intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tạo hứng thú cho học sinh học môn Ngữ văn thông qua tổ chức hoạt động khởi động

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:62

52
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nhằm mục đích cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học cho việc tổ chức hoạt động khởi động trong các bài dạy môn Ngữ văn; Tìm được cách tổ chức hoạt động khởi động để nâng cao hứng thú học tập bộ môn, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Văn cho học sinh THCS - THPT, nhất là tạo hứng thú cho đối tượng học sinh đại trà, đặc thù như học sinh Trường Phổ thông Năng khiếu TDTT Nghệ An.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tạo hứng thú cho học sinh học môn Ngữ văn thông qua tổ chức hoạt động khởi động

  1. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHỆ AN Tên đề tài: TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH HỌC MÔN NGỮ VĂN THÔNG QUA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG LĨNH VỰC: NGỮ VĂN NĂM HỌC: 2022-2023
  2. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG PHỔ THÔNG NĂNG KHIẾU THỂ DỤC THỂ THAO =====  ===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH HỌC MÔN NGỮ VĂN THÔNG QUA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG LĨNH VỰC: NGỮ VĂN TÁC GIẢ : LÊ NGỌC ÁI TỔ : XÃ HỘI SĐT : 0986651223 NĂM HỌC: 2022-2023
  3. MỤC LỤC Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Mục đích của đề tài ........................................................................................... 2 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 2 4. Tính mới của đề tài ............................................................................................ 2 5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 3 PHẦN II. NỘI DUNG ............................................................................................. 4 1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 4 1.1. Lôgic của quá trình nhận thức.................................................................... 4 1.2. Vai trò của hoạt động khởi động (hoạt động mở đầu) trong dạy học ........ 4 1.3. Mục tiêu đổi mới của ngành giáo dục ........................................................ 5 2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................. 5 2.1. Thực trạng dạy học và thực hiện hoạt động khởi động trong trường Phổ thông Năng khiếu TDTT Nghệ An hiện nay ............................................. 5 2.2. Thực trạng học tập của học sinh trường Phổ thông NK TDTT Nghệ An ....... 8 3. Các biện pháp tạo hứng thú của hoạt động khởi động .................................... 11 3.1. Một số yêu cầu khi vận dụng các biện pháp tổ chức hoạt động khởi động ....... 11 3.2. Các biện pháp khởi động cụ thể ............................................................... 12 3.2.1. Khởi động bài học bằng trò chơi, cuộc thi trí tuệ ............................. 12 3.2.2. Khởi động bài học bằng sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan ....... 27 2.2.4. Khởi động bài học bằng hình thức sử dụng video, âm nhạc kết nối bài học, tăng cường tích hợp liên môn, tạo hứng thú sinh động cho bài học mới. ................................................................................................. 32 3.2.5. Khởi động bài học bằng các câu hỏi tình huống, và phiếu học tập ...... 35 4. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất ...................... 39 4.1. Mục đích:.................................................................................................. 39 4.2. Nội dung và phương pháp khảo sát.......................................................... 40 4.2.1. Nội dung khảo sát.............................................................................. 40 4.2.2. Phương pháp khảo sát và thang đánh giá .......................................... 40 4.3. Đối tượng khảo sát ................................................................................... 40 4.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất ............................................................................................................. 40 4.4.1. Sự cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất ......................................... 40 4.4.2. Tính khả thi của các giải pháp đề xuất .............................................. 41
