiện cụ thể qua bảng trên) + Hiệu quả sau khi áp dụng biện pháp: Bảng 3. Mức độ hứng thú của học sinh đối với môn GDCD 12 phần công dân với pháp luật. (Đơn vị tính %) Rất hứng Hứng Bình Không Lớp Ít hứng thú thú thường hứng thú thú TN1 38,5% 58,8 2,7 0 0 TN2 36,6 56,5 6,9 0 0 Tổng 2 lần TN 37,6 57,6 4,8 0 0 Kết thúc điều tra cho thấy, sau thực nghiệm hầu hết các em học sinh đều hứng thú với môn học, cụ thể: Mức độ rất hứng thú của 2 lớp sau khi thực nghiệm chiếm tới 37,6%, hứng thú chiếm 57,6%, mức độ bình thường chỉ chiếm 4,8%, mức độ ít
- hứng thú và không hứng thú không có lựa chọn nào từ phía các em học sinh ở các lớp thực nghiệm này. Mức độ hiểu bài của học sinh trong học tập môn GDCD 12 phần công dân với pháp luật. Sau khi dạy thực nghiệm, ngoài việc cho các em làm bài kiểm tra để đánh giá kết quả học tập môn GDCD 12, tôi đã tiến hành phân tích trong phần “Đánh giá kết quả thực nghiệm”.Tôi tiếp tục kiểm tra sự hiểu bài của các em bằng cách yêu cầu các em trả lời câu hỏi trong phiếu điều tra sau thực nghiệm. Tôi đưa ra câu hỏi: “Sau khi học một số tiết và hoạt động trải nghiệm có sử dụng phương pháp phiên toà giả định, mức độ hiểu bài của em thế nào?” Bảng 4. Mức độ hiểu bài của học sinh đối với môn GDCD 12 phần công dân với pháp luật khi sử dụng phương pháp tổ chức phiên toà giả định. (đơn vị tính %) Mức độ % Lớp Không hiểu Rất hiểu bài Hiểu bài Bình thường bài TN1 40,5 51,5 8,0 0 TN2 42 48 10 0 Tổng 41,3 49,7 9,0 0 Kết quả tổng hợp ở bảng 4, chúng ta thấy sự thay đổi rõ nét trong nhận thức của học sinh khi các em được học tập với phương pháp học tập mới, phương pháp tổ chức phiên toà giả định. Việc giáo viên sử dụng phương pháp dạy học tích cực này đã tạo ra môi trường học tập thuận lợi để học sinh phát huy hết năng lực của mình như: sự chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo, và khả năng làm việc nhóm cũng như làm việc độc lập. từ đó khiến các em yêu thích môn GDCD, có ý thức tìm hiểu về môn học này và nâng cao mức độ hiểu bài. Để tìm hiểu rõ hơn về sự thay đổi trong hứng thú và mức độ hiểu bài của các em, ngoài việc điều tra bằng phiếu, tôi còn trao đổi ý kiến trực tiếp với các em học sinh. Khi trao đổi tôi nhận thấy đa số học sinh đều thích giáo viên sử dụng phương pháp tổ chức “phiên toà giả định” vào dạy học. Các em cho rằng: dạy học một số tiết và hoạt động trải nghiệm theo cách thức tổ chức phiên toà giả định các em được thực hành trải nghiệm các nội dung kiến thức bằng các vai diễn trong phiên toà, vừa thiết
- thực vừa mang tính thời sự, gần gũi với cuộc sống, nội dung kiến thức truyền tải không còn nhàm chán, khô khan. Kết quả cũng được thể hiện khá rõ ở kỳ thi giữa kỳ I, cuối kỳ I, giữa kỳ II, cuối kỳ II ở hai lớp tôi áp dụng phương pháp này là 12A2 và 12A3 các em đạt rất nhiều điểm 8, 9 và 10. Đặc biệt trong đợt thi thử tốt nghiệp THPT vừa rồi do Sở giáo dục và đào tạo tổ chức, có 02 học sinh ở hai lớp trên đạt điểm 10, các em đã giải quyết rất tốt bốn câu hỏi tình huống vận dụng cao để phân loại học sinh, gồm những học sinh sau: 1. Vù Thị Do 12A2 2. Chảo Mùi Phẩy 12A3 5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu : Tham gia dự giờ 1. Nguyễn Văn Hiển. Bí thư chi bộ, Hiệu trưởng nhà trường 2. Nguyễn Đức Hiển. Phó hiệu trưởng nhà trường, chỉ đạo chuyên môn 3. Đào A Tình. Tổ trưởng tổ chuyên môn 4. Nguyễn Quốc Chung. Tổ trưởng tổ chuyên môn 5. Hoàng Văn Kỳ. Tổ trưởng tổ chuyên môn 6. Tài liệu kèm theo gồm: Không Xác nhận hiệu quả vận dụng của biện pháp: Sa Pa, ngày 10 tháng 5 năm 2022 Người báo cáo ……………………………………………….. (Ký ghi rõ họ tên) ………………………………………………... …………………………………………………. Thủ trưởng (ký tên, đóng dấu) Phạm Quốc Phong
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 41 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p | 148 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ phân bố thời gian giúp học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm liên quan đến thời điểm và khoảng thời gian trong mạch dao động
24 p | 25 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 10, 12
31 p | 66 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống, khắc sâu kiến thức Hoá học hữu cơ lớp 12 cơ bản
30 p | 43 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p | 27 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Infographic nhằm nâng cao hiệu quả và tăng hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh THPT
15 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 56 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bản đồ tư duy (mind map) để tổng hợp kiến thức ôn thi tốt nghiệp và đại học cho học sinh khối 12
6 p | 55 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải để phát triển năng lực tư duy cho học sinh
106 p | 25 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bảng hệ thống kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông phần Lịch sử Việt Nam (1919-1945)
47 p | 41 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép một số tư liệu lịch sử Bình Long trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 -1975
16 p | 53 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn