intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy học đoạn trích Huyện đường (Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) trong chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức và cuộc sống

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:39

7
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy đoạn trích Huyện đường (trong vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến), nhằm giúp học sinh phát huy tư duy sáng tạo, khả năng phân tích và liên hệ thực tiễn. Các phương pháp như thảo luận nhóm, đóng vai, sân khấu hóa, sơ đồ tư duy và phản biện giúp học sinh chủ động khám phá nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời rèn luyện kỹ năng giao tiếp và hợp tác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy học đoạn trích Huyện đường (Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) trong chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức và cuộc sống

  1. CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “HUYỆN ĐƯỜNG” (TUỒNG NGHÊU, SÒ, ỐC, HẾN) TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10, BỘ KẾT NỐI TRI THỨC VÀ CUỘC SỐNG Đồng tác giả: Nguyễn Thị Diệu Bắc Nguyễn Thị Hồng Liên Bùi Thị Lý Nguyễn Thị Kim Oanh Phạm Thị Nương Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy Ninh Bình, tháng 4 năm 2023 1
  2. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi (1): Sở giáo dục và đào tạo Ninh Bình Chúng tôi ghi tên dưới đây: Số Họ và tên Ngày tháng Nơi Chức Trình Tỷ lệ (%) TT năm sinh công danh độ đóng góp tác chuyên vào việc (hoặc môn tạo ra nơi sáng kiến thường (ghi rõ đối trú) với từng đồng tác giả (nếu có) 1 Nguyễn Thị Diệu Bắc 09/03/1969 THPT Giáo Cử 20% chuyên viên nhân Lương Văn Tụy 2 Nguyễn Thị Hồng Liên 08/01/1976 THPT Giáo Thạc sĩ 20% chuyên viên Lương Văn Tụy 3 Bùi Thị Lý 30/12/1976 THPT Giáo Thạc sĩ 20% chuyên viên Lương Văn Tụy 4 Nguyễn Thị Kim Oanh 27/02/1979 THPT Giáo Thạc sĩ 20% 2
  3. chuyên viên Lương Văn Tụy 5 Phạm Thị Nương 20/10/1984 THPT Giáo Thạc sĩ 20% chuyên viên Lương Văn Tụy 1. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng Tên sáng kiến: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy học đoạn trích “Huyện đường” (Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) trong chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức và cuộc sống. Lĩnh vực áp dụng: Áp dụng trong giảng dạy môn Ngữ văn -THPT 2. Nội dung a. Giải pháp cũ thường làm: Giáo viên khi dạy phần văn học trong chương trình thường quan tâm tới các tác phẩm thơ và truyện ngắn còn với các tác phẩm sân khấu dân gian thường chưa được quan tâm đúng mức. Một phần vì các văn bản cổ thường xa lạ khó tiếp cận với học sinh, hơn nữa trong nội dung thi cũng ít khi thi vào các tác phẩm này. Chính vì thế nhiều khi giáo viên chỉ dạy cho xong bài và học sinh cũng chỉ tiếp nhận một cách hời hợt, thiếu hứng thú. Trong quá trình dạy học các tác phẩm văn học dân gian nói chung và thể loại tuồng nói riêng, giáo viên chưa phát huy tính tích cực của học sinh, chưa tạo điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ thế mạnh và khả năng, sở thích cá nhân trong việc tự kiến tạo kiến thức cho mình, chưa khuyến khích được sự tìm tòi cá nhân cũng như định hướng tư duy và lập luận theo các góc độ khác nhau trong quá trình học tập. Việc đổi mới phương pháp dạy học chưa đồng bộ, nhiều giáo viên chưa tích cực trong việc đổi mới phương pháp. Còn tồn tại việc giáo viên vẫn quen với phương pháp dạy học truyền thống: ghi chép một chiều, truyền thụ kiến thức để đảm bảo nội dung bài học. Tư duy đổi mới còn chưa triệt để và chưa tạo thành kĩ năng thành thục. Việc đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu được áp dụng trong một số tiết thao giảng nên còn mang nặng tính hình thức. Một số giáo viên còn loay hoay trong việc tiếp cận phương pháp mới, chưa có sự chủ động và 3
  4. linh hoạt khi vận dụng vào thực tiễn giảng dạy. Bên cạnh đó, có bộ phận nhỏ giáo viên còn có tư tưởng ngại đổi mới, ngại học hỏi để nâng cao chuyên môn và tiếp cận phương pháp mới trong dạy học. Học sinh vẫn chưa thực sự chủ động, tích cực để hợp tác với giáo viên trong việc tổ chức hoạt động học theo phương pháp đổi mới dạy đọc hiểu văn bản văn học. Một bộ phận học sinh còn giữ lối học thụ động kiểu ghi chép, chưa phát huy được tư duy sáng tạo và tinh thần tự học. Việc khai thác công nghệ thông tin còn chưa đồng đều ở học sinh. b. Giải pháp mới cải tiến: Trong xu thế hội nhập và phát triển “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục”, việc đổi mới cách dạy, cách học là cần thiết. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập. Để áp dụng được các PPDH tích cực vào giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh giáo viên phải nắm được một số PPDH tích cực, cách tiến hành các phương pháp đó, phân biệt được sự khác nhau giữa PPDH tích cực và PPDH truyền thống. Một số PPDH tích cực đang được áp dụng trong nhà trường THPT hiện nay như : đàm thoại, thảo luận nhóm, đóng vai, đặt và giải quyết vấn đề, dạy học theo dự án, sơ đồ tư duy... Giáo viên biết áp dụng linh hoạt, mềm dẻo trong bài giảng của mình. Việc dạy học theo phương pháp mới đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư về thời gian, có đam mê tìm tòi, nghiên cứu. Việc đổi mới phương pháp dạy khi dạy học đoạn trích “Huyện đường” trong vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh. Giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp cũng như ý nghĩa, giá trị của các văn bản tuồng nói riêng và nghệ thuật sân khấu dân gian nói chung. Qua đó giúp các em hiểu hơn về cuộc sống, xã hội xưa kia với những mặt trái, tệ trạng còn tồn tại. Từ đó liên hệ với xã hội hiện đại để rút ra cho mình những bài học, những góc nhìn về cuộc sống. Đồng thời cũng giúp các em khám phá và hiểu rõ hơn những nét đặc sắc của nghệ thuật tuồng, thêm yêu mến và trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc. 3. Hiệu quả kinh tế, xã hội dự kiến đạt được Là giáo viên dạy văn cấp THPT và đang trực tiếp dạy chương trình lớp 10, sáng kiến Vận dụng phương pháp day học tích cực vào dạy đoạn trích “Huyện đường” (Tuồng Nghêu, 4
  5. Sò, Ốc, Hến), bộ Kết nối tri thức và cuộc sống cũng là một cách chúng tôi tiếp cận chương trình mới, tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường. Vận dụng các phương pháp phù hợp, giúp học sinh hiểu kĩ tác phẩm, nắm chắc kiến thức và có khả năng thực hành các dạng đề khác nhau liên quan đến tác phẩm. Góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, điểm số trong bài thi. 4. Điều kiện và khả năng áp dụng Về cơ sở vật chất: Trường THPT cần được trang bị đầy đủ hơn về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học hiện đại, giúp chúng tôi có điều kiện phát huy năng lực và áp dụng tốt sáng kiến vào thực tế giảng dạy. Học sinh: Phải chuẩn bị tốt bài ở nhà theo sự phân công công việc của giáo viên, có kĩ năng phối hợp làm việc nhóm và kĩ năng phân tích và giải quyết vấn đề. Đội ngũ giáo viên: Các thầy cô giảng dạy bộ môn Ngữ văn phải có cường độ làm việc lớn, lòng yêu nghề, chịu khó tìm đọc tài liệu và phải có ý thức sâu sắc về việc đổi mới PPDH để nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn. Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Ninh Bình, ngày 20 tháng 4 năm 2023 XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ Người nộp đơn (Ký và ghi rõ họ tên) Đồng tác giả: Nguyễn Thị Diệu Bắc Nguyễn Thị Hồng Liên Bùi Thị Lý Nguyễn Thị Kim Oanh Phạm Thị Nương PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CHUNG 5
  6. 1.1. Một số vấn đề về dạy học tích cực 1.1.1 Dạy học theo phương pháp dạy học (PPDH) tích cực là một định hướng lớn về đổi mới PPDH theo hướng phát triển năng lực của học sinh Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích và nhận định sâu sắc thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian qua còn chậm đổi mới, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của người học và yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành lối tư duy sáng tạo ở người học. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29- NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã chỉ rõ quan điểm, mục tiêu và giải pháp đổi mới, cụ thể như sau: Quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “... Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.”. Mục tiêu: “... Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân...” Giải pháp: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học... Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc”. (Trích Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI - Nghị quyết số 29-NQ/TW- ngày 4/11/2013) Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang 9 - 1998) 1.1.2 Dạy học theo PPDH tích cực a. Phương pháp dạy học tích cực là gì? Theo PGS.TS Vũ Hồng Tiến : “Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát 6
  7. huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. "Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.” Như vậy, đặc điểm của PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy học theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống .Yêu cầu của PPDH tích cực cần có các phương tiện dạy học, học sinh chuẩn bị bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm. Giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò. b. Đặc trưng của PPDH tích cực PPDH hiện đại xuất hiện ở các nước phương Tây từ đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh hưởng sâu rộng tới các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là cách thức DH theo lối phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế thường gọi PP này là PPDH tích cực, ở đó, giáo viên là người giữ vài trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. PPDH này rất chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững. Giáo án dạy học theo PP tích cực được thiết kế kiểu chiều ngang theo hai hướng song hành giữa hoạt động dạy của thầy và học của trò - Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. - Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học - Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học nhóm. - Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn 7
  8. các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. c. Một số phương pháp dạy học tích cực *Phương pháp đàm thoại Phương pháp đàm thoại là phương pháp hỏi đáp trong dạy học, trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi, khích lệ và gợi mở để học sinh dựa vào kiến thức đã học mà trả lời nhằm rút ra những kiến thức mới hay củng cố hoặc kiểm tra. Phương pháp đàm thoại (hỏi đáp có hiệu quả) là phương pháp mà giáo viên căn cứ vào nội dung bài học khéo léo đặt câu hỏi để học sinh căn cứ vào những điều đã biết về kiến thức, kinh nghiệm đã có của bản thân hoặc sau khi học sinh quan sát hình vẽ, xem phim, đọc tài liệu, nghe băng ghi âm..., giáo viên đưa ra những câu hỏi nhằm sáng tỏ vấn đề, tìm ra những tri thức mới từ tài liệu đã học, nhằm củng cố, mở rộng, đào sâu những tri thức đã tiếp thu được hoặc nhằm tổng kết hệ thống hóa tri thức đã thu lượm được, kiểm tra, đánh giá việc nắm vững tri thức của học sinh. Phương pháp đàm thoại có những ưu điểm sau: - Phát huy được năng lực làm việc độc lập, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực sáng tạo..., kích thích óc tìm tòi suy nghĩ, thói quen trình bày một vấn đề trước tập thể của học sinh (HS), tạo không khí tự do bộc lộ tư tưởng, tự do bộc lộ suy nghĩ của học sinh. - Qua câu trả lời của HS, giáo viên (GV) nhận biết mức độ hiểu bài của HS, từ đó có những điều chỉnh kịp thời trong giảng dạy đồng thời GV còn hiểu được tính cách, phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn, tình cảm của HS. - Giờ văn có được không khí tâm tình, trao đổi thảo luận thân mật. Tạo mối liên hệ gần gũi giữa GV với HS. *Phương pháp dạy học nhóm Nếu phương pháp đàm thoại là một phương pháp hết sức quen thuộc trong cách dạy học truyền thống, hình thức hỏi – đáp diễn ra giữa giáo viên và các thành viên trong toàn lớp thì phương pháp dạy học nhóm lại là một phương pháp khá mới mẻ, được coi là một trong những phương pháp, hình thức tổ chức hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp nhằm phát huy năng lực cho học sinh. Dạy học nhóm là một hình thức xã hội của dạy học, trong đó HS của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau 8
  9. đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên gọi khác nhau như dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm nhỏ. Dạy học nhóm không phải một phương pháp dạy học cụ thể mà là một hình thức xã hội, hay là hình thức hợp tác của dạy học. Cũng có tài liệu gọi đây là một hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ theo nhiệm vụ cần giải quyết trong nhóm mà có những phương pháp làm việc khác nhau được sử dụng. Khi không phân biệt giữa hình thức và PPDH cụ thể thì dạy học nhóm trong nhiều tài liệu cũng được gọi là PPDH nhóm. Phương pháp dạy học nhóm có ưu điểm sau: Ưu điểm chính của dạy học nhóm là thông qua cộng tác làm việc trong một nhiệm vụ học tập có thể phát triển tính tự lực, sáng tạo cũng như năng lực xã hội, đặc biệt là khả năng cộng tác làm việc, tinh thần đoàn kết của HS. - Phát huy tính tích cực, tự lực và tính trách nhiệm của HS - Phát triển năng lực cộng tác làm việc. - Phát triển năng lực giao tiếp - Hỗ trợ qúa trình học tập mang tính xã hội - Tăng cường sự tự tin cho HS - Dạy học nhóm tạo khả năng dạy học phân hoá * Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường như sau - Đặt vấn đề: tạo tình huống có vấn đề, phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh. - Giải quyết vấn đề đặt ra: Đề xuất cách giải quyết,lập kế hoạch giải quyết, - Kết luận: thảo luận kết quả và đánh giá, khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra, đề xuất vấn đề mới. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề có ưu điểm sau: Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng 9