  4. 5. Kết quả thực nghiệm đạt được ........................................................................ 41 PHẦN III. KẾT LUẬN ......................................................................................... 46 1. Ý nghĩa của đề tài:........................................................................................... 46 2. Khả năng triển khai áp dụng của giải pháp: .................................................... 46 3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng biện pháp: ...... 46 4. Những kiến nghị, đề xuất để khai, ứng dụng biện pháp vào thực tiễn ........... 47 PHẦN IV. PHỤ LỤC ............................................................................................. 48 PHẦN V. TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 58
  5. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đặc biệt đề cao đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Trong quá trình dạy học, học sinh được đặt vào trung tâm của hoạt động học. Việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là một yêu cầu cấp thiết đang đặt ra với nền giáo dục nước nhà. Nhiều thầy cô giáo đã rất có ý thức bồi dưỡng, nâng cao đổi mới phương pháp dạy học tuy nhiên phần lớn các thầy cô giáo đều hướng đến việc đổi mới trong hoạt động hình thành kiến thức là chủ yếu, chưa quan tâm đúng mức tới hoạt động khởi động cũng như vai trò của khởi động trong việc định hướng tiết dạy, tạo tâm lý tích cực cho học sinh. Dạy học trò không có hứng thú cũng chỉ như “đập búa trên sắt nguội” mà thôi. Bởi vậy, bài toán đặt ra là: người thầy cần làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh, lôi cuốn các em vào bài học? Người thầy phải làm gì để “thắp lửa đam mê”? Nhất là đối với môn học Ngữ văn, chỉ có niềm đam mê mới đưa các em khám phá đến tận cùng vẻ đẹp của những tác phẩm văn chương. Hoạt động khởi động bài học là hoạt động đầu tiên trong tiến trình dạy học nhằm giúp học sinh huy động những kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm... của bản thân. Tại sao cần có hoạt động này? Việc tiếp thu kiến thức mới bao giờ cũng dựa trên những kinh nghiệm đã có trước đó của người học, giúp giáo viên tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn đề trong cuộc sống có liên quan đến nội dung của bài học; tạo hứng thú và một tâm thế tích cực để học sinh bước vào bài học mới. Để tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn, tạo được đam mê khám phá tìm tòi trong các tiết học, bài học, người giáo viên cần phải biết tạo ấn tượng, tạo đam mê ngay từ đầu tiết học cho các em. Hoạt động này thường chỉ chiếm một vài phút đầu giờ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng, tạo tâm thế học tập, hứng thú với các hoạt động phía sau của bài mới thậm chí là kết thúc bài học. Đặc biệt đối với môn Ngữ văn, rất cần sự đam mê, hứng thú. Có hứng thú, các em mới khám phá được tận cùng vẻ đẹp của những tác phẩm văn chương, của những bài Tiếng Việt hay Tập làm văn. Hứng thú cũng là khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển năng lực, nhân cách của học sinh, để các em làm người và chinh phục ước mơ. Học sinh của trường Phổ thông Năng khiếu Thể dục Thể thao Nghệ An là các em vận động viên thể thao, năng động, nhanh nhẹn nhưng thường xuyên phải tập luyện vất vả, thi đấu dài ngày với nhiều áp lực thành tích nên ít có thời gian để học tập và chuẩn bị bài. Các em đến lớp luôn trong trạng thái uể oải, mệt mỏi, chán học. Và môn văn trở thành môn học ru ngủ của nhiều em. Vì vậy, việc khởi động, tạo không khí và sự hứng khởi cho học sinh trước giờ học là việc làm vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công của tiết dạy. 1
