intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 tại trường Phổ thông DTNT THPT An Giang

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:38

33
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dạy học tích hợp, liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học lịch sử nói riêng và dạy học nói chung trong nhà trường phổ thông. Đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 tại trường Phổ thông DTNT THPT An Giang

  1. SỞ GIAO DUC VA ĐAO TAO AN GIANG ́ ̣ ̀ ̀ ̣ CÔNG HOA XA HÔI CHU NGHIA VIÊT NAM ̣ ̀ ̃ ̣ ̉ ̃ ̣ TRƯỜNG PT DTNT THPT AN GIANG Đôc lâp – T ̣ ̣ ự do – Hanh phuc ̣ ́          Châu Đốc, ngay 29 thang 02 năm 2020 ̀ ́ BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kĩ thuật, quản lý, tác nghiệp,  ứng dụng tiến bộ kĩ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng I­ Sơ lược lý lịch tác giả: ­ Họ tên: Nguyễn Văn Thọ; Nam, nữ: Nam ­ Ngày tháng năm sinh: 10/10/1986 ­ Nơi thường trú: Lương An Trà – Tri Tôn – An Giang ­ Đơn vị công tác: Phổ thông Dân tộc nội trú THPT An Giang ­ Chức vụ hiện nay: Giáo viên  ­ Lĩnh vực công tác: Giảng dạy bộ môn Lịch sử ­ Bí thư Đoàn trường II­ Sơ lược tình hình đơn vị: ­   Trường   Phổ   thông   Dân   tộc   nội   trú   THPT   An   Giang   thuộc   loại   trường   chuyên   biệt   của   tỉnh   An   Giang.   Trường   được   thành   lập   theo   Quyết   định   số  2179/QĐ­UBND ngày 09 tháng 10 năm 2015 của UBND tỉnh An Giang trên cơ  sở  tách cấp trung học phổ  thông từ  Trường THPT Dân tộc nội trú An Giang (được   thành lập từ  năm 1992, tọa lạc tại  ấp An Lộc, xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh  An Giang). Từ  tháng 3 năm 2016 trường dời về cơ  sở mới tọa lạc tại khóm Châu  Thới I, phường Châu Phú B, thành phố  Châu Đốc, tỉnh An Giang. Năm học 2019 –   2020, trường có 15 lớp học với tổng số học sinh 475 em. Chất lượng giáo dục liên  tục tăng và đạt mức độ  cao (8 năm liền tỷ  lệ tốt nghiệp THPT 100%, từ năm 2012  đến năm 2019, tỷ lệ học sinh đỗ vào các trường đại học hàng năm dao động từ 60%  đến 80%). Xếp loại hạnh kiểm hàng năm đạt từ 95% loại tốt trở lên, xếp loại học   lực hàng năm đạt loại Giỏi từ  18 đến 25%, loại Khá từ  55 đến 65%, loại Trung   bình từ  15 đến 18%, loại Yếu dưới 1%, không có loại Kém. Nhiệm vụ  chính của  trường là đào tạo lực lượng cán bộ  nguồn trong đồng bào dân tộc thiểu số  có đủ  trình độ học vấn, phẩm chất đạo đức, có thể sẵn sàng phục vụ  cho công cuộc xây   dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.  ­ Thuận lợi: Cơ sở vật chất hiện tại của trường được trang bị tương đối đầy  đủ; Ban giám hiệu nhà trường quan tâm sâu sát về chuyên môn, phối hợp chặt chẽ  với các bộ  phận đoàn thể, tổ  chuyên môn trong quản lý học sinh. Phụ  huynh học   sinh quan tâm đến việc học hành của con em mình… ­ Khó khăn: Học sinh là người dân tộc Khmer với vốn tiếng Việt còn hạn   chế nên tiếp thu kiến thức chậm, thiếu những kĩ năng sống cần thiết; một bộ phận   Trang 1
  2. gia đình phụ huynh học sinh đi làm ăn xa nên còn khoán trắng việc giáo dục cho nhà  trường … ­  Tên sáng kiến:  “Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử  Việt   Nam giai đoạn 1945 – 1954 tại trường Phổ thông DTNT THPT An Giang”. ­ Lĩnh vực: Giải pháp kỹ thuật: Quy trình cải tiến phương pháp để  nâng   cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch sử. III­ Mục đích yêu cầu của sáng kiến. 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến. Dạy học tích hợp, liên môn là xu hướng đã được áp dụng từ lâu ở nhiều nền  giáo dục tiên tiến trên thế giới. Ở nước ta, đây là một xu thế dạy học mới và hiện  đang có chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Nằm trong lộ trình đổi mới đồng  bộ  phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá  ở  các trường phổ  thông theo định   hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị  quyết 29 ­ NQ/TƯ về  đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, sau khi Quốc hội thông qua Đề  án  đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Bộ Giáo dục Đào tạo tiếp   tục chỉ  đạo các cơ  sở  giáo dục tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội   ngũ giáo viên sẵn sàng đáp  ứng mục tiêu đổi mới giáo dục, trong đó tăng cường  năng lực dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” là một trong những vấn đề  cần  ưu tiên.     Trong đổi mới cách dạy và học lịch sử  hiện nay thì dạy học tích hợp, liên  môn cũng là một biện pháp được ngành giáo dục và đào tạo chú trọng. Vì thế,  trong  những năm gần đây, bộ Giáo dục và đào tạo đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên   môn vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Thông qua hình thức này, học sinh  sẽ được vận dụng nhiều kiến thức, lĩnh vực hiểu biết khác nhau để  khám phá nền  tri thức của nhân loại, rèn luyện nhiều kĩ năng cần thiết… Từ đó học sinh hiểu bài   sâu hơn, tiếp thu bài linh hoạt và chủ động hơn.  Bên cạnh đó, việc giảng dạy môn Lịch sử   ở  trường THPT hiện nay đa số  học sinh đều không mấy hứng thú học tập. Điều này do nhiều nguyên nhân như:   nội dung, chương trình nặng nề, kiến thức khô khan, nhiều sự kiện  nặng về chiến  tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học,  khoa học… nên chưa tạo được sự hứng thú học lịch sử đối với học sinh. Học sinh   còn hiểu một cách rời rạc, không nắm được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức  thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn.  Nắm bắt được chủ  trương trên của ngành giáo dục, cũng như  nhận thức   được tác dụng của việc vận dụng các kiến thức liên môn vào trong giảng dạy lịch  sử, trong những năm qua tôi đã mạnh dạn đầu tư vào công tác soạn giảng bằng việc   nghiên cứu tìm cách lồng ghép, tích hợp các kiến thức liên quan của các bộ  môn   khác vào chương trình giảng dạy lịch sử lớp 12  ở trường phổ thông dân tộc nội trú  An Giang. Để làm được việc này, vào đầu mỗi năm học, ngay từ tiết đầu tiên nhận   Trang 2
  3. lớp giảng dạy, tôi đã thực hiện một hoạt động khảo sát đối với học sinh nhằm   thăm dò nhận thức của các em về việc tích hợp kiến thức của các môn học khác vào  bài giảng Lịch sử cụ thể như sau:  PHIẾU  KHẢO  SÁT HỌC  SINH Các  em  hãy  vui  lòng  trả  lời  các  câu  hỏi  sau  bằng  cách  đánh  dấu (X)  vào 01 sự lựa chọn của em. 1. Thái độ của em đối với bộ môn lịch sử ở trường THPT? □ Rất thích. □ Khá thích. □ Thích. □ Không thích. 2. Theo em bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có tầm quan trọng  không? □ Rất quan trọng. □ Khá quan trọng. □      Quan trọng. □ Ít quan trọng. □ Không quan trọng. 3.  Theo em, để học tốt bộ môn lịch sử chúng ta cần phải làm gì? □ Học thuộc lòng kiến thức ghi trong vở. □ Trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa. □ Đọc sách giáo khoa. □ Tìm hiểu thêm kiến thức liên quan trong các môn học khác. 4. Trong các giờ học môn lịch sử, em thích được tiếp cận với phương  pháp giảng dạy nào của giáo viên? □ Sử dụng phương pháp vấn đáp. □ Làm việc nhóm. □ Đàm thoại, thuyết giảng của giáo viên. □ Sử dụng kết hợp kiến thức các môn học khác, sử dụng tranh ảnh... □ Tất cả các ý trên 5. Để học tốt bộ môn lịch sử ở trường  phổ  thông, theo em việc kết  hợp kiến thức nhiều bộ môn trong giờ học có cần thiết hay không? □  Rất cần thiết.       □ Cần thiết. □  Không cần thiết. □ Không quan tâm 6. Theo em việc sử dụng kiến thức của các môn học khác vào bài  học  môn Lịch sử có tác dụng gì không?  □ Không có tác dụng. □ Có tác dụng. Nếu có, lí giải vì sao.............................................................................................. Trang 3
  4. ............................................................................................................................... Theo kết quả khảo sát, thăm dò tôi nhận thấy rằng đa số học sinh rất thích học  lịch sử và cho rằng việc dạy lịch sử có vai trò quan trọng trong trưởng phổ thông. Tuy   nhiên, các em còn chưa thích  ứng, chưa được tiếp cận nhiều với việc giáo viên vận  dụng các kiến thức có liên quan ở các môn học khác vào giờ dạy học lịch sử vì vẫn có   nhiều em cho rằng đây là việc không cần thiết (câu 5). Đặc biệt đối với câu hỏi số 6,  chỉ có một bộ phận nhỏ học sinh cho rằng việc sử dụng kiến thức của các môn học   khác vào bài học lịch sử sẽ tạo cho bài học thêm sinh động, dễ tiếp thu và đỡ  nhàm   chán còn phần đông các em trả  lời không có tác dụng.  Từ  thực trạng đó, tôi nhận  thấy rằng cần phải đẩy mạnh việc lồng ghép, tích hợp kiến thức của các môn học  khác vào giảng dạy lịch sử để  giảm tính khô khan vốn có của các sự  kiện lịch sử,   tăng thêm tính hấp dẫn, làm sáng tỏ  hơn những kiến thức học sinh đã học, tạo ra  động cơ, hứng thú học tập cho học sinh.   2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: Trong hệ thống giáo dục ở trường trung học phổ thông, môn Lịch sử có vai trò   quan trọng trong việc bồi dưỡng cho thế  hệ  trẻ  về  kiến thức văn hoá, tư  tưởng   chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực hành động. Từ  những hiểu biết về  quá  khứ học sinh sẽ hiểu rõ truyền thống của dân tộc, tự hào với những thành tựu trong  công cuộc dựng nước và giữ nước của tổ  tiên, xác định được vị  thế  của đất nước   trong hiện tại và có thái độ đúng đắn đối với sự phát triển hợp quy luật của tương   lai. Bên cạnh đó, nó còn góp phần quan trọng trong việc hình thành bồi dưỡng nhân   sinh quan, thế  giới quan khoa học, tác động đến học sinh không chỉ  về  trí tuệ  mà   còn cả về tư tưởng tình cảm ở những mức độ khác nhau. Như vậy, so với các môn   học khác thì môn Lịch sử  có nhiều  ưu thế  trong việc giáo dục tư  tưởng tình cảm   đối với thế  hệ  trẻ. Những kiến thức lịch sử không chỉ  đơn thuần dạy cho các em   biết yêu, ghét trong đấu tranh, biết yêu quý lao động, trân trọng cái đẹp mà còn góp  phần định hình cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong giao tiếp hằng ngày. Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ  nhưng hiện nay việc dạy học lịch sử  chưa hoàn thành tốt vai trò của mình. Một  thực tế đáng buồn là học sinh còn xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp thu kiến thức  một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Bởi vì, đa phần các em cho rằng   học lịch sử  phải ghi nhớ  quá nhiều sự  kiện khô khan. Lịch sử  là một môn học  nghiên cứu về  quá khứ, mà quá khứ  là những cái đã trãi qua không thể  thay đổi   được nên chỉ học cho qua chứ không có gì để vận dụng vào thực tế. Ngày   nay,   dạy   học   theo   chủ   đề   tích   hợp,   liên   môn   là   một   trong   những  phương pháp quan trọng trong dạy học ở trường phổ thông. Việc dạy học liên môn   đòi hỏi người giáo viên không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn của mình mà   còn phải nắm nội dung chương trình các môn học khác. Đối với bộ  môn Lịch sử  ­  bộ môn vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ thiết nghĩ   cần phải được quan tâm hơn. Bởi vì, bản thân những sự  kiện lịch sử  vốn đã khô  Trang 4
