intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức cho học sinh trường trung học phổ thông dân tộc nội trú tham gia một số dự án theo giáo dục STEM tích hợp liên môn Toán – Vật lí - Địa lí

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:77

37
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu đề tài là đối với giáo viên: Nâng cao năng lực tổ chức dạy học theo giáo dục STEM. Đối với học sinh: Phát huy tính tích cực, tự lực và phát triển năng lực sáng tạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức cho học sinh trường trung học phổ thông dân tộc nội trú tham gia một số dự án theo giáo dục STEM tích hợp liên môn Toán – Vật lí - Địa lí

  1. Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài    “Giáo dục STEM là một cách tiếp cận liên môn trong học tập,  ở  đó những  khái niệm học thuật chính xác được kết hợp với bài học thực tiễn khi học sinh   (HS) áp dụng kiến thức khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học trong một bối  cảnh cụ thể để tạo nên sự kết nối giữa nhà trường, cộng đồng, việc làm và hoạt  động kinh doanh toàn cầu cho phép sự phát triển những hiểu biết tối thiểu về STEM  và cùng với nó là khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế mới” (Tsupros, N.R. Kohler, &  Hallinen, J.(2009). STEM education) [2]. Ngày 4­5­2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT­TTg về tăng  cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trong phần giải pháp  có nêu: “Thay đổi mạnh mẽ  các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và  dạy nghề  nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả  năng tiếp nhận các xu thế  công   nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công  nghệ, kỹ  thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo   dục phổ  thông”. Trên phương hướng đó, giáo dục STEM là một trong những nội   dung được chú ý ở các cơ sở giáo dục hiện nay.  Thông qua giáo dục STEM, HS được vận dụng kiến thức, kĩ năng để  giải  quyết vấn đề  thực tiễn, HS tự làm chủ  kiến thức, phát triển các phẩm chất năng  lực. Và như  vậy giáo dục STEM hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu của chương  trình giáo dục phổ  thông mới. Trong Chương trình giáo dục phổ  thông năm 2018,   giáo dục STEM vừa mang nghĩa thúc đẩy giáo dục các lĩnh vực khoa học, công  nghệ, kĩ thuật và toán học vừa thể hiện phương pháp tiếp cận liên môn, vận dụng   kiến thức liên môn giải quyết vấn đề thực tiễn, phát triển năng lực và phẩm chất  người học.  Đề  tài này của chúng tôi hướng đến đối tượng HS trường trung học phổ  thông  dân tộc nội trú (THPT DTNT) với những đặc thù riêng như đến từ các vùng khó khăn,  ít được tiếp cận công nghệ, các trường cũng có ít thuận lợi về cơ sở vật chất  (CSVC)  để  triển khai hoạt động giáo dục STEM. Qua đó, đề  tài nhằm thay đổi nhận thức về  giáo dục STEM của một số cán bộ  quản lý, giáo viên (GV) và phụ  huynh HS khi cho  rằng giáo dục STEM chỉ có lập trình robot; muốn đưa giáo dục STEM vào trường học  thì nhà trường phải trang bị  cơ  sở  vật chất, thiết bị  rất tốn kém; GV phải biết lập   trình; giáo dục STEM không dạy được trong chương trình chính khóa; giáo dục STEM   chỉ thực hiện được đơn môn; một số  GV đã tổ chức cho HS các chủ đề theo giáo dục  STEM mang tính “cầm tay chỉ  việc” nên không đem lại hiêu quả  cao trong việc phát  triển tính tích cực, tự lực, tự chủ đặc biệt là năng lực sáng tạo cho HS… Thực tế, HS  trường THPT DTNT đều sinh hoạt và học tập ngay tại trường nên có rất nhiều thời  gian cho việc hoạt động nhóm sau khoảng thời gian học tập trên lớp. Mặt khác, các em   1
  2. lại rất siêng năng, chăm chỉ, thích tìm tòi, khám phá. Đây chính là những điều kiện  thuận lợi để có thể tổ chức hoạt động giáo dục STEM trong nhà trường.  Ngoài ra, các môn học Toán ­ Vật lí ­ Địa lí , đặc biệt là Vật lí và Địa lí có những  nội dung liên quan đến nhau do đó GV có thể thực hiện dạy học tích hợp ở một số chủ  đề. Bên cạnh đó, để  triển khai các chủ  đề  theo giáo dục STEM có rất nhiều phương   pháp dạy học. Trong đó, dạy học theo dự án thông qua giáo dục STEM là phương pháp   mà ở đó các hoạt động có thể tiến hành linh hoạt ngoài giờ lên lớp và vẫn đảm bảo các  mục tiêu học tập nên được lựa chọn để triển khai cho HS.  Xuất phát từ  những phân tích  ở  trên, chúng tôi chọn đề  tài: “Tổ  chức cho học   sinh trường trung học phổ thông dân tộc nội trú tham gia một số  dự  án theo giáo   dục STEM tích hợp liên môn Toán – Vật lí ­ Địa lí”. Đề tài bao gồm các nội dung sau:  Làm rõ nội hàm khái niệm giáo dục STEM; đề xuất quy trình  hướng dẫn   tổ chức cho  học sinh trường THPT DTNT tham gia một số dự án giáo dục STEM tích hợp liên môn   Toán – Vật lí ­ Địa lí.  2. Mục tiêu nghiên cứu ­ Đối với giáo viên: Nâng cao năng lực tổ chức dạy học theo giáo dục STEM.  ­ Đối với học sinh: Phát huy tính tích cực, tự lực và phát triển năng lực sáng tạo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  ­ Đối tượng: HS lớp 10 trường THPT DTNT số 2 Nghệ An. ­ Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tổ chức hoạt động dạy học kiến thức đơn  môn và kiến thức liên môn Toán­Vật lí­Địa lí ở các trường THPT DTNT tỉnh Nghệ An. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ­ Cơ sở lí luận và thực tiễn về việc tổ chức cho học sinh THPT DTNT tham gia   dự án theo giáo dục STEM tích hợp liên môn.  ­   Điều tra thực trạng về  tổ  chức các hoạt động dạy học theo giáo dục STEM  trong trường THPT DTNT. ­ Đề xuất quy trình, thiết kế, tổ chức cho học sinh THPT DTNT tham gia một số  dự án giáo dục STEM tích hợp liên môn Toán – Vật lí ­ Địa lí;  ­ Tổ chức thực nghiệm để kiểm chứng giả thuyết khoa học của đề tài nghiên cứu.  5. Phương phap nghiên c ́ ưu ́ ­ Phương pháp nghiên cứu lí luận:  Nghiên cứu các tài liệu về tâm lí học; lí luận và phương pháp dạy học (PPDH) ở  trường phổ thông; lí luận và PPDH liên quan đến vấn đề nghiên cứu.  ­ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 2
  3. + Khảo sát điều tra  + Phỏng vấn trao đổi  + Nghiên cứu sản phẩm  ­ Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm Tổ chức dạy học thực nghiệm và thực nghiệm sư phạm  ­ Phương pháp thống kê toán học Sử dụng công cụ toán học thống kê xử lí các số liệu điều tra và kết quả thực nghiệm. 6. Thời gian nghiên cứu ­ Từ tháng 6/2018 đến tháng 10/2018 hình thành ý tưởng ­ Từ tháng 11/2018 đến tháng 2/2020 nghiên cứu và thử nghiệm.  ­ Từ tháng 2 /2020 đến tháng 3/2020 viết thành đề tài. 7. Những đóng góp mới của đề tài ­ Làm rõ cơ  sở  lí luận và thực tiễn về  việc tổ  chức cho học sinh THPT DTNT   tham gia dự án theo giáo dục STEM tích hợp liên môn.  ­ Đề xuất quy trình tổ chức dạy học dự án theo giáo dục STEM tích hợp liên môn.          ­ Xây dựng một số dự án STEM tích hợp liên môn toán­vật lí­địa lí theo hướng  phát triển năng lực sáng tạo và năng lực hướng nghiệp cho học sinh 8. Cấu trúc đề tài Gồm 72 trang: Phần đặt vấn đề  (03 trang); Ph ần n ội dung (45 trang), bao g ồm   1. Tổng quan vấn đề  nghiên cứu, 2. Cơ  sở  lí luận và thực tiển, 3. Kết quả  nghiên  cứu; Phần kết lu ận và kiến nghị  (02 trang);  Tài liệu tham kh ảo (01 trang); 04 Ph ụ  lục (22 trang). 3
  4. Phần 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 2.1.1. Giáo dục STEM trên thế giới Dạy học theo định hướng phát triển năng lực được quan tâm từ  những năm 90  của thế  kỷ  20 và ngày nay đã trở  thành xu hướng giáo dục quốc tế. Dạy học STEM   cũng gắn chặt với mục tiêu theo định hướng phát triển năng lực. Đối với STEM, trên  toàn thế  giới, các nước đều đã và đang phát triển mạnh mẽ. Tại Mỹ  đầu những năm   90, đã hình thành xu hướng giáo dục mới gọi là giáo dục STEM. Trong chương trình   giáo dục STEM, các môn học về khoa học công nghệ không giảng dạy độc lập mà tích  hợp lại với nhau thành một môn học thông qua phương pháp giảng dạy bằng dự  án,   trải nghiệm, thực hành....Tại Pháp thì giáo dục STEM được bao phủ   ở  mọi cấp học.   Trong giai đoạn chính của bậc tiểu học, học sinh được học về Toán học, Khoa học tự  nhiên và công nghệ. HS đã được tham gia các hoạt động trải nghiệm nghiên cứu nhằm  thúc đẩy sự quan tâm của các em về Khoa học và Công nghệ. Tại Anh, giáo dục STEM  đã được phát triển thành một chương trình quốc gia với mục tiêu tạo ra nguồn nhân lực   nghiên cứu khoa học chất lượng cao. Chương trình hành động của Anh nhằm thúc đẩy  giáo dục STEM bao gồm tuyển dụng giáo viên giảng dạy STEM; bồi dưỡng nâng cao   của giáo viên; cải tiến và làm phong phú chương trình học trong và ngoài lớp học; phát   triển cơ sở vật chất hỗ trợ cho việc dạy học. 2.1.2. Giáo dục STEM ở Việt Nam Trong những năm qua đã có nhiều văn bản chỉ  đạo, hướng dẫn thực hiện đổi  mới giáo dục trong đó có liên quan đến giáo dục STEM được ban hành, cụ  thể  như:  Nghị  quyết 29­BCHTW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo; c hỉ thị  số  16/CT­TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  tư và đề ra những giải pháp, nhiệm vụ thúc đẩy giáo dục STEM tại Việt Nam, với chỉ  thị  trên, Việt Nam đã chính thức ban hành chính sách thúc đẩy giáo dục STEM trong   chương trình GDPT, tạo điều kiện để  liên kết các sáng kiến và hoạt động giáo dục  STEM đơn lẻ hiện nay.  Từ  năm 2012, Bộ  GD&ĐT hàng năm đã tổ  chức cuộc thi “Vận dụng kiến thức   liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho HS trung học”. Đặc biệt cuộc  thi “Khoa học kỹ  thuật dành cho HS trung học” do Bộ GD&ĐT tổ  chức dành cho HS  phổ thông đã trở tành điểm sáng tích cực trong giáo dục định hướng năng lực. Các cuộc  thi này là một ví dụ  cho mục tiêu giáo dục nhằm phát triển năng lực HS, hình thành  những kĩ năng học tập và lao động trong thế kỷ 21 và đây cũng chính là mục tiêu của   4
  5. giáo dục STEM hướng tới. Năm 2015, Bộ  Khoa học và Công nghệ  Việt Nam và Liên  minh STEM tổ chức ngày hội STEM lần đầu tiên, tiếp theo đó là nhiều sự kiện tương   tự trên toàn quốc đã diễn ra. Hàng ngàn lượt giáo viên và hàng trăm ngàn lượt học sinh   được tham gia các khóa học ngắn hạn hoặc dạy và học trong các chương trình ngoại   khóa/chính khóa. Một số tác giả đã biên soạn tài liệu về giáo dục STEM như: “ Thiết   kế  và tổ  chức dạy học chủ  đề  STEM cho học sinh THCS và THPT” của Nguyễn  Thanh Nga (chủ biên), “Giáo dục STEM trong nhà trường phổ thông” của Nguyễn Văn  Biên, Tưởng Duy Hải (đồng chủ  biên)…Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học, các   sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên cũng đã đề  cập tới việc tổ  chức dạy học theo   định hướng giáo dục STEM ở các cấp học. Trong Chương trình GDPT mới, vai trò của giáo dục STEM được chú trọng và  thể hiện ở những điểm như: Có đầy đủ các môn học STEM; cải thiện rõ rệt vị trí của   giáo dục tin học và giáo dục công nghệ; yêu cầu dạy học tích hợp và đổi mới phương   pháp giáo dục của Chương trình GDPT mới, tạo điều kiện tổ  chức các chủ  đề  STEM   trong chương trình môn học, góp phần phát triển năng lực vận dụng kiến thức liên môn   giải quyết các vấn đề  thực tiễn cho học sinh; tính mở  của Chương trình GDPT mới   cho phép một số  nội dung giáo dục STEM có thể  được xây dựng thông qua nội dung  giáo dục của địa phương, kế hoạch giáo dục của nhà trường và những hoạt động giáo  dục được xã hội hoá.  Như vây, từ những dẫn chứng  ở trên có thể  thấy rằng mô hình giáo dục STEM   đã được phổ  biến  ở  nhiều địa phương trên cả  nước, Trong đó, giáo dục STEM gắn  liền với việc tích hợp nhiều kiến thức môn học khác nhau (trong đó có các môn như  toán, vật lí, địa lí…), và việc tổ  chức dạy học theo giáo dục STEM khá đa dạng bằng  nhiều phương pháp và hình thức như: Dạy học dự án, dạy học trải nghiệm sáng tạo,   tổ chức ngày hội STEM… 2.1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết trong đề tài 1) Trong các tài liệu khoa học giáo dục, có nhiều quan điểm về giáo dục STEM. Vì  vậy, cần phải làm sáng tỏ  khái niệm và nội hàm, đặc điểm, đặc trưng của giáo  dục STEM. 2) Tổ  chức học  cho học sinh THPT DTNT tham gia một số  dự  án theo giáo dục  STEM tích hợp liên môn Toán – Vật lí ­ Địa lí như thế nào, theo  phương pháp dạy học  nào để cho phù hợp với đối tượng HS và điều kiện của nhà trường hiện nay. 2.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn về tổ chức cho học sinh trường phổ thông dân tộc  nội trú tham gia một số dự án theo giáo dục STEM tích hợp liên môn Toán – Vật lí ­  Địa lí 2.2.1. Cơ sở lí luận 2.2.1.1. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh  a. Năng lực 5
  6. Năng lực được các nhà tâm lý học đưa ra những định nghĩa khác nhau nhưng nội   hàm của chúng đều phản ánh: Năng lực là thuộc tính tâm lý của cá nhân, coi đó là điều  kiện của hoạt động; năng lực là yếu tố  tổ  hợp trong một hoạt động cụ  thể  tạo thành   những điều kiện để tác động vào đối tượng của hoạt động [4], [6], [ 9]. Trong đổi mới,  phát triển giáo dục /dạy học, chúng tôi sử  dụng định nghĩa:  “Năng lực là khả  năng   thực hiện thành công hoạt động  trong một bối cảnh nhất định nhờ  sự  huy động tổng   hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như  hứng thú, niềm tin, ý   chí…” [8, tr.6]. * Phân loại năng lực, có nhiều cách phân loại năng lực khác nhau, có thể  có các   năng lực sau: Năng lực chung và năng lực chuyên môn [2], [6]: b. Sáng tạo ­ Sáng tạo là một loại hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh thần   hay vật chất có tính cách tân, có ý nghĩa xã hội, có giá trị” (Sáng tạo. Bách khoa toàn thư  Liên Xô. Tập 42, trang 54). Sáng tạo là tạo ra những giá trị mới không bị gò bó phụ thuộc   vào cái đã có [5]. ­ Các loại hình sáng tạo: Trong khoa học kĩ thuật, sản phẩm của sáng tạo là các  “phát kiến” và “phát minh”. Phát kiến là một sự xác lập những quy luật, những thuộc  tính, những hiện tượng chưa biết trước đây, tồn tại một cách khách quan của thế giới  vật chất. Phát minh là một cách giải quyết mới mẻ  một nhiệm vụ  trong bất kỳ  một  lĩnh vực nào kinh kế quốc dân, văn hóa, y tế hay quốc phòng mang lại một hiệu quả tích  cực. c. Năng lực sáng tạo Năng lực sáng tạo là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất và tinh thần,   tìm ra cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành công những hiểu biết đã có   vào hoàn cảnh mới. Năng lực sáng tạo gắn liền với kĩ năng, kĩ xảo và vốn hiểu biết   của chủ thể. Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, càng thành thạo và có kiến thức sâu  rộng thì càng nhạy bén trong dự  đoán, nhiều phương án để  lựa chọn, càng tạo điều  kiện cho trực giác phát triển. Bởi vậy, không thể rèn luyện năng lực sáng tạo tách rời,   độc lập với học kiến thức về một lĩnh vực nào đó. d. Cấu trúc năng lực sáng tạo Sơ đồ cấu trúc năng lực sáng tạo trong hoạt động nhận thức của học sinh  6
  7. + Năng lực sáng tạo của nhà khoa học và năng lực sáng tạo của học sinh Hoạt động NCKH của nhà  Hoạt động học tập của HS khoa học Động cơ      Rõ ràng, mạnh mẽ, tính tự       Không phải vấn đề  nào cũng lôi  giác cao  cuốn được HS chú ý, gây được nhu cầu,  hứng thú, tập trung sức lực, trí tuệ; chưa  bền vững.     Phát minh – sáng chế  tìm ra     Thực hiện nhiệm vụ học tập vật lí,   cái mới, giải pháp mới cho xã htiộếi p thu kiến thức, kĩ năng, phương pháp  mà   trước   đó   nhân   loại   chưa   hnh ề ận thức vật lí, kinh nghiệm hoạt động  Mục  biết đến sáng tạo và vận dụng tri thức vào thực  đích tiễn,   những   nội   dung   tri   thức   và   ứng  dụng đã được xã hội biết đến.        Có   năng   lực   tư   duy   phát  Trong các hành động học khó khăn,  Năng  triển,  có   nhiều   khả   năng   tự   lựhạc n  chế,   nhiều   khi   không  đủ   sức   giải  TTNC,  lực   hành   có vốn tri thức ­ kĩ năng ­ quy  ết những vấn đề  khoa học được đặt  động Kinh   nghiệm   sáng   tạo,   có   phươra trong bài h ng  ọc  pháp nhận thức phong phú ­ Có điều kiện lí tưởng về  cơ  ­ Phương tiện, thiết bị, dụng cụ  TN  sở  vật chất, thiết bị, dụng cụ TN; không đ   ắt tiền, đơn giản, dễ  sử  dụng,  có hoặc có thể  tạo ra các phươđngộ  chính xác không cao Phươngtiệ  n   kĩ   thuật   mới   nhất   để   thực  tiện,   điề hiuệ  n nhiệm vụ nghiên cứu. kiện,   đặc  điểm ­   Có   nhiều   thời   gian   (không  hạn chế) để suy nghĩ, thực hiện có  ­ HS làm việc trong thời gian ngắn  khi hàng năm. tính theo phút trong một tiết học ­   Chủ   yếu   làm   việc   độc   lập  ­ TTNC dưới sự  hướng dẫn của GV,  theo ý mình sự giúp đỡ của bạn bè trong nhóm.   Bảng hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà khoa học với hoạt động học tập của HS e. Một số biểu hiện năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập (Xem phụ lục) 2.2.1.2. Giáo dục STEM a. Quan điểm về giáo dục STEM STEM là viết tắt của Science (khoa học), Technology (công nghệ), Engineering  (kĩ thuật) và Math (Toán). Science là hệ thống tri thức về các lĩnh vực như vật lý, hóa  học, sinh học, địa lí…Technology là sự tạo ra, sử dụng, kiến thức về các công cụ, máy  7
  8.    ỹ  thuật,  kỹ  năng nghề  nghiệp,  hệ  thống, và phương pháp  tổ  chức, nhằm giải   móc,  k quyết một vấn đề, kĩ thuật. Enginerring là quá trình thực hiện một giải pháp cho một   vấn đề. Math là những kiến thức về môn toán phục vụ cho việc giải quyết vấn đề.  Trong ngữ cảnh giáo dục, STEM nhấn mạnh đến sự  quan tâm của nền giáo  dục đối với các môn Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học, quan tâm đến việc   tích hợp các môn học trên gắn với thực tiễn để năng cao năng lực cho người học. Giáo  dục STEM có thể  hiểu và diễn giải  ở  nhiều cấp độ  như: chính sách STEM, chương  trình STEM, nhà trường STEM, môn học STEM, bài học STEM, hoạt động STEM.   Giáo dục STEM được nhiều tổ  chức, nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu. Ở  ngữ  cảnh   giáo dục và trên bình diện thế giới, STEM được hiểu với nghĩa là giáo dục STEM [4].  Giáo dục STEM có một số cách hiểu khác nhau. ­ Theo Bộ Giáo dục Hoa Kỳ (2007): “ Giáo dục STEM là một chương trình nhằm   cung cấp hỗ  trợ, tăng cường, giáo dục Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học   (STEM) ở tiểu học và trung học cho đến bậc sau đại học”. ­ Nhóm tác giả Tsupros N., Kohler R., và Hallinen J. (2009) cho rằng:  “Giáo dục   STEM là một phương pháp học tập tiếp cận liên ngành, ở đó những kiến thức hàn lâm   được kết hợp chặt chẽ với các bài học thực tế thông qua việc HS được áp dụng những   kiến thức Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học vào trong những bối cảnh cụ   thể  tạo nên một kết nối giữa nhà trường, cộng đồng và các doanh nghiệp cho phép   người học phát triển những kĩ năng STEM và tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế   mới”. ­ Tác giả  Lê Xuân Quang (2017) cho rằng: “Giáo dục STEM là một quan điểm   dạy học theo tiếp cận liên ngành từ  hai trong các lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kĩ   thuật và Toán học trở lên. Trong đó nội dung học tập được gắn với thực tiễn, PPDH   theo quan điểm dạy học định hướng hành động”[1]. Hiện nay phổ biến 3 cách hiểu về giáo dục STEM như sau:  Cách thứ nhất, quan tâm đến các môn khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học.   