  6. Xuất phát từ mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện của ngành giáo dục, từ mục tiêu của Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, từ thực tiễn giảng dạy tại trường Phổ thông Năng khiếu Thể dục Thể thao Nghệ An, tôi đã tiến hành nghiên cứu và đưa ra đề tài “TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH HỌC MÔN NGỮ VĂN THÔNG QUA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG ” để chia sẻ với đồng nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới trong dạy học Ngữ văn theo hướng phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. 2. Mục đích của đề tài - Đề tài nhằm mục đích cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học cho việc tổ chức hoạt động khởi động trong các bài dạy môn Ngữ văn - Tìm được cách tổ chức hoạt động khởi động để nâng cao hứng thú học tập bộ môn, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Văn cho học sinh THCS - THPT, nhất là tạo hứng thú cho đối tượng học sinh đại trà, đặc thù như học sinh Trường Phổ thông Năng khiếu TDTT Nghệ An - Giúp đồng nghiệp thêm một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy học ngữ văn dễ dàng hơn. - Qua đề tài có thể góp phần nào đó trong việc bồi dưỡng tỉnh yêu, tâm hồn người học, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Học văn là làm cho tâm hồn mỗi con người phong phú thanh cao và yêu đời hơn, người học văn sẽ có ý thức được và không bao giờ là người thô lỗ, cục cằn”. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: các kỹ thuật và hình thức tổ chức hiệu quả hoạt động khởi động trong giảng dạy môn Ngữ văn. - Đối tượng nghiên cứu và thực nghiệm của đề tài là học sinh trường PT Năng khiếu TDTT Nghệ An. - Thời gian nghiên cứu và áp dụng sáng kiến: từ tháng 8 năm 2021 đến nay tại trường PT Năng khiếu TDTT Nghệ An 4. Tính mới của đề tài - Đề tài khai thác các hình thức khởi động nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học ngữ văn, người viết chú trọng lựa chọn 1 số hình thức tiêu biểu, có tính khả thi cao để tất cả các trường học ở thành phố, đồng bằng, miền núi (Đầy đủ trang thiết bị hỗ trợ dạy học hoặc còn khó khăn) đều áp dụng được. - Đề tài thực nghiệm tại trường Phổ thông Năng khiếu Thể dục thể thao Nghệ An có đối tượng học sinh rất đặc thù, chất lượng đầu vào chỉ ở mức trung bình, yếu, với nhiều khối lớp, ở cả 2 cấp học THPT và THCS nên được người viết thiết kế đơn giản, dễ 2
  7. hiểu, các đồng nghiệp có thể dễ dàng áp dụng một cách hiệu quả, phù hợp với đơn vị mình công tác, phù hợp với khả năng của bản thân, có máy tính hoặc không cần máy tính cũng thực hiện được. - Đề tài bao quát cả chương trình ngữ văn mới 2018 (Bộ Kết nối tri thức 6,7,10) và chương trình ngữ văn cũ 2006 (Ngữ văn 8, 9, 11, 12). Các ví dụ được khai thác đa dạng, phù hợp với các kiểu bài học: Đọc văn, viết văn, thực hành tiếng Việt, ôn tập của cả 2 cấp học… giúp HS thực sự hứng khởi khi đến với tiết học Ngữ văn, giúp đồng nghiệp có thêm tư liệu trong giảng dạy, nhất là các đồng nghiệp công tác tại trường có nhiều cấp học như trường Phổ thông Năng khiếu TDTT Nghệ An 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận Để xây dựng đề tài, tôi tiến hành tìm tòi, tổng hợp các tư liệu từ nhiều nguồn: Các bài viết, tài liệu tập huấn, sách tham khảo… làm cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu. 5.2. Phương pháp quan sát Trong 2 năm nghiên cứu, xây dựng đề tài, tôi trưc tiếp quan sát, theo dõi quá trình dạy và học Ngữ văn của GV, HS từ khối 6 đến khối 12 để tìm hiểu thực trạng, thái độ, sự hứng thú và hiệu quả của đề tài, từ đó rút ra được ưu khuyết điểm của các phương pháp khởi động đang áp dụng. 5.3. Phương pháp phân tích số liệu Sau khi thu được số liệu từ kết quả thống kê, tôi nhiên cứu phân tích để thấy được ý kiến giáo viên, học sinh về thực tế dạy , học môn Ngữ văn, nhất là thái độ với bộ môn trước và sau khi sử dụng hoạt động khởi động. Đây là cơ sở quan trọng để đưa ra kết luận về tính hiệu quả của đề tài nghiên cứu. 5.4. Phương pháp so sánh, tổng hợp Dựa vào những số liệu thu thập được từ thực tiễn dạy học tại trường, tôi tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp hiệu quả trước và sau khi áp dụng đề tài. Sản phẩm của thao tác xử lí này được hệ thống hóa bằng bảng số liệu, biểu đồ… 5.5. Phương pháp thực nghiệm Để đưa ra được các giải pháp, các hình thức khởi động phù hợp, hiệu quả, tôi đã cùng đồng nghiệp tiến hành giảng dạy trực tiếp tại lớp từ khối 6 đến khối 12. Rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn, là cơ sở giúp tôi tự tin hoàn thiện đề tài, hướng đến tính khả thi của đề tài trong dạy học Ngữ văn. 3