  10. tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh. * Phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau : - Gây hứng thú và chú ý cho học sinh - Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh - Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị – xã hội * Dạy học theo dự án ( Phương pháp dự án) Dạy học theo dự án còn gọi là phương pháp dự án, trong đó HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập kế hoạch đến việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm. Kết quả dự án là những sản phẩm có thể giới thiệu được. Phương pháp dạy học theo dự án có ưu điểm sau: - Gắn lý thuyết với thực hành, kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học, phát triển khả năng sáng tạo. - Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp, rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn, rèn luyện năng lực cộng tác làm việc. * Phương pháp WebQuest WebQuest được định nghĩa: “WebQuest là một phương pháp dạy học, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm hoặc cá nhân một nhiệm vụ về một chủ đề phức hợp, gắn với tình huống thực tiễn dựa trên bộ câu hỏi định hướng do giáo viên cung cấp. Những thông tin cơ bản về chủ đề được truy cập từ những trang kết nối (Internet link) được giáo viên chọn lọc từ trước.” Thực chất WebQuest được hiểu như một mô hình, một quan điểm về dạy học có sử dụng Internet. Bản WebQuest khi được đưa lên mạng có giá trị như một đơn vị bài học. Với tư cách là một phương pháp dạy học WebQuest có những yêu cầu sau: - Tất cả các học sinh đều được tiếp cận Internet. - Thay vào việc để cho học sinh tự do tìm kiếm các thông tin về kiến thức, giáo viên sẽ cung cấp những nguồn dữ liệu đáng tin cậy nhằm hỗ trợ việc sử dụng, xử lý, chọn lọc và biến đổi thông tin thành tri thức riêng của người học 10
  11. Cấu trúc của một WebQuest gồm có 6 phần: Cung cấp một số thông tin hấp dẫn về chủ đề bài học 1 Giới thiệu (Introduction) nhằm lôi cuốn học sinh vào quá trình học Giới thiệu tình huống học tập và các yêu cầu, nhiệm vụ 2 Nhiệm vụ (Task) học sinh cần thực hiện. Liệt kê các bước cơ bản hoặc đưa ra hệ thống câu hỏi 3 Tiến trình (Process) mang tính gợi ý để định hướng học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập. Danh mục các địa chỉ trang web có chứa thông tin liên 4 Nguồn tư liệu (Resourse) quan đến nội dung bài học Đưa ra thang đánh giá để đo lường sản phẩm của người 5 Đánh giá (Evaluation) học bao gồm hình thức và tiêu chí. Tóm tắt, những nội dung chính học sinh cần nhớ trong 6 Kết luận (Conclusion) bài học Sử dụng phương pháp phương pháp WebQuest đã kích hoạt được hứng thú học tập và tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Trong hoạt động học này, giáo viên chỉ đóng vai trò thiết kế, chỉ dẫn và quan sát còn học sinh tự làm chủ mọi tiến trình học tập bao gồm cả việc tự đánh giá. Quá trình học tập vì thế là một quá trình tự nghiên cứu và khám phá. Từ đó, học sinh được rèn luyện và phát triển các năng lực tư duy như so sánh, phân loại, tổng hợp, loại suy…Các giá trị mà WebQuest đưa lại đó là tính linh hoạt, khả năng trải nghiệm học tập hữu ích, cung cấp các cách tiếp cận khác nhau về giá trị của nghiên cứu và có tính tương tác cao. 1.2.Vài nét về nghệ thuật tuồng 1.2.1. Khái niệm Tuồng là một bộ môn nghệ thuật sân khấu tổng hợp có các yếu tố văn học, âm nhạc, mĩ thuật, múa... tham gia. Để phân biệt với các loại kịch nói, kịch múa, kịch câm... nghệ thuật biểu diễn này được xếp vào loại kịch hát cổ truyền của dân tộc. Tuồng còn được gọi là hát bộ hoặc hát bội. “Bộ” trong hát bộ bắt nguồn từ việc hát có điệu bộ, có trò trống, được hình thành từ cách gọi của dân gian. Về từ “bội” có ý kiến cho rằng từ này xuất phát từ trong từ “bội độc” nghĩa là “ôn bài mà không cần sách”. Miền Trung, miền Nam phổ biến gọi là “bội” hoặc “bộ”, miền Bắc gọi là “tuồng”. 11
  12. Khác với các loại hình sân khấu khác như chèo, cải lương, Tuồng mang theo âm hưởng hùng tráng với những tấm gương nhân vật tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật Tuồng. Có thể nói Tuồng là sân khấu của những người anh hùng. 1.2.2. Lịch sử hình thành nghệ thuật tuồng Nguồn gốc và lịch sử phát triển của nghệ thuật tuồng vẫn còn rất nhiều ý kiến tranh luận khác nhau về thời điểm ra đời của loại hình nghệ thuật sân khấu này. Nhà nghiên cứu Hồ Lãng cho rằng tuồng chỉ có thể có từ thế kỷ thứ 18 (trong bài “Để tìm hiểu về lịch sử tuồng” đăng trong tạp chí “Nghiên cứu văn học” số 1 năm 1971). Nhà nghiên cứu Văn Tân thì lại định nghĩ chữ “tuồng” trong “Từ điển tiếng Việt” như sau: “nghệ thuật sân khấu cổ của Trung Quốc, truyền vào Việt Nam”. Giáo sư Phan Huy Lê có quan điểm: “Về nghệ thuật sân khấu thì thế kỷ 15, tuồng và chèo khá phát triển. Vấn đề nguồn gốc của tuồng và chèo lâu nay vẫn có nhiều kiến giải khác nhau, nhưng theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật gần đây thì tuồng và chèo là những nghệ thuật cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ rất sớm. Tuồng và chèo là những nghệ thuật sân khấu kết hợp ca kịch với vũ đạo, mang nhiều bản sắc dân tộc. Còn Hoàng Châu Ký trong cuốn sách “Sơ khảo lịch sử nghệ thuật Tuồng” của mình, trang 50 đã bác bỏ ý kiến Tuồng xuất hiện vào thời Lê sơ do tác giả nhận thấy “Nếu chỉ dựa vào những điểm như phong cách tự sự, loại sân khấu có hát và múa, thậm chí dựa vào các chi tiết hơn một chút như hát có ngâm thơ, phú, hoặc hát có vãn via, múa sử dụng cả tay, chân như tuồng hiện nay mà nói là tuồng thì chưa thực sự xác đáng, vì những đặc điểm này không chỉ tuồng mới có”. Và tác giả đã xuôi ngược dòng lịch sử để thấy được nếu đỉnh cao của tuồng là thời Nguyễn thì tuồng chỉ có thể hình thành trong thời Lê mạt. Nói chung ý kiến của các nhà nghiên cứu còn chưa thống nhất, nhưng tất cả đều chung quan điểm là tuồng xuất hiện sớm trong lịch sử Việt Nam. Nghệ thuật Tuồng phát triển ở Đàng Trong khá mạnh, từ thế kỷ 18. Vì vốn được nhân dân yêu mến, phổ biến rộng rãi trong nhân dân, lại được chính quyền chúa Nguyễn chủ trương phát triển để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của họ nên nghệ thuật Tuồng đã tiến lên một bước mới rực rỡ. ở Đàng Ngoài thì nghệ thuật này vẫn được phát triển trong dân gian. Nghệ thuật Tuồng có những biến đổi rất 12
  13. quan trọng, nhất là nửa sau của thế kỷ 19. Ba dòng Tuồng (cung đình, sĩ phu yêu nước, dân gian) song song phát triển và tồn tại là hiện tượng mới chưa từng có trong lịch sử. Tuồng là một trong những loại hình nghệ thuật sân khấu, tức là nghệ thuật tổng hợp gồm có cả văn học, hội họa, âm nhạc, múa, trò diễn,… ; là một trong những loại hình âm nhạc dân gian chuyên nghiệp, cũng như chèo, ca trù, cải lương, hát văn, nhạc cung đình,… Riêng với tuồng lại là một trường hợp đặc biệt, do là một loại hình nghệ thuật được giai cấp thống trị sử dụng vừa được nhân dân yêu mến, do đó có lúc chỉ trong một lớp tuồng lại chứa đựng cả hai ý thức hệ đối lập, chống chọi nhau. 1.2.3. Đặc điểm của nghệ thuật tuồng a. Phân loại tuồng Có lúc người ta phân loại thành tuồng thầy (mẫu mực), tuồng ngự (cho vua xem), tuồng cung đình (diễn trong hoàng cung), tuồng pho (nhiều hồi diễn nhiều đêm), tuồng đồ (phóng tác, không có trong sử sách), tuồng tân thời (chuyển thể từ các tiểu thuyết). Nhưng tựu chung có thể chia làm hai loại tuồng kinh điển và tuồng dân gian. Ngày nay có ba lưu phái tuồng: Bắc Bộ, Nam Bộ và Trung Bộ. Tuồng Trung Bộ phong phú và mang màu sắc dân tộc hơn cả. Bình Định là cái nôi của tuồng, trở thành đất tuồng với các tên tiêu biểu sau này: Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh… b. Đề tài, nội dung của tuồng Khác với các loại hình sân khấu khác như chèo, cải lương… Tuồng mang theo âm hưởng hùng tráng với những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc trưng thẩm mỹ của Tuồng. Lực lượng chính nghĩa, trong những tình huống gian khổ, hiểm nguy, đã chiến đấu vô cùng dũng cảm với một tín niệm sắt đá, thủy chung, với một khát vọng rất lớn. Họ chiến đấu cho một lý tưởng tuyệt đối (phục nghiệp cho dòng vua cũ) và bằng một lòng trung thành vô hạn độ. Cuộc chiến đấu của họ đã diễn ra đầy khí thế hào hùng, gây xúc cảm thẩm mỹ mạnh mẽ. Có thể nói, Tuồng là sân khấu của những người anh hùng. Trong những hoàn cảnh đầy mâu thuẫn và xung đột bạo liệt bi ai các nhân vật chính diện của Tuồng đã vươn lên thoát khỏi sự chế ngự của hoàn cảnh, hành động một cách 13
  14. dũng cảm, anh hùng, trở thành một tấm gương, một bài học cho người đời ngưỡng mộ noi theo. Tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử mà Tuồng có nhiều loại chủ đề khác nhau, nhưng chủ đề tồn tại khá lâu và chiếm được cảm tình của người xem là “phò vua diệt nguỵ”. Đó là vào thế kỷ 17, 18 ở Đàng Trong, giai đoạn này xuất hiện một loại kịch bản (khuyết danh) mẫu mực, thể tài thống nhất, tập trung vào chủ đề “phò vua diệt nguỵ”. Kịch bản cấu trúc rất chặt chẽ. Theo những nguyên tắc biên kịch rất vững chắc. Những vở thuộc loại này như: Sơn Hậu, Dương Chấn Tử, Giác oan, An Trào kiếm, Tam nữ đồ vương, Hồ Thạch phủ… Về nội dung: Nói chung là đi vào đề tài cung đình, nhưng không phải chỉ phản ánh những sự kiện trong cung đình mà là bao gồm cả những chuyện xảy ra trong quan hệ, – chủ yếu là quan hệ chính trị, – giữa các phe phái phong kiến nói chung. Chuyện kịch mở đầu thường bằng cảnh triều đình đang nằm trong một trạng thái bình yên tương đối, tuy vua đã già yếu và mầm mống phản loạn đã có, tức là đã có phe phản thần do tên thái sư dẫn đầu. Đứng về kịch mà nói, thì như thế mâu thuẫn kịch đã có từ đầu. c. Làn điệu, ca nhạc của tuồng Dàn nhạc Tuồng chủ yếu làm nhiệm vụ hỗ trợ trong biểu diễn của diễn viên. Trong dàn nhạc Tuồng gồm có bộ gõ: (trống, thanh la, mõ..), bộ hơi (kèn, sáo, chủ yếu là kèn); bộ dây (nhị, cò, hồ, đại, tiểu…) bộ gảy (tam, tứ, nguyệt…). Tuy dàn nhạc Tuồng chỉ hỗ trợ nhưng rất quan trọng, xin đơn cử về người chơi trống Tuồng. Chơi trống tuồng cho hay, cho có hồn, nhập thần đâu có dễ, nó không như trống chèo, càng khác xa trống chầu văn, ả đào, trống nơi cung đình… Trống tuồng có nhiều bộ, mỗi bộ lại biểu hiện một câu chữ, một động tác phải gắn liền với lời ca, với đàn, sáo nhị… sao cho hài hòa, nhuần nhuyễn. Khi tiếng trống phát ra, vang lên phải phù hợp với vũ đạo, diễn biến tâm lý của từng vai diễn trên sân khấu. Nói một cách khác, khi chơi trống tuồng, người nghệ sĩ phải hòa mình với vở diễn, đồng cảm với tính cách, số phận của từng nhân vật trên sàn diễn để mỗi khi tiếng trống phát ra, sao cho khớp với diễn biến của từng lớp diễn, hợp cảnh mà đúng làn điệu. Về phần ca diễn, Tuồng có những lối hát xướng như : 14
