Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh
lượt xem 7
download
Mục tiêu của đề tài là vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn để phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh. Để từ đó học sinh có khả năng tự học, tự chiếm lĩnh giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học. Từ đó bồi dưỡng kĩ năng và tâm hồn, tư tưởng cho học sinh; hướng học sinh đến những cách cảm, cách suy nghĩ, hành động đẹp trong đời sống, không ngừng hoàn thiện bản thân mình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ BÀI CHO GIỜ HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ CHỦ VÀ TỰ HỌC CỦA HỌC SINH Môn: NGỮ VĂN Tên tác giả : Trần Thị Thanh Tổ bộ môn : Văn Ngoại ngữ Năm thực hiện: 2021 Điện thoại : 0986482223
- MỤC LỤC Trang Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………………………………...1 1.1. Lý do chọn đề tài ………………………………………................................. .1 1.2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài ………………………….......................2 1.3. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………...............3 1.4. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………….......3 Phần II. NỘI DUNG ………………………………………………………….......4 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ………………………………………………..........4 2.1.1. Cơ sở lý luận …………………………………………………………….......4 2.1.1.1. Năng lực tự chủ, tự học là gì?…………………………………………......4 2.1.1.2. Tại sao nên quan tâm đến dạy học phát triển năng lực tự học cho học sinh trong bối cảnh hiện nay? .................................................................................5 2.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh………………………………………………………….......................6 2.1.1.3.1. Đặc điểm phương pháp dạy học dự án......................................................6 2.1.1.3.2. Cách tiến hành phương pháp dạy học dự án..............................................7 2.1.1.3.3. Vai trò của phương pháp dạy học dự án....................................................8 2.1.2. Cơ sở thực tiễn ………………………………………………………….... 10 2.1.2.1. Thực tiễn tình hình triển khai phương pháp dạy học dự án.....................10 2.1.2.2. Thực trạng hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn ở trường THPT.......................................................................................................................11 2.2. Vận dụng “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh.............. ............................................................................................................................... 13 2
- 2.2.1. Điều kiện để áp dụng phương pháp “Dạy học dự án”................................. .................................................................................................................................13 2.2.1.1. Nội dung học tập........................................................................................13 2.2.1.2. Đối tượng người học và người dạy.........................................................14 2.2.1.3. Phương tiện dạy học.................................................................................14 2.2.1.4. Các điều kiện khác.....................................................................................14 2.2.2. Khả năng vận dụng phương pháp “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn ở trường THPT...............................................................14 2.2.2.1. Đối với các giờ đọc văn..............................................................................14 2.2.2.2. Đối vớ i các bài học tiếng Việt....................................................................18 2.2.2.3. Đối với các bài học làm văn.......................................................................19 2.2.3. Quy trình áp dụng phương pháp “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn THPT................................................................... ............................................................................................................................... 23 2.2.3.1. Quy trình chung......................................................................................... .23 2.2.3.2. Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài “Hạnh phúc của một tang gia”, “Chí Phèo” của Nam Cao thuộc chuyên đề “ Văn xuôi hiện thực Việt Nam 19301945”......................................................... ............................................................................................................................... 25 Giai đoạn 1: Xây dựng dự án.................................................................................26 Giai đoạn 1: Thực hiện dự án................................................................................26 Giai đoạn 3: Hoàn thành sản phẩm và tổng kết dự án.........................................26 2.3. Thực nghiệm sư phạm.................................................................................... 27 2.3.1. Mục đích thực nghiệm..................................................................................27 2.3.2. Địa điểm, đối tượng và thời gian thực nghiệm............................................ .................................................................................................................................28 2.3.3. Tiến trình thực nghiệm................................................................................ 28 2.3.3.1. Chuẩn bị cho quá trình thực nghiệm.........................................................28 2.3.3.2. Tiến trình thực nghiệm.............................................................................29