  8. PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 1.1. Lôgic của quá trình nhận thức Trong mỗi bài học, theo logic của quá trình nhận thức thông thường người học phải trải qua các hoạt động: khởi động nêu vấn đề; hình thành kiến thức bài học; hệ thống hóa kiến thức và luyện tập; vận dụng kiến thức vào thực tiễn và tìm tòi mở rộng. Trong đó, hoạt động khởi động có một vị trí, vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn trong mỗi tiết học, bài học. 1.2. Vai trò của hoạt động khởi động (hoạt động mở đầu) trong dạy học Hoạt động khởi động có một vị trí, vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn trong mỗi tiết học, bài học cũng như kết nối tri thức cho học sinh vào bài học mới. Thứ nhất: hoạt động khởi động có vai trò tạo hứng thú học tập cho học sinh. Một khởi động bài học hiệu quả trước hết phải tạo được hứng thú cho học sinh. Không phải bất cứ học sinh nào đều có sẵn niềm say mê, yêu thích đối với môn học. Vì vậy, nhiệm vụ của hoạt động khởi động là khơi gợi hứng thú đối với bài học và hơn thế nữa còn khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình yêu lâu bền đối với môn học. Dạy học trò không có hứng thú cũng chỉ như “đập búa trên sắt nguội” mà thôi. Bởi vậy, người thầy trước hết phải là người “thắp lửa đam mê”. Đặc biệt đối với môn học Ngữ văn, chỉ có niềm đam mê mới đưa các e khám phá đến tận cùng vẻ đẹp của những tác phẩm văn chương. Thứ hai: vai trò của hoạt động khởi động là huy động vốn tri thức, kĩ năng nền tảng của học sinh. Bởi dạy học là một quá trình kiến tạo. Nếu ví tri thức, kĩ năng học sinh tiếp nhận được ví như ngôi nhà, thì nền móng sẽ xuất phát từ những tri thức, kĩ năng vốn có, nền tảng của người học. Một khởi động bài học hiệu quả nên tạo ra cơ hội cho các em tự làm sống lại những kiến thức nền đã có, cần thiết cho việc học bài mới. Việc thiết kế chương trình Ngữ văn theo các cấp thực chất là một vòng tròn đồng tâm, cấp học sau là sự mở rộng, nâng cao, đào sâu hơn những tri thức đã được trang bị từ cấp học trước. Đó là một tiền đề để thầy cô thiết kế hoạt động khởi động. Thứ ba: hoạt động khởi động là tạo ra mâu thuẫn nhận thức cho người học. Học tập là một quá trình khám phá. Quá trình ấy bắt đầu bằng sự tò mò, nhu cầu cần được hiểu biết và giải quyết mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều muốn biết. Một khởi động bài học thành công cần khơi gợi trong học trò mong muốn được tìm hiểu, khám phá bằng những hoạt động tiếp theo trong giờ học, thậm chí là sau giờ học. Muốn như vậy, hoạt động khởi động cần tạo ra mâu thuẫn trong nhận thức cho học trò. Đây là tiền đề để thực hiện một loạt các hoạt động tìm tòi, giải quyết vấn đề. Muốn như vậy, giáo viên phải là người có ý tưởng, biết gieo vấn đề để kích thích trí tò mò của người học. 4
  9. 1.3. Mục tiêu đổi mới của ngành giáo dục Như chúng ta đã biết chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đặc biệt đề cao đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Trong quá trình dạy học, học sinh được đặt vào trung tâm của hoạt động học. Việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là một yêu cầu cấp thiết đang đặt ra với nền giáo dục nước nhà, đặc biệt là kể từ năm học 2021 - 2022 và 2022 -2023 với việc đổi mới chương trình dạy học, bắt đầu với lớp 6, 7 và 10. Trước thực trạng đổi mới căn bản, toàn diện của ngành giáo dục, người giáo viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy cần có sự đổi mới trong phương pháp tổ chức hoạt động để kích thích sự sáng tạo, khơi dậy nhu cầu khám phá, tìm hiểu kiến thức, hình thành phẩm chất năng lực của các em học sinh. Sự đổi mới đó không phải chỉ thể hiện trong đổi mới phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức bài học mà còn thể hiện qua hoạt động khởi động để các em có được điểm xuất phát tốt nhất trước khi tìm hiểu kiến thức mới cũng như hình thành, phát triển năng lực phẩm chất các em qua hoạt động khởi động. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng dạy học và thực hiện hoạt động khởi động trong trường Phổ thông Năng khiếu TDTT Nghệ An hiện nay Giáo viên trường PT Năng khiếu TDTT Nghệ An nói riêng và giáo bộ môn Ngữ văn nói chung đã đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Tuy nhiên, sự quan tâm đổi mới chưa nhiều, chưa thực sự đi vào chiều sâu; đôi khi còn qua loa, hình thức. Việc thực hiện tiết dạy của giáo viên còn theo hình thức cũ: nặng về lí thuyết, thiếu đi tính hấp dẫn, lôi cuốn học sinh ngay từ hoạt động vào bài; giáo viên còn xem nhẹ khâu tạo tâm thế cho học sinh mà chủ yếu dành thời gian cho việc tìm hiểu kiến thức mới dẫn đến