intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:62

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến tập trung đề xuất các biện pháp vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho HS lớp 10 nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn trong trường THPT, đáp ứng được các yêu cầu của đổi mới giáo dục.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10

  1. MẪU 5 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 20/9/2023 3. Các thông tin cần bảo mật nếu có: Không 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm Trong thực tiễn giảng dạy, để giúp HS đọc hiểu các văn bản Ngữ Văn 10, tôi nhận thấy đa phần giáo viên đã lựa chọn biện pháp: Giảng văn - Tình trạng: HS ít phải hoạt động - Nhược điểm, hạn chế: + Tách riêng nội dung và nghệ thuật + Quá chú trọng vai trò của người Thầy 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: - Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQ-TW (ngày 4 tháng 11 năm 2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu đổi mới Chương trình GDPT là góp phần chuyển từ nền GD nặng về truyền thụ kiến thức sang nền GD phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học. Các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường áp dụng những phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó GV có vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho HS, khuyến khích HS tích cực tham gia vào hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và kiến thức, kĩ năng đã tích luỹ được để phát triển. - Ngữ văn là bộ môn thuộc lĩnh vực GD ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn, môn Ngữ văn có vai trò 1
  2. to lớn trong việc giúp HS hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học tập suốt đời. Ngoài việc góp phần giúp HS phát triển các năng lực chung (năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo), Chương trình môn Ngữ văn “giúp HS phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống” [5, tr.5]. Để mục tiêu này trở thành hiện thực, phương pháp giáo dục Ngữ văn được xác định theo hướng tổ chức hoạt động GD với HS là trung tâm, HS là chủ thể của các hoạt động học tập. Chương trình Ngữ văn 2018 đã xác định rõ cần “rèn luyện cho HS phương pháp đọc, viết, nói và nghe; thực hành, trải nghiệm việc tiếp nhận và vận dụng kiến thức tiếng Việt, văn học thông qua các hoạt động học bằng nhiều hình thức trong và ngoài lớp học; chú trọng sử dụng các phương tiện dạy học, khắc phục tình trạng dạy theo kiểu đọc chép, phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện cho học sinh” [5, tr.79]. Như vậy, GV cần tổ chức hoạt động để HS chủ động làm việc, trao đổi, tranh luận và tự rút ra kết luận về kiến thức, nội dung vấn đề. Cái hay, cái đẹp của văn bản cần được khám phá bởi chính người học, theo quan niệm, trình độ và nhận thức, tâm lí, tình cảm của chính các em. - Năm 1983, Giáo sư - Tiến sĩ Howard Gardner của Đại học Harvard Mỹ công bố công trình nghiên cứu rất nhiều năm của ông về trí thông minh với nhan đề “Frames of Mind” (tạm dịch “Cơ cấu của trí khôn”). Thuyết Đa trí tuệ ra đời đã đem đến một góc nhìn mới mẻ, thể hiện tính nhân văn khi kêu gọi nhà trường, giáo viên và phụ huynh coi trọng khả năng riêng ở mỗi HS. Vận dụng thuyết Đa trí tuệ vào dạy học hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đổi mới CTGD. Khi nền GD lấy việc rèn luyện phẩm chất, năng lực người học là mục tiêu chính thì mỗi người học phải là chủ thể tự rèn luyện năng lực cho bản thân trên cơ sở tiềm năng của mình. Một trong những giải pháp để phát triển năng lực người học hiện nay là dạy học phân hoá. Mỗi người học có sở trường, khả năng học tập, thói quen tư duy riêng vì thế những chiến lược học tập của các HS khác nhau cần được GV thừa nhận và tôn trọng. HS được thực hiện các nhiệm vụ học tập và lựa chọn vấn đề phù hợp với mình, GV khuyến khích sự mạnh dạn, tự tin trong trao đổi, tranh luận, thể hiện của HS đồng thời động viên và khen ngợi kịp thời các HS có ý tưởng sáng tạo, mới mẻ, độc đáo. - Theo Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018, văn bản thơ được dạy ở tất cả các khối lớp, từ lớp 6 đến lớp 12. Ở chương trình lớp 10, thơ trữ tình chiếm vị trí quan trọng. 2
  3. Đọc hiểu thơ trữ tình giúp HS có cơ hội được hòa vào những rung động của con người trước vẻ đẹp của cuộc sống, được bồi đắp thêm về tâm hồn, tình cảm. Từ đó, các em biết trân trọng, nâng niu những tình cảm đẹp, biết ứng xử nhân văn trong cuộc sống. Hiện nay, GV đã dần thay thế hình thức giảng văn, nói cho HS nghe cái hay, cái đẹp của tác phẩm theo nhận thức và cảm thụ của mình bằng việc hướng dẫn cho HS biết cách tiếp nhận, tự tìm hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm bằng hiểu biết và cảm nhận của chính các em. Mặc dù có ý thức đổi mới PPDH nhưng trong quá trình dạy đọc hiểu thơ trữ tình, không ít GV vẫn tỏ ra lúng túng trong việc lựa chọn và sử dụng PPDH sao cho hiệu quả. Bởi khi tiếp cận văn bản thơ trữ tình, bên cạnh những HS yêu thích và có năng khiếu cảm thụ văn chương, vẫn còn nhiều HS thờ ơ, không hứng thú bởi những khó khăn về “hàng rào ngôn ngữ”, về khoảng cách thẩm mĩ. Vì vậy, việc tìm ra chìa khoá giúp HS hứng thú trong giờ học đọc hiểu thơ trữ tình là rất cần thiết. Trên thực tế, mỗi HS có cách tư duy khác nhau với năng lực nổi trội riêng, bởi vậy sẽ có những PPDH đọc hiểu phù hợp và hiệu quả với HS này mà không phù hợp, hiệu quả với những HS khác. Dựa trên việc tôn trọng sự khác biệt của mỗi người học cũng như sự đa dạng trí tuệ của mỗi HS, GV sẽ lựa chọn PPDH phù hợp, linh hoạt thay đổi các phương pháp để tạo nên giờ học thú vị, đảm bảo tất cả HS đều tham gia tích cực vào việc học. Như vậy, xuất phát từ nền tảng khoa học vững chắc, từ yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục nói chung và đổi mới dạy học Ngữ văn nói riêng, từ thực trạng dạy học đọc hiểu thơ trữ tình trong nhà trường phổ thông, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10” để nghiên cứu với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn trong trường THPT, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 6. Mục đích của của giải pháp sáng kiến Sáng kiến tập trung đề xuất các biện pháp vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho HS lớp 10 nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn trong trường THPT, đáp ứng được các yêu cầu của đổi mới giáo dục. 7. Nội dung: 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến: Nhóm giải pháp mà chúng tôi thực hiện để vận dụng dạy học dự án Steam trong giảng dạy một số văn bản Ngữ Văn 10 nhằm phát huy năng lực của học sinh gồm những giải pháp cụ thể sau: + Trang bị, cung cấp tri thức về thuyết đa trí tuệ 3
  4. + Vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10: + Mô hình bài giảng mẫu: Vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu văn bản Thu hứng của Đỗ Phủ 7.1.1 Giải pháp 1 *Tên giải pháp: Trang bị, cung cấp tri thức về thuyết đa trí tuệ *Nội dung: 7.1.1.1 Sự ra đời của thuyết Đa trí tuệ Năm 1904, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Công cộng tại Paris đã đề nghị nhà tâm lí học Pháp Allfred Binet và một nhóm đồng nghiệp xác định những học sinh ở cấp tiểu học dễ bị “trượt nhất” để lưu tâm bồi dưỡng cho các em. Nhờ nỗ lực của các nhà khoa học, những trắc nghiệm đầu tiên về trí tuệ ra đời. Du nhập sang Hoa Kì mấy năm sau, các trắc nghiệm về trí tuệ đã trở nên phổ biến, người ta cho rằng trí thông minh có thể đo được một cách khách quan và quy thành một chỉ số gọi là “chỉ số thông minh IQ”. Tuy nhiên, gần 80 năm sau khi các trắc nghiệm đầu tiên về trí tuệ được triển khai, nhà tâm lí học tại trường Đại học Havard - Howard Gardner đã thách thức niềm tin ấy. Howard Gardner (sinh năm 1943) là Giáo sư Tâm lí học Nhận thức và Tâm lí học Giáo dục bậc Cao học tại Khoa Giáo dục của Đại học Harvard (Mỹ). Ngoài cuốn “Frames of Mind - The Theory of Multiple Intelligences” (Cơ cấu trí khôn - Lí thuyết về nhiều dạng trí khôn) (1983) - cuốn sách được coi là “gối đầu giường của sinh viên sư phạm và các nhà tâm lí học”, Howard Gardner còn là tác giả của những cuốn sách nổi tiếng khác như: The mind’s new science: A history of the cognitive revolution (Một khoa học mới về trí khôn: Lịch sử cuộc cách mạng nhận thức (1985), The unschooled mind (Trí khôn phi học đường) (1991)… Thuyết Đa trí tuệ, gọi tắt là MI (cách gọi tắt của Theory of Multiple Intelligences) ra đời từ sự tổng kết, xem xét, đánh giá nhiều nguồn tư liệu của Howard Gardner. Nó cũng là kết quả của những khảo sát thực nghiệm của bản thân tác giả. Gardner đã từng nhận được nhiều gợi ý từ nhóm cộng sự hoạt động trong Dự án Zero của trường Đạ học Havard. Năm 1979, với tư cách là một nhà nghiên cứu của trường Havard, Howard Gardner đã được một tổ chức nhân đạo Hà Lan, Quỹ Bernard Van Leer đề nghị khảo sát về tiềm năng con người. Lời mời này đã dẫn đến việc thành lập Dự án Zero, được coi là “bà mụ” của thuyết Đa trí tuệ. Mặc dù Garder đã từng nghĩ đến khái niệm “có nhiều loại trí tuệ” ngay từ những năm giữa thập kỉ 1970 nhưng đến năm 1983, việc ấn hành cuốn “Frames of Mind” của ông mới thực sự là ngày ra đời của thuyết Đa trí tuệ. Trong cuốn sách này, ông 4
  5. đã đề cập tới ít nhất 7 dạng trí tuệ, sau này ông đề cập thêm dạng trí tuệ thứ 8 và thảo luận về khả năng tồn tại của dạng trí tuệ thứ 9. Trong thuyết Đa trí tuệ hay còn gọi là thuyết Trí tuệ đa nguyên, Gardner tìm cách mở rộng phạm vi của tiềm năng vượt ra ngoài chỉ số IQ. Ông chỉ trích một cách nghiêm túc giá trị của phương pháp xác định trí thông minh bằng việc tách cá thể ra ngoài môi trường học tập tự nhiên và đề nghị mỗi cá nhân làm những công việc riêng lẻ mà họ chưa từng làm bao giờ. Ông gợi ý trí tuệ gắn liền với khả năng giải quyết vấn đề và tạo ra sản phẩm trong một bối cảnh thực tế. Kể từ khi cuốn “Frames of Mind” ra đời, ý thức của các nhà giáo dục về các dạng trí tuệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Xuất phát từ mô hình thoạt đầu được thực hiện trong lĩnh vực giáo dục năng khiếu, rải rác ở các trường học đơn lẻ trong Hợp chủng quốc Hoa Kì vào giữa và cuối thập kỉ 80, thuyết Đa trí tuệ trong 20 năm sau đó đã vươn tầm ra hàng vạn trường học, hàng chục vạn giáo viên ở Hoa Kì cũng như nhiều nước trên khắp thế giới. 7.1.1.2. Các loại hình thông minh theo thuyết Đa trí tuệ Theo thuyết Đa trí tuệ (ĐTT), Howard Gardner đã tập hợp các tiềm năng của con người vào trong 8 dạng trí tuệ như sau: (1) Trí tuệ ngôn ngữ: Là khả năng sử dụng hiệu quả các từ ngữ, hoặc bằng lời nói (như một người kể chuyện hay một nhà chính trị), hoặc bằng chữ viết (như một nhà thơ, nhà soạn kịch, biên tập viên hay nhà báo). Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng xử lí văn phạm hay cấu trúc ngôn ngữ, âm vị học hay âm thanh của ngôn ngữ, ngữ nghĩa học hay nghĩa của ngôn ngữ, ngữ dụng học hay việc sử dụng thực tiễn ngôn ngữ. Một số ứng dụng bao gồm thuật hùng biện (dùng lời kể thuyết phục người khác làm theo một mệnh lệnh, hành động cụ thể), thuật gợi nhớ (mượn ngôn ngữ để hồi tưởng các thông tin), thuật giải thích (dùng lời để nói cho người khác hiểu), thuật siêu ngôn ngữ (dùng ngôn ngữ để nói về ngôn ngữ) … (2) Trí tuệ logic - toán học: Là khả năng sử dụng hiệu quả các con số (như nhà toán học, người lập biểu thuế, nhà thống kê) và lí luận thông thạo (như nhà khoa học, lập trình viên máy tính hay nhà logic học). Dạng trí tuệ này bao gồm sự nhạy cảm với các quan hệ và các sơ đồ logic, các mệnh đề và tỉ lệ thức (nếu - thì, nguyên nhân - hệ quả), các hàm số và các dạng trừu tượng hoá có liên quan. Một vài ứng dụng bao gồm thuật xếp loại, phân lớp, suy luận, khái quát hoá, tính toán và kiểm nghiệm giả thuyết. (3) Trí tuệ không gian: Là khả năng tiếp nhận thế giới không gian qua thị giác (một người đi săn, một hướng đạo sinh hay một người dẫn đường) và thực hiện thành thạo các hoạt động thay hình đổi dạng (chẳng hạn một nhà trang trí nội thất, một kiến trúc sư, một nghệ sĩ hay một nhà phát minh). Dạng trí tuệ này liên hệ chặt chẽ với sự nhạy cảm về màu sắc, đường nét, hình dạng và các tương quan vốn có giữa những yếu tố đó. Dạng trí tuệ 5
  6. này bao gồm khả năng nhìn, thể hiện bằng đồ thị và các ý tưởng về không gian thị giác và cả khả năng tự định hướng một cách thích hợp trong một ma trận không gian. (4) Trí tuệ hình thể - động năng (vận động): Là sự thành thạo trong việc sử dụng cơ thể để thể hiện các ý tưởng và cảm xúc (chẳng hạn như một diễn viên kịch, một tài tử kịch câm, một lực sĩ hoặc một diễn viên múa) cũng như sự khéo léo trong việc sử dụng hai bàn tay để sản xuất hay biến đổi sự vật (chẳng hạn một nghệ nhân, một nhà điêu khắc, một thợ cơ khí hay một bác sĩ phẫu thuật). Dạng trí tuệ này bao gồm các kĩ năng cơ thể đặc biệt như sự phối hợp cử động, khả năng giữ thăng bằng, sự khéo tay, sức mạnh cơ bắp, sự mềm dẻo và tốc độ... (5) Trí tuệ âm nhạc: Là khả năng cảm nhận (như người yêu âm nhạc), phân biệt (như nhà phê bình âm nhạc), biến đổi (như nhà soạn nhạc) và thể hiện (như một nhạc công) các hình thức âm nhạc. Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm đối với nhịp điệu, âm sắc, âm tần của một bản nhạc. Một người có thể nắm bắt âm nhạc một cách chung chung, tổng quát (sành nhạc theo lối trực giác) hoặc nắm bắt âm nhạc một cách chính quy, có bài bản (sành nhạc theo lối phân tích, qua nhạc lí). Trí tuệ âm nhạc cũng có thể là sự kết hợp của hai dạng thưởng thức vừa kể trên. (6) Trí tuệ giao tiếp: Là khả năng cảm nhận và phân biệt giữa các tâm trạng, ý đồ, động cơ và cảm nghĩ của người khác. Dạng trí tuệ này bao gồm năng khiếu nắm bắt những thay đổi về nét mặt, giọng nói, động tác, tư thế; khả năng phân biệt các biểu hiện giao lưu giữa người và người và đáp ứng các biểu hiện đó một cách thích hợp, thiết thực (chẳng hạn tác động định hướng cho một nhóm người hưởng ứng một đường lối hành động nào đó). (7) Trí tuệ nội tâm: Là khả năng hiểu biết bản thân và hành động một cách thích hợp trên cơ sở sự tự hiểu mình. Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng có một hình ảnh rõ nét về mình (bao gồm các ưu điểm, hạn chế của chính mình), ý thức đầy đủ và đúng về tâm trạng, động cơ, tính khí và mong ước của riêng mình, kèm theo khả năng tự kiềm chế, tự kiểm soát (tính kỉ luật, tự kỉ), lòng tự trọng. (8) Trí tuệ tự nhiên học (tự nhiên): Là năng khiếu nắm bắt, nhận dạng và phân loại các loài đông đảo (thực vật chí và động vật chí) có mặt trong môi trường sống của chúng ta. Dạng trí tuệ này cũng bao gồm sự nhạy cảm đối với các hiện tượng thiên nhiên (chẳng hạn sự hình thành mây, sự tạo núi…). Đối với những người sống trong môi trường đô thị, đó còn là năng khiếu phân biệt giữa các vật bất động, vô tri như xe cộ, giày thể thao và vỏ bọc ngoài (bìa), đĩa CD… Gần đây, Gardner đã bổ sung dạng trí tuệ thứ 9 - trí tuệ Sinh tồn mà theo ông mô tả là dạng trí tuệ về những băn khoăn cho các vấn đề tối hậu của cuộc sống, như ý nghĩa 6
  7. cuộc sống, vấn đề tội ác và các mục tiêu phấn đấu của nhân loại. Hiện nay, trí tuệ Sinh tồn chưa được chính thức thừa nhận như một dạng trí tuệ thực sự trong thuyết ĐTT. 7.1.1.3. Nội dung quan trọng của thuyết Đa trí tuệ Ngoài các phần mô tả 8 dạng trí tuệ, Gardner còn lưu ý vài điểm quan trọng trong thuyết ĐTT, đó là: (1) Mỗi người đều có đủ 8 trí tuệ: Thuyết ĐTT là một học thuyết về nhận thức đề nghị ta thừa nhận mỗi con người đều có năng khiếu trong tất cả 8 dạng trí tuệ. Tất nhiên, 8 dạng trí tuệ đó hoạt động phối hợp theo những thể thức duy nhất đối với từng người. (2) Đa số chúng ta có thể phát triển mỗi dạng trí tuệ tới một mức độ thích đáng: Gardner gợi ý rằng, về mặt lí thuyết thì mọi người đều có khả năng phát triển cả 8 trí tuệ tới một mức độ thích đáng nếu được động viên, khuyến khích, hỗ trợ và học hành đầy đủ. (3) Các dạng trí tuệ thường cùng làm việc với nhau theo những thể thức phức tạp: Gardner chỉ rõ, không có trí tuệ nào tồn tại đơn lẻ trong đời (trừ một vài trường hợp rất hiếm hoi các nhà bác học chuyên sâu hoặc người bị tổn thương não). Các dạng trí tuệ được tách riêng trong thuyết ĐTT, chỉ để phân tích các đặc trưng cơ bản của chúng. Trên thực tế, các dạng trí tuệ luôn tương tác với nhau. (4) Có nhiều cách biểu lộ trí thông minh trong từng lĩnh vực: Không có một chuẩn mực nào mà một người phải thoả mãn để được xem là thông minh trong một lĩnh vực xác định. Thuyết ĐTT nhấn mạnh đến tính đa dạng, phong phú của các phương thức biểu lộ năng khiếu trong các dạng trí tuệ khác nhau. 7.1.1.4. Ý nghĩa của việc vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học * Đối với người dạy Thuyết ĐTT là một thành tựu lớn của tâm lí học cuối thế kỉ XX. Một trong những đóng góp lớn nhất mà ĐTT mang lại là sự tác động đến việc đổi mới PPDH của GV. Một trong những nhà giáo dục đầu tiên áp dụng thuyết ĐTT của Howard Gardner vào giải quyết những vấn đề hóc búa của việc giảng dạy trên lớp học là Thomas Armstrong. Trong cuốn sách “Đa trí tuệ trong lớp học”, Thomas Armstrong cho rằng: “đóng góp lớn nhất mà thuyết Đa trí tuệ mang lại cho ngành giáo dục là đã gợi ý để các giáo viên thấy cần mở rộng hơn nữa vốn kĩ năng và công cụ kĩ thuật, cũng như chiến thuật vượt ra ngoài phương pháp dạy bằng lời và qua logic”. Thuyết ĐTT mở cửa cho rất nhiều chiến lược dạy học để có thể áp dụng dễ dàng trong lớp học. Nếu như ở lớp học truyền thống, GV đứng trước HS và giảng bài, viết bảng, hỏi HS về những điều được ghi trong SGK hoặc tài liệu và chờ các em 7
  8. trả lời câu hỏi… thì trong lớp học ĐTT, GV liên tục thay đổi phương pháp dạy, kết hợp uyển chuyển nhiều dạng trí tuệ một cách sáng tạo, chẳng hạn chuyển từ lối dạy ngôn ngữ sang lối dạy không gian, lối dạy âm nhạc… Mỗi HS có những thiên hướng khác nhau theo 8 dạng trí tuệ do đó không thể có một chiến lược nào có thể hoạt động tốt đối với mọi HS. Vì giữa các HS có sự khác biệt về thiên hướng trí tuệ nên GV cần ứng dụng nhiều chiến lược dạy học khác nhau đối với các em. Thomas Amstrong đã giới thiệu 40 chiến lược dạy học gợi ý cho GV áp dụng ở các bậc học: Bảng 1.1. Tám dạng trí tuệ và các chiến lược dạy học Dạng trí tuệ Chiến lược dạy học Kể chuyện Động não Trí tuệ ngôn ngữ Ghi băng Viết nhật kí In ấn Tính toán và định lượng hoá Phân loại và xếp hạng Trí tuệ logic - toán học Hỏi đáp theo kiểu Socrates Các Heuristics -Khoa học về phát minh - sáng chế Tư duy khoa học Tạo hình ảnh Lập mã bằng màu sắc Trí tuệ không gian Hình ảnh ẩn dụ Phác thảo hình tượng bằng các ý tưởng Biểu tượng bằng đồ thị Các đáp ứng của cơ thể Sân khấu trong lớp Trí tuệ hình thể - động năng Vài khái niệm động năng Tư duy theo lối “dùng tay nặn bột” Bản đồ cơ thể 8
  9. Dạng trí tuệ Chiến lược dạy học Giai điệu, bài hát, nhịp và ca khúc Ghi đĩa Trí tuệ âm nhạc Âm nhạc gây siêu nhớ Các khái niệm âm nhạc Âm nhạc thể hiện các tâm trạng Chia sẻ với bạn bè cùng trang lứa Các tác phẩm điêu khắc bằng người Trí tuệ giao tiếp Các nhóm hợp tác Các trò chơi trên bảng Mô phỏng Suy ngẫm trong một phút Các liên kết cá nhân Trí tuệ nội tâm Thời gian dành cho việc thực hiện một lựa chọn Những phút giây biểu lộ cảm xúc Các hoạt động đặt mục đích Dạo chơi trong thiên nhiên Những cánh cửa mở để đi vào con đường học vấn Trí tuệ tự nhiên học Cây cảnh Vật cưng trong lớp Học tập về sinh thái Việc hiểu biết về các dạng trí tuệ khác nhau ở người học sẽ giúp cho GV thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về khả năng, phong cách học tập đa dạng của người học, tránh sự áp đặt những cách học, cách dạy không phù hợp với đặc điểm cá nhân của từng người học. Đặc biệt, với vận dụng thuyết ĐTT, GV sẽ thực hiện được mục tiêu phân hóa trong dạy học, phát huy thế mạnh học tập riêng ở người học mà không đóng khung họ trong một mẫu chung. * Đối với người học Ý nghĩa lớn nhất mà thuyết ĐTT mang đến cho người học là cá nhân hóa việc học. HS được học tập đúng phong cách, đặc điểm, nhu cầu và sở thích cá nhân, được phát huy 9
  10. thế mạnh riêng. HS được đặt niềm tin và giữ vai trò trung tâm, chủ động và tích cực tiếp cận bài học theo cách riêng phù hợp. HS được tiếp cận, lưu giữ thông tin theo những cách khác nhau và được đánh giá linh hoạt ở nhiều trí thông minh đa dạng. Mỗi dạng trí tuệ được quan tâm và phát triển đúng cách sẽ là tiền đề, cơ sở để tạo ra những năng lực đa dạng của mỗi cá nhân. Khi HS được GV tôn trọng, thừa nhận sở trường, phong cách học tập và được khơi dậy niềm đam mê, sự hứng thú, chắc chắn giờ học sẽ trở nên sôi nổi, tích cực hơn. *Đối với yêu cầu của thời đại Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ trong những năm qua đã làm tăng vọt khối lượng tri thức của toàn nhân loại, GD không thể thực hiện chức năng truyền thống là truyền đạt khối kiến thức khổng lồ ấy cho thế hệ trẻ. Nội dung của các môn học không phải là liệt kê toàn bộ kiến thức cần truyền đạt, mà thay vào đó là kiến thức nền tảng, cơ bản, chủ yếu rèn luyện cho người học những năng lực cần thiết. Mục tiêu của GD là hướng tới phát triển nhân cách, giá trị và năng lực đa dạng ở HS, do đó GV cần chú ý phát huy tính tích cực của người học bằng cách tổ chức các hoạt động học tập cho HS, hướng dẫn, giám sát và hỗ trợ HS để các em từng bước hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực mà CTGD mong đợi. Hiện nay, dạy học tích hợp và phân hoá là xu thế phổ biến của giáo dục trên thế giới, cũng là yêu cầu cơ bản của dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực HS ở Việt Nam. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ các kiến thức, kĩ năng thuộc những môn học khác nhau thành một nội dung thống nhất. Dạy học tích hợp là định hướng dạy học giúp HS phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng [2, tr.36]. Dạy học phân hóa là định hướng dạy học phù hợp với các đối tượng HS khác nhau, nhằm phát triển tối đa tiềm năng vốn có của mỗi HS dựa vào đặc điểm tâm - sinh lí, khả năng, nhu cầu, hứng thú và định hướng nghề nghiệp khác nhau của HS. Những dấu hiệu cơ bản của dạy học phân hóa như: Sự quan tâm có hệ thống dành cho người học có đa dạng các nhu cầu đặc biệt; điều chỉnh nội dung kiến thức để đáp ứng năng lực, kinh nghiệm và hứng thú của người học; tổ chức nhiều hình thức dạy học, cách học chú ý tới các đối tượng riêng biệt, cá nhân hóa người học giúp HS đạt được mục tiêu; khuyến khích người học chứng minh hiểu biết của mình theo nhiều cách có ý nghĩa; tôn trọng sự đa dạng trí tuệ trong môi trường học tập dựa vào nhu cầu và năng lực người học. Có thể nói, vận dụng thuyết ĐTT vào dạy học trong nhà trường là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thời đại 10
  11. ngày nay bởi đây chính là con đường tích hợp nhiều lĩnh vực kiến thức vào khám phá bài học, đồng thời phát huy tính tích cực của từng người học. *Kết quả khi thực hiện giải pháp: Giải pháp trên đây được chúng tôi áp dụng thực hiện cho lớp 10 Trung trường THPT Chuyên Bắc Giang. Kết quả đánh giá tác động của giải pháp trong việc đọc hiểu một số văn bản Ngữ Văn 10 được tổng hợp bằng hình thức khảo sát như sau: - Đối tượng khảo sát: học sinh lớp 10 Trung, 34 HS - Thời gian khảo sát: năm học 2023 – 2024 (tháng 9/2023) - Hình thức khảo sát: Phiếu khảo sát - Kết quả khảo sát: + Tổng số phiếu khảo sát: 34 + Tổng số phiếu trả lời: 34 Nội dung đánh giá Trước khi thực hiện Sau khi thực hiện giải pháp giải pháp Hiểu về thuyết đa trí tuệ 5/34 34/34 Sự cần thiết phải vận dụng phương 6/34 30/34 pháp dạy học STEAM vào việc đọc hiểu các tác phẩm văn học Kết quả khảo sát cho thấy: - Ban đầu rất ít học sinh hiểu rõ ràng, đầy đủ về phương pháp dạy học STEAM. Các em có nghe về phương pháp STEAM và hiểu một cách giản đơn là học gắn với thực tiễn, có sản phẩm. Nhưng qua việc giáo viên giới thiệu, trang bị, cung cấp thông tin, HS đã hiểu bản chất của phương pháp giáo dục này. - Trước khi áp dụng phương pháp, phần đông các em HS đều trả lời việc vận dụng dạy học theo dự án STEAM vào học tập các môn nói chung và nhất là đọc hiểu môn Ngữ Văn là chưa cần thiết. Nguyên nhân là bởi các em phải học nhiều môn học, thời gian để thực hành các sản phẩm theo cách học dự án không nhiều. Ngoài ra, HS chưa có thói quen suy nghĩ, sáng tạo nên còn lúng túng, lạ lẫm với những hình thức học mới mẻ. Do sự hạn chế về điều kiện vật chất như kinh phí, các trang thiết bị…nên HS ngại thực hành. Nhưng sau khi áp dụng giải pháp, HS đã nhận thấy những ưu điểm của phương pháp dạy học STEAM và mong muốn được thụ hưởng những thành tựu của phương pháp này để hoạt động học tập sôi nổi, hiệu quả hơn. 7.1.1.5. Ý nghĩa của việc vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu văn bản 11
  12. a. Tiềm năng khi vận dụng thuyết Đa trí tuệ vào dạy đọc hiểu văn bản theo mục tiêu phát triển năng lực Môn Ngữ văn góp phần hình thành, phát triển ở HS những năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định tại Chương trình tổng thể: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo [4]. Các năng lực chung này cũng là biểu hiện của các loại hình trí tuệ: trí tuệ nội tâm, trí tuệ giao tiếp, trí tuệ lôgic - toán học. - Năng lực tự chủ và tự học: Thông qua việc đọc các kiểu văn bản, loại văn bản đa dạng, môn Ngữ văn mang lại cho HS những trải nghiệm phong phú; nhờ đó, HS phát triển được vốn sống; có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính và khả năng của bản thân; biết tự làm chủ để có hành vi phù hợp, sự tự tin và tinh thần lạc quan trong học tập và đời sống. Đọc hiểu văn bản trong môn Ngữ văn cũng giúp HS có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự nhận thức, tự học và tự điều chỉnh để hoàn thiện bản thân. - Năng lực giao tiếp và hợp tác: HS biết xác định mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung, kiểu văn bản và thể loại, ngôn ngữ và các phương tiện giao tiếp khác phù hợp với ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp để thảo luận, lập luận, phản hồi, đánh giá về các vấn đề trong học tập và đời sống; biết tiếp nhận các kiểu văn bản và thể loại đa dạng; chủ động, tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ trong giao tiếp. Qua hoạt động đọc, các em còn phát triển khả năng nhận biết, thấu hiểu và đồng cảm với suy nghĩ, tình cảm, thái độ của người khác; biết sống hoà hợp và hoá giải các mâu thuẫn; thiết lập và phát triển mối quan hệ với người khác; phát triển khả năng làm việc nhóm, làm tăng hiệu quả hợp tác. - Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: HS có khả năng đánh giá nội dung của văn bản, biết làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ các nguồn thông tin khác nhau; biết phân tích các nguồn thông tin độc lập để thấy được khuynh hướng, độ tin cậy của những thông tin và ý tưởng mới; biết quan tâm tới các chứng cứ khi nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng; biết đánh giá vấn đề, tình huống dưới những góc nhìn khác nhau. Môn Ngữ văn đề cao vai trò của HS với tư cách là người đọc tích cực, chủ động, không chỉ trong hoạt động tiếp nhận mà còn trong việc tạo nghĩa cho văn bản. HS có được khả năng đề xuất ý tưởng, tạo ra sản phẩm mới; suy nghĩ không theo lối mòn, biết cách giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, phù hợp với tình huống, bối cảnh. 12
  13. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực chung, môn Ngữ văn còn giúp HS phát triển các năng lực đặc thù bao gồm năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Có thể nói, so với các môn học khác, môn Ngữ văn mà cụ thể là việc dạy đọc hiểu văn bản rất có lợi thế khi hướng tới phát triển trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ nội tâm và trí tuệ giao tiếp của HS. Ở cấp THPT, yêu cầu cần đạt về năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học (thông qua hoạt động đọc) được thể hiện cụ thể như sau: - Đọc hiểu được cả nội dung tường minh và hàm ẩn của các loại văn bản với mức độ khó hơn thể hiện qua dung lượng, nội dung và yêu cầu đọc; đọc hiểu với yêu cầu phát triển tư duy phản biện; vận dụng được các kiến thức về đặc điểm ngôn từ văn học, các xu hướng - trào lưu văn học, phong cách tác giả, tác phẩm, các yếu tố bên trong và bên ngoài văn bản để hình thành năng lực đọc độc lập. - Phát triển năng lực văn học với yêu cầu: phân biệt được tác phẩm văn học và các tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật khác; phân tích và nhận xét được đặc điểm của ngôn ngữ văn học; phân biệt được cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong văn học; nhận biết và phân tích, cảm thụ tác phẩm văn học dựa vào đặc điểm phong cách văn học; có trí tưởng tượng phong phú, biết thưởng thức, tiếp nhận và đánh giá văn học; tạo ra được một số sản phẩm có tính văn học. Nội dung môn Ngữ văn mang tính tổng hợp, bao gồm cả tri thức văn hoá, đạo đức, triết học... liên quan tới nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, nghệ thuật (mĩ thuật, âm nhạc) … Các văn bản đọc hiểu có nội dung liên quan mật thiết với cuộc sống, giúp HS biết quan tâm, gắn bó hơn với đời sống thường nhật, biết liên hệ và có kĩ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Vì vậy trong quá trình dạy học Ngữ văn nói chung, dạy đọc hiểu văn bản nói riêng, GV có thể vận dụng các dạng trí tuệ không gian, trí tuệ âm nhạc, trí tuệ lôgic- toán học, trí tuệ tự nhiên… để đạt mục tiêu bài học vừa tạo điều kiện học tập theo phong cách cá nhân của HS. Như vậy, vận dụng thuyết ĐTT chính là con đường hiệu quả để dạy học Ngữ văn, đặc biệt là dạy đọc hiểu văn bản theo định hướng phát triển năng lực. b. Tiềm năng khi vận dụng thuyết Đa trí tuệ vào dạy đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10 * Đặc điểm phát triển tâm lí của học sinh lớp 10 13
  14. HS lớp 10 nằm ở độ tuổi 15 - 16, là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. Ở độ tuổi này, cùng với sự phát triển thể chất là những thay đổi đặc điểm tâm lí bao gồm động cơ, thái độ học tập, sự phát triển trí tuệ và đặc điểm nhân cách. Thái độ của HS lớp 10 đối với các môn học trở nên có tính lựa chọn hơn. Ở các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Thái độ học tập của HS được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với lứa tuổi trước. Lúc này có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của môn học đối với cá nhân, khả năng tiếp thu môn học của các em), động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến động cơ cụ thể khác. Đặc điểm nổi bật về sự phát triển trí tuệ của HS độ tuổi này là tính chủ định, tính chủ động, tính tích cực, tính tự giác được thể hiện rõ rệt ở tất cả các quá trình nhận thức. Bên cạnh đó, sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển nhân cách của thanh niên mới lớn. HS lớp 10 cũng như HS THPT có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo quan điểm về mục đích cuộc sống và hoài bão của bản thân. Chính điều này khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất và năng lực riêng của mình. Những đặc điểm phát triển trí tuệ, nhân cách của HS ở độ tuổi này là căn cứ quan trọng cho việc thiết kế, tổ chức các hoạt động dạy học. Việc vận dụng thuyết ĐTT vào dạy học cho HS lớp 10 là hoàn toàn phù hợp. * Vận dụng thuyết Đa trí tuệ phù hợp với việc tổ chức dạy đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10 Văn bản thơ được đưa vào chương trình Ngữ văn ở các cấp học phổ thông nhưng với mỗi khối lớp chương trình lại đặt ra yêu cầu cần đạt cụ thể sao cho phù hợp với đối tượng HS. Nếu như ở lớp 9, yêu cầu cần đạt đối với HS mới dừng lại ở “nêu được nội dung bao quát”, “nhận biết và phân tích” … thì với HS lớp 10, yêu cầu của Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018 về đọc hiểu văn bản thơ được nâng lên ở mức độ: “biết nhận xét”, “phân tích và đánh giá”, “liên hệ” … Cụ thể như sau: - Đọc hiểu nội dung: + Biết nhận xét nội dung bao quát của văn bản. + Phân tích và đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản; phân tích được một số căn cứ để xác định chủ đề. 14
  15. + Phân tích và đánh giá được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo mà người viết thể hiện qua văn bản. Phát hiện được các giá trị đạo đức, văn hoá từ văn bản. - Đọc hiểu hình thức: Phân tích và đánh giá được giá trị thẩm mĩ của một số yếu tố trong thơ như từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, đối, chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình. - Liên hệ, so sánh, kết nối: + Nhận biết và phân tích được bối cảnh lịch sử - văn hoá được thể hiện trong văn bản văn học. + Liên hệ để thấy được một số điểm gần gũi về nội dung giữa các tác phẩm văn học thuộc hai nền văn hoá khác nhau. + Nêu được ý nghĩa hay tác động của tác phẩm văn học đối với quan niệm, cách nhìn, cách nghĩ và tình cảm của người đọc; thể hiện được cảm xúc và sự đánh giá của cá nhân về tác phẩm. - Đọc mở rộng: Học thuộc lòng một số đoạn thơ, bài thơ yêu thích trong chương trình [5]. Để đáp ứng được những yêu cầu cần đạt này, HS lớp 10 ngoài tri thức đọc hiểu văn bản thơ trữ tình, còn phải có niềm yêu thích đối với thể loại thơ trữ tình, có ý thức tự học, tự tìm tòi, khám phá cái hay, cái đẹp của văn bản thơ trữ tình. Không chỉ biết phân tích, đánh giá được giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản thơ trữ tình, HS cần biết liên hệ, so sánh, kết nối (nhận biết và phân tích được bối cảnh lịch sử - văn hoá, biết liên hệ giữa các tác phẩm thuộc những nền văn hoá khác nhau, thể hiện được cảm xúc và sự đánh giá cá nhân về tác phẩm…). Trên thực tế, HS lớp 10 gặp những khó khăn nhất định trong quá trình tiếp nhận văn bản thơ trữ tình bởi “tầm đón nhận” của HS còn hạn chế, bởi khoảng cách của thời đại, bởi tính đa nghĩa của ngôn ngữ thơ… Mỗi HS lại có sở thích, sở trường và cách tư duy khác nhau, nếu hiểu được đặc điểm trí tuệ của cá nhân người học, GV sẽ biết cách để khơi nguồn cảm hứng ở HS, giúp giờ học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trở nên hiệu quả. Những HS chưa yêu thích thơ ca, sợ học bộ môn Ngữ văn sẽ có được định hướng để dễ dàng tiếp cận văn bản thơ trữ tình, có hứng thú với văn học; những HS vốn có năng khiếu văn chương sẽ càng được thúc đẩy và phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học hơn nữa. Như vậy, vận dụng thuyết ĐTT vào dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình cho HS lớp 10 là hoàn toàn phù hợp và có tính khả thi. 15
  16. 7.1.2 Giải pháp 2: *Tên giải pháp: Vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10: Khảo sát văn bản thơ trữ tình trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 - Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” chúng tôi nhận thấy: Căn cứ vào chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018, các tác giả của bộ SGK “Kết nối tri thức với cuộc sống” ở lớp 10 đã lựa chọn những văn bản thơ trữ tình làm ngữ liệu đọc hiểu như sau:  Bài 2 - Vẻ đẹp của thơ ca: Chùm thơ hai - cư (haiku) Nhật Bản; Thu hứng (Cảm xúc mùa thu - Đỗ Phủ); Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử); Cánh đồng (Ngân Hoa).  Bài 6 - Nguyễn Trãi - “Dành còn để trợ dân này”: Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình), bài 43 - Nguyễn Trãi; Dục Thuý sơn (Núi Dục Thuý - Nguyễn Trãi)  Bài 9 - Hành trang cuộc sống: Con đường không chọn (Rô-bớt Phờ- rót - Robert Frost) Trong đó, những tri thức về thơ trữ tình được tập trung ở Bài 2 - Vẻ đẹp của thơ ca (Tập một). Các khái niệm về hình thức thơ ca được giới thiệu trong bài học này là nền tảng để HS chiếm lĩnh các tác phẩm thơ tiếp theo được đưa vào SGK. Các bài thơ được giới thiệu trong Bài 2 – Vẻ đẹp của thơ ca – đi từ hình thái thơ ca cổ điển đến thơ ca hiện đại, qua đó HS có thể nhận ra những đặc điểm bền vững và sự biến đổi của thơ ca trong lịch sử phát triển văn học. Để giúp HS chiếm lĩnh tri thức về thơ ca, GV cần lưu ý cách phân bổ các đơn vị kiến thức trong từng văn bản đọc hiểu. Với văn bản thơ Hai-cư Nhật Bản, GV tập trung vào các hình ảnh thơ và tính hàm súc, cô đọng; với văn bản Thu hứng (Đỗ Phủ), GV sẽ hướng dẫn HS tập trung tìm hiểu các vấn đề về thi luật, đối, nhân vật trữ tình. Ở văn bản Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), ngoài việc ôn lại các đơn vị kiến thức về hình ảnh, nhân vật trữ tình, trọng tâm của bài là cách tổ chức ngôn ngữ thơ: nhịp điệu, nhạc điệu, sự kết hợp ngôn từ. Văn bản đọc mở rộng là một bài thơ tự do (Cánh đồng – Ngân Hoa), HS đối chiếu với những tri thức đã học về thơ trữ tình để làm phong phú hơn nhận thức của mình. Nhìn chung, các ngữ liệu trong SGK - bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” được 16
  17. lựa chọn đều phù hợp với HS, có giá trị thẩm mĩ cao và ý nghĩa giáo dục lâu dài. Thông qua việc đọc hiểu các tác phẩm thơ trữ tình có giá trị của nền văn học Việt Nam và một số nền văn học trên thế giới, ở các thời kì văn học khác nhau, HS sẽ tích luỹ được tri thức văn hoá, văn học và đời sống bổ ích, đồng thời nắm vững cách đọc văn bản thơ trữ tình. Từ đó các em được bồi đắp niềm hứng thú, tình yêu đối với thơ ca nói chung. Đối chiếu các ngữ liệu thơ trữ tình được lựa chọn trong bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống với hai bộ sách Cánh Diều và Chân trời sáng tạo, có thể nhận thấy các tác giả biên soạn SGK có cách lựa chọn và sắp xếp bài học khác nhau, tuy nhiên ngữ liệu thơ trữ tình được lựa chọn đều là những tác phẩm tiêu biểu cho thành tựu văn học trong và ngoài nước, sự đan xen kim cổ giúp HS được tiếp cận đa dạng. Bảng 1.2. Thống kê ngữ liệu thơ trữ tình trong ba bộ sách Ngữ văn 10 Bộ sách Bài học/ Chủ đề Ngữ liệu Chùm thơ hai-cư (haiku) Nhật Bản Thu hứng (Cảm xúc mùa thu - Đỗ Bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca Phủ) Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử) Kết nối tri thức Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn với cuộc sống Bài 6: Nguyễn Trãi - “Dành mình), bài 43 - Nguyễn Trãi còn để trợ dân này” Dục Thuý sơn (Núi Dục Thuý - Nguyễn Trãi) Con đường không chọn (Rô-bớt Phờ- Bài 9: Hành trang cuộc sống rót - Robert Frost) Cảm xúc mùa thu (Thu hứng, bài 1 - Đỗ Phủ) Bài 2: Thơ Đường luật Tự tình (bài 2 - Hồ Xuân Hương) Cánh Diều Câu cá mùa thu (Thu điếu - Nguyễn Khuyến) Bài 5: Thơ văn Nguyễn Trãi Gương báu khuyên răn - bài 43 17