Giáo dục STEM là một chương trình nhằm cung cấp, hỗ trợ, tăng cường giáo dục khoa  học, công nghệ, kĩ thuật và toán học. Đây là nghĩa rộng khi nói về STEM. Cách thứ hai, tích hợp của bốn lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán  học. Kiến thức hàn lâm được kết hợp chặt chẽ với các bài học thực tế thông qua việc  HS được áp dụng những kiến thức Khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học  trong bối  cảnh cụ thể nhằm tạo nên một kết nối giữa cộng đồng nhà trường và doanh nghiệp. Cách thứ  ba, giáo dục STEM là phương pháp tiếp cận, khám phá trong giảng  dạy và học tập giữa hai hay nhiều hơn các môn học STEM, hoặc giữa một chủ  đề  STEM và một hoặc nhiều môn học khác trong nhà trường [7]. b. Mục tiêu giáo dục STEM 8
  9. Tùy theo bối cảnh, mục tiêu giáo dục STEM  ở  các quốc gia có khác nhau. Tại  Anh, mục tiêu giáo dục STEM là tạo ra nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học chất   lượng cao. Còn tại Mỹ, ba mục tiêu cơ bản cho giáo dục STEM là: Trang bị cho tất cả  các công dân những kĩ năng về  STEM, mở  rộng lực lượng lao động trong lĩnh vực   STEM bao gồm cả  phụ  nữ  và dân tộc thiểu số  nhằm khai thác tối đa tiềm năng con   người của đất nước, tăng cường số  lượng HS sẽ  theo đuổi và nghiên cứu chuyên sâu  về  các lĩnh vực STEM. Tại Úc, mục tiêu của giáo dục STEM là xây dựng kiến thức  nền tảng của quốc gia nhằm đáp ứng các thách thức đang nổi lên của việc phát triển   một nền kinh tế cho thế kỉ 21… [1]. Như  vậy, mục tiêu giáo dục STEM  ở  các quốc gia có khác nhau nhưng đều   hướng tới sự tác động đến người học, hướng tới vận dụng kiến thức các môn học để  giải quyết các vấn đề  thực tiễn nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội   của đất nước. Ở Việt Nam giáo dục STEM nhằm các mục tiêu cơ bản sau: ­ Góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục đã nêu trong chương trình giáo dục phổ  thông. ­ Phát triển kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho HS phổ  thông thông  qua ứng dụng STEM, nhằm: + Phát triển các năng lực đặc thù của các môn học Vật lí, Hóa học, Sinh học,   Công nghệ, Tin học và Toán. + Biết vận dụng kiến thức các môn Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học  vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. + Có thể đề xuất các vấn đề thực tiễn mới phát sinh và giải pháp giải quyết các   vấn đề đó trong thực tiễn [3]. ­ Phát triển các năng lực cốt lõi cho HS ­ Định hướng nghề nghiệp cho HS ­ Hướng tới giải quyết vấn đề trong thực tiễn ­ Hướng tới việc HS vận dụng các kiến thức trong lĩnh vực STEM để giải quyết. ­ Định hướng thực hành, nghề nghiệp ­ Khuyến khích làm việc nhóm giữa các HS c. Phân loại về giáo dục STEM Giáo dục STEM có thể phân theo các loại hình như sau: ­ Phân loại theo mục tiêu: STEM phát triển năng lực; STEM hướng nghiệp;   STEM phát triển thói quen tư duy kĩ thuật. ­ Phân loại theo nội dung: STEM khuyết; STEM đầy đủ 9
  10. ­ Phân loại theo phương pháp dạy học: Tự  chế  tạo sản phẩm đơn giản; Thực   hành STEM; Dự án STEM; Các gameshow về STEM. ­ Phân loại theo địa điểm: STEM trong lớp học; Câu lạc bộ  STEM; Trung tâm  STEM; Trải nghiệm thực tế STEM;  ­ Phân loại theo phương tiện: STEM tái chế; STEM robotic; STEM trong phòng   thí nghiệm d. Tiêu chí đánh giá tính sáng tạo của học sinh trong dạy học chủ đề STEM  (xem phụ   lục) 2.2.1.3. Một số phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo giáo dục STEM a. Dạy học theo dự án Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó HS dưới sự điều khiển và   giúp đỡ  của GV, HS tự  lực giải quyết một nhiệm vụ  học tập mang tính phức hợp  không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo ra các sản   phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được [3], [6]. Các bước tổ chức hoạt động dạy học theo dạy học dự án, xem bảng 2 dưới đây:  Bước Hoạt động của GV Hoạt động của HS ­   Xây   dựng   bộ   câu   hỏi   định  hướng   hợp   với   nội   dung   học   và  ­ Làm việc nhóm để  lựa chọn chủ  mục tiêu cần đạt được.  đề dự án. Bước   1  ­ Thiết kế  dự  án: xác định lĩnh  ­ Xây dựng kế  hoạch dự   án: xác  Chuẩn bị định vực  thực  tiễn   ứng  dụng  nội  dung     những   công   việc   cần   làm,   thời  (Xây   dựhngọ c, đối tượng sử dụng, ý tưởng và     dự   kiến,   vật   liệu,   kinh   phí,  gian phương pháp tiến hành và phân công  a  ự án.  tên d ý   tưởng,   lự công việc trong nhóm.  chọn   chủ   đề,  ­ Thiết kế các nhiệm vụ cho HS  xây   dựng   ksao cho khi HS th ế  ực hiện xong thì  ­ Tìm các nguồn thông tin tin cậy  hoạch   thự bộc  câu hỏi được giải quyết và các để  chuẩn bị thực hiện dự án. hiện dự án) mục tiêu cũng đạt được.  ­ Cùng GV thống nhất các tiêu chí  đánh giá d ­ Chuẩn bị tài liệu hỗ trợ HS và  ự án. dự kiến các điều kiện thực hiện dự  án trong thực tế. Bước 2  ­  Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá  ­   Phân   công   nhiệm   vụ   các   thành  Thực   hiệHS trong quá trình th n  ực hiện.  viên trong nhóm thực hiện dự  án theo  dự án n,  ế hoạch. ­   Liên   hệ   các   cơ   sở,   cố   vấđúng k khách mời cần thiết cho HS.  ­ Tiến hành thu thập, xử  lý thông  10
  11. tin thu được.  ­ Chuẩn bị  cơ  sở  vật chất, tạo  ­ Xây dựng sản phẩm/ báo cáo.  điều kiện cho HS thực hiện. ­ Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ.  ­   Sơ   bộ   thông   qua   sản   phẩm  cuối của các nhóm HS. ­ Thường xuyên thông tin cho GV  và các nhóm khác. ­ Chuẩn bị giới thiệu sản phẩm. ­ Chuẩn bị  cơ  sở  vật chất cho   Bước 3 ­ Tiến hành giới thiệu sản phẩm.  buổi báo cáo dự án.  Kết   thúc   ­ Tự đánh giá sản phẩm dự  án của  ­ Theo dõi, đánh giá sản phẩm  dự án nhóm theo tiêu chí. dự án của các nhóm. ­ Đánh giá sản phẩm nhóm khác.  Dạy học theo dự  án và dạy học theo mô hình giáo dục STEM có những điểm  tương đồng như:  ­ Đều hướng tới mục tiêu lâu dài, lấy người học làm trung tâm, gắn liền nội dung   và tích hợp với các vấn đề thực hành thực tế. GV chỉ đóng vai trò dẫn dắt và trao quyền   cho HS làm chủ quá trình học tập, từ đó tạo dựng môi trường học tập chủ động hơn. ­ Đều là cách tiếp cận để  giúp nhà trường, lớp học có thể  tạo dựng được môi  trường học tập và từng bướng hình thành khung năng lực của thế kỷ 21, trong đó có mô  hình 4Cs: Tư duy phản biện; tư duy sáng tạo; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng hợp tác. Qua đó,  HS rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp và kĩ năng sống.  ­ HS được tham gia trải nghiệm vào các hoạt động trong tiến trình học theo dự án:   Lựa chon chủ đề ­ Lập kế hoạch – Thu thập thông tin – xử lí thông tin – Trình bày kết   quả ­ Đánh giá kết quả; tiến trình học theo dự án tiếp cận với tiến trình nghiên cứu khoa  học. ­ Sau khi kết thúc các hoạt động học tập, HS thường có sản phẩm, tuy nhiên sản  phẩm học tập không phải là điều quan trọng nhất để đánh giá HS mà đó là năng lực, kiến  thức và thái độ HS có được trong quá trình tạo ra sản phẩm.  ­ HS vận dụng kiến thức tích hợp của nhiều lĩnh vực, môn học để giải quyết vấn  đề đặt ra. Và do vậy, dạy học theo dự án hay theo mô hình giáo dục STEM thường gắn   với dạy học tích hợp liên môn các môn học trong nhà trường. ­ Về mặt tổ chức các hoạt động: + GV tổ  chức cho HS cùng tham gia đề  xuất, lựa chọn chủ  đề  khoa học ­ kĩ   thuật, xác định mục tiêu, dự kiến sản phẩm, cách làm, thời gian thực hiện dự án.   + GV thường dùng bộ  câu hỏi định hướng để  giúp HS tự  hoạt động nhóm thu  thập, xử lý, tổng hợp thông tin, xây dựng sản phẩm khoa học ­ kĩ thuật. 11
  12. + GV tổ chức cho HS báo cáo, trình bày sản phẩm khoa học ­ kĩ thuật, đánh giá,   rút kinh nghiệm, đúc kết các kiến thức trọng tâm thu được…  Như  vậy, từ  những phân tích  ở  trên, có thể  rút ra rằng “ dạy học dự   án là  phương pháp dạy học tích cực rất phù hợp để  tổ  chức dạy học các chủ  đề/bài học   STEM đòi hỏi chế  tạo sản phẩm”[10]. Và việc tổ  chức học tập dự  án theo giáo dục  STEM là hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho HS tổng hợp kiến thức từ nhi ều lĩnh  vực học tập, và áp dụng một cách sáng tạo vào  thực tiễn; thể  hiện “học đi đôi với hành, lý luận  gắn với thực tiễn”. b. Dạy học theo mô hình 5E  Mô  hình 5E là viết tắt của 5 từ  bắt  đầu  bằng chữ  E trong tiếng Anh: Engage (gắn kết),   explore (khảo sát), explain (giải thích), elaborate  (củng cố), evaluate (đánh giá). Mô hình dạy học  5E khá phổ biến trong các chương trình khoa học và tích hợp STEM của Mỹ. Nó gồm 5   giai đoạn và có những đặc điểm chính như sau: ­ Engage (Gắn kết):  GV có thể gợi ý cho HS đặt câu hỏi mở hoặc ghi lại những gì đã biết về chủ đề.   Thông qua các hoạt động đa dạng, GV thu hút sự chú ý và quan tâm của HS, hS tìm ra   được mối liên hệ  và kết nối với những kiến thức hoặc trải nghiệm trước  đó. Giai  đoạn này cho phép HS gắn kết, liên hệ lại với các trải nghiệm và quan sát thực tế mà  các em đã có trước đó. ­ Khảo sát (Exploration):    Trong giai đoạn này, Hs được chủ  động khám phá các khái niệm mới thông qua  các trải nghiệm cụ thể. Gv cung cấp những kiến thưc shoawcj nh ững trfair nghi ệm c ơ  bản, nền tảng, dựa vào đó các kiến thức mới có thể bắt đầu. Giai đoạn này HS sẽ trực   tiếp khám phá và thao tác trên các vật liệu hoặc học cụ được chuẩn bị sẵn. GV có thể  yêu cầu HS thực hiện các hoạt động như qun sát, làm thí nghiệm, thiết kế, thu số liệu.   VD: GV có thể cho HS làm thí nghiệm với những vật liệu và dụng cụ có sẵn, HS làm   theo hướng dẫn hoặc HS được đi thực địa để khảo sát/ quan sát một chủ đề nào đó. ­ Giải thích (Explanation) Ở  giai đoạn này GV sẽ  hướng dẫn HS tổng hợp kiến thức mới và đặt câu hỏi   nếu cần làm rõ thêm. GV tạo điều kiện cho HS được trình bày, miêu tả, phân tích các   trải nghiệm hoặc quan sát thu nhận được ở bước khảo sát. Ở bước này GV có thể giới  thiệu các khái niệm mới, công thức mới giúp HS kết nối và thấy được sự  liên hệ  với  trải nghiệm trước đó. Để giai đoạn này hiệu quả, GV nên yêu cầu HS chia sẻ những gì  mà các em đã học được trong giai đoạn khảo sát trước khi giới thiệu thông tin chi tiết   một cách trực tiếp hơn. 12
  13. ­ Củng cố (Elaborate):   GV giúp HS thực hành và vận dụng các kiến thức đã học được  ở  bước giải  thích, giúp HS đào sâu hơn các hiểu biết, kĩ năng thành thạo hơn và có thể  áp dụng  được trong những tình huống khác nhau. Điều này giúp các kiến thức trở  nên sâu sắc  hơn. GV có thể yêu cầu HS trình bày chi tiết hoặc tiến hành khảo sát bổ sung để củng   cố các kĩ năng mới.  ­ Đánh giá (Evaluation) GV có thể quan sát HS thông qua các hoạt động trong nhóm để xem sự tương tác   trong quá trình học. GV cũng có thể  đánh giá dựa trên các bài tập cá nhân, các sản  phẩm nhóm, quá trình tự đánh giá hoặc đánh giá giữa các HS với nhau. GV sử dụng các   linh hoạt các kĩ thuật đánh giá đa dạng để  nhận biết quá trình nhận thức và khả  năng   của từng HS, từ  đó đưa ra các phương hướng điều chỉnh và hỗ  trợ  HS phù hợp, giúp  HS đạt được các mục tiêu học tập như đã đề ra. [4]    c. Dạy học giải quyết vấn đề (Xem phụ lục) d. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” (Xem phụ lục) 2.2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.2.1. Thực trạng dạy học theo giáo dục STEM ở Nghệ An a. Tình hình chung Dạy học theo giáo dục STEM đã được tổ chức thực hiện tại một số cơ sở giáo  dục của tỉnh Nghệ An. Huyện Thanh Chương là huyện đầu tiên tại Nghệ  An tổ  chức  tập huấn chương trình giáo dục STEM cho tất cả  giáo viên cốt cán và Ban giám hiệu   của tất cả  trường học kể  cả  tiểu học, THCS và THPT trên toàn huyện.  Ở  đây đã tổ  chức ngày hội STEM, các câu lạc bộ  STEM trong nhiều trường học và trở  thành hình  mẫu để  các đơn vị  khác học tập. Đáng chú ý, kinh phí cho các hoạt động STEM này   chủ yếu do các cựu HS của huyện tài trợ. Tại những địa phương khác, giáo dục STEM  được tổ  chức trong nhà trường thường qua các hình thức như: Sinh hoạt câu lạc bộ  STEM, các cuộc thi, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phối hợp tổ chức các hoạt động  STEM giữa nhà trường và các cơ  sở  dạy nghề, ngày hội STEM... đã có được những   kết quả  bước đầu, tạo tiền đề  thuận lợi cho bước triển khai tiếp theo mang tính đại   trà và hiệu quả. Một số  trường THPT cũng đã tổ  chức câu lạc bộ  STEM ngay trong  trường học với nhiều nội dung phong phú, hấp dẫn như  ngày hội STEM  ở  trường  THPT chuyên Phan Bội Châu… Hè năm học 2018 – 2019 Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ  An tổ chức tập huấn cho tất cả giáo viên cốt cán thuộc cấp THCS và Cấp THPT toàn  tỉnh về chương trình giáo dục STEM.  b. Thực trạng và nguyên nhân Chúng tôi đã điều tra thực trạng dạy và học theo mô hình giáo dục STEM ở một   số  trường THPT (trong đó có trường DTNT) trên địa bàn tỉnh Nghệ  An thông qua sử  13