tiết học khô khan, học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức. Trong công tác dạy và học của nhà trường vẫn còn gặp phải một số tồn tại như: một số giáo viên còn vẫn quen sử dụng phương pháp giảng cũ, chưa tích cực tìm tòi đổi mới, nhiều tiết dạy chưa tạo được tính tích cực, chủ động cho học sinh, nhất là khi dạy phần Đọc hiểu văn bản. Nhiều em có xu hướng không thích học Văn, nhiều em còn thụ động trong học tập, chưa tích cực và sáng tạo. Các em nhìn chung chưa mạnh dạn thể hiện hết các năng lực của bản thân. Việc tiếp thu kiến thức của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Các em chưa quen với việc soạn ở nhà và việc tích cực chủ động học trên lớp và làm thế nào để nhớ hết được nội dung, ý nghĩa mỗi văn bản hay biết cách tạo lập văn bản Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên do nhiều yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan: Trường PT Năng khiếu TDTT Nghệ An thuộc loại hình trường đặc thù liên cấp, gồm 2 khối THCS và THPT với 7 lớp từ 6-12. Giáo viên của trường thường phải dạy với định mức 17 tiết/ tuần, với nhiều giáo án khác nhau. Riêng bộ môn Ngữ văn, mỗi 5
  10. giáo viên thường phải cáng đáng ít nhất 3 cua giáo án trong tuần. Việc soạn đủ 15-17tiết và thuộc giáo án để lên lớp đã là cả vấn đề, chưa nói đến việc còn phải dạy bù, phụ đạo cho HS thi đấu trở về vào ban đêm. Ngoài ra, GV vẫn phải tham gia đầy đủ các cuộc họp, sinh hoạt chuyên môn của trường, cụm; các phong trào văn thể của cả 2 cơ quan: Sở Văn hóa Thể thao và Sở Giáo dục đào tạo. Chừng đó yếu tố khiến cho việc đầu tư cho việc soạn bài, nhất là đầu tư phần khởi động để dành lại 5-10 phút ổn định tổ chức đầu giờ gặp rất nhiều khó khăn. Áp lực phải xong bài khiến giờ dạy thường diễn ra hình thức, giáo viên buộc phải chọn cách giới thiệu ngắn gọn vào bài để tiết kiệm thời gian. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của nhà trường chưa đảm bảo, nhiều lớp chưa có máy chiếu, ti vi, internet để phục vụ cho việc dạy học, nhất là phục vụ cho các khối 6,7,10 theo chương trình mới. Nhiều giáo viên ngại thay đổi, còn hạn chế về trình độ sử dụng các phần mềm số, vi tính vào việc soạn bài, lên lớp. Tất cả các nguyên nhân trên khiến giờ học ngữ văn trở nên nhàm chán, đơn điệu, HS mệt mỏi, GV chán nản và mất dần nhiệt huyết.... (Minh chứng phụ lục 2) Tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng giáo viên sử dụng đa dạng các hình thức tổ chức hoạt động khởi động bài học trong học kỳ 1 năm học 2021 - 2022 tại trường PT Năng khiếu TDTT Nghệ An với tổng số giáo viên môn Ngữ văn tham gia khảo sát là 5 GV và thu được kết quả như sau: MỨC ĐỘ SỬ DỤNG ĐA DẠNG CÁC HÌNH THỨC KHỞI ĐỘNG BÀI HỌC CỦA GIÁO VIÊN Không thường Thường xuyên Ít sử dụng Không sử dụng xuyên Số lượng 0 2 3 0 Tỉ lệ (%) 0% 40% 60% 0% Biểu đồ thể hiện mức độ sử dụng đa dạng các hình thức khởi động bài học của GV Đồng thời tôi cũng tiến hành khảo sát 128 học sinh của 5 lớp 6A, 9A, 10B, 11A, 12B qua phiếu mức độ hứng thú học tập môn Ngữ văn khi giáo viên không sử dụng đa 6
  11. dạng các hình thức tổ chức hoạt động khởi động bài học và thu được kết quả như sau: MỨC ĐỘ HỨNG THÚ CỦA HS VỚI GIỜ NGỮ VĂN Đối tượng TRƯỚC KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI khảo sát Rất thích Thích Bình thường Không thích Số Số Số Số Lớp Sĩ số % % lượng % lượn % lượng lượng g 6A 21 0 0% 4 19,04% 10 47,61% 7 33,33% 9A 22 0 0% 4 18,18% 9 40,90% 9 40,90% 10B 26 0 0% 2 7,69% 15 57,69% 9 34,61% 11A 31 0 0% 2 6,45% 21 67,74% 8 25,80% 12B 28 0 0% 3 10,74% 17 60,71% 8 28,57% Tổng số 128 0 15 72 41 học sinh Tỉ lệ (%) 0% 11,71% 56,25% 32,03% Biểu đồ thể hiện mức độ hứng thú của học sinh trước khi áp dụng đề tài Qua phân tích kết quả tôi nhận thấy: tỉ lệ giáo viên sử dụng đa dạng các hình thức tổ chức hoạt động khởi động bài học thường xuyên còn ít: 2/5 GV. Và tỉ lệ thái độ học tập của HS khi GV không sử dụng đa dạng các hình thức tổ chức hoạt động khởi động bài học với mức độ bình thường, không thích trên 80%. 7
