intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:45

12
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giờ sinh hoạt lớp chủ nhiệm trong trường THPT Yên Thành 3 và THPT Nam Yên Thành; Nghiên cứu đề tài khẳng định Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đềnhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018 là một hướng tiếp cận trong việc thực hiện giờ sinh hoạt lớp hiệu quả, tạo hứng thú cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018

  1. ĐỀ TÀI: “TỔ CHỨC SINH HOẠT LỚP THEO CHỦ ĐỀ NHẰM THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018” LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM 1
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NAM YÊN THÀNH ĐỀ TÀI: “TỔ CHỨC SINH HOẠT LỚP THEO CHỦ ĐỀ NHẰM THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018” Tác giả: Lê Thị Trúc Lĩnh vực: Chủ nhiệm SĐT: 0365638224 Năm học 2022 - 2023 2
  3. MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Tính đổi mới của đề tài ...................................................................................... 3 II. NỘI DUNG ......................................................................................................... 4 1. Mục đích nghiên cứu3-15 .................................................................................. 4 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 4 3. Phương pháp và thời gian nghiên cứu ............................................................... 4 3.1. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4 3.2. Thời gian nghiên cứu .................................................................................. 4 3.3. Kế hoạch nghiên cứu ................................................................................... 4 4. Khả năng phát triển, ứng dụng thực tế ............................................................... 5 5. Hiệu quả ............................................................................................................. 5 6. Về nội dung của sáng kiến ................................................................................. 5 6.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................. 5 6.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 9 6.3. Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018 ..................................................................... 14 7. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của đề tài. ................................................... 24 7.1. Mục đích khảo sát ...................................................................................... 24 7.2 Nội dung và phương pháp khảo sát ............................................................ 24 7.3 Phương pháp khảo sát và thang đánh giá. ................................................. 24 7.4. Đối tượng khảo sát ..................................................................................... 25 7.5. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của giải pháp đề xuất .... 25 8. Thực nghiệm sư phạm...................................................................................... 26 8.1. Mục đích, yêu cầu của thực nghiệm .......................................................... 26 8.2. Đối tượng, địa bàn thực nghiệm ............................................................... 27 8.3. Nội dung thực nghiệm ................................................................................ 27 8.4. Tiến hành thực nghiệm: ............................................................................. 27 III. KẾT LUẬN ................................................................................................... 39 3
  4. 1. Về hiệu quả và khả năng áp dụng của sáng kiến ............................................. 39 2. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến .................................................. 39 4. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu .................................................................................................. 39 4.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả ............................................................................... 40 4.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân ............................................................... 40 5. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu .......................................................................................................... 40 DANH MỤC VIẾT TẮT Chữ viết tắt Đọc là GDCD Giáo dục công dân HS Học sinh GV Giáo viên GVCN Giáo viên chủ nhiệm PPDH Phương pháp dạy học THPT QG Trung học phổ thông quốc gia KTDH Kĩ thuật dạy học SGK Sách giáo khoa 4
  5. ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018” I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đất nước ta đã và đang trên đà phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa, thế giới bước vào thời kì 4.0 với những công nghệ vô cùng hiện đại. Vì vậy vấn đề chất lượng nguồn lực con người là vấn đề rất cần được quan tâm. Đổi mới phương pháp sinh hoạt lớp là một trong những yêu cầu cần thiết đối với ngành giáo dục nhằm cải thiện tình sinh hoạt lớp đang diễn ra, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, yêu cầu đổi mới giáo dục nhằm đạt mục tiêu xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hiện nay hầu hết các trường phổ thông trung học ở nước ta chưa coi trọng việc đổi mới giờ sinh hoạt lớp. Từ các cấp quản lí, giáo viên chủ nhiệm, học sinh và phụ huynh luôn có quan niệm giờ sinh hoạt lớp chủ nhiệm là giáo viên sơ kết tuần học vừa qua và triển khai những kế hoạch tuần mới, với công việc như vậy đối với những lớp ý thức tốt có thể chỉ thực hiện trong khoảng 10 phút là triển khai hết nội dung, thời gian còn lại học sinh sẽ làm việc riêng. Thậm chí, đối với những lớp có nhiều học sinh cá biệt giờ sinh hoạt là giờ mà giáo viên chủ nhiệm xử lí những học sinh vi phạm trong tuần trước. Vì vậy nên cả giáo viên và học sinh đều không hứng thú trong giờ sinh hoạt lớp hiện tại. Từ tình hình thực tế trên không thể đáp ứng được mục tiêu đổi mới giáo dục phổ thông mới 2018 của bộ Giáo dục và Đào tạo. Mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông 2018 là: Chương trình giáo dục tiểu học giúp học sinh hình thành và phát triển những yếu tố căn bản đặt nền móng cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nề nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt. Chương trình giáo dục trung học cơ sở giúp học sinh phát triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành và phát triển ở cấp tiểu học; tự điều chỉnh bản thân theo các chuẩn mực chung của xã hội; biết vận dụng các phương pháp học tập tích cực để hoàn chỉnh tri thức và kỹ năng nền tảng; có những hiểu biết ban đầu về các ngành nghề và có ý thức hướng nghiệp để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động. Chương trình giáo dục trung học phổ thông giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích 1
  6. ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. Tóm lại, mục tiêu cốt lõi của đổi mới chương trình phổ thông 2018 là hình thành và phát triển những phẩm chất, năng lực của học sinh để các em có thể thích nghi và đáp ứng tốt với yêu cầu của cuộc sống hiện tại. Cùng với việc đáp ứng mục tiêu đổi mới giáo dục, đổi mới nội dung sinh hoạt lớp chủ nhiệm còn đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn cuộc sống hiện đại đặt ra cho con người. Với việc khoa học phát triển như vũ bão, nền kinh tế thị trường phức tạp, gia đình và xã hội, nhà trường đặt nhiều áp lực lên vai người học, chủ yếu là áp lực về tiếp thu tri thức khoa học, thi cử... xem nhẹ việc giáo dục con em mình về đạo đức, kĩ năng, phẩm chất... học sinh không có nhiều cơ hội để thể hiện hết năng lực của mình. Nếu đổi mới giờ sinh hoạt lớp phần nào giáo viên chủ nhiệm sẽ thực hiện nhiệm vụ hình thành phẩm chất, kĩ năng, với những hoạt động đa dạng trong giờ sinh hoạt học sinh có điều kiện thể hiện những năng lực của mình. Theo chương trình giáo dục phổ thông mới theo định hướng phát triển 5 phẩm chất chủ yếu và 10 năng lực cốt lõi sau: 2
  7. Giờ sinh hoạt lớp trong trường THPT từ trước đến nay đều không được coi trọng đối với học sinh, giáo viên, các cấp quản lí. Chính vì vậy nên diễn ra tẻ nhạt, không tạo hứng thú cho học sinh hoặc lại là nỗi lo sợ cho những học sinh mắc lỗi trong tuần. Thời gian giờ sinh hoạt là 45 phút không sử dụng hết trong khi đó học sinh đang rất cần trang bị những phẩm chất, kĩ năng phục vụ cho cuộc sống mà trong các giờ học giáo viên bộ môn không thể giáo dục hết. Như vậy trong bối cảnh xã hội phát triển mạnh mẽ đòi hỏi cần có nguồn nhân lực chất lượng cao, có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Đáp ứng mục tiêu đổi mới giáo dục, khắc phục mặt hạn chế giờ sinh hoạt đang diễn ra trong các trường phổ thông, các cấp lãnh đạo cần chỉ đạo kịp thời việc đổi mới giờ sinh hoạt lớp chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện kịp thời đổi mới phương pháp sinh hoạt lớp cho phù hợp yêu cầu chung của xã hội và của người học. Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018. Để góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới chương trình phổ thông, theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh,phát huy tính tích cực học tập của HS. 2. TÍNH ĐỔI MỚI CỦA ĐỀ TÀI - Đề tài làm rõ được: + Khái niệm, chức năng tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm. + Mặt tích cực của việc tổ chức giảng dạy giờ sinh hoạt lớp trong những năm học qua + Những tồn tại của việc tổ chức giảng dạy giờ sinh hoạt lớp trong những năm học qua + Nguyên nhân những tồn tại trong việc tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018. - Đưa ra được một số giải pháp khắc phục tồn tại trong việc tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018. - Xây dựng các bước tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục - Đưa ra phương pháp tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề - Gợi ý một số chủ đề sinh hoạt lớp phù hợp cho khối 10, 11 3
  8. II. NỘI DUNG MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giờ sinh hoạt lớp chủ nhiệm trong trường THPT Yên Thành 3 và THPT Nam Yên Thành - Nghiên cứu đề tài khẳng định Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đềnhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018 là một hướng tiếp cận trong việc thực hiện giờ sinh hoạt lớp hiệu quả, tạo hứng thú cho học sinh. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Bài nghiên cứu đã được triển khai với học sinh của lớp 10 và lớp 11 qua năm học 2022 - 2023. 3. Phương pháp và thời gian nghiên cứu 3.1. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu này tôi đã thực hiện các phương pháp sau: - Phương pháp trải nghiệm thực tiễn: Tổ chức các hoạt động đổi mới giờ sinh hoạt lớp theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học. - Phương pháp quan sát: Tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. - Phương pháp trao đổi, thảo luận: Trao đổi, thảo luận, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp. - Phương pháp so sánh đối chiếu: Kết quả quan sát học sinh vận dụng vào trong cuộc sống hàng ngày đưa ra nhận xét, rút kinh nghiệm trong giờ sinh hoạt lớp có hiệu quả hơn. - Phương pháp thăm dò ý kiến đồng nghiệp: Lập bảng khảo sát thăm dò để biết ý kiến của đồng nghiệp về đổi mới phương pháp sinh hoạt lớp; giáo viên tổng kết ý kiến đưa ra những quyết định phù hợp. 3.2. Thời gian nghiên cứu Đề tài này đã được tiến hành từ tháng 9 năm 2022 đến nay. 3.3. Kế hoạch nghiên cứu Với những năm làm công tác chủ nhiệm, vừa tìm tòi, học hỏi về kiến thức, tâm lí học sinh, sau đó áp dụng phương pháp và kĩ thuật tích cực vào thực thiễn giờ sinh hoạt lớp. Trong quá trình áp dụng đổi mới phương pháp sinh hoạt lớp chủ nhiệm trong trường THPT, tự mình khảo sát tình hình thực tế rồi tự đưa ra kết luận về tính khả thi của đổi mới phương pháp sinh hoạt lớp chủ nhiệm hiện nay. Ngoài ra tôi đã học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Từ đó, rút ra kinh nghiệm đổi mới nội dung sinh hoạt lớp chủ nhiệm, trong giờ sinh hoạt học học sinh sẽ là trung 4
  9. tâm, tự học, tự lĩnh hội kiến thức, kĩ năng mềm để nâng cao sự hiểu biết và vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống. 4. Khả năng phát triển, ứng dụng thực tế - Trong sáng kiến này tôi đề cập đến việc giúp giáo viên chủ nhiệm lớp tham khảo một số nội dung, chủ đề thực hiện giờ sinh hoạt lớp chủ nhiệm đạt hiệu quả cao, để tạo nên sự hứng thú cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và yêu cầu ngày càng cao của xã hội. - Các phương pháp mang tính khả thi cao phù hợp mọi đối tượng học sinh, các nhà trường. 5. Hiệu quả Áp dụng sáng kiến này học sinh có một giờ sinh hoạt lớp vui vẻ, thoải mái hình thành tính tích cực chủ động và hứng thú hơn trong tiếp thu kiến thức, nâng cao chất lượng giờ sinh hoạt lớp chủ nhiệm. 6. Về nội dung của sáng kiến 6.1. Cơ sở lí luận 6.1.1. Các văn bản chỉ đạo có liên quan đến công tác chủ nhiệm và giảng dạy giờ sinh hoạt lớp Điều 2. Mục tiêu giáo dục (chương 1- luật giáo dục 2019) Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Điều 30: Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông 3. Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục + Chỉ thị 40 về việc phát động phong trào thi đua trong các trường phổ thông “Xây dựng trường học thân thiện-Học sinh tích cực” a. Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn b. Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh Tiểu học, qua đó giúp các em tự tin trong học tập. c. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. 5
  10. d. Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh. đ. Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng ở địa phương. Mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông 2018 - Chương trình tổng thể (ban hành kèm theo thông tư số 32/2018/TT-BGDDT ngày 26/12/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chương trình giáo dục tiểu học giúp học sinh hình thành và phát triển những yếu tố căn bản đặt nền móng cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nề nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt. Chương trình giáo dục trung học cơ sở giúp học sinh phát triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành và phát triển ở cấp tiểu học; tự điều chỉnh bản thân theo các chuẩn mực chung của xã hội; biết vận dụng các phương pháp học tập tích cực để hoàn chỉnh tri thức và kỹ năng nền tảng; có những hiểu biết ban đầu về các ngành nghề và có ý thức hướng nghiệp để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động. Chương trình giáo dục trung học phổ thông giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp. Quyền hạn của giáo viên chủ nhiệm (Trích Điều lệ trường THCS, THPT và trường PT có nhiều cấp học, ban hành kèm theo Thông tư sổ 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) Giáo viên chủ nhiệm có những nhiệm vụ sau đây: 1. Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh. 2. Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng. 3. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường 4. Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, 6
  11. phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh. 5. Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng. Giáo viên chủ nhiệm có những quyền sau đây: 1. Được dự các giờ học, hoạt động giáo dục khác của học sinh lớp mình 2. Được dự các cuộc họp của Hội đồng khen thưởng và Hội đồng kỷ luật khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến học sinh của lớp mình 3. Được dự các lớp bồi dưỡng, hội nghị chuyên đề về công tác chủ nhiệm 4. Được quyền cho phép cá nhân học sinh nghỉ học không quá 3 ngày liên tục 5. Được giảm giờ lên lớp hàng tuần theo quy định khi làm chủ nhiệm lớp. - Từ năm 2019, Bộ GDĐT đã triển khai cuộc vận động xây dựng “Trường học hạnh phúc”. Nhiều nhà trường trên khắp cả nước đã triển khai rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết để lan tỏa và mang lại giá trị hạnh phúc cho cả thầy và trò, để mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui. 6.1.2. Khái niệm, chức năng tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm * Sinh hoạt: Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Sinh hoạt là những hoạt động thuộc về đời sống hàng ngày của một người hay một cộng đồng người” [35, tr859]. Định nghĩa này cho ta thấy: (1) sinh hoạt là một hoạt động thuộc đời sống của của con người; (2) các hoạt động này diễn ra một cách thường xuyên, liên tục hàng ngày trong cuộc sống; (3) những hoạt động này thuộc đời sống của một người hay của một cộng đồng người, một tập thể nào đó. * Sinh hoạt lớp: Sinh hoạt lớp là thuật ngữ chỉ những hoạt động thuộc về đời sống hàng ngày của cá nhân HS, một cộng đồng HS trong một lớp hay trường tiểu học. Tiết SHL có thể hiểu là một tiết học bao gồm các hoạt động diễn ra hàng ngày của HS trong tập thể lớp. Các hoạt động của nó gắn liền với các giá trị của tập thể như đoàn kết, yêu thương, chia sẻ.... Tiết sinh hoạt lớp với các hoạt động của nó hỗ trợ việc học tập, xây dựng kĩ năng sống, phẩm chất năng lực cho học sinh. Giúp các HS gia nhập vào cộng đồng, xã hội một cách tự nhiên, vui vẻ, hòa nhập, có ích, thông qua đời sống trong nhà trường. HS đến trường không chỉ học các kiến thức của các môn văn hóa mà các em còn học những kĩ năng để chung sống với nhau, những kĩ năng thể hiện được bản thân mình. Tiết SHL diễn ra thường kì, thường xuyên và liên tục. Nó bao gồm các hoạt động chung mang tính tập thể của HS trong một lớp học. Tại đây HS được trải nghiệm và hình thành các kĩ năng quan trọng của bản thân như: kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng thể hiện sự tự tin của bản thân... giúp các em làm quen với việc hoạt động, chung sống trong một tập thể. Chương trình hành động Dakar đã tuyên bố rằng: Tất cả thế hệ trẻ và những người lớn có quyền được hưởng một nền GD đảm bảo cho người học “học để biết, học để làm, học để chung sống với mọi người, học để tự khẳng định mình”. Bốn trụ cột này 7
  12. chính là một cách tiếp cận KNS dựa trên sự kết hợp giữa khả năng tâm lý xã hội với các kĩ năng thực hành, kĩ năng tâm vận động. Do đó cần xác định rõ nội dung các vấn đề cần GD theo cách tiếp cận bốn trụ cột trong GD thế kỷ XXI. Từ những phân tích trên cho thấy, tiết SHL bao gồm các hoạt động của HS diễn ra một cách thường kì trong một tập thể lớp, tổ chức dưới hình thức tự quản cho HS hướng đến xây dựng một tập thể HS đoàn kết, thân ái, một trường học thân thiện. * Vai trò tiết sinh hoạt lớp Thực hiện tốt tiết sinh hoạt lớp là điều kiện kiên quyết để giáo viên kịp thời giúp học sinh thực hiện nội quy, điều chỉnh ý thức thái độ học tập, tình cảm trong rèn luyện đạo đức trong quá trình học tập, ngăn chặn tình trạng suy thoái đạo đức của học sinh. Tiết sinh hoạt lớp là điều kiện để hình thành cho học sinh công tác tổ chức, tự quản, biết sơ kết, tổng kết và đề ra kế hoạch tổ chức thực hiện một hoạt động cụ thể vừa sức với các em. Vì vậy, công tác chủ nhiệm lớp là khoảng thời gian vô cùng quý báu để triển khai công việc, chấn chỉnh nề nếp, uốn nắn học sinh, khơi dậy trong các em sự thích thú, khả năng sáng tạo.... đặc biệt là giáo dục kĩ năng sống cho các em một cách tập trung và hiệu quả. Đồng thời phát huy được những năng khiếu tiềm ẩn ở các em. Từ đó, các em cũng thích đi học và thích học hơn. Tóm lại, thầy cô chủ nhiệm không chỉ là người dạy chữ mà còn dạy học sinh nhiều điều tốt đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất giống như câu nói của John O’brien: “Chính sự quan tâm, lòng yêu thương và sự chia sẻ của người thầy đã giúp những đứa trẻ phát huy hết khả năng của chúng”. * Nhiệm vụ tiết sinh hoạt lớp Đây là dạng hoạt động giáo dục tập thể, là một hình thức tổ chức tự quản cho HS và là một trong những biện pháp cơ bản góp phần xây dựng tập thể học sinh đoàn kết. Chính thông