- 2.4. Kết quả thực hiện đề tài…………………………………………………..... 33 2.4.1. Hiệu quả kinh tế...........................................................................................33 2.4.2. Hiệu quả về chất lượng giáo dục...............................................................33 Phần III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ………………………………………….. 40 3.1. Kết luận …………………………….……………………………………......40 3.1.1. Quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.........................................................40 3.1.2. Ý nghĩa của đề tài.........................................................................................40 3.2. Kiến nghị ………………………….………………………………………....41 4
- Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn đề tài Năng lực tự chủ và tự học là một trong những năng lực chung trong yêu cầu cần đạt của chương trình giáo dục nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Năng lực này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới với việc chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Học sinh có những trải nghiệm phong phú, phát triển được vốn sống, có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính và khả năng của bản thân; từ đó có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự nhận thức và điều chỉnh được những hạn chế của mình trong quá trình học tập, không ngừng học hỏi để tự hoàn thiện. Năng lực tự chủ và tự học là một trong 10 năng lực cốt lõi trong yêu cầu cần đạt của chương trình giáo dục phổ thông mới, bao gồm: Tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, thể chất, tin học, tính toán, ngôn ngữ và thẩm mĩ. Đối với môn Ngữ văn, để có một giờ học hiệu quả thì khâu chuẩn bị bài rất quan trọng. Ngày nay, việc tìm tài liệu cũng không khó khăn với học sinh. Yêu cầu học sinh tự khai thác thông tin liên quan đến mở rộng tri thức đọc hiểu về văn bản là một hoạt động rất cần thiết giúp học sinh hình thành và rèn luyện một số kĩ năng như: Tự học, tự nghiên cứu, tìm và chọn lọc thông tin…Vì vậy trong hoạt động chuẩn bị bài, ngoài thực hiện việc soạn bài theo câu hỏi “Hướng dẫn học bài” trong sách giáo khoa Ngữ văn, để có thể đạt hiệu quả học tập tốt hơn, học sinh nên thực hiện một số hoạt động chuẩn bị bài một cách chủ động. Những năm gần đây, dạy học Ngữ văn đã có nhiều đổi mới về phương pháp, kiểm tra đánh giá, hướng đến phát triển năng lực cho học sinh, đặc biệt là năng lực tự chủ và tự học. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học, phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh trung học phổ thông vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Thói quen học thụ động vẫn còn khá phổ biến. Đa số các em không quan tâm đến hoạt động tự tìm đến tri thức mà quen nghe, chép và ghi nhớ, tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì mà giáo viên đã giảng. Điều này làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến người học thành nô lệ của sách vở. Vì chưa có hào hứng, chưa quen bộc lộ suy nghĩ tình cảm của cá nhân trước tập thể nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy rất khó khăn. Bởi vậy, theo tôi phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh là vấn đề cấp thiết của ngành giáo dục nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng. Trước thực trạng còn nhiều tồn tại trên, vấn đề đặt ra cấp thiết là phải đổi mới phương pháp dạy học. Và cốt lõi của việc đổi mới này là chú trọng hơn nữa phương pháp tự học cho học sinh, khả năng hợp tác, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đa dạng hóa các hình thức hoạt động học tập, xây dựng 5
- môi trường học tập tích cực, tương tác, thể hiện rõ đặc trưng bộ môn; tạo động lực học tập Ngữ văn cho học sinh, giúp học sinh thực sự hứng thú, say mê với môn học; sử dụng phương pháp để giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, hình thành năng lực giao tiếp; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Ngữ văn. Qua thực tế giảng dạy, tôi đã tìm ra cách dạy mà tôi cho là hiệu quả nhất: Áp dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn. Đó một phương pháp hay một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện . Điểm cốt lõi của học tập dựa trên dự án là: Học qua làm (Learning by doing) tức là thông qua làm việc (Hành động có chủ định) mà hiểu biết và lĩnh hội giá trị. Từ đó, kích thích được sự chủ động và sáng tạo của học sinh phát triển được năng lực tự chủ và tự học cho học sinh, phù hợp với đặc trưng riêng của môn Ngữ văn và yêu cầu đổi mới của dạy học văn trong bối cảnh hiện nay. Từ những vấn đề được trình bày ở trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh”. 1.2. Mục tiêu, đóng góp, tính mới của đề tài Mục tiêu của đề tài là vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn để phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh. Để từ đó học sinh có khả năng tự học, tự chiếm lĩnh giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học. Từ đó bồi dưỡng kĩ năng và tâm hồn, tư tưởng cho học sinh; hướng học sinh đến những cách cảm, cách suy nghĩ, hành động đẹp trong đời sống, không ngừng hoàn thiện bản thân mình. Đóng góp mới của đề tài: Giúp cho người dạy và người học văn thay đổi cách dạy, cách học của mình; đối với người học, biết đặt ra mục tiêu học tập chi tiết, tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích và nhiệm vụ học tâp khác nhau, nâng cao hứng thú học tập, phát huy sở trường của mình; làm cho giờ dạy học văn trở nên hứng thú, sinh động, giáo viên có thể phát huy được các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Tính mới của đề tài: Theo quan điểm đổi mới dạy học Ngữ văn hiện nay, việc chủ động tham gia hoạt động học, phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu thì việc chuẩn bị bài kĩ trước giờ học là hoạt động rất quan trọng, cần thực hiện nghiêm túc. Thực hiện tốt hoạt động này không chỉ giúp học sinh chủ động tham gia giờ học mà còn tạo hứng thú học tập, có tâm thế tiếp nhận và có đủ tri thức nền để tham gia hoạt động đọc hiểu một cách tự tin sáng tạo và hiệu quả. 6