  12. Đó là con số biết nói và rất đáng báo động. Điều này đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn phải thay đổi nếu không muốn bản thân bị bỏ lại phía sau trong công cuộc đổi mới toàn diện của nền giáo dục Việt Nam. Lấy lại vị thế cho bộ môn, lấy lại lòng tự tôn nghề nghiệp, lấy lại niềm đam mê và giữ lửa tình yêu văn chương, tất yếu chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm và đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và góp phần khắc phục tình trạng học sinh thiếu hứng thú học, và chán ghét môn học của mình. Đây cũng chính là những căn cứ thực tế để tôi tiến hành nghiên cứu và áp dụng đề tài sáng kiến. 2.2. Thực trạng học tập của học sinh trường Phổ thông NK TDTT Nghệ An HS của trường là các VĐV, xa nhà từ tuổi lên 10. Thiếu vòng tay mẹ cha, gia đình từ nhỏ, các em phải sớm tự lập, lại cá tính mạnh, để rồi sớm va vấp với cuộc đời khi chưa đủ sức đề kháng, nên ko thể tránh khỏi những trầy xước cả thể xác lẫn tâm hồn. Dễ bị dao động bởi các luồng tư tưởng tiêu cực. Các em coi trọng chuyên môn thể thao; coi việc học văn hóa như chiếc cầu tạm để đi qua dòng sông tri thức, chỉ cần đủ điểm lên lớp, tốt nghiệp THCS, THPT là đạt chỉ tiêu. Hơn nữa, những chuyến tập huấn dài ngày, có khi nửa năm học, trở lại trường, là trở lại vạch xuất phát: sách vở không còn, không theo kịp chương trình và bàn bè trong lớp, nên các em thường có cảm giác mệt mỏi, chán học, và tình trạng nói chuyện riêng, sử dụng điện thoại di động, ngủ trong giờ học diễn ra thường xuyên, phổ biến. Mỗi tiết học, giáo viên phải chấn chỉnh nề nếp ý thức ít nhất 5- 10 phút. HS thường xuyên ngủ, sử dụng ĐTDĐ trong các giờ học 8
  13. 1 tiết giảng văn với không khí “ Việc ai người nấy làm”! Trước thực trạng đáng lo ngại trên, tôi đã tiến hành khảo sát tình hình học tập môn Ngữ văn tại các lớp trên và thu được kết quả như sau: Bảng Khảo sát học sinh về hoạt động khởi động tiết học (thực hiện đầu năm học 2021-2022) Nội dung khảo sát Số học sinh Tỉ lệ TT khảo sát Em có học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp 128 100% không? 1 Thường xuyên 20 15,62% Thỉnh thoảng 60 46,88% Không 48 37,5% Em có quan tâm đến khởi động tiết học không? 128 100% Quan tâm 43 33.6% 2 Ít quan tâm 58 45.3% Không quan tâm 27 21.1% Khởi động có giúp em định hướng được kiến 128 100% thức mới cần hình thành không? 3 Định hướng tốt 15 11.7% Chưa rõ ràng 58 45.3% Không định hướng được 55 43% 9
  14. Em có chủ động tìm hiểu kiến thức để giải quyết 128 100% các vấn đề đặt ra trong hoạt động khởi động? 4 Có 25 19.5% Không 103 80.5% Giữa việc giáo viên dẫn dắt để vào bài (A) và tổ 128 100% chức các hoạt động khởi động (B) như trò chơi, xem video, hình ảnh, hát...thì em thích cách nào 5 hơn? Cách A 7 5.5% Cách B 121 94.5% Giáo viên thường dùng hình thức nào để tạo 128 100% tâm thế cho bài học? 6 Tổ chức thành hoạt động 25 19.5% Dẫn dắt 98 76.6% Cách khác 5 3.9% Người thực hiện khởi động trong lớp em là ai? 128 100% Giáo viên 102 79.7% 7 Học sinh 19 14.8% Giáo viên kết hợp với học sinh 7 5.5% Link khảo sát qua mạng: (Xem phụ lục 1) Một số hình ảnh HS khảo sát trực tiếp: Các em HS điền phiếu khảo sát tại lớp 10
  15. Nhận xét: Qua bảng khảo sát với 128 em HS ở 5 lớp: 6A, 9A, 10B, 11A, 12B, tôi nhận thấy: Trên 80% HS không chuẩn bị bài trước khi đến lớp, không quan tâm đến hoạt động khởi động, và cũng không định hướng được nội dung cần giải quyết trong tiết học. GV chủ yếu vẫn dùng phương pháp dạy học cũ: Tự mình dẫn dắt vào bài học, ít khi phối hợp với học sinh, trong khi có đến trên 94% HS được hỏi bày tỏ sự thích thú nếu được thầy cô khởi động bài học bằng các trò chơi, xem video, hình ảnh… Đây cũng là những căn cứ và cơ sở để tôi đưa ra các giải pháp để tạo hứng thú học môn Ngữ văn cho HS trường Năng khiếu Thể dục Thể thao Nghệ An thông qua tổ chức hoạt động khởi động. 3. Các biện pháp tạo hứng thú của hoạt động khởi động 3.1. Một số yêu cầu khi vận dụng các biện pháp tổ chức hoạt động khởi động Khi tổ chức hoạt động mở đầu, giáo viên cần thực hiện theo các bước cơ bản sau: Các bước Tổ chức hoạt động mở đầu Bước 1 Xác định mục tiêu của hoạt động khởi động (ôn tập lại kiến thức đã học, tạo tâm thế bước vào bài học, khơi gợi tình huống có vấn đề để dẫn dắt vào nội dung học tập) Bước 2 Xác định các phương pháp và kỹ thuật phối kết hợp. Bước 3 Thiết kế xây dựng câu hỏi, hình thức tổ chức, phương tiện cần dùng, dự định cách thức chuyển giao nhiệm vụ học tập. Bước 4 Vận dụng vào quá trình dạy học. Bước 5 Đánh giá hiệu quả của việc tổ chức hoạt động khởi động (kiến thức, kỹ năng, thái độ - tâm thế, hứng khởi) Bước 6 Rút kinh nghiệm, vận dụng với những hoạt động khởi động khác 11
  16. Như vậy, chúng ta thấy để tổ chức hiệu quả hoạt động mở đầu, giáo viên phải xác định rõ mục tiêu cần đạt, phương pháp và kỹ thuật tổ chức, phương tiện cần dùng; chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh một cách rõ ràng. Nhiệm vụ khi chuyển giao cho học sinh trong hoạt động khởi động cần đảm bảo các yêu cầu: kiểm tra lại kiến thức của học sinh (xem học sinh đã có được kiến thức gì liên quan đến bài học), tạo hứng thú cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt HS vào phần hình thành kiến thức mới. Vì vậy khi xây dựng kịch bản cho hoạt động mở đầu, giáo viên lưu ý đến một số kỹ thuật cơ bản sau: - Không lấy những nội dung không thiết thực với bài học, tránh lấy những nội dung mang tính chất minh họa mà cần cụ thể: sử dụng nội dung bài học để khởi động, sao cho trong khởi động sẽ bao quát được nội dung bài học, qua đó giúp GV biết được học sinh đã có kiến thức gì trong bài mới và chưa biết gì để khai thác sâu vào những nội dung học sinh chưa biết (điều này có thể sẽ khác nhau ở từng lớp nên giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời để phù hợp với đối tượng học sinh ở các lớp). - Hoạt động mở đầu là bước thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực hiện công việc nên việc khởi động cũng cần nhẹ nhàng và sinh động, phù hợp với tâm lý tuổi từng lớp học, từng đối tượng học sinh để tạo sự hấp dẫn cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng thú cho học sinh: để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần này cũng cần có nhiều mức độ trong đó nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng có thể trả lời được. Khi các em trả lời được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích thú để tạo tâm lý tốt khi vào bài học. Ở mỗi hoạt động khởi động đều xuất phát từ nội dung bài học, nhưng nếu tình huống nào đưa ra học sinh cũng giải quyết được thì các em sẽ không có hứng thú tìm hiểu kiến thức mới, không kích thích được trí tò mò và nhu cầu học tập một cách chủ động và tích cực của các em. - Khi áp dụng tổ chức hoạt động mở đầu cho tất cả các tiết học ở các lớp thì người GV nên lưu ý: kế hoạch hoạt động đã xây dựng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm học sinh của từng lớp; tránh việc xây dựng 1 tình huống cố định dùng chung cho tất cả các lớp trong cùng một khối. Phương án xây dựng tình huống khởi động giữa các tiết, các bài học nên có sự đổi mới về hình thức, phương pháp; tránh sự nhàm chán cho học sinh khi tiết học nào cũng tổ chức hoạt động khởi động theo kiểu “đến hẹn lại lên” với các bước tuần tự như nhau. Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng, tôi đã tìm ra một số hình thức tổ chức hoạt động mở đầu hiệu quả, đáp ứng được mục tiêu chương trình GDPT 20218, áp dụng được ở cả 2 cấp học THCS, THPT cụ thể như sau: 3.2. Các biện pháp khởi động cụ thể 3.2.1. Khởi động bài học bằng trò chơi, cuộc thi trí tuệ Ngoài các trò chơi phổ biến đã được áp dụng nhiều trong dạy học Ngữ văn lâu 12
  17. nay: Đuổi hình bắt chữ, Ai là triệu phú, Rung chuông vàng; Nhanh như chớp… Trong đề tài này, người viết sử dụng mới 1 số trò chơi, cuộc thi dễ áp dụng như sau: - “Chiếc hộp bí mật”. - “Nhìn tranh bắt truyện”. - ” Ghép chữ nếu..thì”, - “Nhìn hình đoán thành ngữ”. - “Trò chơi Ô chữ bí mật - “Nghe, nhìn để ghi nhớ” - Cuộc thi “Theo dòng lịch sử” 3.2.1.1 Mục đích: Tạo hứng thú, tâm lý thoải mái cho học sinh cũng như kết nối kiến thức vào bài học mới. 3.2.1.2 . Cách tiến hành Học sinh tham gia các trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục. Dạy học thông qua trò chơi - một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Giải pháp này sẽ làm thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo và đặc biệt giúp các em nhớ bài học rất sâu. Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng các ứng dụng phần mềm trò chơi. Nhiều phần mềm trò chơi có kết hợp âm thanh và hình ảnh sinh động sẽ góp phần thu hút và tạo hứng thú cho HS. Rất nhiều trò chơi ngoài mục đích giải trí còn có thể giúp HS ôn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Hoặc có những trò chơi giúp các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực tâm lý do tiết học trước gây ra. Trước khi chơi, GV cần chuẩn bị đồ dùng, phương tiện cần thiết, tạo hiệu ứng, hệ thống câu hỏi liên quan đến bài mới, dự kiến tình huống xảy ra và cách xử lí tình huống, kết quả đạt được qua trò chơi. Để có những trò chơi hấp dẫn, giáo viên phải sáng tạo không ngừng đồng thời khuyến khích các em tham gia nhiệt tình, chơi hết mình. Giáo viên có thể sử dụng linh hoạt, hiệu quả các bộ game (bộ trò chơi) đã được thiết kế sẵn. Điều thú vị là những phần mềm game này được thiết kế hình ảnh và âm thanh rất sinh động do vậy hấp dẫn hầu hết HS trong lớp tham gia. Nội dung câu hỏi được giáo viên biên soạn và chọn lựa sao cho phù hợp với mục tiêu bài học và đối tượng học sinh. 13
  18. 3.2.1.3 Một số ví dụ hoạt động khởi động bài học bằng trò chơi được tổ chức thành công 3.2.1.3.1. Trò chơi Ô chữ bí mật Với thực trạng học sinh lười đọc, lười nghiên cứu bài học, soạn bài đối phó bằng cách chép trên mạng hay trong sách để học tốt như hiện nay thì trò chơi ô chữ bí mật có tác dụng kích thích học sinh tìm hiểu bài mới. Bắt buộc học sinh phải đọc thì mới tham gia tốt trò chơi này được. Mục tiêu: Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em học sinh. Chính vì thế, nó mang lại hiệu quả cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc tiếng Việt. Có thể áp dụng trò chơi này để vào bài hoặc dùng ôn tập ở cuối bài. Cách thức tổ chức: GV sử dụng mở đầu các tiết học văn bản, GV cho học sinh quan sát ô chữ trên máy chiếu, từng cá nhân học sinh quan sát và chọn ô chữ, GV đọc gợi ý, HS trả lời. So với hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa thì các câu hỏi này dễ nhận biết hơn. Đưa các em vào tình huống có sự thách đố như thế giúp các em thích tư duy hơn, các em sẽ tò mò bằng nhiều đáp án để tìm ra câu trả lời đúng nhất. Đặc biệt hình thức này giúp các em tự giác phát huy tính tích cực sáng tạo hơn. Điều đó cho thấy các em hứng thú học tập nhiều hơn. GV chú ý điều khiển lớp thật sinh động, có khen ngợi hoặc khích lệ để giúp các em tự tin và kích thích khả năng vận động của các em. Chuẩn bị: - Giáo viên hoặc học sinh soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng ngang, học sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc - Đây là ô chính mà nội dung của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ được. Hoặc GV có thể tô màu một số chữ trong từ hàng ngang để học sinh tìm từ khóa bằng cách ghép các chữ tô màu đã tìm được - Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị từ bảng phụ. Để trò chơi mới lạ hơn, giáo viên có thể áp dụng công nghệ thông tin để tạo ra các sile trò chơi trên Powerpoint. Ví dụ 1: Sau khi học xong Văn bản Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng (sách giáo khoa Ngữ văn 9 Tập I), trước khi vào tiết học mới, GV có thể sử dụng trò chơi “Giải ô chữ” để mở đầu bài học như sau: 14
  19. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Câu 1: Gồm có 5 chữ cái, đây là tên một trong hai nhân vật chính của truyện ngắn Chiếc lược ngà. Đáp án: Bé Thu Câu 2: Gồm 10 chữ cái, đây là chức danh của bé Thu khi em đã lớn. Đáp án: Nữ giao liên Câu 3: Gồm 9 chữ cái, nét tính cách của bé Thu trước khi nhận ra cha. Đáp án: Ương ngạnh Câu 4: Gồm 6 chữ cái, ông Sáu gặp chuyện gì ngay khi vừa làm xong cây lược. Đáp án: Hy sinh Câu 5: Gồm 12 chữ cái, đây là tên món quà ông Sáu làm tặng con gái. Đáp án: Chiếc lược ngà Câu 6: Gồm 7 chữ cái, đây là thời kì truyện ngắn Chiếc lược ngà ra đời. Đáp án: Chống Mĩ Câu 7: Gồm 6 chữ cái, đây là khoảng thời gian cha con ông Sáu xa cách nhau. Đáp án: Tám năm Câu 8: Gồm 5 chữ cái, đây là vai (tên) người kể chuyện. Đáp án: Bác ba Câu 9: Gồm 11 chữ cái, đây là ngôi kể của truyện ngắn Chiếc lược ngà. Đáp án: Ngôi thứ nhất 15
  20. Câu 10: Gồm 15 chữ cái, đây là tên tác giả của truyện ngắn Chiếc lược ngà. Đáp án: Nguyễn Quang Sáng Câu 11: ô chữ chìa khóa gồm 10 chữ cái, đây là chủ đề của truyện ngắn Chiếc lược ngà. 1 B E T H U 2 N U G I A O L I E N 3 U O N G N G A N H 4 H Y S I N H 5 C H I E C L U O C N G A 6 C H O N G M I 7 T A M N A M 8 B A C B A 9 N G O I T H U N H A T 10 N G U Y E N Q U A N G S A N G Đáp án: Tình cha con GV diễn giảng: Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Qua đó, tác giả khẳng định và ca ngợi tình cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn… rồi dẫn vào bài mới. Khởi động tiết học Chiếc lược ngà của lớp 9B 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2