  14. dụng phiếu điều tra thực trạng (xem phụ lục). Đối tượng khảo sát chủ yếu là GV các  môn toán, vật lí, địa lí. HS của các trường THPT, chủ yếu là đối tượng lớp 10 trường  PT DTNT. Kết quả điều tra là cơ  sở  để  chúng tôi đề  xuất định hướng và giải pháp tổ  chức hoạt động học tập cho học sinh THPT DTNT theo giáo dục STEM.  Qua kết quả  điều tra thực trạng có thể thấy rằng:  Đối với giáo viên ­ Về mức độ vận dụng các PPDH tích cực : + GV đều đã sử dụng PPDH tích cực ở những mức độ khác nhau. Các PPDH hay  được sử dụng đó là : Dạy học giải quyết vấn đề ; dạy học có hoạt động nhóm ;... Chủ  yếu các PPDH này được thực hiện ở trên lớp học. + PPDH theo dự án cũng được GV sử dụng nhưng mức độ rất ít, và sử dụng vừa  trên lớp vừa ngoài giờ lên lớp.  ­ Về dạy học theo giáo dục STEM             + 100 % GV đều đã nghe về giáo dục STEM và 71% GV đều cho rằng dạy học  STEM cần sử dụng kiến thức liên môn để  giải quyết vấn đề. Số  còn lại cho rằng dạy   học theo giáo dục STEM chỉ cần sử dụng kiến thức trong môn học mình là đủ.  + Trong số  các GV đã biết về  STEM, chỉ  9% GV là đã vận dụng vào dạy học   STEM và các GV đều tập trung ở các môn khoa học tự nhiên.  + Có đến 85% GV cho rằng giáo dục STEM chỉ học được ở các môn khoa học tự  nhiên (vật lý, hóa học, sinh học).  + 86% GV đều cho rằng giáo dục STEM thúc đẩy phát triển các năng lực của HS :  Tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo; giao tiếp và hợp tác + 95% GV cho rằng giáo dục STEM cần có rô bôt hoặc các trang thiết bị đắt tiền ­ Về khó khăn gặp phải khi dạy học theo giáo dục STEM : Có bốn nguyên nhân GV  hay gặp nhất đó là : GV thiếu kiến thức các môn học không phải chuyên môn của mình;  GV cho rằng không thể  dạy được trong chương trình chính khóa; không phù hợp với  việc thi cử như hiện nay; thiếu trang thiết bị học tập   Đối với học sinh: ­ 5% HS đã từng tham gia dự án học tập  ­ 68%  đều đã từng thảo luận nhóm khi học tập trên lớp. ­ 100% đều được học tin học ở lớp 10; 98% biết sử dụng mạng xã hội (chủ yếu   là Facebook). Trong khi đó, chỉ 11% các em biết sử dụng một số phần mềm lập trình và  khai thác intenet phục vụ cho việc học tập + Đối với việc giải quyết vấn đề trong học tập: 100% đã tham gia một vài cung   đoạn của việc giải quyết vấn đề nhưng 86% là do GV nêu tình huống trước, trong quá   trình thực hiện có đến 78% là cần sự giúp đỡ của GV. 14
  15. + 91% HS lớp 10 chưa bao giờ nghe về giáo dục STEM   ­ Về mong muốn nhiều nhất của HS trong quá trình học tập xếp theo thứ tự sau:   100% các em đều mong muốn được sử dụng CNTT; 100% đều muốn học tập cả ngoài  thực địa hoặc được làm thí nghiệm, thực hành; 100% HS thích tiết học mà thầy cô thao  giảng; 87% mong muốn được trao đổi thảo luận nhiều hơn; 79% muốn HS giải quyết   vấn đề nhưng có GV hỗ trợ.   Nguyên nhân: Trên cơ sở thực trạng nêu trên, chúng tôi phân tích một số thuận lợi, khó khăn  và  nguyên nhân của việc triển khai giáo dục STEM hiện nay như sau:  ­ Một số  GV chưa hiểu bản chất của giáo dục STEM. Do bản thân chưa được  tiếp cận nhiều với các quan điểm về giáo dục STEM. Việc tiếp cận không chỉ qua các  đợt tập huấn của Bộ mà còn qua nhiều nguồn tài liệu, dự  giờ  các buổi dạy, tham dự  các hoạt động sinh hoạt chuyên môn, hội thảo về  giáo dục STEM... Thực tế  có rất   nhiều quan điểm khác nhau về giáo dục STEM. Do đó, khi  tiếp cận nhiều góc độ khác   nhau, GV sẽ hiểu được cốt lõi bản chất của giáo dục STEM và triển khai nó như  thế  nào để hiệu quả nhất tại trường của mình.  ­ Việc tổ chức dạy học theo giáo dục STEM cần sử dụng kiến thức nhiều môn  học nên GV gặp khó khăn trong việc xây dựng phân phối chương trình như thế nào cho   hợp lí để vừa đảm bảo chương trình của Bộ, vừa tích hợp được liên môn. GV THPT   chỉ  được đào tạo một lĩnh vực chuyên môn trong khi giáo dục STEM đòi hỏi phải có  kiến thức nhiều môn học nên GV phải bổ sung thêm kiến thức ở các môn khác và cần  phải có sự  phối hợp giữa các GV để  dạy học. Bên cạnh đó, một số  GV vẫn có quan   điểm dạy học theo giáo dục STEM là tốn kém (đặc biệt khi thực hiện theo dự án) nên   cảm thấy khó khăn về  CSVC, trang thiết bị  phục vụ  học tập. Ngoài ra, các cuộc thi  học sinh giỏi, thi THPT quốc gia, thi và kiểm tra thường xuyên trên lớp vẫn theo kiểu   truyền thống theo từng môn học, lý thuyết nhiều nên nhiều trường học chưa quan tâm   đến giáo dục STEM và do vậy, không có chính sách khuyến khích thúc đẩy GV dạy  học theo mô hình này. ­ Tuy vậy, có một số thuận lợi nhất định về phía GV khi tiến hành tổ chức dạy   học theo giáo dục STEM. Đa phần GV đều nhận thấy rằng giáo dục STEM là cần  thiết để  thúc đẩy tính sáng tao, phát huy năng lực của HS. Các GV cũng đều đã biết   hoặc sử  dụng  ở  mức độ  khác nhau về  các PPDH tích cực phù hợp với dạy học theo  giáo dục STEM như dạy học dự án, ngoại khóa…    ­ Về  phía HS, các em đều chưa từng nghe về giáo dục STEM do khảo sát tiến   hành khi HS mới vào lớp 10, trong khi  ở  bậc THCS chưa được tiếp xúc với nó. Đa  phần các kĩ năng về  CNTT còn yếu, việc học nhiều khi còn quen cách học thụ  động  (GV đọc chép, hoặc hướng dẫn hết tất cả  các hoạt động), ít được trải nghiệm, thực  hành, vận dụng vào thực tiễn do đa số HS đều là dân tộc thiểu số đến từ những vùng  15