- Đây là một đề tài mới, đề xuất những hướng đi mới phù hợp với bộ môn và bắt kịp xu hướng phát triển giáo dục hiện nay. 1.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích. Phương phap so sanh. ́ ́ Phương phap th ́ ống kê. Phương phap th ́ ực nghiêm khoa hoc. ̣ ̣ 1.4. Phạm vi nghiên cứu đề tài: Chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông Phần II. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 2.1.1. Cơ sở lý luận 2.1.1.1. Năng lực tự chủ, tự học là gì? 7
- Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã xác định mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh các năng lực cốt lõi gồm các năng lực chung và các năng lực đặc thù. Năng lực tự chủ và tự học là một trong các năng lực chung, năng lực cơ bản làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và trong lao động nghề nghiệp. Ở cấp Trung học phổ thông, năng lực tự chủ và tự học có các biểu hiện như sau: Tự lực: Luôn chủ động, tích cực thực hiện những công việc của bản thân trong học tập và trong cuộc sống; biết giúp đỡ người khác vươn lên để có lối sống tự lực. Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng: Biết khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu cá nhân phù hợp với đạo đức và pháp luật. Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình: Đánh giá được những ưu điểm và hạn chế về tình cảm, cảm xúc của bản thân tự tin, lạc quan; biết tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của bản thân, luôn bình tĩnh và có cách cư xử đúng; sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua thử thách trong học tập và đời sống; biết tránh các tệ nạn xã hội. Thích ứng với cuộc sống: Điều chỉnh được hiểu biết, kĩ năng, kinh nghiệm của cá nhân cần cho hoạt động mới, môi trường sống mới; thay đổi cách tư duy, cách biểu hiện thái độ, cảm xúc của bản thân để đáp ứng với yêu cầu mới, hoàn cảnh mới. Định hướng nghề nghiệp: Nhận thức được cá tính và giá trị sống của bản thân; nắm được những thông tin chính về thị trường lao động, về yêu cầu và triển vọng của các ngành nghề; xác định được hướng phát triển phù hợp sau khi học phổ thông, lập được kế hoạch, lựa chọn các môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp bản thân. Tự học, tự hoàn thiện: Xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã đạt được, biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế. Đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập, hình thành cách học riêng của bản thân, tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau. Ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết. Tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập, suy ngẫm cách học của mình, rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào tình huống khác, biết tự điều chỉnh cách học. Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá trị công dân. Môn Ngữ văn có nhiều ưu thế trong việc góp phần hình thành và phát triển toàn diện các năng lực chung đã được nêu trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Những năng lực chung này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ 8
- chức dạy học mới với việc chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học trong hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản. Năng lực tự chủ và tự học thể hiện qua kĩ năng đọc, viết, nói và nghe được hình thành và phát triển từ môn Ngữ văn là công cụ tốt để học sinh học các môn học khác và tự học. Học sinh biết tự tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn nguồn tài liệu phù hợp với các mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau, biết lưu trữ và xử li thông tin bằng các hình thức phù hợp. Thông qua đọc, viết, nói và nghe các loại văn bản đa dạng, môn Ngữ văn mang lại cho học sinh những trải nghiệm phong phú; nhờ đó, học sinh phát triển được vốn sống, có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính, và khả năng của bản thân, biết tự làm chủ để có hành vi phù hợp, sự tự tin, tinh thần lạc quan trong học tập và đời sống. Môn Ngữ văn cũng giúp người đọc có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự nhận thức và điều chỉnh được những hạn chế của mình trong quá trình học tập và không ngừng học hỏi để tự hoàn thiện. 2.1.1.2. Tại sao nên quan tâm đến dạy học phát triển năng lực tự học cho học sinh trong bối cảnh hiện nay? Ngày nay, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, số liệu các tri thức cần lĩnh hội tăng lên, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi căn bản cả nội dung giáo dục lẫn phương pháp dạy học. Dạy học phát triển phẩm chất năng lực đang trở nên phổ biến trên thế giới. Dạy học phát triển phẩm chất năng lực quan tâm tới việc người học làm được gì sau khi đào tạo chứ không thuần túy là chỉ biết được gì; quan tâm tới người dạy sẽ dạy như thế nào để hình thành phẩm chất, năng lực của người học chứ không phải chỉ là dạy nội dung gì cho người học với mong muốn người học biết càng nhiều, càng sâu. Dạy học hiện đại đặt ra hàng loạt các yêu cầu đối với các thành tố của hoạt động dạy học, trong đó đặc biệt lưu tâm đến các phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học phát triển năng lực, phẩm chất cho người học. Xu hướng hiện đại về phương pháp, kĩ thuật dạy học phát triển năng lực được xem là chiều hướng mang tính mới, tiên tiến. Phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học chú ý rèn luyện phương pháp học, hình thành kĩ năng tự học, bồi dưỡng hứng thú và lòng say mê học tập cho học sinh như dạy học dựa trên dự án, công não… Dạy học phát huy tính tích cực độc lập nhận thức sáng tạo ở học sinh. Mặt khác, Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo của Đảng (tháng 9 2013) đã mở ra một thời kì mới cho việc dạy học trong trường phổ thông ở nước ta: Nhấn mạnh đến việc phát triển năng lực của người học hơn là cung cấp tri thức cho họ. Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba phân môn là Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn (trước đó ba phân môn này là ba môn độc lập, có sách giáo khoa riêng). Mục tiêu của môn Ngữ văn ở trường phổ thông là hình thành và phát triển ở học sinh năng lực chung (năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lí, năng lực giao tiếp,năng lực hợp tác, năng lực sử dụng thông tin và truyền thông, năng lực sử 9