  5. khan, nhất là những bài, những chương viết về  các trận đánh có rất nhiều con số  về  ngày, tháng, năm xảy ra sự  kiện hoặc những số  liệu về  các thành tựu đã đạt  được trên mọi lĩnh vực. Để  chuyển tải cho học sinh những số  liệu này một cách  nhẹ  nhàng, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo trong việc sử dụng   các kiến thức liên môn một cách chính xác và phù hợp. Do đó , việc người giáo viên  dạy lịch sử phải nắm vững các sự kiện lịch sử cùng với những hiểu biết tri thức về  nhiều môn khoa khọc xã xội và nhân văn khác để bổ trợ là yêu cầu quan trọng.  Chương trình lịch sử lớp 12 giai đoạn 1945 – 1954 là giai đoạn với nhiều sự  kiện, nhân vật, nội dung hay và phong phú. Để dạy học lịch sử giai đoạn này được  sinh động, dễ tiếp thu ta phải vận dụng nhiều kiến thức bổ trợ của nhiều môn học  khác như  Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân, Tin học, Quốc phòng an ninh, phim,   tranh ảnh tư liệu... Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay  ở các trường học trong tỉnh  An Giang, việc sử dụng các kiến thức liên môn trong giảng dạy lịch sử vẫn chưa   được chú trọng. Nhiều giáo viên còn ngại sưu tầm, tìm kiếm tài liệu liên môn phục   vụ cho việc giảng dạy hay nếu có thì cũng chỉ ở mức độ sơ sài chưa thực sự mang  lại hiệu quả. Xuất phát từ những lí do trên tôi chọn đề tài “Vận dụng kiến thức liên môn  trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 tại trường Phổ thông DTNT  THPT An Giang” nhằm nâng cao hiệu quả bài học, gây hứng thú học tập cho học  sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức bài học một cách đúng đắn, chân thực và sâu  sắc.  3. Nội dung sáng kiến 3.1. Quan điểm chung về dạy học liên môn. Dạy học tích hợp, liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong   dạy học lịch sử  nói riêng và dạy học nói chung trong nhà trường phổ  thông. Đây   được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học   sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường.  Dạy học tích hợp, liên môn là việc xác định một chủ  đề  để  huy động kiến  thức của nhiều môn học để  xử  lí hoặc giải quyết một vấn đề  không phải của chỉ  một môn học. Nó không chỉ tạo cảm hứng mà còn kích thích sự quan tâm, trí tò mò  của người học. Đặc trưng của liên môn là một tổng thể các thành phần có mối liên   hệ với nhau và ảnh hưởng qua lại với nhau. Do vậy, để lựa chọn và xây dựng nội  dung bài học tích hợp liên môn cần thấy được sự phát triển các kiến thức thuộc chủ  đề  trong một môn học cũng như  mối quan hệ  về  chủ  đề  giữa các môn học khác   nhau.  Do đó, xét về bản chất, dạy học tích hợp, liên môn là dạy học những nội dung   kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. Là hình thức tìm tòi những nội dung  giao thoa giữa các môn học với nhau, những khái niệm, những tư tưởng chung giữa   các môn học. Tùy theo đặc trưng cụ thể từng bài học mà có thể  liên môn các môn   khoa học lại với nhau như: Lí – Hóa – Sinh – Văn – Sử – Địa ... Dạy học theo quan  Trang 5
  6. điểm tích hợp, liên môn có ba cấp độ: ở mức độ thấp giáo viên nhắc lại tài liệu, sự  kiện, kĩ năng các môn có liên quan; cao hơn đòi hỏi học sinh nhớ  lại và vận dụng  kiến thức đã học của các môn học khác và cao nhất đòi hỏi học sinh phải độc lập  giải quyết các bài toán nhận thức bằng vốn kiến thức đã biết, huy động các môn có  liên quan theo phương pháp nghiên cứu, bảo đảm cho học sinh vận dụng được tổng  hợp các kiến thức đó một cách hợp lí để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong  cuộc sống, đồng thời tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung   kiến thức ở các môn học khác nhau.  3.2.  Ưu điểm của việc vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch   sử.     Ưu điểm đối với học sinh ­ Trước hết, các chủ đề tích hợp, liên môn có tính thực tiễn nên sinh động, hấp  dẫn, có  ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các  chủ đề liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải   quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc.  ­ Vận dụng nguyên tắc dạy học tích hợp, liên môn trong dạy học lịch sử có tác  dụng tăng thêm tính hấp dẫn trong dạy học, làm sáng tỏ  hơn những kiến thức học   sinh đã học trong nhiều môn. Vì qua nội dung giao thoa giữa các bộ  môn làm cho  kiến thức của học sinh càng hoàn chỉnh hơn, chặt chẽ hơn. ­ Dạy học tích hợp, liên môn trong dạy học Lịch sử  làm cho học sinh nhận  thức được sự  phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, toàn diện trong các  lĩnh vực đời sống, hiểu được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục tính rời rạc, tản   mạn trong kiến thức góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở học sinh. Tạo   cho học sinh thói quen trong tư duy lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt   chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mới có thể nhận thức một cách thấu đáo. Đối với giáo viên:  Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường  xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác. Vì vậy, giáo   viên sẽ có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó, góp phần từng bước nâng   cao trình độ chuyên môn của mình. Hai là, giáo viên không còn là người truyền thụ  kiến thức một chiều mà là   người tổ chức, kiểm tra, định hướng các hoạt động học của học sinh cả ở trong và  ngoài lớp học. Mặt khác, khi dạy học theo chủ đề  tích hợp liên môn, giáo viên các   bộ môn liên quan sẽ có điều kiện và chủ động hơn trong quá trình phối hợp, hỗ trợ  nhau trong dạy học, tạo mối quan hệ gắn bó giữa đồng nghiệp với nhau.  Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn sẽ  có tác dụng bồi dưỡng, nâng   cao kiến thức và kĩ năng sư  phạm cho giáo viên. Bởi vì, khi thực hiện hoạt động   dạy học theo hướng tích hợp, liên môn giáo viên không chỉ nghiên cứu tìm hiểu sâu   về kiến thức của môn học mình phụ trách giảng dạy mà còn biết thêm nhiều kiến   Trang 6
  7. thức của các môn học khác. Từ  đó, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ  môn  hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học theo yêu cầu của xã hội. 3.3. Biện pháp tổ chức thực hiện sáng kiến. Thứ nhất, tiến hành khảo sát học sinh vào đầu năm học. Khi thực hiện sáng kiến này, vào đầu mỗi năm học, tôi thực hiện một bài  khảo sát nhỏ đối với các lớp tôi được phân công giảng dạy nhằm tìm hiểu thái độ,  nhận thức của các em đối với môn Lịch sử và đối với việc sử  dụng phương pháp  dạy học theo chủ đề tích hợp, liên môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử. Trên cơ sở  đó để  có định hướng kịp thời, đề  ra phương pháp giảng dạy phù hợp với các đối   tượng học sinh. Thứ hai, tăng cường hoạt động nghiên cứu, sưu tầm tài liệu.  Sau khi  nghiên cứu kĩ chương trình lịch sử  lớp 12, giai đoạn 1945 – 1954   trong sách giáo khoa, tôi tiến hành sưu tầm các nội dung kiến thức của các môn học   có quan hệ  sát với nội dung các bài học lịch sử  thuộc phạm vi nghiên cứu của đề  tài. Sau đó, tôi tiến hành lựa chọn, phân loại nội dung kiến thức của các môn học có  liên quan sao cho phù hợp với yêu cầu, phương pháp giảng dạy và sắp xếp nguồn  tư liệu đó thành từng chủ đề tương ứng với từng bài học cụ thể trong chương trình.  Thứ ba, tăng cường dự giờ đồng nghiệp. Tôi thường xuyên dự  giờ  các đồng nghiệp, đặc biệt dự  các tiết dạy  ở  khối   12. Qua giờ  dạy của đồng nghiệp, bản thân tôi nhận thấy rằng: cần giảm bớt sự  khô khan trong dạy học lịch sử   ở  trường phổ  thông bằng cách lồng ghép vào bài   giảng những kiến thức có liên quan trong các môn khoa học xã hội, và các lĩnh vực   chính trị, văn hóa nghệ thuật vào bài giảng lịch sử. Bởi vì, những kiến thức giàu tính  hình tượng, biểu cảm này sẽ nhẹ nhàng đi vào lòng người, làm rung động cảm xúc,   khơi gợi hứng thú, sự yêu thích ở các em học sinh, giúp học sinh dễ nhớ và nhớ lâu  hơn kiến thức mà mình thu nhận được.       Thứ  tư, giao nhiệm vụ  cho học sinh sưu tầm trước các tài liệu có liên   quan đến bài học. Hoạt động này tôi thường thực hiện ở khâu dặn dò cuối tiết học. Trên cơ sở  yêu cầu của bài học, tôi phân công các nhóm học sinh về sưu tầm, chuẩn bị trước  các nội dung theo kế hoạch dạy học tích hợp của giáo viên. Để  khuyến khích các   em thực hiện tốt hoạt động này, giáo viên có thể  lấy kết quả  chuẩn bị  của các  nhóm cho điểm nhằm tạo động lực cho các em hoạt động. Thứ  năm, đầu tư cho công tác soạn giảng, tiến hành lồng ghép các kiến   thức có liên quan đã sưu tầm vào từng bài giảng lịch sử  cụ  thể  trong chương   trình. Đây được xem là khâu quan trọng nhất. Sau khi thu thập, tôi tiến hành sắp  xếp  Trang 7
  8. lại các tư liệu liên môn và đưa chúng vào từng bài giảng cụ thể trong chương trình  lịch sử  Việt Nam lớp 12, giai đoạn 1945 – 1954 hiện hành. Sau đó tiến hành thực  nghiệm giảng dạy trên lớp. 3.4. Các môn học có thể  sử  dụng dạy học tích hợp, liên môn trong phần   lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954.     3.4.1. Kiến thức môn Ngữ Văn  Các tác phẩm văn học từ xưa đến nay, trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử  thế giới, có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử  ở trường phổ thông. Trước  hết, các tác phẩm văn học, bằng những hình tượng cụ  thể  có tác động mạnh mẽ  đến tư tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng tiêu biểu của các  hiện tượng kinh tế, chính trị, những quy luật của đời sống xã hội.  Giữa văn học và  sử  học có mối liên hệ  khăng khít.  Khoa  học  lịch  sử  dựa  vào  những nhân  vật,  sự  kiện, hiện  tượng  lịch  sử  có  thật  trong một  giai đoạn nhất  định  để  khôi phục lại  bức tranh quá khứ một cách chính xác, khách quan. Còn văn học dựa trên chất liệu  cuộc sống để xây dựng hình tượng, cốt truyện, mỗi tác phẩm văn học đều mang  trong  mình  dấu  ấn  của  thời  đại. Vì thế,  các đoạn trích về  thơ, văn có  tác dụng  minh hoạ, cụ thể hoá sự kiện, làm nổi bật hơn diễn biến của sự kiện, nêu  ra một  kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kì, một sự kiện lịch sử  cụ thể.  Vì vậy, để  tạo  ra  những  biểu  tượng lịch  sử  sinh  động, chân  xác,  trong dạy  học lịch sử cần sử dụng các tài liệu văn học để góp phần dựng lại bức tranh  quá  khứ  lịch  sử,  trình  bày  các  đặc  trưng  của  các  hiện  tượng  kinh  tế, chính trị, văn  hóa, xã hội, những quy luật của đời sống ở từng thời đại một cách sinh động, hấp  dẫn bằng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật. Việc sử dụng tài liệu văn học trong  dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh tránh được tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử giúp  học sinh củng cố và phát triển kiến thức lịch sử, phát huy tính tích cực, năng động  của  học  sinh  và  gây  hứng thú  học  tập.  Do  đó,  chất  lượng  dạy  học  lịch  sử  được  nâng lên. 3.4.2. Kiến thức Địa lí  Xét cụ  thể  môn Địa lí chú ý đến tính không gian lãnh thổ  của các sự  vật   hiện  tượng đang diễn ra hiện nay, còn môn Lịch sử  chú ý đến quá trình hình thành và  phát  triển của xã hội. Tuy nhiên, hai môn Địa Lí và Lịch Sử  đều có những nội dung   thuộc  nhóm Khoa học xã hội nhân văn, đều nghiên cứu những vấn đề  của con người,  xem  xét các mối quan hệ mang tính qui luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Vì thế, giữa   chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn  liền  với  vị  trí  không gian  nhất  định.  Nhiều  sự  kiện kịch  sử  xảy  ra  bắt  nguồn từ  Trang 8
  9. đặc điểm địa lí hoặc do điều kiện địa lí tác động, chi phối. Do vậy kiến thức địa lí  có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong dạy học lịch sử. Bản đồ lịch sử được tích hợp  kiến thức địa lí  giúp học sinh hiểu rõ sự  kiện lịch sử trên các  khía cạnh như: tại  sao xảy ra ở vị trí không gian đó? Diễn  biến  thế  nào?  Mối  liên  quan  của  các  sự  kiện  trong  những  vị  trí  không gian khác nhau ra sao? Vì thế, bản đồ, lược đồ  như  một nguồn tri thức quan trọng, một phương  tiện dạy học cần thiết để  thể  hiện  không gian diễn biến các sự kiện lịch sử. Bài học lịch sử gắn với bản đồ và kiến  thức địa lí luôn tạo ra sự hấp dẫn, giúp học sinh nắm chắc sự kiện, biết lí giải bản  chất sự kiện qua sự chi phối của yếu tố địa lí. 3.4.3. Kiến thức môn Giáo dục công dân.  