  16. nghèo nhất của tỉnh. Việc học tập theo cách học mới chắc chắn HS sẽ  gặp trở  ngại  hơn, GV phải nỗ lực hơn để giúp đỡ các em. ­ Những thuận lợi của HS khi tổ  chức các hoạt động dạy học theo giáo dục   STEM đó là: Mong muốn của các em trong quá trình học tập là được sử  dụng CNTT,   được thảo luận nhiều hơn, được thực hành, trải nghiệm, vận dụng kiến thức đã học  vào thực tiễn… Mà tất cả những yếu tố này đều cần phải có khi học tập theo giáo dục   STEM. Cho nên tuy là HS chưa từng được tiếp xúc STEM nhưng chắc chắn khi được   học theo giáo dục STEM sẽ tạo sự thích thú, hào hứng nơi các em. Ngoài ra, việc tất   cả  HS học tập trung tại trường, quá trình học tập đều chăm chỉ  và có sự  nỗ  lực vượt   khó rất lớn cũng là nhân tố  quan trọng để  GV dễ  dàng hơn trong việc triển khai dạy  học, qua đó đạt mục tiêu theo kế hoạch ban đầu.       2.2.2.2. Chương trình các môn học Giáo dục STEM sử dụng kiến thức các môn học là toán, khoa học (gồm các môn như  vật lí, hóa học, sinh học, địa lí), các môn công nghệ, tin học…ở những mức độ khác nhau.  Toán là môn học luôn có mặt trong giáo dục STEM và có thể coi là công cụ để giải quyết   vấn đề. Do vậy, các nội dung toán học được sử dụng có thể nằm vào chương trình THPT,  THCS hoặc chỉ  có thể  là các kiến thức tính toán đơn giản. Đây cũng là quan điểm khi  chúng tôi xây dựng các đề tài theo giáo dục STEM. Đó là việc tích hợp môn Toán không  nhất thiết phải gắn với một đơn vị  kiến thức cụ  thể  trong chương trình THPT mà có  thể  sử  dụng nhiều kiến thức khác nhau,  ở  các cấp học khác nhau để  giải quyết vấn  đề. Nhiều khi kiến thức toán học được sử  dụng rất đơn giản nhưng thiếu nó vấn đề  không thể  giải quyết được. (Ví dụ  tính tỉ  lệ  xích bản đồ  trong dự  án đo chu vi Trái   Đất,  ở  mục 2.4.2). Vì vậy, khi phân tích các nội dung tương đồng của ba môn Toán­ Vật lí­Địa lí, chủ yếu đề tài chỉ đề cập đến hai môn Vật lí và Địa lí. Kiến thức toán học được khai thác, sử dụng nhiều trong các môn học khác nhau  như  vật lí, hoá học, sinh học, công nghệ, địa lí… Những khai thác có tính tích hợp đa   môn, tích hợp giữa giáo dục toán học với các môn khác sẽ  giải quyết được đồng thời  ba vấn đề: Thứ nhất, mang lại hiệu quả đối với việc học tập các môn học  đã nêu, thứ  hai góp phần củng cố kiến thức, hiểu được ý nghĩa của kiến thức toán học; thứ  ba góp   phần rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn.  Môn vật lí và địa lí có nhiều nội dung dạy học liên quan với nhau. Chúng tôi liệt   kê một số bài học liên quan giữa hai bộ môn. Trong đó, mạch nội dung đi theo chương   trình môn địa lí lớp 10. Còn môn vật lí có thể  sử  dụng cả  kiến thức THPT hoặc cả  kiến thức THCS.  Vật lí Địa lí - Bài 41. Cấu tạo của Vũ Trụ (Hệ Mặt Trời, các - Bài 5. Vũ trụ. Hệ Mặt Trời và Trái Đất. Hệ quả chuyển thiên hà, giờ). động tự quay quanh trục của Trái Đất. - Bài 11. Lực hấp dẫn. Định luật vạn vật hấp dẫn - Bài 6. Hệ quả chuyển động xung quanh Mặt Trời của ….. Trái Đất. 16
  17. …… - Bài 28. Cấu tạo chất, thuyết động học phân tử - Bài 11. Khí quyển. Sự phân bố nhiệt độ không khí chất khí; trên Trái Đất. - Bài 29. Quá trình đẳng nhiệt; - Bài 12. Sự phân bố khí áp. Các loại gió chính. - Bài 31. Phương trình trạng thái của khí lí tưởng; - Bài 13. Ngưng đọng hơi nước trong khí quyển. Mưa. (Các hiện tượng tự nhiên của khí quyển như: Sự - Bài 38. Sự chuyển thể của các chất (sự bay hơi, nhiệt hóa hơi); hình thành mây, mưa, tuyết rơi, mưa đá, nhiệt độ không - Bài 39. Độ ẩm của không khí. khí trên Trái Đất…) - Bài 9. Áp suất khí quyển; - Bài 15, 16. Các hiện tượng, quá trình xảy ra trong - Bài 23. Đối lưu, bức xạ nhiệt; thủy quyển như: Vòng tuần hoàn nước, thủy triều, sóng. … - Bài 61. Sản xuất điện năng: Nhiệt điện, thủy - Bài 32. Địa lí các ngành công nghiệp (CN) điện. Tiết 1. Địa lí các ngành CN năng lượng: CN khai - Bài 62. Điện gió- điện Mặt Trời- thủy điện. thác than, khai thác dầu, CN điện …… - Bài 34. Thực hành ……. Trong thực tiễn cuộc sống có nhiều vấn đề cần giải thích/ làm sáng tỏ/ vận dụng/… thì không thể chỉ sử dụng kiến thức đơn môn giải quyết được mà phải cần kiến thức liên môn mới giải quyết được. Các kiến thức được sử dụng có thể là của THPT hoặc cả THCS và ở những mức độ khác nhau. Do vây, GV có thể lựa chọn linh hoạt các nội dung phù hợp để tiến hành dạy học. 2.3.   Quy   trình   tổ   chức   dạy   học   dự   án   theo   giáo   dục   STEM   cho   học   sinh   trường trung học phổ thông dân tộc nội trú Qua quá trình nghiên cứu cơ  sở  lí luận và thực tiễn, chúng tôi xin đề  xuất quy  trình chuẩn bị, tổ chức một dự án theo giáo dục STEM cho học sinh THPT DTNT theo   các bước sau:   17
  18.     Quy trình các bước thực hiện một dự án theo giáo dục STEM cho HS trường  THPT  DTNT Bước 1. Chuẩn bị dự án   Nêu ý tưởng:  Một ý tưởng hay vấn đề thường xuất phát từ một câu hỏi, một sự nghi ngờ. Vấn đề  có thể mang tính lí thuyết (về các hiện tượng, khái niệm, công thức, định lí…) hay tính thực   tiễn; thuộc mảng xã hội hay kĩ thuật; có thể mô tả ngắn gọn hoặc hết sức trừu tượng. Hoài  nghi và đặt vấn đề chính là điểm mấu chốt, khởi đầu cho sự học tập không ngừng nghỉ của  HS. Với mỗi đề tài, cách đặt vấn đề tạo tình huống bằng một câu chuyện, bằng các hình   ảnh, bằng mô hình, … phải thực sự gây chú ý, tạo sự tò mò khoa học; phải giúp HS/nhóm  HS xác định rõ ràng vấn đề mà HS/nhóm HS phải giải quyết trong dự án. Đối với đối tượng là HS THPT DTNT, GV nên lựa chọn các vấn đề phù hợp, vừa sức,   không quá phức tạp, có thể liên hệ từ các tình huống trong thực tiễn để HS dễ hình dung ra   vấn đề. GV nên có bộ câu hỏi định hướng ngay từ đầu để HS có thể hình dung được vấn đề  mình cần giải quyết.   Xác định mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ, năng lực HS cần đạt được sau  khi thực hiện dự án. Mục tiêu cần rõ ràng, chi tiết có tính khả thi phù hợp với năng  lực HS và điều kiện của trường học. GV chú ý rằng do dự  án đòi hỏi sử  dụng  kiến thức tích hợp liên môn nên trong mục tiêu cần chỉ rõ kiến thức của từng môn  học đạt được. GV cần chú ý các năng lực HS đạt được khi thực án theo giáo dục   STEM như năng lực hợp tác, năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề; các kĩ  năng cần thiết để  hoàn thành dự án, đặc biêt các kĩ năng liên quan đến công nghệ  và kĩ thuật.      