  15. – Nói Lối gồm Nói Lối Tuồng (đào kép xưng tên), Nói Lối Bóp (hai tướng địch gặp nhau), Nói Lối Dặm (gần như nói thường)… – Thán, ngâm cũng là hình thức xướng gồm : Thán Nhớ, Thán Sầu, Thán Chết, Thán Hận (diễn viên hay thán trước khi Hát Nam)… – Hát nam gồm Nam Xuân (sửa soạn lên đường), Nam Ai, Nam Thương (cho những vai buồn), Nam Thiên (dành riêng cho nhà sư), Nam Hồn (riêng cho hồn ma), Nam Đi, Nam Chạy (cảnh loạn lạc, hoạn nạn)… – Hát khách (thơ chữ Hán) gồm: Khách Thường (tướng ra trận hay đi tuần tiễu), Khách Phú (hát đối đáp, hàn huyên), Khách Tẩu (rượt giặc hay có chuyện cấp bách), Khách Tử (khi tướng tử trận, nhân vật sắp chết)… Đứng về mặt văn hoá, các điệu “nói lối” viết bằng thể biền ngẫu song quan, liền vần, cứ hai câu vần bằng lại đến hai câu vần trắc, cứ thế kéo dài theo yêu cầu cần thiết, số chữ trong hai câu liền vần phải bằng nhau và mỗi câu có thể từ hai chữ đến mười một chữ, cũng có trường hợp số chữ nhiều hơn. (nhưng những câu hai chữ hay ba chữ thường ít thông dụng). Ngoài nói lối, những điệu cơ bản khác của tuồng như ngâm, vịnh, thán, oán, bạch, xướng, nam, khách… đều dùng các thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn Đường luật, thơ lục bát và phú. Làn điệu cũng dựa theo âm điệu của các thể thơ, phú ấy. Nghệ thuật tuồng được hình thành là kết quả của một quá trình tự phát trong dân gian, do yêu cầu của quy luật phát triển của các trò sân khấu cổ truyền lúc ấy, kết hợp với những nhân tố mang tính trình thức của âm nhạc ả đào và các loại diễn xướng lễ phù hợp với phong cách kịch hát, với yêu cầu phát triển của sân khấu nói trên. d. Tính tượng trưng, ước lệ của nghệ thuật tuồng Tuồng thuộc dòng sân khấu tự sự phương Đông. Phương thức phản ánh đã đẻ ra thủ pháp và phương tiện biểu diễn Tuồng. Trong quá trình tái hiện cuộc sống Tuồng không có xu hướng tả thực mà chú trọng lột tả cái thần. Tả thần là biện pháp nhằm lột tả cái cốt lõi cơ bản, không đi sâu vào những chi tiết vụn vặt khi những chi tiết ấy không gây được hiệu quả nghệ thuật. Để lột tả được cái thần của nhân vật Tuồng dùng thủ pháp khoa trương cách điệu. Tất 15
  16. cả những lời nói, động tác hình thể sự đi lại trên sân khấu Tuồng đều được khoa trương và cách điệu để trở thành những điệu hát, điệu nói, điệu múa có nguyên tắc và niêm luật cụ thể. Tuồng có một hệ thống những điệu hát và những hình thức múa cơ bản mang tính chất mô hình. Về múa, chúng ta thấy có những quy tắc cụ thể được kiến lập, như: đi theo hình chữ nhất (-), ngồi để chân hình chữ đinh (J). Hoặc có những quy tắc có tính chất trình thức biểu đạt tính cách nhân vật như: Nhân vật thanh nữ ngồi thì hai bàn chân chồng nối nhau, gót chân này để lên đầu bàn chân kia và hai gối khép sít vào nhau; Phụ nữ có thai ngồi để hở hai gối; Vai nịnh thường vuốt râu bằng cách tỉa từng sợi một… Đặc trưng của khoa trương cách điệu còn được thể hiện trong âm nhạc, hoá trang, sự hình thành các kiểu mặt nạ hoá trang chủ yếu là sự khoa trương cách điệu đường nét, nếp nhăn trên khuôn mặt người. Quá trình khoa trương cách điệu trong Tuồng đều theo luật chi phối của luật âm dương. Diễn viên hoá trang thường theo một số “mẫu” chung, vai trung mặt đỏ râu dài, vai nịnh mặt rằn râu ngắn… Nam diễn viên gọi là “kép”, có kép văn, kép võ, kép rừng… Khi vào vai lão có lão văn, lão võ, lão tiều, lão chài… Nữ diễn viên gọi là “đào”, có đào chiến, đào lẳng… Cùng với khoa trương cách điệu, Tuồng còn dùng thủ pháp biểu trưng ước lệ nghĩa là thủ pháp lấy chi tiết để thay cho toàn thể cuốn hút khán giả cùng tham gia vào sự tưởng tượng và sáng tạo của người diễn viên. Không gian và thời gian được gói gọn trong những câu hát, động tác múa với những đạo cụ thô sơ… nhờ đó mà khán giả có thể tưởng tượng ra núi, sông, sáng sớm, chiều hôm, trận mạc, đi ngựa, xuống thuyền… Bởi vậy, khác với sân khấu hiện thực tâm lý, Tuồng rất ít bài trí sân khấu, không cần đến trang trí mỹ thuật phông màn cầu kỳ. Không gian sân khấu thường được bỏ trống, người diễn viên xuất hiện thì không gian, thời gian cũng xuất hiện. Nhân vật hành động trong không gian, thời gian nào thì sân khấu là không gian, thời gian đó. Thuở trước các gánh hát Tuồng chỉ cần chỉ có một chiếc chiếu trải giữa sân đình và đôi ba cái hòm gỗ đựng đạo cụ phục trang vậy mà họ vẫn diễn tả được không gian thời gian khác nhau, khi là chốn cung điện nguy nga, lúc là nơi núi rừng hiểm trở… Tuồng vừa chứa đựng yếu tố của sân khấu cổ điển lại vừa chứa đựng những yếu tố của sân khấu hiện đại. Yếu tố cổ điển biểu hiện ở chỗ tất cả những điệu hát, điệu múa được đúc kết trở thành khuôn vàng thước ngọc, hiện đại ở chỗ người diễn viên biểu diễn trên sân khấu 16