Với yêu cầu đặc trưng là giúp học sinh hiểu rõ từng thời kì phát triển của xã  hội để có những nhận thức lịch sử đúng đắn, bộ môn Lịch sử có thể tích hợp nhiều   nội dung của môn Giáo dục công dân như: lòng biết  ơn với những người có công  với dân tộc; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ  di sản   văn hóa, di tích lịch sử, nghĩa vụ  bảo vệ  Tổ  Quốc, xem đó là bổn phận và trách  nhiệm cụ thể của công dân hiện nay; khắc sâu niềm tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh   đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp kháng chiến và xây dựng  đất nước.  3.4.4. Kiến thức môn Tin học Mục tiêu của ngành giáo dục là không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy   và nâng cao chất lượng giáo dục  ở  tất cả  các cấp học. Trong đó, việc  ứng dụng   công nghệ  thông tin trong dạy học đang được đẩy mạnh và nhân rộng trong toàn   ngành. Việc  ứng dụng công nghệ  thông tin trong dạy học giúp giáo viên nâng cao  tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình, giúp giáo  viên có thể  thay đổi nội dung và phương pháp truyền đạt trong dạy học.  Với việc  sử dụng giáo án điện tử bằng các phần mềm Microsoft Power Point  để trình chiếu  các Slide hình ảnh, các  đoạn phim tư  liệu  và phần  mềm Violet để thiết kế phần  trò chơi giải ô chữ, điền khuyết, câu hỏi trắc nghiệm trong phần củng cố, kiểm tra  kết quả học tập của học sinh sẽ phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học  bộ môn Lịch sử.  3.4.5. Kiến thức môn GDQP – AN Việc vận dụng các kiến thức về  quân sự, quốc phòng sẽ  giúp học sinh hiểu  sâu hơn về đường lối kháng chiến của Đảng trong cuộc kháng chiến cống thực dân   Pháp xâm lược; thấy được âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù để từ đó Đảng ta vạch ra   chủ trương cho phù hợp; thấy được quá trình chuẩn bị của ta cho các chiến dịch, lí  do chuyển đổi phương châm tác chiến của Đảng ta trong từng điều kiện lịch sử cụ  thể để mang lại hiệu quả tích cực cho cuộc kháng chiến. 3.4.6. Các đoạn phim ảnh tư liệu ­ Âm nhạc cách mạng. Trang 9
  10. Âm nhạc, phim ảnh là những phương tiện hỗ trợ đắc lực trong giảng dạy môn  Lịch sử. Việc sử dụng âm nhạc, phim  ảnh sẽ  góp phần tạo được biểu tượng lịch  sử cho học sinh trong quá trình học tập bởi vì thông qua âm nhạc , phim ảnh sẽ giúp  học sinh có cái nhìn thực trong tái hiện lịch sử. Qua một đoạn phim tư liệu, một bài  hát có liên quan đến lịch sử sẽ nhanh chóng đi vào lòng người học nhanh gấp nhiều  lần hơn lời thuyết giảng của người thầy, tạo cho giờ học được sinh động, lôi cuốn,   truyền cảm, góp phần nâng cao hiệu quả học tập bộ môn lịch sử. 3.4.7. Kể chuyện lịch sử trong quá trình dạy học lịch sử. Kể chuyện lịch sử  là một phương pháp dùng lời nói để diễn tả một cách  sinh động, hấp dẫn, có thể kèm theo hình ảnh về một câu chuyện đã xảy ra trong  quá  khứ.  Câu  chuyện  kể  có  khi  chỉ  là  những  mảnh  sự  kiện,  biến  cố  lịch  sử  có  liên quan đến nội dung bài học, có khi là những tình tiết liên quan đến các nhân  vật  lịch  sử,  có  khi  là giải  thích  cho  một  cái  tên,  một  địa  danh,  một  khái  niệm  –  thuật ngữ trong bài học. Có  thể  nói  việc  kể  chuyện  lịch  sử  được  thực  hiện  khá  phổ  biến  trong giảng dạy bộ môn Lịch sử. Những câu chuyện lịch sử cung cấp kiến thức  lịch  sử  cho  học  sinh,  mở  rộng  kiến  thức  mà  sách  giáo  khoa  không  có  khả  năng  giải quyết nổi do những qui định chung. Thường sách giáo khoa chỉ  đưa ra  những nhận  định  chung  nên  học  sinh  không  hiểu nổi  nên  giáo  viên  cần  phải  kể  cho học sinh nghe một câu chuyện tóm lược đôi nét về  các sự  kiện, nhân vật lịch  sử. Kể chuyện lịch sử có tác dụng giáo dục tư  tưởng, tình cảm, đạo đức cho  học  sinh.  Mỗi  câu  chuyện  là  một  tấm  gương  phản  chiếu  bao  điều  tốt  xấu,  thiện ác, những tấm lòng cao thượng, quả cảm của các anh hùng của các anh hùng  dân  tộc,...  Đồng  thời,  kể  chuyện  lịch  sử  còn  giúp  phát  huy  khả  năng  tư  duy  nhiều mặt cho học sinh như óc tưởng tượng, khả năng khái quát, tóm tắt chuyện,  nhớ các tình tiết,... 3.5. Các địa chỉ  có thể  sử  dụng kiến thức liên môn trong chương trình  lịch sử 12, giai đoạn 1945 – 1954.     3.5.1. Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2 – 9 – 1945   đến trước ngày 19 – 12­ 1946.   ­ Môn Ngữ Văn: Tích hợp các câu ca dao, các đoạn trích có liên quan đến nạn  đói năm 1945, những câu ca dao thể hiện tinh thần tương thân tương ái của người  Việt Nam, sử dụng bài vè về  phong trào “Bình dân học vụ” để  thấy được sự sáng   tạo cũng như  quyết tâm của nhân dân ta trong việc đấu tranh với giặc đói, dốt và  những nổ lực giải quyết khó khăn về tài chính… ­ Môn Địa Lý: Sử dụng bản đồ Việt Nam thể hiện rõ vị trí của các lực lượng   quân đội Đồng minh vào Việt Nam thực hiện nhiệm vụ  giải giáp quân Nhật. Trang 10
  11. ­ Môn Giáo dục công dân: Sử  dụng các đoạn phim về  giải pháp giải quyết  nạn đói, nạn dốt, các sự kiện có liên quan đến Bác Hồ  để  giáo dục đạo đức, giáo  dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh. ­ Môn Tin học: ứng dụng phần mềm Microsoft Power Point để trình chiếu các  Slide hình  ảnh, các đoạn phim tư  liệu và phần mềm Violet để  thiết kế  phần trò  chơi giải ô chữ trong phần củng cố, kiểm tra kết quả học tập của học sinh. ­ Kể mẫu chuyện lịch sử:  + Giáo viên có thể  kể về bối cảnh ra đời của bài hát “Nam bộ kháng chiến”  và vài nết về nhạc hoạt động cách mạng của nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn giúp học sinh  khắc sâu sự kiện ngày 23/9/1945 bắt đầu kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại  xâm lược ở Nam bộ. +  Kể  về  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  và  những  ứng  xử  ngoại  giao  mẫu  mực  để  giúp học sinh khắc sâu kiến thức về hiệp định Sơ  bộ ngày 06/3/1946 và Tạm  ước  ngày 14/9/1946.      