qua các giờ sinh hoạt lớp, các em bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và tự đánh giá nhận xét nhau thẳng thắn, tích cực. Các học sinh trong lớp được liên kết lại với nhau, giáo viên gắn bó với học sinh trong một cộng đồng chung để giải quyết những vấn đề của cuộc sống thực hàng ngày ở nhà trường, ở lớp học. học sinh được mở rộng các mối liên hệ, tăng cường sự hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau, khắc phục xu hướng hẹp hòi, cục bộ, bè phải trong đời sống tập thể hàng ngày của lớp học. Đây cũng là dịp để học sinh làm quen với nhiều loại hình hoạt động khác nhau, giúp các em phát triển các kĩ năng cơ bản và cần thiết cho bản thân. Các em phải được vừa học vừa chơi, thi tài với nhau.... Từ đây các em sẽ lĩnh hội được rất nhiều, góp phần phát triển nhân cách toàn diện của học sinh, tức là phát triển mọi mặt cả trí tuệ, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ và sức khoẻ, thể chất … của học sinh. Tiết sinh hoạt lớp giúp học sinh hiểu biết và thực hành những kĩ năng mềm 8
  13. cần thiết trong đời sống như nhân ái, tự bảo vệ mình, yêu quê hương, tổ quốc, hòa nhập, hợp tác..... Thông qua tiết sinh hoạt, các thành viên trong lớp và giáo viên chủ nhiệm có cơ hội, điều kiện để hiểu nhau hơn, dễ chia sẻ, cảm thông quan tâm đến nhau. Hơn nữa, từ tiết sinh hoạt với việc đổi mới phương pháp sẽ giúp các em rèn luyện được nhiều kĩ năng cần thiết, bộc lộ những năng lực, năng khiếu của học sinh. Từ đó giáo viên chủ nhiệm sẽ có cái nhìn toàn diện với học sinh, để có sự đánh giá chính xác và có phương pháp hỗ trợ, giúp đỡ để học sinh phát triển năng lực của mình. 6.2. Cơ sở thực tiễn 6.2.1. Mặt tích cực của việc tổ chức giảng dạy giờ sinh hoạt lớp trong những năm học qua Trong những năm qua, tất cả các trường THPT trong toàn tỉnh đã thực hiện đầy đủ 1tiết sinh hoạt lớp/ 1 tuần, có thể vào tiết đầu tuần hoặc cuối tuần tùy theo tình hình từng trường và đảm bảo đầy đủ thời lượng một tiết là 45 phút. Ban giám hiệu nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, học sinh và phụ huynh luôn ý thức tốt về vai trò và nhiệm vụ của tiết sinh hoạt lớp. Học sinh nhận thức được đúng đắn về ý nghĩa tiết sinh hoạt lớp hàng tuần, ban cán sự lớp chuẩn bị những nội dung tuần đã qua và kế hoạch liên quan trong tuần tới. Các học sinh khác trong lớp cũng chuẩn bị những ý kiến liên quan đến cá nhân, nhóm, tập thể lớp để GVCN giải đáp hoặc thảo luận bàn bạc với nhau về giải pháp để hoạt động học tập và các hoạt động khác của lớp ngày càng phát triển. Thông qua tiết sinh hoạt lớp GVCN đã sơ kết công việc tuần vừa qua, mặt ưu điểm và hạn chế thông qua việc theo dõi của GVCN, thông tin của giáo viên bộ môn với GVCN, thông qua nhận xét của lớp trưởng, lớp phó và bí thư lớp, thông qua ý kiến của các thành viên trong lớp. Qua đó GVCN phổ biến những kế hoạch trong tuần mới của nhà trường, của khối, của lớp. Giáo viên chủ nhiệm nắm bắt kịp thời tình hình lớp chủ nhiệm về ý thức nề nếp, kỉ luật và học tập, từ đó kịp thời uốn nắn, rèn rũa nâng cao ý thức chấp hành nội qui trường, lớp. GVCN có những biện pháp giáo dục, răn đe những học sinh còn vi phạm nội qui, ý thức học tập chưa tốt. Đối với những học sinh vi phạm nhiều lần mà không có sự thay đổi theo hướng tích cực GVCN liên lạc kết hợp với giáo viên bộ môn, gia đình để giáo dục các em. Bên cạnh thực hiện nhiệm vụ sơ kết tuần và kế hoạch thực hiện tuần mới, nhiều lớp GVCN đã tổ chức buổi sinh hoạt lớp rất ý nghĩa như là tổ chức sinh nhật cho các thành viên trong lớp trong tháng, hoặc tuần. Hoạt động này làm cho học sinh cảm thấy được quan tâm, được yêu thương và tôn trọng tạo ra động lực không nhỏ để các em cố gắng hơn trong học tập và rèn luyện đạo đức. Ngoài việc phê bình, răn đe những học sinh chưa cố gắng, vi phạm nội qui, 9
  14. hầu hết GVCN còn tuyên dương những em đã có thành tích, cố gắng trong tuần vừa qua, từ đó tạo động lực giúp các em phấn đấu hơn nữa trong thời gian tới. Với giờ sinh hoạt lớp, GVCN đã có thời gian để tìm hiểu nắm bắt tâm tư nguyện vọng của học sinh, hiểu sâu sắc hơn về học sinh của mình từ đó thấu cảm và đồng hành với các em. Từ thấu cảm GVCN đưa ra được những biện pháp, phương thức giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh và như vậy mới có tác dụng và hiệu quả. Trong những năm qua nhiều nhà trường và GVCN đã tích cực đưa các chủ đề gần gũi với học sinh vào tiết sinh hoạt lớp nhằm giúp các em hiểu hơn về vấn đề và bước đầu hình thành những kĩ năng xử lí những tình huống trong thực tế cuộc sống xảy ra. Từ tiết sinh hoạt lớp, với những phương pháp khéo léo, tinh tế của GVCN học sinh dần dần bộc lộ những năng lực, phẩm chất của người học sinh, qua đó học sinh học hỏi lẫn nhau tự bổ xung, bồi dưỡng những hạn chế, khuyến điểm của bản thân. Các cấp quản lí và giáo viên dần nhận thấy vai trò quan trọng của giờ sinh hoạt lớp trong điều kiện đổi mới giáo dục và sự phát triển của xã hội. Tùng bước đổ mới nội dung và phương pháp sinh hoạt lớp cho phù hợp với