  17. không cần cảnh trí, Tuồng là loại sân khấu tổng thể, ở đây các yếu tố ca, vũ nhạc được phát triển một cách hài hoà trong nghệ thuật biểu diễn. 1.3. Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến Ngao Sò Ốc Hến hay Nghêu Sò Ốc Hến là một tuồng tích dân gian rất nổi tiếng từ Bắc chí Nam tại Việt Nam. Nhiều tuyến nhân vật, cũng như tình tiết trong tuồng tích này, dưới nhiều biến thể khác nhau, đã trở thành điển cố, điển tích sân khấu sau này. Nguyên tên chữ của vở tuồng là Di tình (??), là một vở tuồng đồ (tức tuồng do các nhà Nho nghèo sáng tác hoặc dựa theo tích dân gian) sáng tác bằng văn vần chữ Nôm, tuy nhiên dân gian thường gọi theo tên một số nhân vật trong tuồng. Tác giả khuyết danh, không rõ thời gian sáng, vở tuồng được xem là xuất phát từ tuồng Quảng Nam, sau lan đến cả Bình Định. Nội dung của tích tuồng này là Trộm Ốc nhờ thầy bói Nghêu (hay Ngao) gieo quẻ chỉ hướng vào ăn trộm nhà Trùm Sò. Ốc đem của trộm được bán cho Thị Hến, một gái góa trẻ đẹp. Lý trưởng và Trùm Sò đến lục soát bắt được tang vật, liền giải Thị Hến lên trình quan huyện. Khi đến công đường, Thị Hến đã làm cho quan huyện và thầy đề mê mệt vì nhan sắc của mình. Kết quả là Trùm Sò mất tiền, thầy Lý bị đòn, Thị Hến được tha bổng. Kết thúc vở là cảnh cả quan huyện, thầy đề, thầy Lý vì mê mẩn Thị Hến chạm mặt nhau và bị các bà vợ đánh ghen tại nhà Thị Hến. Là loại hình tuồng hài, do tác giả sống trong dân gian sáng tác, lấy đề tài trong cuộc sống đời thường và để diễn cho dân chúng xem, nội dung mang tính châm biếm, đả kích quan lại địa phương, giàu chất hài hước, làm cho vở diễn có sức hấp dẫn từ đầu đến cuối... Nhiều nhân vật, diễn tích trong vở trở thành những thành ngữ thông dụng trong dân gian. Đoạn trích Huyện đường thuộc cảnh I của hồi thứ II, thể hiện cảnh tri huyện và đề lại bàn bạc với nhau về cách nhũng nhiễu người kêu kiện. CHƯƠNG II MỘT SỐ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH HUYỆN ĐƯỜNG 2.1. Giáo viên nắm chắc các biện pháp dạy học tích cực 17
  18. Để áp dụng được các PPDH tích cực vào giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh giáo viên phải nắm được một số PPDH tích cực, cách tiến hành các phương pháp đó, phân biệt được sự khác nhau giữa PPDH tích cực và PPDH truyền thống. Một số PPDH tích cực đang được áp dụng trong nhà trường THPT hiện nay như : đàm thoại, thảo luận nhóm, đóng vai, đặt và giải quyết vấn đề, dạy học theo dự án, webquest... Giáo viên biết áp dụng linh hoạt, mềm dẻo trong bài giảng của mình. Việc dạy học theo phương pháp mới đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư về thời gian, có đam mê tìm tòi, nghiên cứu. 2.2. Xác định mục tiêu cần đạt của bài học Khi dạy một bài học người giáo viên bao giờ cũng phải xác định đựơc mục tiêu bài dạy, kiến thức trọng tâm của bài. Nếu người giáo viên không xác định đựơc điều này bài giảng sẽ lan man, học xong bài học học sinh không nhớ kiến thức, không áp dụng làm được bài kiểm tra hoặc việc thi cử. Ở bài học này giáo viên giúp học sinh nắm được: a. Kiến thức - Giúp học sinh nắm được một số đặc điểm tuồng dân gian thể hiện quan đoạn trích trên các phương diện: Đề tài, tích truyện, nhân vật, lời thoại, tính vô danh và phương thức lưu truyền... - Cảm nhận được ý vị hài hước, châm biếm qua cảnh tuồng Huyện đường - Học sinh phát hiện được các giá trị đạo đức, văn hóa từ văn bản được học - Học sinh nêu được ý nghĩa hoặc tác động của văn bản được học đối với bản thân b. Năng lực - Năng lực chung: Giúp học sinh phát triển năng lực tư duy phản biện, năng lực hợp tác, giải quyết vấn đề, tự học, sáng tạo... - Năng lực đặc thù: Năng lực giao tiếp tiếng Việt, cảm thụ văn học… c. Phẩm chất - Có thái độ trân trọng đối với những di sản nghệ thuật quý báu mà ông cha ta truyền lại - Có thái độ phê phán, mỉa mai với những hiện tượng, con người làm việc sai trái, vô đạo, bòn rút tiền của dân. 2.3. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị để học tập đoạn trích Huyện đường Việc thiết kế tiến trình dạy học tác phẩm phải đảm bảo được những yêu cầu về phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học tích cực. Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tốt các kiến thức để học tập chủ đề một cách hiệu quả. Nếu không chuẩn bị tốt bàỉ ở nhà giáo viên và học sinh không thể thực hiện đựơc theo các PPDH tích cực.Trước đây dạy theo PP truyền thống giáo viên chỉ yêu cầu học sinh soạn bài trước khi đến lớp vì thế nhiều học sinh chỉ cần có cuốn Để học tốt hoặc Sách bài tập... là chép hết các câu trả lời mà có khi không biết tác 18