- dụng ngôn ngữ, năng lực tính toán) và các năng lực đặc thù (năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ). Giáo dục nói chung và giáo dục nhà trường nói riêng có vai trò chủ đạo với sự hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực. Cần quan tâm đến mỗi học sinh, gồm năng khiểu, phong cách học tập, các loại hình trí thông minh, tiềm lực nhất là khả năng hiện có, triển vọng phát triển của mỗi học sinh để thiết kế các hoạt động học hiệu quả. Đồng thời, cần chú trọng phát triển năng lực tự chủ, tự học vì yếu tố “ Cá nhân tự học tập và rèn luyện” đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của mỗi học sinh. Tích cực của người học được biểu hiện qua hứng thú, sự tự giác học tập, khát vọng thông hiểu, sự nỗ lực chiếm lĩnh nội dung học tập. Từ đó, học sinh sẽ tiếp cận kiến thức thiết thực, hiện đại để từng bước hình thành năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn, chủ động, tích cực, có cơ hội hòa nhập, hội nhập quốc tế để cùng tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện đại và không ngừng đổi mới. 2.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh. 2.1.1.3.1. Đặc điểm phương pháp dạy học dự án. Dạy học dự án là cách thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế họach, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Điểm cốt lõi của học tập dựa trên dự án là: Học qua làm (Learning by doing) tức là thông qua làm việc (hành động có chủ định) mà hiểu biết và lĩnh hội giá trị. Đặc điểm của dạy học dự án: Là định hướng học sinh, định hướng thực tiễn và định hướng sản phẩm và được sơ đồ hóa như sau: Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ của dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả 10
- năng nhận thức của người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội. Mang tính phức hợp, liên môn: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề mang tính phức hợp. Định hướng hứng thú người học: Người học được tham gia lựa chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết, rèn luyện kĩ năng hành động. Tính tự lực của người học : Người học cần tham gia tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Đòi hỏi tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. Giáo viên đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên cũng như các lực lưỡng khác tham gia trong dự án. Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà còn có thể tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu bằng nhiều hình thức khác nhau với các quy mô khác nhau. 2.1.1.3.2. Cách tiến hành phương pháp dạy học dự án Dạy học dựa trên dự án cần được tiến hành theo ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Chuẩn bị dự án Đề xuất ý tưởng và chọn đề tài dự án: Đề tài dự án có thể nảy sinh từ sáng kiến của giáo viên, học sinh. Học sinh là người quyết định lựa chọn đề tài, nhưng phải đảm bảo nội dung phù hợp với mục đích học tập, phù hợp chương trình và điều kiện thực tế. Để thực hiện dự án, học sinh phải đóng những vai có thực trong xã hội để tự mình tìm kiếm thông tin và giải quyết công việc. Chia nhóm và nhận nhiệm vụ dự án: Giáo viên chia nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh và những yếu tố khác liên quan đến dự án. 11
- Trong công việc này, giáo viên là người đề xướng nhưng cũng cần tạo điều kiện cho học sinh tự chọn nhóm làm việc. Lập kế hoạch thực hiện dự án: giáo viên hướng dẫn các nhóm học sinh lập kế hoạch thực hiện dự án, trong đó học sinh cần xác định chính xác chủ đề, mục tiêu, những công việc cần làm, kinh phí, thời gian và phương pháp thực hiện. Ở giai đoạn này, đòi hỏi học sinh tính tự lực và tính cộng tác để xây dựng kế hoạch của nhóm. Sản phẩm tạo ra ở giai đoạn này là bản kế hoạch dự án. Giai đoạn 2: Thực hiện dự án Ở giai đoạn này, với sự giúp đỡ của giáo viên, học sinh tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ được giao với các hoạt động như: đề xuất các phương án giải quyết và kiểm tra, nghiên cứu tài liệu, tiến hành các thí nghiệm, trao đổi và hợp tác với các thành viên trong nhóm. Giáo viên tạo điều kiện cho việc làm chủ hoạt động học tập của học sinh và nhóm học sinh, khuyến khích học sinh tạo ra một sản phẩm cụ thể có chất lượng. Giai đoạn 3: Báo cáo và đánh giá dự án Học sinh thu thập kết quả và công bố sản phẩm trước lớp. Sau đó, giáo viên và học sinh tiến hành đánh giá. Học sinh có thẻ tự nhận xét quá trình thực hiện dự án và tự đánh giá sản phẩm nhóm mình và đánh giá nhóm khác. Giáo viên đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện dự án của học sinh, đánh giá sản phẩm và rút kinh nghiệm để thực hiện những dự án tiếp theo. 2.1.1.3.3. Vai trò phương pháp dạy học dự án Về nội dung kiến thức: kiến thức được mở rộng, phong phú hơn; gắn với thực tế và có tính liên môn. Có thể lí giải điều này qua sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung bình Sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung bình 12