lứa tuổi và tâm lí học sinh. 6.2.2. Những tồn tại của việc tổ chức giảng dạy giờ sinh hoạt lớp trong những năm học qua Bên cạnh những mặt đã đạt được trong tiết sinh hoạt lớp ở các trường THPT việc tổ chức sinh hoạt theo chủ đề còn thực hiện chưa phổ biến và đồng bộ. Có trường đã yêu cầu tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhưng có nhiều trường vẫn chưa đề cập đến, GVCN sinh hoạt lớp theo nội dung và phương pháp truyền thống. Hoặc, trong từng trường, có lớp tổ chức có lớp GVCN đã thực hiện không thực hiện. Hiện nay hầu hết GVCN không quan tâm đến phương pháp trong giờ sinh hoạt lớp, lặp đi lặp lại cách truyền thống đó là ban cán sự lớp sơ kết, giáo viên kết luận, thậm chí GVCN thực hiện thuyết trình từ đầu đến cuối tiết sinh hoạt, còn những thành viên khác gần như không được tham gia. Dẫn đến sự nhàm chán, không hứng thú với người học và người dạy. Từ cách hiểu chưa đúng đắn và đầy đủ nêu trên dẫn đến cách thực hiện lặp lại, nhàm chán và chưa hoàn thành nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo, giáo viên nói chung và GVCN nói riêng. Đối với nhà quản lí chưa có những qui định, qui chuẩn, hướng dẫn nào cụ thể về tiết sinh hoạt lớp, phương pháp sinh hoạt lớp chủ nhiệm dẫn đến không có sự chỉ đạo kịp, thời sát sao, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện giờ sinh hoạt lớp đạt hiệu quả cao. Thông thường, giáo viên thực hiện việc dạy học một môn học cụ thể cần có kế hoạch giảng dạy theo tuần, theo tháng, theo kì và theo năm học, tuy nhiên tiết sinh hoạt lớp không có kế hoạch cụ thể mà GVCN có cuốn sổ chủ nhiệm với tính chất ghi chép lại những hoạt động chủ nhiệm mà thôi. Trong đó, tiết sinh hoạt có vai trò vô cùng quan trọng trong cộng đồng lớp học, là hoạt động không thể thiếu 10
  15. để học sinh lĩnh hội, phát hiện, phát triển và thực hành những năng lực phẩm chất của người học. Tiết sinh hoạt lớp được thực hiện 1 tiết/ 1 tuần có thời gian bằng với một số môn học khác, như vậy chúng ta cần phải coi giờ sinh hoạt lớp cũng như là một môn học khác trong nhà trường,cần phải có kế hoạch rõ ràng cụ thể. Tiết sinh hoạt lớp trong nhiều nhà trường những năm qua chưa có nội dung, chủ đề cụ thể để giáo viên và học sinh thực hiện. Tiết sinh hoạt lớp, GVCN gần như thực hiện một nội dung lặp đi lặp lại đó là sơ kết và kế hoạch triển khai. Hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp đơn điệu, nhàm chán, không hứng thú với HS. GVCN giảng dạy tiết sinh hoạt lớp những năm qua không có giáo án (kế hoạch giảng dạy từng tuần), như vậy không có nội dung và phương pháp giảng dạy vì vậy chưa đạt yêu cầu và mục tiêu giáo dục trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay. Nội dung giờ sinh hoạt lớp khô cứng, lăp đi lặp lai, không thực sự gắn với nhu cầu của HS. Các em không thực sự cảm nhận được vấn đề trong chủ đề là vấn đề của chính họ phải giải quyết mà là vấn đề của thầy/cô. Tiết sinh hoạt lớp với nội dung và phương pháp hiện nay làm cho người học và người dạy không có hứng thú với tiết sinh hoạt lớp, không đạt hiệu quả như mong muốn, lãng phí thời gian của một tiết học. Đối với những lớp ngoan, ý thức chấp hàng nội qui tốt GVCN thực hiện tiết sinh hoạt lớp chỉ trong khoảng 10 phút là kết thúc, trong đó một tiết sinh hoạt lớp là 45 phút, vậy còn 30 phút học sinh sẽ làm gì? Khoảng thời gian 30 phút còn lại GVCN cho học sinh làm việc tự do có thể học sinh tự học những môn yêu thích, có thể ngồi nói chuyện riêng....., có lớp thực hiện chương trình văn nghệ, tuy nhiên không phải giờ sinh hoạt nào cũng tổ chức văn nghệ cũng gây ra sự nhàm chán. Như vậy 30 phút còn lại mà GVCN không tổ chức hoạt động theo nội dung, chủ đề đã chuẩn bị sẽ gây sự lãng phí thời gian của người học mà trong khi đó lứa tuổi học sinh đang rất cần bổ sung nhiều kiến thức thực tế từ đời sống. Đối với những lớp cá biệt cả tiết sinh hoạt GVCN dùng để tra hỏi, điều tra, xem xét xử lí những vi phạm của học sinh, có thể chỉ là của một vài em chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong lớp, thậm chí một giờ không xử lí hết những vi phạm của học sinh. Như vậy số học sinh còn lại chiếm tỉ lệ đông hơn không vi phạm nội qui, ý thức tốt không được tuyên dương mà còn phải nghe GVCN phê bình, mắng mỏ và chứng kiến việc GVCN xử lí những học sinh cá biệt trong lớp. Với những lớp có học sinh cá biệt này những học sinh ngoan, ý thức tốt có những thiệt thòi nhất định. Đối với những lớp như thế này không giờ sinh hoạt lớp không được thực hiện theo đúng bản chất, là nỗi lo sợ với những học sinh vi phạm và sự chán nản đối với những học sinh không vi phạm, hơn nữa sẽ tạo ra khoảng cách xa hơn giữa GVCN và học sinh. GV quá nghiêm khắc, không gần gũi, thân thiện, không đặt mình vào vị trí của HS để hiểu các em. 11