3.5.2. Bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống   thực dân Pháp Xâm lược (1946 – 1950). ­ Môn Ngữ  Văn: Thu đông 1947, Pháp huy động 12000 quân tiến công lên  Việt Bắc với âm mưu loại bỏ cơ quan kháng chiến đầu não của ta để nhanh chóng   kết thúc chiến tranh. Đoán được ý đồ  của giặc quân ta tổ chức bao vây, chặn đánh   chúng trên hầu khắp các mặt trận ở Việt Bắc gây cho địch thiệt hại nặng nề. Việt   Bắc trở thành mồ  chôn của quân Pháp. Sau khi giáo viên và học sinh dựa vào lược   đồ để tìm hiểu diễn biến và kết quả của chiến dịch, giáo viên có thể  khái quát lại,  giúp học sinh ghi nhớ bằng đoạn ca dao sau: “Ai qua phố cũ Đoan Hùng ..... Bên kia bãi cát, nấm mồ thực dân!” Năm 1950, Trung  ương Đảng quyết định mở  chiến dịch Biên giới để  khai   thông biên giới Việt – Trung, mở  đường giao thông nối liền với các nước xã hội   chủ  nghĩa. Do tầm quan trọng của chiến dịch, vào trung tuần tháng 9 – 1950, Hồ  Chủ  tịch đã lên đường thị  sát chiến trường. Để  giúp học sinh nắm chắc sự  kiện  này, giáo viên khai thác hình 49 sách giáo khoa trang 136 kết hợp với đọc đoạn ca  dao sau: “Nhớ xưa gậy trúc dép đen Đi thăm mặt trận, Bác lên đỉnh đèo Đường rừng khúc khuỷu cheo leo Bác đứng trên đồi, vẫy gọi con lên” ­ Môn Địa lí: Sử  dụng lược đồ  Việt Nam để  làm rõ hành động, âm mưu   khiêu khích của Pháp đối với ta sau khi kí hiệp định Sơ  bộ  6 – 3 và bản tạm  ước   ngày 14 – 9  ở các địa phương từ bắc vào nam để học sinh thấy rõ dã tâm của Pháp  là quyết cướp nước ta thêm một lần nữa. Ngoài ra, giáo viên còn dùng lược đồ Việt  Trang 11
  12. Nam để chỉ các địa điểm diễn ra các cuộc chiến của nhân dân ta ở các đô thị bắc vĩ   tuyến 16 để học sinh nắm chắc bài học. Sử dụng lược đồ khu căn cứ địa Việt Bắc   để  miêu tả  diễn biến chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947, chiến dịch Biên   giới thu – đông năm 1950. ­ Môn Giáo dục công dân: thông qua việc cung cấp những hình ảnh về tinh   thần chiến đấu của quân dân ta ở các đô thị, hình ảnh anh chiến sĩ cảm tử quân ôm  bom ba càng lao vào hủy diệt xe tăng Pháp để giáo dục học sinh lòng yêu nước, lòng   tự hào về những chiến thắng vĩ đại của dân tộc trong cuộc kháng chiến cống Pháp.  Qua đó, nhắc các em phải cố  gắng học tập trở  thành con ngoan trò giỏi, đem tài   năng phục vụ quê hương đất nước.  ­ Môn GDQP – an ninh: + Giáo viên cho học sinh phân tích nội dung cơ  bản của đường lối kháng  chiến của Đảng để  thấy rõ đó là sự  kết tinh trong nghệ  thuật quân sự  của Việt   Nam. Giúp học sinh thấy rõ vì sau trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm  lược ta phải thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, vì sao ta phải  kháng chiến toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính nhưng bên cạnh đó phải   tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ từ bên ngoài để phối hợp. + Giáo viên sử  dụng nội dung bản mật lệnh của Đảng trong việc  ấn định   thời gian tiến hành khởi nghĩa toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. (Nội dung   bản mật lệnh của Đảng: “Chuyến hàng sẽ đến lúc 18 giờ ngày 21 tháng 12. Hàng   mang mã hiệu A cộng hai, B trừ hai. Chú ý theo dõi đón hàng đúng giờ”). Bản mật  lệnh có tác dụng kích thích tư duy của học sinh, tạo hứng thú cho các em tham gia   học tập. + Giáo viên cho học sinh thấy rõ phương châm tác chiến của ta trong chiến   dịch Việt Bắc là lối đánh du kích, mai phục đánh đón đầu để bẻ gãy từng gọng kìm  của Pháp khi chúng mở  đợt tấn công lên Việt Bắc bằng cả  3 cánh quân; phương  châm đánh điểm diệt viện trong chiến dịch Biên giới năm 1950 khi ta chủ  động  đánh vào Đông Khê tạo nên thế  chia cắt đối với địch, sau đó ta tiến hành tiêu diệt   viện binh từ các cánh quân của Pháp đã gây cho địch nhiều thiệt hại. ­ Môn Tin học:  ứng dụng phần mềm Microsoft Power Point để  trình chiếu  các slide hình ảnh, các đoạn phim tư liệu và phần mềm Violet để thiết kế phần trò   chơi giải ô chữ trong phần củng cố, kiểm tra kết quả học tập của học sinh. ­ Tích hợp các đoạn phim tư  liệu, bài hát: có thể sử dụng các đoạn phim  tư liệu về lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoạn phim   miêu tả cảnh chiến đấu của quân dân ta ở Hà Nội và các đô thị bắc vĩ tuyến 16 để  các em học sinh xem, giúp các em tái hiện lịch sử một cách chân thực nhất. ­ Kể mẫu chuyện lịch sử: + Khi  trình  bày  về  cuộc  chiến  đấu  ở  các  đô  thị  Bắc  vĩ  tuyễn  16,  giáo viên  có  thể  lồng  ghép  các câu  chuyện  về  các nội dung: kháng  chiến  toàn  quốc  bùng  nổ, trận đánh ở Bắc Bộ phủ ... Trang 12
  13. + Khi trình bày diễn biến về trận Đông Khê trong chiến dịch Biên giới thu –  đông  năm  1950, giáo  viên lồng ghép  kể chuyện nhân vật  lịch sử  về  anh hùng La  Văn Cầu.     3.5.3. Bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc   (1953 – 1954):  ­ Môn Ngữ Văn: Vận dụng một số tác phẩm văn học về đề tài Điện Biên Phủ  như bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của nhà thơ Tố Hữu, Bài ca Điện Biên Phủ  của Nguyễn Đình Thi, Thồ  lên Điện Biên của Đào Phương, Đằng sau phía trước  của Nguyễn Minh Châu... để  miêu tả  lại những cảnh khó khăn gian khổ  cũng như  quyết tâm sắt đá của chiến sĩ ta trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. ­ Môn Địa lí:  + Sử  dụng lược đồ  Việt Nam để  làm rõ âm mưu của Pháp – Mĩ trong thực  hiện hai bước của kế hoạch Nava, dùng lược đồ  Việt Nam để  miêu tả  diễn biến   các cuộc tiến công chiến lược của ta trong đông – xuân 1953 – 1954 để thấy rõ lực  lượng của địch đã bị phân tán tạo điều kiên để ta có thể tiêu diệt chúng. + Giúp học sinh nắm được vị trí địa lý, đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên   của vùng Điện Biên Phủ  để  từ  đó làm rõ âm mưu của Pháp – Mĩ muốn xây dựng  Điện Biên Phủ  thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất  ở Đông Dương với 3 phân khu   và 49 cứ  điểm. Giáo viên phân tích  ưu điểm và hạn chế  về  địa hình điều kiện tự  nhiên của vùng Điện Biên Phủ để giúp học sinh hiểu rằng vì sao chủ trương của ta   là cũng chọn nơi đây làm điểm quyết chiến chiến lược cuối cùng đối với Pháp. Bên  cạnh đó, giáo viên sử dụng lược đồ để miêu ta diễn biến chính của chiến dịch qua 3   đợt. ­ Môn Giáo dục công dân: thông qua việc cung cấp, sưu tầm tiểu sử, chiến   công của các anh hùng liệt sĩ như  Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Bế  Văn Đàn đã  không tiếc thân mình hy sinh cho độc lập dân tộc với tinh thần quyết tử cho tổ quốc   quyết sinh, để  các em trân trọng, tự  hào về  những chiến thắng vĩ đại của dân tộc  trong cuộc kháng chiến cống Pháp. Qua đó, giúp học sinh rèn luyện tinh thần, ý chí  sắt đá, quyết tâm vượt qua gian nan thử thách để đạt được mục tiêu đề ra.  ­ Môn GDQP – an ninh: dùng những kiến thức có liên quan đến nghệ  thuật  quân sự  Việt Nam trong chiến đấu để  cho học sinh hiểu vì sao ta phải chủ  động   thực hiện các cuộc tiến công chiến lược trong đông – xuân 1953 – 1954 để làm phân  tán lực lượng của địch trong kế  hoạch Na va của Pháp từ  một nơi duy nhất là  ở  đồng bằng Bắc bộ  thành năm địa điểm khác nhau; vì sao ta phải chuyển phương   châm tác chiến từ   đánh “nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc” trong   chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ... ­ Môn Tin học: ứng dụng phần mềm Microsoft Power Point để trình chiếu các  slide hình ảnh, các đoạn phim tư liệu và phần mềm Violet để thiết kế phần trò chơi   giải ô chữ trong phần củng cố, kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Trang 13
  14. ­ Tích hợp các đoạn phim tư liệu, bài hát: có thể sử dụng các đoạn phim tư  liệu về công tác chuẩn bị  của quân ta cho chiến dịch Điện Biên Phủ, cảnh quân ta  kéo pháo lên Điện Biên Phủ; các bài hát Hò kéo pháo của nhạc sĩ Hoàng Vân;  Hành   quân xa của nhạc sĩ Đỗ  Nhuận để  cho các em học sinh nghe, giúp các em tái hiện  lịch sử một cách chân thực nhất. ­ Kể mẫu chuyện lịch sử: + Khi  trình  bày  diễn  biến  về  Cuộc  tiến  công  chiến  lược  Đông  –  Xuân 1953  ­  1954,  giáo  viên  có  thể  lồng  ghép  kể  chuyện  nhân  vật  lịch  sử  về  anh hùng Bế  Văn Đàn. + Khi  trình  bày  diễn  biến  về  Chiến  dịch  lịch  sử  Điện  Biên  Phủ  năm 1954,  giáo viên có thể lồng ghép kể về quá trình chuẩn bị của ta cho chiến dịch Điện Biên  Phủ: vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang quân dụng, chuyển  vũ khí, pháo... kể  những mẫu chuyện  nhân  vật  lịch sử  về  các  anh hùng  Tô  Vĩnh  Diện, Phan Đình Giót... 3.6. Một tiết dạy minh họa cụ thể.  Minh họa tiết dạy 27 ­ Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau  ngày 2­9­1945  đến trước ngày 19­12­1946. Phân m ̀ ở đâu bai m ̀ ̀ ơi:́ ­ GV mở cho học sinh xem đoạn Video clip Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc   lập sau đó đặt câu hỏi: đoạn Video clip trên nằm trong tác phẩm văn học nào? Tác   dụng của nó là gì? ­ GV chốt vấn đề: đoạn Video clip trên ghi lại cảnh Bác Hồ đọc bản “tuyên   ngôn độc lập” tại quãng trường Ba Đình vào ngày 2­9­1945 khai sinh ra nước Việt  Nam dân chủ  cộng hòa. Tuy nhiên ngay vừa mới ra đời nước ta lâm vào tình thế  “ngàn cân treo sợi tóc” Vì sao lại như vậy? Với bản lĩnh của mình chủ tịch Hồ Chí  Minh cùng trung  ương Đảng đã lèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt qua cơn   sóng gió như thế nào? Chúng ta cùng tìm hiểu bài 17.  HOẠT ĐỘNG 1:  Mục I, 2: Tìm hiểu tình hình khó khăn nước ta sau cách mạng tháng Tám 1945 ­ Khi dạy nội dung khó khăn về đối ngoại giáo viên tích hợp môn Địa Lí: Sử dụng   bản đồ Việt Nam có đánh dấu vị trí vĩ tuyến 16 để chỉ sự đe dọa về nạn ngoại xâm   do quân Tưởng và quân Anh kéo vào hòng cướp nước ta nêu  và hỏi : Lúc này nước   ta đối mặt với các thế lực thù địch nào ? Trang 14
  15.   ­ Khi dạy sự kiên nạn đói 1945 giáo viên tích hợp môn Văn: sử dụng đoạn miêu tả  nạn đói năm 1945 trong tác phẩm “Vợ  Nhặt” của nhà văn Kim Lân: “không buổi   sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng   queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi  ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác   người…”.   GV kết hợp cho HS xem hình ảnh về nạn đói năm 1945:  Giáo viên đặt hỏi: sau khi xem xong các hình ảnh em có cảm nhận gì? GV kết luận : Qua các hình  ảnh trên trên chúng ta nhìn thấy cảnh tượng vô cùng   thương tâm của đồng bào miền Bắc. Qua đó có sự đồng cảm, thương cảm sâu sắc   Trang 15
  16. với nhân dân, thấy được tội ác của phát xít Nhật, Pháp trong thời gian cai trị ở nước   ta, qua đó bồi dưỡng cho HS lòng căm thù giặc sâu sắc. HOẠT ĐỘNG 2 : Mục II : Tìm hiểu bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải  quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính. ­ GV chia lớp làm 4 nhóm : thơi gian thao luân 6 phut ̀ ̉ ̣ ́ + Nhóm 1 :  Vẽ  sơ  đồ  tư  duy về  biện pháp xây dựng chính quyền cách mạng  ? ý  nghĩa của công cuộc xây dựng chính quyền cách mạng ? + Nhóm 2 : Vẽ sơ đồ tư duy về biện pháp giải quyết nạn đói ? Sưu tầm các câu ca  dao thể hiện tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau của người Việt Nam? + Nhóm 3 : Vẽ  sơ  đồ  tư  duy về  biện pháp giải quyết nạn dốt  ? Sưu tầm cac câu ́   thơ, ca dao vê phong trao bình dân h ̀ ̀ ọc vụ ? + Nhóm 4 : Vẽ sơ đồ  tư duy về biện pháp giải quyết khó khăn tài chính. Sưu tầm   các câu ca dao nói về tinh thần tự nguyên đóng góp c ̣ ủa cai cua nhân dân ta cho chính ̉ ̉   quyền cách mạng? HOẠT ĐỘNG 3 : HS làm việc theo nhóm, sau đó cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhom ́   mình. 1. Xây dựng chính quyền cách mạng : ­ Nhóm 1 trình bày: theo nội dung chuẩn bị trên phiếu học tập. ­ GV trình chiếu cho học sinh xem đoạn tư  liệu lời kêu gọi quốc dân đi bỏ  phiếu   của chủ tịch Hồ Chí Minh, xem các hình ảnh của cử tri cả nước đi bỏ phiếu.  Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu: Trang 16