Xác định đối tượng, hình thức, tên dự án, các yếu tố STEM ­ Xác định đối tượng phù hợp với dự án trên cơ sở nội dung bám sát với chương  trình phổ  thông của Bộ  Giáo dục và Đào tạo. Xác định thời gian phù hợp gồm cả thời  gian chuẩn bị, thời gian thực hiện. Mỗi dự án nên xây dựng thời gian thực hiện trên lớp từ  60 đến 120 phút.      ­  Hình thức tổ  chức: có thể  tổ  chức trong giờ  học chính khóa tại các phòng  STEM/phòng học của nhà trường hoặc tại các cơ sở sản xuất, phòng STEM các doanh  nghiệp, các trường đào tạo nghề. Ví dụ tại trường PT DTNT THPT số 2 Nghệ An, HS   ngoài việc thực hiện dự án tại trường có thể cho thực hiện ở nhà trong các đợt nghỉ lễ,  hoặc kết hợp với tham quan, học tập trải nghiệm  ở các trường dạy nghề, nhà máy… Khi tổ chức tại trường, GV cần chú ý tuân thủ  theo nội quy của trường như giờ giấc   sinh hoạt, việc sử dụng internet và điện thoại, các biện pháp an toàn cho HS…Do vậy,  GV cần thường xuyên nhắc nhở, theo dõi quá trình làm việc của HS phải đúng các yêu  cầu của kế hoạch dự án đã đề ra. 18
  19. ­ Xác định các yếu tố STEM liên quan: Khác với các dự  án thông thường, dự  án  STEM còn thêm bước xác định các yếu tố  STEM liên quan khi thực hiện dự  án. GV  cần phân tích, làm rõ các thành phần S, T, E, M khi chuẩn bị dự án. Tuy nhiên khi giới   thiệu dự án cho HS, GV nên để HS tự phân tích các yếu tố này, còn GV chỉ đóng vai trò   hướng dẫn mà không nên làm thay HS. Đối với việc tích hợp liên môn vật lí­địa lí, GV  cần yêu cầu HS chỉ rõ đâu là kiến thức của từng môn học, nội dung đó nằm trong lớp   nào, chương nào, vận dụng để giải quyết nội dung gì…    Thiết kế tiến trình chi tiết dự án Sau khi thực hiện các bước trên, GV vạch tiến trình chi tiết các bước thực hiện   một dự  án. Bao gồm: Xác định ý tưởng; xác định mục tiêu của dự  án theo giáo dục   STEM; xác định được quy trình (các hoạt động hoặc chuỗi hoạt động) kĩ thuật để thực   hiện dự án theo giáo dục STEM. Việc thiết kế cần chi tiết, rõ ràng, đảm bảo đúng với  mục tiêu đề ra.        Chuẩn bị CSVC, thiết bị, tài liệu, kinh phí cần thiết ­ Dự  án tiến hành  ở  đâu? Bố  trí, sắp xếp phòng  ốc, địa điểm như  thế  nào?   ­ Dự kiến thiết bị (tìm ở đâu/mua ở đâu?), tài chính cần thiết cho dự án? (Có thể  huy động tài chính từ những nguồn nào?..) Thực tế, đối với đối tượng HS THPT DTNT   thì GV rất khó huy động nguồn tài chính từ  phụ  huynh HS, trong khi kinh phí nhà   trường lại rất hạn hẹp. Chính vì vậy, GV cần cân nhắc lựa chọn các dự  án phù hợp,   tiết kiệm chi phí, tận dụng được tối đa CSVC của nhà trường.        Giới thiệu dự án, chuyển giao nhiệm vụ cho HS   ­ GV giới thiệu dự  án tới HS: Tên dự  án, mục tiêu, những nội dung cần giải  quyết của dự án. GV cần lưu ý vừa gợi mở ý tưởng cho HS nhưng cũng không làm hộ  hoàn toàn hết các bước cho HS.       ­ Chia nhóm, chuyển giao nhiệm vụ: GV có thể để HS tự lựa chọn nhóm làm việc  của mình. Tuy nhiên cần thống nhất với HS ngay từ đầu về số lượng các thành viên nhóm,  cách thức chia nhóm.  ­ Gợi ý HS/ nhóm HS xác lập nhóm các vấn đề cần phải lần lượt giải quyết để làm   căn cứ giải quyết câu hỏi chính của dự án. ­ Định hướng HS tìm và sử dụng các vật liệu liên quan. Giới thiệu những người có  khả năng hỗ trợ cho HS khi thực hiện dự án, hướng dẫn HS liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi   cần, hoặc cách thức tra cứu tài liệu trên Internet, trong thư viện, …  ­ Quy định cách thức thực hiện, tiêu chí đánh giá: GV và các nhóm thống nhất các tiêu   chí đánh giá trên cơ sở các nội dung ở kế hoạch GV đã vạch ra. Có thể bao gồm đánh giá của   GV, đánh giá giữa các nhóm và đánh giá các thành viên trong nhóm với nhau. Các tiêu chí đưa  19
  20. ra nên rõ ràng, có điểm số. Đối với dự án theo giáo dục STEM cần nhấn mạnh việc đánh giá  không chỉ riêng sản phẩm cuối cùng của dự án mà còn cả quá trình thực hiện dự án. ­ Chuẩn bị các mẫu vật, hóa chất, dụng cụ, vị  trí để  thực hiện dự  án STEM:  Trên cơ sở nội dung, mục tiêu chủ đề, HS chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất, dụng cụ…  cần thiết để tổ chức thực hiện dự án; GV hỗ trợ HS khi cần thiết.  Bước 2. Thực hiện dự án  Triển khai thực hiện theo tiến trình dự án HS/nhóm HS trong quá trình thực hiện dự án phải luôn luôn liên hệ, báo cáo kết   quả thực hiên định kỳ với giáo viên phụ trách để được tư vân, hỗ trợ kịp thời.   Báo cáo kết quả, đánh giá dự án ­ Hướng dẫn, hỗ trợ HS trình bày, tranh luận, bảo vệ kết quả nghiên cứu.  HS báo  cáo kết quả  quá trình ứng dụng STEM giải quyết vấn đề  thực tiễn, có thể  đề  xuất   một số vấn đề mới phát sinh, ý tưởng mới liên quan đến chủ đề.  Đối với dự  án theo giáo dục STEM thì sản phẩm không phải là mục tiêu quan   trọng nhất. GV cần chú ý rằng quá trình HS vận dụng các kiến thức liên để giải quyết   vấn đề  cũng là một bước hết sức quan trọng. HS không chỉ  nắm kiến thức lý thuyết  trong chương trình mà còn biết vận dụng các kiến thức đó để  giải quyết vấn đề  thực  tiễn. Và thậm chí các kiến thức đó không chỉ  được vận dụng đơn lẻ  trong nội môn,  chúng còn được liên kết, xâu chuỗi với nhau ở nhiều môn học. Đó là một trong những   ý nghĩa tích cực mà dạy học theo giáo dục STEM đem lại cho HS.     ­ Tổng kết, đánh giá theo tiêu chí đề ra, khen thưởng khi kết thúc buổi trình bày dự  án. GV cần phải khẳng định thành quả tìm tòi nghiên cứu của từng nhóm. Chỉ ra những ưu,   nhược điểm của từng nhóm trong việc lập kế hoạch tìm hiểu, nghiên cứu của nhóm, việc  phân công, hợp tác thực hiện giữa các thành viên trong nhóm.  ­ GV có thể cho HS tiếp tục mở rộng, nghiên cứu phát triển dự án.   2.4. Tổ  chức thực hiện một số  dự án theo giáo dục STEM tích hợp liên môn   toán­vật lí­địa lí 2.4.1. Một số dự án gợi ý  Trên cơ sở phân tích chương trình và SGK ở phần cơ sở thực tiễn, chúng tôi đưa   ra một số dự án theo giáo dục STEM tích hợp liên môn toán­vật lí­địa lí   Tên dự án Nội dung Kiến thức liên quan HS thực nghiệm đo chu vi Trái Đất từ  Địa lí:  Bài 5,6, địa 10:  đo  ụng cụ  đơn giản tại sân trường/  ở Hệ  quả  chuyển động của  Dự   án   các d chu vi Trái Đấnhà, vào th t ời điểm giữa trưa. HS dựa vào Trái Đất. năng lực sáng tạo của mình thiết kế  ra  Vật lí: Bài 11. Lực hấp  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2