- Dạy học dựa theo dự án có ưu thế hình thành các phẩm chất và năng lực chủ yếu và các năng lực chung như sau: Thường xuyên thực hiện và theo dõi việc thực hiện Chăm chỉ các nhiệm vụ được phân công trong dự án Có ý thức báo cáo chính xác, khách quan kết quả Phẩm Trung thực thực hiện dự án đã thực hiện được. chất Có ý thức hoàn thành công việc mà bản thân được Trách nhiệm phân công, phối hợp với các thành viên trong nhóm để hoàn thành dự án. Tự lựa chọn đề tài dự án, tự phân công nhiệm vụ Tự chủ và tự cho các thành viên trong nhóm, tự quyết định cách học thức thực hiện dự án, tự đánh giá về quá trình và kết quả thực hiện dự án. Năng lực Giải quyết Chủ động đề ra kế hoạch, cách thức thực hiện dự Chung vấn đề và án, cách thức xử lí các vấn đề phát sinh một cách sáng tạo sáng tạo nhằm đạt được kết quả tốt nhất. Giao tiếp và Tăng cường sự tương tác tích cực giữa các thành viên hợp tác trong nhóm khi thực hiện dự án. Dạy học dựa trên dự án có thể được sử dụng cùng với những phương pháp khác để đạt được một số yêu cầu cần đạt trong kế hoạch dạy học; hoặc được sử dụng chủ đạo để dạy một chủ điểm hay một loạt bài ôn tập/ hoạt động ngoại khóa/ chuyên đề học tập. Dự án phải gắn với thực tiễn đời sống. + Trong môn Ngữ văn, nhiều nội dung dạy học có thể gắn với thực tiễn cuộc sống nên phù hợp để sử dụng dạy học dựa trên dự án. Chẳng hạn những nội dung dạy học liên quan đến các kĩ năng như viết, nói và nghe, đọc hiểu văn bản thông tin và văn bản nghị luận thường tạo nhiều cơ hội để giáo viên tìm ra được mối liên hệ giữa những vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong cuộc sống với nội dung bài học; từ đó xây dựng nên những chủ đề học tập theo hình thức dự án. Tuy nhiên, không phải mọi nội dung dạy học, mọi yêu cầu cần đạt của môn Ngữ văn đều phù hợp để triển khai bằng dạy học dựa trên dự án nên giáo viên cần cân nhắc kĩ. + Hoặc môn Ngữ văn có thể tích hợp với những môn học khác tạo thành những dự án học tập mà ở đó, những nội dung dạy học của môn Ngữ văn cũng chủ yếu được thiết kế theo định hướng hình thành, phát triển cho học sinh năng lực giao tiếp với những biểu hiện cụ thể liên quan đến đọc, viết, nói và nghe. 13
- Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, yêu cầu cần đạt nào về phẩm chất, năng lực mà học sinh cần đáp ứng khi hoàn thành dự án. Những mục tiêu, yêu cầu cần đạt khác của bài dạy chưa thể hình thành và phát triển qua việc học sinh tham gia thực hiện dự án thì giáo viên cần sắp xếp để phát triển bằng việc phối hợp sử dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học khác. Dạy học dựa trên dự án sẽ tốn nhiều thời gian. Vì thế, giáo viên cũng cần cân nhắc để chọn lựa sử dụng phối hợp với các phương pháp và kĩ thuật dạy học khác sao cho phù hợp với quỹ thời gian cho phép. Đồng thời khi lựa chọn nội dung dạy học dựa trên dự án, giáo viên cũng nên ưu tiên những nội dung học tập có tính chất trọng tâm của học kì/ năm học để phát huy được hiệu quả của phương pháp này, tương ứng với thời gian thực hiện. Trong suốt quá trình thực hiện dự án cũng như bước trình bày, đánh giá sản phẩm dự án, giáo viên cần chú ý đến tính hiệu quả của dự án về mặt hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh; tránh việc đi vào hình thức, mang tính trình diễn, gây tốn kém thời gian và tiền bạc. Với đặc trưng dạy học thông qua hoạt động chuẩn bị bài của chính người học nhằm hình thành và phát triển các kĩ năng tự học, tự nghiên cứu và dạy học dựa trên việc đánh giá, tự đánh giá và cùng đánh giá, phương pháp dạy học dự án đã th ̣̣ ể hiện được ưu điểm nổi bật của mình trong việc hướng tới các mục tiêu của giáo dục hiện đại mà UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Dạy học dự án được vận dụng vào hoạt động chuẩn bị bài cho giờ dạy học môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông sẽ phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập; tạo được hứng thú cho học sinh và góp phần đa dạng hóa các phương pháp dạy học. Bởi lẽ học sinh sẽ hứng thú hơn với việc học khi có cơ hội thâm nhập vào những vấn đề phức tạp, mang tính thách thức cao và đôi khi đầy rẫy những vấn đề nhưng rất sát với thực tế đời sống. Vậy nên, dạy học dự án đã trở thành một trong những phương pháp dạy học “Làm cho giáo viên chỉ cần dạy ít mà học sinh học được nhiều và làm cho nhà trường bớt sự nhàm chán và bớt sự nhọc nhằn” (GI. Comenski) 2.1.2. Cơ sở thực tiễn 2.1.2.1. Thực tiễn tình hình triển khai phương pháp dạy học dự án Dạy học dự án là một chiến lược dạy học ở nhiều nước trên thế giới Mầm mống đầu tiên của dạy học dự án đã có trong quan niệm của các nhà giáo dục kinh điển như Rouseau (17121778), H.Pestalozzi (17461827), F.Frobel (17821852) và W. Humboldt ... Xuất hiện trước hết từ châu Âu rồi lan sang Bắc Mĩ. Ngày nay, dạy học dự án mang tính toàn cầu. Đã có nhiều công trình của các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về Dạy học dự án, đó là các công trình: J.Deway, W.Kilpatrich (Mĩ), Celestin Freinet (18961966) và 14