  17. “…Về  mặt trận quân sự, các chiến sĩ dùng súng đạn mà chống quân thù. Về  mặt   chính trị, thì nhân dân dùng lá phiếu mà chống với quân địch… quốc dân ta sẽ tỏ cho  thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã: Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ, Kiên quyết chống bọn thực dân, Kiên quyết tranh quyền độc lập ” ­ GV hỏi : Em có suy gì về sự kiện ngày 6/1/1946 ? Sự kiện này có ý nghĩa gì ? ­ HS trả lời. HS khác bổ sung. GV nhận xét, tích hợp  giáo dục tư tưởng chính   trị cho học sinh: + Đây là lần đầu tiên nhân dân được đi bầu cử. Điều này thể  hiện quyền  công dân, quyền làm chủ  đất nước => nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào vai trò  lãnh đạo của Đảng. + Tượng trưng cho tinh thần đoàn kết của dân tộc, sức mạnh của dân tộc   (trên dưới một lòng vượt qua sự chống phá kẻ thù) + Nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Thắng lợi cuộc tổng  tuyển cử  giáng một đòn mạnh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ  của kẻ  thù. Hiện nay   dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa đất nước ta ngày càng phồn vinh, phát triển toàn  diện, nhân dân sống cảnh yên bình, hạnh phúc, ấm no. 2. Giải quyết nạn đói: ­ Nhóm 2 trình bày:  ­ GV nhận xét, phân tích và cho học sinh xem đoạn phim tư liệu về biện pháp  giải quyết nạn đói trong đó nhấn mạnh sự  kiện   Chủ  tịch Hồ  Chí Minh kêu gọi  “nhường cơm xẻ áo”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ chủ tịch nhân dân lập “hủ gạo   cứu đói”. Người tiên phong thực hiện trước bằng một hành động cụ thể: “ mười ngày   nhịn ăn một bữa, mỗi bữa một bơ, đem gạo đó cứu đói cho dân nghèo”.  Và nêu câu  hỏi : Em có suy nghỉ gì về việc làm của Bác ? ­ Qua sự  kiện đó GV tích hợp giáo dục đạo đức cho học sinh :   Chúng ta  thấy rằng đây chính là phong cách nêu gương của Bác qua việc này thể  hiện hành  động “nói đi đôi với làm”. Đây cũng chính là nội dung chuyên đề học tập và làm theo  tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà Đảng và Nhà nước ta đang ra sức học tập trong   thời gian qua: Nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân,  “nói đi đôi với   làm”. ­ GV hỏi: Cho biết ngày nay truyền thống  “lá lành đùm lá rách” thể hiện như  thế nào? GV yêu cầu học sinh cho ví dụ.  HS trả lời. HS khác bổ sung. GV nhận xét, tích hợp: + Truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ngày càng được phát huy như:  ủng hộ  đồng bào miền Trung bị lũ lụt, mua tăm  ủng hộ  người mù, nhà nước quan tâm đến  học sinh diện hộ  nghèo, dân tộc thiểu số  được hỗ  trợ  đi học, chương trình xe đạp   tặng bạn, heo đất giúp bạn tại trường.... Trang 17
  18. GV tích hợp môn Văn: Ngoài những câu ca dao thể hiện tinh thần tương thân  tương ái của học sinh trình bày, giáo viên có thể cung cấp thêm như : Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng Hay  Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn 3. Giải quyết nạn dốt: ­ Nhóm 3 trình bày.  ­ GV cho học sinh xem lời kêu gọi chống nạn thất học của chủ tịch Hồ Chí   Minh trên báo Cứu Quốc ; đoạn phim tư liệu và các hình ảnh về lớp bình dân học vụ.  Lời kêu gọi “Chống nạn thất học ”: “…Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị  nước ta. Hơn 90% đồng bào ta mù chữ…Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy,  tôi đề  nghị  mở  một chiến dịch  chống nạn mù chữ. Những người biết chữ  hãy dạy   cho những người chưa biết chữ. Những người chưa biết chữ hãy gắng mà học cho  biết…” Giáo viên tích hợp bài vè “bình dân học vụ” giúp người dân dễ  học, dễ  nhớ  (tích hợp môn Ngữ Văn) "i, t (tờ), có móc cả hai.  i ngắn có chấm, t (tờ) dài có ngang; Trang 18
  19.  e, ê, l (lờ) cũng một loài.  ê đội nón chóp, l (lờ) dài thân hơn;  o tròn như quả trứng gà. ô thời đội mũ, ơ thời thêm râu". Chữ a thêm cái móc câu bên mình ­ GV trích một đoạn trong thư Bác Hồ gửi cho học sinh nhân ngày khai trường   (tháng 9­1945): “ non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam   có bước tới đài vinh quang để  sánh vai với các cường quốc năm châu được hay   không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.  Và đặt câu hỏi: Hiện   nay các em cần làm gì để thực hiện lời dạy của Bác? HS tự suy nghĩ và đưa ra câu trả lời.  GV kết luận: hiện nay đất nước chúng ta đang bước vào giai đoạn hội nhập  với quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy bản thân các  em cần cố gắng trong học tập, lao động,  sự nổ lực của bản thân để  đưa đất nước   sánh vai cùng các cường quốc năm châu. 4. Giải quyết khó khăn về tài chính: Nhóm 4 trình bày: GV cho học sinh xem các hình  ảnh trong việc k êu gọi tinh  thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước trong phong trào “tuần lễ vàng”, “quỹ  độc lập”.  Và nêu câu hỏi: Sau khi quan sát các bức tranh em có nhận xét gì?  HS trả lời. HS khác bổ sung. + GV nhận xét: Thông qua hình ảnh nhân dân hăng hái, sẵn sàng đóng góp tiền   của, vàng bạc của mình cho ngân sách quốc gia đông như ngày hội. Điều này thể hiện  Trang 19
  20. niềm tin tuyệt đối vào Đảng, ủng hộ nhà nước, ủng hộ nền độc lập nước nhà. Nhà   nước dựa vào nhân dân để  vượt qua khó khăn theo tư tưởng “ lấy dân làm gốc” của  chủ tịch Hồ Chí Minh. => GV kết luận: Dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, niềm tin của nhân dân   vào Đảng chỉ trong một thời gian ngắn dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng   và chủ tịch Hồ Chí Minh đã lèo lái con thuyền cách mạng vượt qua những khó khăn  tưởng chừng như không thể qua khỏi.  Giáo viên sử dụng kết hợp bài ca dao sau để khắc sâu sự kiện nhân dân hăng  hái tham gia đóng góp cho chính quyền cách mạng: “Muốn xây độc lập tự do Phải góp đảm phụ, phải lo quốc phòng Giàu góp của, khó góp công Máu xương không tiếc, năm đồng tiếc chi”  5. Kiểm  tra, đánh  giá  kết  quả  học  tập: Kiểm tra  qua các câu hỏi trong phần củng  cố dưới hình thức trò chơi giải ô chữ: Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2