  18. Bộ sách Bài học/ Chủ đề Ngữ liệu (Nguyễn Trãi) Đất nước (Nguyễn Đình Thi) Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Bài 7: Thơ tự do Đăng Khoa) Đi trong hương tràm (Hoài Vũ) Mùa hoa mận (Chu Thuỳ Liên) Hương Sơn phong cảnh (Chu Mạnh Bài 3: Giao cảm với thiên Trinh) nhiên Thơ duyên (Xuân Diệu) Chân trời sáng Nắng đã hanh rồi (Vũ Quần Phương) tạo Chiếc lá đầu tiên (Hoàng Nhuận Cầm) Bài 6: Nâng niu kỉ niệm Tây Tiến (Quang Dũng) Nắng mới (Lưu Trọng Lư) Từ thực tiễn chương trình như vậy, chúng tôi đưa ra quy trình vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10 cần tuân như sau: *Nội dung: 7.1.2.1. Giai đoạn trước giờ học a. Tìm hiểu đặc điểm trí tuệ nổi trội của học sinh Dạy học theo hướng vận dụng thuyết ĐTT dựa trên sự tôn trọng những khác biệt về biểu hiện các dạng trí tuệ nổi trội của HS. Vì thế, việc tìm hiểu đặc điểm trí tuệ của từng HS, phân loại và chia nhóm các em theo từng loại hình trí thông minh là vô cùng cần thiết và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thiết kế kế hoạch bài học cũng như tổ chức các hoạt động học tập trên lớp. *Tiến hành khảo sát Việc tìm hiểu trí tuệ của HS được GV tiến hành vào đầu năm học. Trong điều kiện dạy học ở trường THPT hiện nay, GV có thể sử dụng nhiều phương pháp thu nhận thông tin để xác định các dạng trí tuệ nổi trội của HS, chẳng hạn như: sử dụng phiếu trắc nghiệm về 18
  19. các dạng trí tuệ; quan sát; phỏng vấn; tra cứu hồ sơ… Cụ thể: - Sử dụng phiếu trắc nghiệm: GV có thể tham khảo các câu hỏi trắc nghiệm về 8 dạng trí tuệ của Thomas Armstrong trong cuốn “Đa trí tuệ trong lớp học” (Phụ lục 3). Với những lớp học hạn chế về phương tiện kĩ thuật số, GV in phiếu trắc nghiệm ra văn bản giấy để khảo sát HS. Với lớp học có thiết bị học tập và Internet đầy đủ, thầy cô có thể khảo sát qua Google froms. Nội dung trắc nghiệm gồm 80 tình huống diễn tả về đặc trưng của 8 dạng trí thông minh: trí thông minh ngôn ngữ, trí thông minh logic/toán, trí thông minh không gian, trí thông minh giao tiếp, trí thông minh nội tâm, trí thông minh âm nhạc, trí thông minh vận động-hình thể và trí thông minh tự nhiên. Mỗi dạng trí tuệ tương ứng với 10 tình huống, sử dụng để thu thập thông tin và phát hiện thiên hướng phát triển các dạng trí tuệ của HS. Mỗi tình huống được đánh dấu tính 01 điểm. Điểm tối đa cho mỗi dạng trí tuệ là 10 điểm. Những HS đạt 8- 10 điểm ở một dạng trí tuệ được cho là có trí thông minh nổi trội ở lĩnh vực đó. - Quan sát học sinh: GV có thể đánh giá các dạng trí tuệ của mỗi HS bằng cách quan sát hành vi và sự thể hiện của HS trong các tiết học ở nhiều bộ môn, đặc biệt là ở môn Ngữ văn để theo dõi cách HS giao tiếp và thực hiện các nhiệm vụ học tập. GV cần sử dụng sổ theo dõi để ghi lại các vấn đề mình quan sát được. Thầy cô càng quan sát và ghi chép được nhiều biểu hiện của HS, càng đánh giá chính xác được đặc điểm trí tuệ của HS đó. Chẳng hạn, những HS thông minh ngôn ngữ thường hay đọc sách, kể chuyện lưu loát hoặc có năng lực viết tốt hơn; HS có trí tuệ giao tiếp sẽ hào hứng với trò chuyện hoặc các trò chơi tập thể, thích bày tỏ chính kiến và quan điểm cá nhân trước lớp; HS có trí tuệ nội tâm thường biểu lộ ý thức độc lập hoặc cá tính mạnh... Ngoài giờ học trên lớp, HS còn thể hiện bản thân ở những giờ hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt câu lạc bộ. Những HS tham gia câu lạc bộ nghệ thuật (hát, vẽ tranh, nhiếp ảnh...) thường nổi trội về trí tuệ âm nhạc, không gian, giao tiếp...; HS tham gia câu lạc bộ nghiên cứu khoa học thường nổi trội về trí tuệ ngôn ngữ, lôgic-toán học... Quan sát hoạt động ngoại khoá của HS cũng là phương pháp hiệu quả giúp GV phân loại đặc điểm trí tuệ HS. - Tra cứu kết quả học tập: Ở phương pháp này, GV xác định trí tuệ nổi trội của HS dựa trên việc xem xét kết quả 19
  20. học tập của các em ở những năm học trước (thông qua nhận xét của GV hoặc điểm số của các môn học). Chẳng hạn, HS có điểm tổng kết môn Ngữ văn cao hơn các môn khác thường nổi trội về trí thông minh ngôn ngữ; HS có điểm tổng kết môn Toán cao hơn sẽ có thiên hướng nổi trội hơn ở trí thông minh lôgic, những em có điểm tổng kết môn Sinh học cao lại thường có thế mạnh về trí tuệ tự nhiên học… - Phỏng vấn giáo viên khác: Hầu hết mỗi GV đảm nhiệm một môn học, chính vì vậy sẽ không có điều kiện để quan sát HS biểu hiện trí tuệ ở những môn học khác. Vì vậy, thầy cô cần trao đổi với GV bộ môn, GV chủ nhiệm để hiểu thêm về biểu hiện các dạng trí tuệ nổi trội của HS. Thông tin thu thập được qua kênh này sẽ rất hữu ích, kết hợp với phần tự đánh giá mang tính chủ quan của HS để đưa ra thông tin toàn diện. - Phỏng vấn trực tiếp học sinh: GV có thể sử dụng các câu hỏi để phỏng vấn HS về các dạng trí tuệ mà em đó cho là nổi bật nhất của mình. Chẳng hạn: Em thích học bộ môn nào nhất? Em học tốt môn nào? Em có thích đọc, kể chuyện hay không? ... *Tổng hợp, xử lí kết quả khảo sát Từ kết quả khảo sát qua phiếu trắc nghiệm, GV tiến hành xử lí, phân tích để đưa ra đánh giá bước đầu và phân loại trí tuệ của HS thành các nhóm. Việc tổng hợp, xử lí kết quả ngay sau khi tiến hành khảo sát là cơ sở dữ liệu quan trọng để đề xuất thiết kế vận dụng thuyết ĐTT vào dạy học văn bản thơ trữ tình cho HS lớp 10. Dựa vào kết quả trắc nghiệm, GV phân loại các dạng trí tuệ của HS theo các mức độ: mức độ I - Nổi trội (Đạt số điểm từ 8 đến 10 điểm); mức độ II - Khá (đạt từ 5 đến 7 điểm); mức độ III – Trung bình (Từ 4 điểm trở xuống). GV sử dụng kết quả từ phiếu trắc nghiệm tìm hiểu loại hình trí tuệ nổi trội kết hợp kết quả phỏng vấn, quan sát và tra cứu kết quả năm học trước của HS để phân loại HS theo nhóm, từ đó xây dựng kế hoạch và tổ chức dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình cho HS lớp 10 theo thuyết ĐTT. Những HS có đặc điểm trí tuệ ở mức độ nổi trội được tập hợp thành một nhóm. Tuy nhiên, đối với dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình, việc xây dựng đủ 8 nhóm trí tuệ để thực hiện các nhiệm vụ học tập trong một giờ học là điều khó khả thi. Trong thuyết ĐTT, H. Gardner đã chỉ ra rằng: không có trí tuệ nào tồn tại đơn lẻ trong đời 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2