  19. phẩm ấy như thế nào, mình đang trả lời câu hỏi gì. Những việc làm đó của học sinh không mang lại hiệu quả gì cho việc chuẩn bị bài học. Dạy theo PPDH tích cực giáo viên đòi hỏi học sinh phải làm việc thật sự tích cực, nếu không sẽ có đựơc sản phẩm mà giáo viên yêu cầu. Chính việc này đã tạo cho học sinh tiếp cận với bài học một cách chủ động nhiều người gọi cách làm này là Trả lại tác phẩm cho học sinh. Công việc ở nhà của học sinh cần: - Học sinh đọc kĩ các phần trích văn bản trong sách giáo khoa. Tìm đọc trọn vẹn về tác phẩm. Học sinh có thể tra cứu trên mạng Internet hoặc trong tuyển tập các văn bản tuồng. - Tìm đọc những tư liệu về nghệ thuật tuồng: khái niệm, lịch sử hình thành, đặc trưng... - Soạn bài theo hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa và các câu hỏi theo yêu cầu của giáo viên. - Tìm kiếm những tài liệu liên quan đến tác phẩm như: tư liệu tuồng, các hình ảnh, video có liên quan đến tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến - Giao dự án cho các nhóm: Tìm hiểu về vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến và thực hiện đóng vai các nhân vật trong trích đoạn Huyện đường. 2.4. Tổ chức dạy học trên lớp Sau khi yêu cầu học sinh thưc hiện các yêu cầu đã giao, khi dạy bài học trên lớp tôi đã vận dụng một số PPDH tích cực nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Cụ thể như sau: * Phương pháp đàm thoại: Áp dụng PP đàm thoại khi dạy về văn bản Huyện đường, giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi để trao đổi với học sinh như: - Nêu những hiểu biết của em về nghệ thuật tuồng? (Tuồng là gì? Tuồng thường được chia thành mấy loại? Những đặc điểm của văn bản tuồng?... - Phân biệt giữa chèo và tuồng? Cho học sinh trao đổi, phát biểu sau đó giáo viên định hướng, chốt lại: - Tuồng là loại hình kịch hát cổ truyền của dân tộc, phát triển mạnh dười triều Nguyễn, ở vùng Nam Trung Bộ. Tuồng có hai bộ phận tương đối khác biệt nhau là tuồng cung đình và tuỗng dân gian. - Nghệ thuật tuồng mang tính tổng hợp, phối hợp cả văn học, ca nhạc và vũ đạo. Tích tuồng dân gian giàu yếu tố hài, hướng tới châm biếm các thói hư tật xấu, hay đả kích môt hạng người trong xã hội. Một tích tuồng thường có nhiều dị bản, do nó được bổ sung, nắn chỉnh thường xuyên trong quá trình biểu diễn, lưu truyền. 19
  20. - Phân biệt giữa chèo và tuồng: Chèo là loại hình sân khấu dân gian, ngày càng được chuyên nghiệp hóa. Còn tuồng là loại hình sân khấu quí tộc, ngày càng được bình dân hóa. Ta có thể nêu ra những khác biệt chính sau đây: + Về nguồn gốc: Tuồng có nguồn gốc từ sân khấu Trung Quốc, du nhập vào nước ta dưới thời nhà Lý, do Lý Nguyên Cát hướng dẫn. Còn chèo hình thành từ nông thôn miền Bắc Việt Nam. + Về kịch bản: Tuồng có kịch bản hoàn chỉnh. Chèo cũng có kịch bản nhưng diễn viên phải ứng diễn nhiều hơn. + Về nhân vật: Nhân vật chính của tuồng thuộc tầng lớp thượng lưu như vua chúa. Nhân vật cao nhất trong chèo chỉ là tri huyện, thuộc tầng lớp thấp. + Về trang phục: Đạo cụ, trang phục của tuồng rất nhiều còn đạo cụ, trang phục của chèo ít ỏi, giản dị. + Về tính chất: Tuồng thiên về bi còn chèo thiên về hài. + Về khán giả: Chèo được khán giả miền Bắc say mê còn tuồng được khán giả Nam Trung bộ và Nam bộ ưa thích hơn nên tuồng phát triển mạnh ở vùng đất phía Nam. Như vậy có thể nói rằng thông qua phương pháp đàm thoại sẽ kích thích khả năng làm việc của học sinh, buộc học sinh phải tư duy trước câu hỏi nêu ra. Các câu hỏi của giáo viên đưa ra đủ bốn cấp độ để phù hợp với từng đối tượng học sinh. * Phương pháp thảo luận nhóm: Để tìm hiểu nội dung đoạn trích, giáo viên chia lớp thành 4 nhóm tương đương nhau về số lượng, trình độ để thực hiện các nhiệm vụ học tập như sau: - Nhóm 1: Em hãy liệt kê những lời thoại cho thấy sự tương đồng về bản chất, thủ đoạn giữa các nhân vật ở huyện đường từ tri huyện, đề lại, đến các lính lệ? - Nhóm 2: Vì sao nhân vật tri huyện và đề lại không cần phải giữ ý với nhau? Phân tích sự hô ứng nhịp nhàng trong lời thoại giữa hai nhân vật? - Nhóm 3: Theo dõi cảnh tuồng Huyện đường, em hiểu như thế nào về thái độ và cách nhìn nhận của người dân xưa đối với chốn “cửa quan”? + GV gợi ý, định hướng: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”. Chính câu tục ngữ này đã cho thấy sự đánh giá tổng quát của tầng lớp bị trị xưa về chốn công quyền hoặc chốn “cửa quan”. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
77=>2