- Macarenko nhà sư phạm tiên tiến Liên Xô cũ. Dạy học dự án đã được triển khai rộng rãi trong các trường Trung học phổ thông ở Việt Nam Ở Việt Nam, dạy học dự án chính thức du nhập vào năm 2003. Có rất nhiều bài viết tiếp cận dạy học dự án từ góc độ lý luận trên các tạp chí và website; tiêu biểu các tác giả như: PGS.TS Đỗ Hương Trà, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và Võ Thị Bảo Ngọc, TS Nguyễn Văn Cường và Th.S Nguyễn Thị Diệu Thảo... Ngoài ra, dạy học dự án cũng được nghiên cứu trong các khóa luận và luận văn tốt nghiệp, các sáng kiến kinh nghiệm của các đồng nghiệp trên khắp cả nước. Và năm học 2020 2021 Bộ Giáo dục và Đào tạo có chương trình tập huấn và bồi dưỡng giáo viên ( trong đó có dạy học dự án cho các giáo viên phổ thông toàn quốc). 2.1.2.2. Thực trạng hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông Đối với môn Ngữ văn, việc tổ chức hoạt động cho học sinh trước tiết học hết sức quan trọng. Để tiến hành một giờ học văn có hiệu quả thì đòi hỏi học sinh cần có sự chuẩn bị chu đáo trước khi đến lớp. Nhưng việc chuẩn bị bài của học sinh có đạt hiệu quả hay không lại phụ thuộc vào vai trò hướng dẫn của giáo viên. Hoạt động này được giáo viên thực hiện cuối mỗi tiết học chính. Thực chất đó là khâu dặn dò cuối mỗi bài học. Giáo viên tùy theo đơn vị bài học mà vạch ra kế hoạch hướng dẫn cụ thể những nhiệm vụ học sinh phải chuẩn bị bài trước ở nhà cho những tiết học sau. Thông thường, giáo viên yêu cầu học sinh soạn bài theo hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa. Tuy nhiên, hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài trong sách giáo khoa còn mang tính định hướng chung chung, không có hướng dẫn chi tiết trong từng phần hoặc từng mục. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân), câu hỏi hướng dẫn học bài như sau: 1. Tình huống truyện của tác phẩm Chữ người tử tù là gì? Tác dụng của tình huống này đối với việc thể hiện tính cách nhân vật và kịch tính của truyện? 2. Phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình tượng Huấn Cao. Qua nhân vật Huấn Cao anh/ chị có nhận xét gì về quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp? 3. Nhân vật quản ngục có phẩm chất gì khiến Huấn Cao cảm kích coi là “Một tấm lòng trong thiên hạ” và tác giả coi đó là “Một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”? 4. Phân tích đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà lao. Vì sao tác giả coi đây là “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? 15
- 5. Anh/ chị có nhận xét gì về bút pháp xây dựng nhân vật, bút pháp miêu tả cảnh vật và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân trong truyện “Chữ người tử tù”? Những câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài trên thực chất mang tính chất gợi mở tìm hiểu những vấn đề lớn của tác phẩm, bao gồm: 1. Tình huống truyện và tác dụng của tình huống. 2. Nhân vật Huấn Cao. 3. Nhân vật quản ngục. 4. Cảnh cho chữ. 5. Đặc sắc nghệ thuật. Hoặc hệ thống câu hỏi hướng dẫn đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (Trích “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng): 1. “Hạnh phúc của một tang gia” là một phần của nhan đề chương XV tiểu thuyết “Số đỏ” do chính Vũ Trọng Phụng đặt. Anh/ chị có suy nghĩ gì về nhan đề này và tình huống trào phúng của đoạn trích? 2. Vì sao cái chết của cụ cố tổ lại là niềm “hạnh phúc” của mọi thành viên trong gia đình cụ? Phân tích những niềm “hạnh phúc” khác nhau của mỗi người trong đại gia đình cụ cố Hồng và những người đến đưa đám ma do cái chết của cụ cố tổ đem lại. 3. Anh/chị hãy phân tích cảnh đám ma gương mẫu. 4. Từ niềm “Hạnh phúc” của các nhân vật do cái chết của cụ cố tổ đem lại và cảnh tượng của cái “Đám ma gương mẫu”, anh/chị nhận xét như thế nào về xã hội thượng lưu thành thị đương thời? Thái độ của nhà văn với xã hội này ra sao? 5. Anh/chị nhận xét gì về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng ở đoạn trích này? Rõ ràng hệ thống câu hỏi trên còn quá chung, chưa thể hiện được ý đồ tiếp cận tác phẩm theo hệ thống. Trong khi ở câu 1, câu 2 yêu cầu học sinh tiếp cận đoạn trích theo lối "Bổ dọc", từ nhan đề đến nhân vật thì câu 3 lại tiếp cận theo lối "Bổ ngang". Hơn thế nữa hệ thống câu hỏi chưa lôgic. Tiếp cận đoạn trích phải từ nghệ thuật trào phúng, được biểu hiện cụ thể qua nhan đề, tình huống, nhân vật, cách miêu tả. Từ đó, mới nhận xét khái quát ý nghĩa của việc sử dụng nghệ thuật trào phúng cũng như thái độ của nhà văn. Do đó, câu hỏi 4 và 5 sắp xếp chưa hợp lí. Ở một số bài các câu hỏi đưa ra có lúc yêu cầu quá cao hoặc chưa phù hợp với “tầm đón nhận” của học sinh. Ví dụ, trong phần hướng dẫn học bài tác phẩm “Tự tình” (II) của Hồ Xuân Hương, câu hỏi 4: “Bài thơ vừa nói lên bi kịch duyên phận, vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân 16
- Hương. Anh/chị hãy phân tích điều đó”, là một câu hỏi tương đối khó với học sinh khi mới bắt đầu tiếp cận văn bản để soạn bài. Chính vì thế, giáo viên cần phải chi tiết, cụ thể hóa vấn đề thành các nhiệm vụ hoặc câu hỏi nhỏ để học sinh dễ dàng hơn trong việc chuẩn bị bài. Với hình thức dự giờ, trao đổi, xem vở học sinh, tôi đã có cái nhìn khá khách quan, sát thực tế về tình hình hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài của giáo viên và việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh hiện nay ở trường Trung học phổ thông, thiết nghĩ đó cũng là thực trạng chung, phổ biến của hầu hết giáo viên và học sinh nhiều nơi. Trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, chúng ta thật sự ghi nhận sự nhiệt tình và tích cực của nhiều thầy cô giáo trong việc đi tìm, đề xuất và thực hiện các phương pháp dạy học Văn nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học. Nhiều giáo viên đã hướng dẫn học sinh tìm đọc về tác giả qua những câu chuyện, giai thoại, tài liệu tham khảo; sưu tầm một số ý kiến của các chuyên gia, của bạn đọc nhận xét đánh giá về tác giả, tác phẩm; tìm đọc toàn bộ tác phẩm nếu văn bản là đoạn trích, tìm đọc một số bài thơ tiêu biểu trong tập thơ có bài thơ được học; tiếp cận tác phẩm qua các loại hình nghệ thuật khác như phim ảnh, kịch; chuẩn bị những bài tập trình bày theo nhóm, sưu tầm tranh ảnh, hoặc có thể là đi tham quan, đi thực tế, đi xem phim để phục vụ cho tiết học. Thực trạng lên lớp theo kiểu thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép đã giảm đáng kể. Quan sát trong các tiết dự giờ cho thấy: Học sinh có sự chuẩn bị bài kĩ càng, phù hợp nội dung bài học