  16. Như vậy dù là lớp ngoan, ý thức tốt hay là lớp có nhiều học sinh cá biệt hiện nay GVCN chưa thực hiện được nhiệm vụ của tiết sinh hoạt lớp, gây lãng phí thời gian, trong khi đó với độ tuổi của học sinh THPT rất cần rất nhiều những kiến thức về kĩ năng sống, những hiểu biết ngoài sách vở mà thực tiễn cuộc sống đặt ra, con người thường xuyên phải va chạm. Thực tế cho thấy, có nhiều lớp, GVCN đã đưa hoạt động tập thể thuộc lĩnh vực tinh thần vào trong giờ sinh hoạt như văn nghệ hoặc những năng khiếu khác. Tuy nhiên nếu tổ chức những hoạt động này là phương pháp không phù hợp, cứng nhắc cũng sẽ là nỗi lo sợ cho những học sinh nhút nhát hoặc chưa phát hiện ra năng khiếu của mình. Hầu như với cách tiến hành phương pháp sinh hoạt lớp như hiện nay học sinh không được cùng nhau tổ chức, tham gia vào giờ sinh hoạt lớp, giờ học không có ý nghĩa sâu sắc. Tạo nên sự nhàm chán, không hứng thú đối với GVCN và học sinh 6.2.3. Nguyên nhân những tồn tại trong việc tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018. Các nhà quản lí, giáo viên đến học sinh đều có quan điểm chưa đầy đủ về tiết sinh hoạt lớp. Hiện tại đều có quan điểm cho rằng giờ sinh hoạt lớp là để GVCN tổng kết tuần học vừa qua và đưa ra những kế hoạch, công việc của tuần tới. Về sơ kết tuần đã qua, thường giáo viên tự sơ kết hoặc yêu cầu ban cán sự lớp sơ kết tuần, chỉ ra những việc đã làm được và chưa làm được. Thông qua thông tin từ sổ đầu bài, từ giáo viên bộ môn, từ đoàn thanh niên..... GVCN đưa ra kết luận khen chê. Nếu học sinh nào vi phạm sẽ có các hình thức xử lí phù hợp, biểu dương những học sinh nào ngoan, ý thức tốt. Về kế hoạch tuần sắp tới GVCN dựa vào kế hoạch nhà trường, kế hoạch Đoàn thanh niên và của từng khối, từng lớp để nhắc nhở, dặn dò hoặc giao việc cho học sinh chuẩn bị nếu cần thiết. Như vậy, với quan điểm cho rằng giờ sinh hoạt chỉ có hai việc chính nêu trên là chưa đầy đủ dẫn đến GVCN chỉ cố gắng hoàn thành. Hiểu như vậy chưa đầy đủ về một tiết sinh hoạt lớp. Như khái niệm nêu trên tiết sinh hoạt lớp là hoạt động thuộc về đời sống hàng ngày (có những hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần) của tập thể lớp học nhằm thực hiện những mong muốn và lợi ích chung của tập thể lớp. Theo quan niệm này, tiết sinh hoạt lớp là hoạt động của tập thể lớp cụ thể là của toàn thể học sinh trong lớp và GVCN. Hoạt động này gồm vật chất và hoạt động tinh thần. Các nhà quản lí, giáo viên đã chưa hiểu đúng và đầy đủ về phương pháp sử dụng trong sinh hoạt lớp. Theo khái niệm phần trên chúng ta thấy phương pháp là cách thức đạt tới mục đích đặt ra (mục đích giờ sinh hoạt lớp theo chủ trương đổi mới giáo dục là hình thành những năng lực, phẩm chất cho người học) còn sinh hoạt lớp là hoạt động chung của tập thể lớp đáp ứng những lợi ích và mong muốn chung của cả lớp. Vậy ta có thể hiểu, phương pháp sinh hoạt lớp là cách thức để thực hiện những hoạt động chung của cả lớp nhằm hình thành phẩm chất và năng 12
  17. lực cho người học. Muốn đạt hiệu quả cao cần có phương pháp hữu hiệu nhằm kích thích người học tham gia vào những hoạt động chung, tiếp thu lĩnh hội những nội dung thông qua hoạt động, từ đó vận dụng sáng tạo trong thực tiễn. Nhà quản lí và GV chưa coi trọng tiết sinh hoạt lớp, chưa hiểu đây cũng là một tiết học, là môn học của học sinh như các môn học khác. Có thể nói đây là môn học đặc biệt yêu cầu người dạy và người học cần có những kĩ năng nâng cao mà tạo ra sự thoải mái, hứng thú cho người học. Người dạy chưa quan tâm đến tâm lí của người học tiết sinh hoạt lớp để từ đó có sự đổi mới để đáp ứng nhu cầu của người học. Nhà quản lí và GVCN chưa hiểu đúng đắn và đầy đủ bản chất, nhiệm vụ và chức năng của giờ sinh hoạt lớp và phương pháp sinh hoạt lớp, dẫn đến chưa có sự coi trọng và đổi mới phương pháp sinh hoạt lớp để đáp ứng yêu cầu cần thiết trong đổi mới giáo dục cũng như yêu cầu của xã hội hiện đại đối với con người. Trong toàn ngành giáo dục hiện nay chưa có một văn bản chỉ đạo chính thống về tiết sinh hoạt lớp. Giáo viên không hiểu bản chất tiết sinh hoạt lớp và yêu cầu cần phải đổi mới nội dung phương pháp sinh hoạt lớp cho phù hợp với mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục hiện nay. Giáo viên và các cấp quản lí chưa hiểu hết, hiểu đúng bản chất, nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ của giờ sinh hoạt lớp và phương pháp tổ chức một giờ sinh hoạt lớp. Chưa có những nội dung, chủ đề chuẩn cho tiết dạy sinh hoạt lớp đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục. Phụ huynh, học sinh, giáo viên và nhà trường còn nặng nề về giáo dục, truyền đạt tri thức, áp lực về thi cử, thành tích chưa thấy được vai trò của việc giáo dục những kĩ năng sống, những hiểu biết trong cuộc sống hàng ngày. Giáo viên chủ nhiệm còn hạn chế về kĩ năng, phương pháp xử lí những học sinh vi phạm theo hướng tích cực vẫn thiên về cách xử lí truyền thống theo hướng tiêu cực như là phê bình, phạt lao động, viết kiểm điểm.... mà hiện nay không còn hoàn toàn phù hợp với tâm lí lứa tuổi giới trẻ và nhu cầu của xã hội. Giáo viên còn hạn chế về kiến thức xã hội, kĩ năng mềm, phương pháp tích cực để thực hiện một tiết sinh hoạt lớp hiệu quả, phát huy tính tự giác của học sinh mà học sinh cảm thấy hứng thú, thích học chứ không phải tạo thêm một áp lực nặng nề cho học sinh. Còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất như phòng học còn hẹp, trang thiết bị trong lớp chưa đầy đủ, sĩ số còn khá đông, giữa các lớp học với nhau còn bị ảnh hưởng về âm thanh .... 6.2.4. Một số giải pháp khắc phục tồn tại trong việc tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018. 13
  18. Các cấp quản lí cần đưa ra những quy định cụ thể hơn về bản chất, chức năng và nhiệm vụ của tiết sinh hoạt lớp sao cho kịp thời, phù hợp với tình hình hiện nay. Nâng cao sự hiểu biết cho giáo viên về công tác chủ nhiệm một cách thống nhất, bài bản thông qua các khóa học, tập huấn có chất lượng và có khả năng áp dụng thực tế cao. Tập huấn về nội dung và phương pháp thực hiện một tiết sinh hoạt có hiệu quả áp dụng được phổ biến. Các cấp quản lí cần nghiên cứu và xem xét dần đảm bảo được cơ sở vật chất kĩ thuật để bổ trợ cho giáo viên thực hiện tốt việc giảng dạy bộ môn và tiết sinh hoạt lớp. Giáo viên nói chung và GVCN nói riêng cần cập nhật, trau dồi, bồi dưỡng, tìm hiểu thêm những nội dung, chủ đề của xã hội, của học sinh, giới trẻ mang tính thời sự đưa vào trong các giờ sinh hoạt tạo nên sự hứng thú và tính thực tiễn cao của nội dung. GVCN khi thực hiện một giờ sinh hoạt theo truyền thống hay đổi mới cũng nên có kế hoạch theo kì, theo năm và có kế hoạch giảng dạy (giáo án) với nội dung và phương pháp cụ thể, chi tiết hấp dẫn và phù hợp với học sinh và điều kiện nhà trường. GVCN không nên nặng nề, áp lực về thành tích đối với học sinh hoặc tạo thêm áp lực cho học sinh đối với tiết sinh hoạt. Làm sao cho học sinh thấy tiết sinh hoạt bổ ích, nhẹ nhàng mà lại thấm thía. Khi GVCN khéo léo, tinh tế đưa nội dung, chủ đề vào bài học thì HS sẽ tiếp nhận một cách tự nhiên không có sự gò bó, ép buộc nào. 6.3. Tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018 6.3.1. Các bước tổ chức sinh hoạt lớp truyền thống Tiết sinh hoạt lớp thường được thực hiện theo 2 hình thức phổ biến: Hình thức 1: Lớp trưởng lên nhận xét các mặt hoạt động và kết quả thi đua của lớp trong tuần. Sau đó GVCN lớp “điều tra” những học sinh vi phạm nội quy làm mất điểm thi đua của lớp, phê bình, khiển trách...Sau đó GVCN thông báo vội vàng những nội dung trường triển khai trong tuần tới và...hết giờ. Hình thức 2: GVCN vào lớp và lần lượt “tra tội” từng học sinh vi phạm nội quy, tiến hành xử phạt. Sau đó triển khai công việc tuần sau. 6.3.2. Các bước tổ chức sinh hoạt lớp theo chủ đề nhằm thực hiện mục tiêu chương trình đổi mới giáo dục Một tiết sinh hoạt lớp theo chủ đề gồm có 2 phần Phần 1: Thực hiện sơ kết tuần qua và kế hoạch tuần tới - Cán sự lớp và GVCN thực hiện (khoảng 15 phút) 14
  19. - Lớp trưởng (lớp phó): + Nhận xét về tình hình học tập, nề nếp, nội qui... của lớp trong tuần vừa qua (yêu cầu nhận xét cả mặt tích cực và hạn chế). + Kế hoạch tuần tới của lớp, những mong muốn. - Bí thư chi đoàn: + Sơ kết hoạt động đoàn trong tuần vừa qua. + Phổ biến kế hoạch hoạt động chi đoàn hoặc đoàn trường (Hoạt động này của lớp trưởng và bí thư cần dựa trên cơ sở ghi chép từ các buổi học trong tuần, yêu cầu có bản đánh giá chung hàng tuần trước khi có giờ sinh hoạt lớp) - Giáo viên chủ nhiệm + Kết luận lại và bổ sung vào bản sơ kết của lớp trưởng và bí thư chi đoàn cho đầy đủ (yêu cầu học sinh có thể ghi chép lại vì đó là những công việc học sinh cần phải thực hiện trong tuần) + Lấy ý kiến của các học sinh trong lớp về vấn đề trên. + Xử lí những học sinh vi phạm, đối với những học sinh này khi nhận lớp GVCN cần có quy định rõ ràng về các vi phạm và hình thức xử lí, tuy nhiên về hình thức xử lí cần nẹ nhàng mang tính giáo dục động viên là chính. + Đối với những trường vi phạm hợp phức tạp GVCN cần tìm hiểu kĩ, giải quyết riêng với những người có liên quan tránh vì một học sinh mà ảnh hưởng đến tâm lý và thời gian của cả lớp học. Phần 2. Hoạt động theo chủ đề - GVCN có thể đưa ra các chủ đề từ tuần trước (nếu cần thiết) để học sinh chuẩn bị và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm, tùng cá nhân. Trong việc thực hiện sinh hoạt lớp theo chủ đề để học sinh chủ động điều hành buổi sinh hoạt tạo điều kiện để học sinh giao lưu, gắn kết. - Có nhiều cách tổ chức sinh hoạt theo chủ đề như: 15
  20. + Giáo viên đưa ra chủ đề “nóng” trong thời điểm hiện tại và cả lớp cùng thảo luận trao đổi, đưa ra quan điểm của bản thân về vấn đề trên. Qua đó giáo viên có thể hiểu được một phần về cách suy nghĩ, tính cách và phản ứng với vấn đề của từng học sinh lớp mình chủ nhiệm. Học sinh lắng nghe vấn đề và chuẩn bị đưa ra suy nghĩ của bản thân + Giáo viên đưa ra chủ đề học sinh chủ động tìm hiểu và chia sẻ. Ở cách thức này giáo viên có thể đưa ra trước chủ đề, giao nhiệm vụ cho từng nhóm, tổ chuẩn bị bài trước ở nhà. Sau đó lên lớp trình bày nội dung của nhóm. Phần trình bày của 4 nhóm về chủ đề thuốc lá điện tử và tác hại của thuốc lá điện tử 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2