dưới sự hướng dẫn tích cực của giáo viên thì giáo viên thuyết giảng ít hơn, học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức, giờ học hiệu quả hơn. Tuy nhiên, khách quan mà nói, số tiết học sinh có sự chuẩn bị bài chu đáo với nhiều cách thức khác nhau chưa phải là nhiều. Hầu như chỉ tập trung trong những giờ thao giảng, hội giảng của giáo viên. Đa số giáo viên, sau mỗi bài dạy, mỗi tiết học thường dặn dò chung chung: Các em về nhà học bài và chuẩn bị bài cho tiết sau. Hoặc có hướng dẫn cho học sinh nhưng còn sơ sài ví dụ như: soạn bài theo câu hỏi sách giáo khoa, xem bài tiếp theo… Việc hướng dẫn học sinh soạn bài mới, tài liệu ở nhà chưa cụ thể, chưa định hướng được cho các em phần nào là quan trọng, phần nào cần sơ lược. Phần lớn học sinh có soạn bài trước khi đến lớp nhưng không hiệu quả, không biết chỗ nào là quan trọng. Việc soạn bài mang tính chất đối phó nên học sinh thường chép mạng, sách “Học tốt Ngữ văn”. Vì vậy, các em khó nắm bắt kiến thức một cách cụ thể, lười tìm tòi kiến thức mới, luôn ỷ lại và chờ đợi vào bài giảng của giáo viên để chép. Ở nhà không chuẩn bị bài, trên lớp cô lại giảng với lượng kiến thức nhiều, cô nói điều gì trò cũng cảm thấy mới tinh cho nên việc tiếp thu diễn ra rất thụ động. 2.2. Vận dụng dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh. 17
- 2.2.1. Điều kiện để áp dụng phương pháp dạy học dự án. 2.2.1.1. Nội dung học tập. Đặc điểm chủ đề nội dung bài học: Gắn liền với thực tiễn và mang tính thời sự, cập nhật Mục tiêu cơ bản nhất của bài học: tập trung rèn luyện và phát triển kĩ năng thực hành cho học sinh thông qua hoạt động của chính các em. Trước đây, hoạt động chuẩn bị bài này thường được giáo viên thực hiện cuối mỗi tiết học chính. Thực chất là khâu dặn dò cuối mỗi buổi học. Giáo viên tùy theo từng đơn vị kiến thức mà vạch ra hướng dẫn cụ thể những nhiệm vụ mà học sinh cần phải chuẩn bị ở nhà cho tiết học sau. Hiện nay, để phát huy năng lực tự chủ và tự học của học sinh, giáo viên có thể đa dạng hóa các phương pháp, hình thức chuẩn bị bài như: vẽ tranh minh họa, quay clip, đi thực tế, đi xem phim để phục vụ cho tiết học sau. 2.2.1.2. Đối tượng người học và người dạy Người học: Được trang bị đầy đủ kiến thức (về môn học; liên môn và về phương pháp dạy học dự án); có thói quen làm việc chủ động; phương pháp học tập khoa học và có ít nhiều kĩ năng về công nghệ thông tin. Người dạy: Có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ; phong cách làm việc chuyên nghiệp và khả năng quản lí học sinh. Khả năng tư duy linh hoạt và cần một bản lĩnh nghề nghiệp. 2.2.1.3. Phương tiện dạy học Đầy đủ các phương tiện dạy học cơ bản và có sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học hiện đại. 2.2.1.4. Các điều kiện khác Sự đồng thuận của cấp quản lí trường học; các Ban ngành địa phương Cơ chế thi cử cần chú trọng đến tính thực tiễn của kiến thức: Theo Thông tư số 26/2020/TTBGDĐT Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh Trung học cơ sở và học sinh Trung học phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 58/2011/TTBGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2.2.2. Khả năng vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông. 2.2.2.1. Đối với các giờ đọc văn. Căn cứ vào chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018, giáo viên chủ động, linh hoạt xây dựng và tổ chức các bài học theo định hướng: Tăng cường, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh; dành nhiều thời gian cho học sinh nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu học tập, luyện tập, thực hành, trình bày, thảo luận, bảo vệ kết quả học tập để học sinh biết tự đọc, viết, nói và 18
- nghe theo những yêu cầu và mức độ khác nhau; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. Trên cơ sở đó, việc dạy đọc văn bản nói chung ở nhà trường phổ thông được thực hiện theo những định hướng cụ thể sau: "Yêu cầu học sinh đọc trực tiếp toàn bộ văn bản, chú ý quan sát các yếu tố hình thức của văn bản, từ đó có ấn tượng chung và tóm tắt được nội dung chính của văn bản; tổ chức cho học sinh tìm kiếm, phát hiện, phân tích, suy luận ý nghĩa các thông tin, thông điệp, quan điểm, thái độ, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,...được gửi gắm trong văn bản; hướng dẫn học sinh liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân học sinh... để hiểu sâu hơn giá trị của văn bản, biết vận dụng, chuyển hoá những giá trị ấy thành niềm tin và hành vi ứng xử của cá nhân trong cuộc sống hằng ngày”. Để học sinh chủ động tham gia hoạt động học, phát triển năng lực tự học tự nghiên cứu thì việc chuẩn bị bài kĩ trước giờ học là hoạt động rất quan trọng. Giáo viên có thể áp dụng phương pháp dạy học dự án để kịp thời hướng dẫn, động viên các em nâng cao khả năng tự chiếm lĩnh tác phẩm, thoát li dần và không phụ thuộc một cách thụ động vào sách học tốt, sách tham khảo. Đối với văn bản văn học: Để giảm bớt áp lực về mặt thời gian cho việc tổ chức đọc văn bản tại lớp, giáo viên có thể thiết kế và chuyển giao một số nhiệm vụ đọc cho học sinh tại nhà theo phương pháp dạy học dự án và phải đảm bảo việc kiểm tra kết quả đọc của những nhiệm vụ ấy khi học sinh đến lớp và sử dụng những kết quả ấy để tiếp tục tổ chức những hoạt động đọc trực tiếp văn bản khác tại lớp. Ở giai đoạn trước khi đọc, học sinh sẽ được giáo viên tổ chức, hướng dẫn thực hiện các hoạt động chủ yếu sau: xác định mục đích đọc; huy động, bổ sung tri thức nền cho học sinh (nếu thiếu), trải nghiệm những tình huống có liên quan đến nội dung văn bản; quan sát tổng thể văn bản (chủ yếu là các yếu tố hình thức); dự đoán về nội dung đọc. Một số hoạt động của giai đoạn trước khi đọc có thể được chuyển thành nhiệm vụ học tập cho học sinh tại nhà, trước giờ học đầu tiên về văn bản trên lớp, chẳng hạn như huy động tri thức nền của học sinh, bổ sung tri thức nền cho học sinh bằng cách kiểm tra kết quả học sinh đọc một số tri thức công cụ hỗ trợ cho việc đọc hiểu văn bản như tri thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của văn bản, tri thức về toàn văn bản nếu văn bản đọc là một đoạn trích. Về cơ bản, quá trình dạy đọc ở trường phổ thông có thể được thực hiện với việc sử dụng kết hợp những phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học truyền thống lẫn hiện đại như: Dạy học hợp tác, dạy học giải quyết vấn đề, dạy học dựa trên dự án, phương pháp đọc diễn cảm, phương pháp thuyết trình, phương pháp đàm thoại gợi mở, phương pháp đóng vai, dạy học tình huống, dạy học theo trạm, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật sơ đồ tư duy, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật nhóm chuyên gia, sử dụng phiếu học tập/ hồ sơ đọc 19
- trong dạy học…Ngoài ra, giáo viên cũng có thể tổ chức dạy đọc kết hợp phương pháp dạy học dự án với một số hoạt động trải nghiệm quen thuộc để tạo cơ hội cho học sinh được làm việc trực tiếp nhiều hơn với văn bản như diễn kịch, sân khấu hóa, vẽ tranh, chuyển thể kịch bản, dựng phim, viết lại câu chuyện/ kết thúc truyện, kể chuyện sáng tạo, tổ chức hội thảo đọc, câu lạc bộ đọc sách, nhật kí đọc sách, bàn tròn văn chương, sưu tầm tranh ảnh, bài viết, video clip về những nội dung, vấn đề được đề cập trong văn bản, tổ chức trò chơi/ cuộc thi…Những dạng thức sản phẩm này có thể yêu cầu học sinh thực hiện cùng với các nhiệm vụ đọc hiểu văn bản tại nhà để tạo hứng thú, động cơ học tập cho học sinh, khuyến khích các em chủ động tìm hiểu và khám phá văn bản. Thông thường các tác phẩm được chọn đưa vào chương trình và sách giáo khoa đều là những tác phẩm nổi tiếng, thường được chuyển thể sang loại hình nghệ thuật khác. Nhiều tác phẩm văn học Nga, văn học phương Tây đều được chuyển thể và trở thành những tác phẩm điện ảnh, những vở kịch nổi tiếng. Với văn học Việt Nam, các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao đã được chuyển thể và trở thành tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam trong “Làng Vũ Đại ngày ấy”. Tương tự phim “ Chị Dậu” được chuyển thể từ Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Phim “Trò đời” được chuyển thể từ Số Đỏ và một số tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng. Vì thế, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho bài học Chí Phèo, Hạnh phúc của một tang gia cũng nên tiếp cận toàn bộ tác phẩm từ góc nhìn của điện ảnh. Giáo viên có thể hướng dẫn và phát huy tính tự học của học sinh thông qua dạy học dự án kết hợp với hoạt động trải nghiệm sáng tạo như “ Tôi là diễn viên”. Cũng cần lưu ý rằng khi chuyển thể tác phẩm văn học với chất liệu là ngôn từ sang tác phẩm điện ảnh hay sân khấu với chất liệu nghệ thuật là giọng nói, hình thể tâm lí diễn viên, không gian sân khấu, phim trường …thì nội dung tác phẩm, ý đồ nghệ thuật của tác phẩm không hoàn toàn trùng khít. Vì vậy, giáo viên cần lưu ý học sinh đọc văn bản đoạn trích, bám sát vào văn bản ngôn từ. Giáo viên cũng có thể căn cứ vào nội dung của một số bài học có tính thực tiễn và mang tính thời sự, cập nhật, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài qua dạy học dự án, qua đó khuyến khích tinh thần tự học, sáng tạo, là động lực quan trọng làm cho học sinh tự tin, nhờ đó say mê khám phá tác phẩm. Tôi có thể dẫn ra một số ví dụ sau: Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà trước khi học tác phẩm Tràng Giang của Huy Cận, Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, giáo viên có thể gợi ý cho học sinh dự án: “Anh chị hãy thể hiện tình cảm và trách nhiệm của mình với những dòng sông quê hương bằng cách xây dựng dự án tìm hiểu về một dòng sông nơi mình sinh sống”. Làm việc theo nhóm để ghi vào phiếu học tập những nội dung cơ bản của dự án (Tên dự án, mục tiêu của dự án, thời gian thực hiện, dự kiến sản phẩm, nhiệm vụ của từng thành viên, dự kiến cách thức công bố sản phẩm). 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 141 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 140 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 47 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng cơ chế giảm phân để giải nhanh và chính xác bài tập đột biến nhiễm sắc thể
28 p | 38 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức văn học trong dạy học một số nội dung phần Công dân với đạo đức môn GDCD lớp 10 nhằm tạo hứng thú trong học tập cho học sinh tại trường THPT Thái Lão
43 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong chương trình Hóa học hữu cơ 11
74 p | 48 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng toán tổ hợp xác suất trong việc giúp học sinh giải nhanh các bài tập di truyền phần sinh học phân tử và biến dị đột biến
17 p | 47 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng lí thuyết chuẩn độ axit – bazơ trong giảng dạy Hóa học ở trường chuyên và phục vụ bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia, Quốc tế
143 p | 38 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức tích hợp để dạy kỹ năng đọc hiểu - Unit 9 - Preserving The Environment - Tiếng Anh 10 thí điểm
71 p | 62 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề Liên Bang Nga
77 p | 76 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 36 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng định lý Thales để tìm lời giải cho các bài toán hình học tọa độ trong mặt phẳng
35 p | 28 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy làm văn dạng bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
29 p | 45 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn