intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông?(Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

57
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đặt ra mục đích tìm hiểu và đánh giá thực trạng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào phát huy năng lực và các dạng thông minh ở HS trong môn Ngữ văn THPT nói chung, dạy học hệ thống bài kí hiện đại văn học Việt Nam nói riêng. Từ đó đề xuất hướng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai bài kí trong chương trình ngữ văn 12 nhằm phát huy đa dạng trí tuệ và năng lực học sinh cũng như tăng hứng thú trong giờ học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông?(Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài VẬN DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ VÀO DẠY HỌC HAI VĂN BẢN NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN) VÀ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG) - NGỮ VĂN 12 MÔN: NGỮ VĂN Hưng Nguyên, tháng 4 năm 2022
  2. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRƯỜNG TỘ - HƯNG NGUYÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài VẬN DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ VÀO DẠY HỌC HAI VĂN BẢN NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN) VÀ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG) - NGỮ VĂN 12 MÔN: NGỮ VĂN Người thực hiện: NGUYỄN THỊ HOÀI Tổ chuyên môn: Văn - Anh Năm thực hiện: 2021 - 2022 Số điện thoại: 0388345811 Hưng Nguyên, tháng 4 năm 2022
  3. MỤC LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài................................................................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 2 2.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 3 4. Tính mới của đề tài ............................................................................................ 3 5. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm .................................................................. 3 PHẦN II: NỘI DUNG ............................................................................................. 4 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.......................................................................... 4 1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................. 4 1.1.1. Lí luận về thuyết đa trí tuệ ..................................................................... 4 1.1.2. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học trong nhà trường phù hợp với yêu cầu thời đại 4.0 và nền giáo dục hiện đại ........................................... 7 1.1.3. Sự phù hợp khi vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học ngữ văn .......... 8 1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 10 1.2.1. Thực trạng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Ngữ văn trung học phổ thông nước ta hiện nay ........................................................... 10 1.2.2. Khả năng vận dụng thuyết đa trí tuệ dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) .......................................................................................... 12 2. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12 ........................................................................................................... 14 2.1. Đề xuất quy trình vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học ngữ văn và hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) ............................................................. 14 2.2. Phát triển các dạng trí tuệ qua dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12 ........................................................................................ 18 2.2.1. Phát triển trí tuệ ngôn ngữ ................................................................... 19 2.2.2. Phát triển trí tuệ giao tiếp..................................................................... 21 2.2.3. Phát triển trí tuệ logic .......................................................................... 22 2.2.4. Phát triển trí tuệ nội tâm ...................................................................... 24 2.2.5. Phát triển trí tuệ không gian/hội họa ................................................... 25
  4. 2.2.6. Phát triển trí tuệ âm nhạc ..................................................................... 26 2.2.7. Phát triển trí tuệ tự nhiên/thiên nhiên .................................................. 27 2.3. Giáo án minh họa ....................................................................................... 29 PHẦN III. KẾT LUẬN ......................................................................................... 40 1. Hiệu quả của đề tài ........................................................................................... 40 1.1. Khảo sát...................................................................................................... 40 1.2. Phân tích kết quả khảo sát.......................................................................... 42 2. Tính khoa học................................................................................................... 43 3. Những kiến nghị, đề xuất ................................................................................. 43 3.1. Về phía giáo viên ....................................................................................... 43 3.2. Về phía học sinh......................................................................................... 43 3.3. Về phía quản lí ........................................................................................... 43 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 45 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 01. MẪU PHIẾU KHẢO SÁT ĐA TRÍ TUỆ HỌC SINH PHỤ LỤC 02. BẢNG XỬ LÍ KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐA TRÍ TUỆ HỌC SINH PHỤ LỤC 03. MỘT SỐ HÌNH ẢNH KHẢO SÁT ĐA TRÍ TUỆ HỌC SINH PHỤ LỤC 04. HÌNH ẢNH TIẾT HỌC THỰC NGHIỆM TẠI LỚP 12C - TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRƯỜNG TỘ PHỤ LỤC 05. ĐỒNG NGHIỆP VẬN DỤNG ĐỀ TÀI DẠY THỬ NGHIỆM PHỤ LỤC 06. KỊCH BẢN PHỎNG VẤN VÀ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN PHỤ LỤC 07. MỘT SỐ SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC PHÁT TRIỂN ĐA TRÍ TUỆ
  5. DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT TT Từ viết tắt Từ đầy đủ 1 DH Dạy học 2 GD Giáo dục 3 GV Giáo viên 4 HĐ Hoạt động 5 HS Học sinh 6 KHBD Kế hoạch bài dạy 7 KS Khảo sát 8 KTDH Kỹ thuật dạy học 9 PPDH Phương pháp dạy học 10 TĐTT Thuyết đa trí tuệ 11 THPT Trung học phổ thông
  6. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục nước nhà đang chuyển mình tiệm cận nền giáo dục hiện đại thế giới, dạy học theo hướng phát triển năng lực và chuẩn bị tiếp nhận chương trình sách giáo khoa ngữ văn mới, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài với những lí do sau: 1.1. Nhà bác học Albert Einstein từng nói rằng: “Ai cũng là thiên tài. Nhưng nếu bạn đánh giá một con cá bằng khả năng leo cây, nó sẽ sống suốt đời với niềm tin rằng nó là kẻ đần độn”. Mỗi cá nhân là độc lập và duy nhất với những năng khiếu, sở trường, tiềm năng và đam mê khác nhau cần được nuôi dưỡng từ sớm. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện con người không chỉ có trí thông minh logic (IQ) mà trí thông minh vô cùng đa dạng, mỗi một người có tám loại trí thông minh tiềm ẩn và có thể được khơi dậy trong quá trình giáo dục. Sứ mệnh cao cả của giáo dục chính là hình thành và phát triển năng lực của người học thông qua nắm bắt, khai phá được khả năng tiềm ẩn của người học. Thực tế cho thấy, giáo dục truyền thống chỉ tập trung vào việc phát triển trí thông minh logic, trí thông minh ngôn ngữ và dạy hàng nghìn cá thể khác nhau bằng cách giống nhau, đóng khuôn người học trong cùng chuẩn mực và tiêu chuẩn chung, quá trình dạy học đã bỏ qua những thế mạnh học tập thông qua các dạng trí tuệ khác như: trí tuệ không gian, trí tuệ giao tiếp, trí tuệ nội tâm, trí tuệ tự nhiên,... của học sinh. Giáo dục hiện đại quan tâm nhiều hơn đến giáo dục từng cá thể và phát triển trí thông minh đa dạng. Học thuyết đa trí tuệ (đa trí thông minh) ra đời và đóng vai trò quan trọng đối với nền giáo dục hiện đại. 1.2. Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã cho thấy sự cần thiết của việc Đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục và Đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 29-NQ/TW của hội nghị xác định rõ: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”. Đồng thời, ở nước ta hiện nay xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu thuyết đa trí tuệ và bước đầu vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học nhưng chủ yếu ở môi trường mầm non hoặc chỉ dừng lại ở lĩnh vực môn học tự nhiên bậc phổ thông. 1.3. Môn Ngữ văn là môn học thẩm mĩ - nhân văn và cũng là môn công cụ. Có nghĩa phát triển năng lực ở môn học ngữ văn không chỉ là chỉ số EQ (cảm xúc) mà còn chỉ số tư duy, trí tuệ, nghĩa là cùng với việc giáo dục học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, nhân ái, vị tha, môn học này còn là phương tiện để tư duy các môn học khác và các hoạt động khác trong nhà trường. Chương trình tổng thể môn Ngữ văn cũng được công bố vào ngày 26/12/2018 đã chỉ rõ hệ thống năng lực chung (năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo,...) và năng lực đặc thù (năng lực ngôn ngữ, năng lực 1
  7. văn học) của môn Ngữ văn. Chương trình còn nêu rõ mục tiêu chung xuyên suốt ba cấp học: rèn luyện các kĩ năng giao tiếp đọc, viết, nói và nghe; phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic; góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hóa. Bộ môn Ngữ văn mới, vì thế hướng tới phát triển nhiều năng lực, phẩm chất và nhiều loại hình tư duy, trí tuệ ở người học nhằm đào tạo ra con người mới đáp ứng nhu cầu của thời đại. 1.4. Những tác phẩm kí hiện đại Việt Nam nói chung và hai tác phẩm kí: Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) nói riêng trong chương trình ngữ văn chiếm vị trí khá đặc biệt. Những tác phẩm này không chỉ tiêu biểu cho đặc trưng của thể loại kí, tiêu biểu cho phong cách kí tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân và tài hoa, lịch lãm, hướng nội của Hoàng Phủ Ngọc Tường mà đặc sắc ở khả năng tổng hợp kiến thức nhiều ngành liên môn, nhiều lĩnh vực trong đời sống từ tự nhiên - văn hóa - lịch sử - xã hội, khả năng ngôn từ phong phú, giàu liên tưởng, diễn đạt linh hoạt, phóng túng, đậm chất trí tuệ... Hai bài kí, vì thế có sức khơi gợi, kích thích và phát triển nhiều loại hình tư duy cũng như trí thông minh đa dạng của người học. Tuy nhiên, vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản này đang còn là khoảng trống, cần được nghiên cứu và thực nghiệm. Vậy xuất phát từ những nền tảng khoa học giáo dục vững chắc, nhu cầu thực tiễn của hoạt động dạy học, đặc điểm bộ môn Ngữ văn và văn bản kí hiện đại, chúng tôi đề xuất sáng kiến: Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông?(Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài đặt ra mục đích tìm hiểu và đánh giá thực trạng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào phát huy năng lực và các dạng thông minh ở HS trong môn Ngữ văn THPT nói chung, dạy học hệ thống bài kí hiện đại văn học Việt Nam nói riêng. Từ đó đề xuất hướng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai bài kí trong chương trình ngữ văn 12 nhằm phát huy đa dạng trí tuệ và năng lực học sinh cũng như tăng hứng thú trong giờ học. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở khoa học của đề tài, bao gồm việc làm rõ thuyết đa trí tuệ trong hoạt động dạy - học, thực trạng và khả năng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12. - Xây dựng hệ thống quy trình, biện pháp vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12. 2
  8. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi và hiệu quả của những phương pháp, cách thức vận dụng thuyết đa trí tuệ hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu ở môn Ngữ văn 12, các bài kí hiện đại của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. - Thực nghiệm tại trường THPT Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên và một số trường trên địa bàn huyện Hưng Nguyên và huyện Nghi Lộc. 4. Tính mới của đề tài - Đề xuất cách vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Ngữ văn nhằm nâng cao hiệu quả dạy học - dạy học đến từng cá thể HS - phù hợp giáo dục hiện đại và tiệm cận chương trình giáo dục phổ thông mới. - Đề xuất cách tiếp cận văn bản văn học bằng thuyết đa trí tuệ nhằm hình thành và phát triển nhiều năng lực và nhiều dạng trí thông minh cho học sinh. - Đề xuất một hướng đi mới mẻ, tăng hứng thú học tập cho HS khi tiếp cận hai văn bản kí hiện đại của hai cây bút kí đặc sắc Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Ngữ văn 12. 5. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm Ngoài phần Đặt vấn đề và Kết luận, SKKN gồm các nội dung: Phần 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn Phần 2. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) trong chương trình Ngữ văn 12. 3
  9. PHẦN II: NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Lí luận về thuyết đa trí tuệ 1.1.1.1. Khái niệm “Thuyết đa trí tuệ” Thuyết đa trí tuệ là một lý thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận bằng nhiều cách, mang tính đa dạng, được nghiên cứu và công bố bởi tiến sĩ Howard Gardner. Theo Gardner, trí thông minh (intelligence) được ông quan niệm như sau “là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa” và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Năm 1983, ông xuất bản một cuốn sách có tựa đề “Frames of Mind”, trong đó ông đưa ra các nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh (Lý thuyết về nhiều trí thông minh). 1.1.1.2. Các dạng trí thông minh/trí tuệ theo thuyết đa trí tuệ Thuyết đa trí tuệ đã mang đến cho thế giới cái nhìn bao quát và toàn diện về tiềm năng não bộ của con người, nó đề cập đến sự đa dạng về trí tuệ của mỗi cá nhân. Theo đó, mỗi cá nhân sinh ra đều có 8 loại hình thông minh khác nhau: Hình: 8 loại hình thông minh/ trí tuệ của con người 4
  10. (1) Trí tuệ ngôn ngữ: Là khả năng sử dụng có hiệu quả các từ ngữ, hoặc bằng lời nói hoặc bằng chữ viết. Ví dụ: Thích đọc sách, trò chơi chữ, kể chuyện, viết lách tốt; phát âm chuẩn, vốn từ phong phú, nói chuyện lôi cuốn, có thể thuyết phục người khác bằng lời,... (2) Trí tuệ logic - toán học: Là khả năng sử dụng có hiệu quả các con số và lí luận về logic, trật tự một cách thông thạo: Tính nhẩm nhanh, thích thú làm việc và vui chơi với các con số; Thích toán, các trò chơi đòi hỏi động não, tư duy logic; Thích tìm ra các bố cục, quy luật và trình tự các đồ vật, thích làm thí nghiệm, quan tâm đến các vấn đề khoa học tự nhiên,... (3) Trí tuệ không gian - hội họa: Là khả năng tiếp cận một cách chính xác thế giới không gian. Trí thông minh không gian liên quan đến việc suy nghĩ bằng hình ảnh, biểu tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo các góc độ khác nhau của thế giới không gian trực quan. Những người có trí thông minh này thường: Nhạy cảm về màu sắc, đường nét, hình dạng và tương quan giữa chúng; Biết và thích vẽ; Đọc bản đồ, biểu đồ, sơ đồ và tranh ảnh dễ dàng hơn từ ngữ;... (4) Trí tuệ hình thể - vận động: Là sự thành thạo và khéo léo trong việc sử dụng toàn bộ cơ thể để thể hiện các ý tưởng, cảm xúc và hoạt động nào đó: thích chơi và chơi tốt thể thao, làm thủ công tốt; Khó ngồi yên một chỗ trong thời gian dài; Thích các trò chơi sôi động, tháo gỡ rồi lắp ghép các đồ vật;... (5) Trí tuệ âm nhạc: Là khả năng cảm nhận, thưởng thức và tạo ra các tiết tấu nhịp điệu, đó là trí thông minh của các nhạc công hay những ca sĩ, ngoài ra trí thông minh âm nhạc còn có trong tiềm thức của bất cứ cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt và hát theo giai điệu. Những người sở hữu trí thông minh âm nhạc: Nhạy cảm với nhịp điệu, âm sắc, âm tần của một bản nhạc; Nhớ được giai điệu các bài hát; Thích hát và hát hay, biết chơi nhạc cụ; Thích gõ nhịp hay hát khẽ một mình khi làm việc, học hành;... (6) Trí tuệ giao tiếp: Đây là năng lực hiểu và làm việc được với những người khác, khả năng nhìn thấu suốt bên trong người khác, từ đó nhìn ra viễn cảnh bên ngoài bằng chính con mắt của họ. Là khả năng cảm nhận và phân biệt giữa các tâm trạng, ý đồ, động cơ và cảm nghĩ của người khác; Thích tham gia các hoạt động tập thể, thoải mái, tự tin giữa đám đông, biết chia sẻ, quan tâm đến người khác và cũng được người khác chia sẻ, khuyên bảo;... (7) Trí tuệ nội tâm: Là năng lực tự nhận thức về bản thân, nhìn rõ được những cảm xúc của bản thân mình, người có trí thông minh này họ thường hay xem xét bản thân và thích trầm tư suy nghĩ, được ở trạng thái tĩnh lặng hay các trạng thái tìm hiểu tinh thần một cách sâu sắc khác, họ thích làm việc một mình hơn làm việc cùng những người khác, họ là người có tính độc lập và tính tự giác tốt. Họ biết rõ ưu điểm, hạn chế của mình; Ý thức đầy đủ và đúng về tâm trạng, động cơ, tính khí, ước mơ của bản thân; Khả năng tự kiềm chế, tự kiểm soát, lòng tự trọng;... 5
  11. (8) Trí tuệ tự nhiên học: Là khả năng nhận dạng, phân loại các loài sinh vật; hiểu biết về các hiện tượng thiên nhiên; thích dã ngoại, chăm sóc con vật;… Gần đây, các nhà nghiên cứu đã đề nghị bổ sung trí thông minh thứ 9 được gọi là “Trí thông minh theo chủ nghĩa hiện sinh” hay “Trí thông minh triết học”. Điều quan trọng là quá trình khai thác và phát triển chúng để đạt được sự phát triển toàn diện nhất. 1.1.1.3. Vai trò thuyết đa trí tuệ trong dạy học Từ các đặc điểm trên cho thấy, thuyết Đa trí tuệ của Howard Gardner đã giúp chúng ta hiểu thêm về trí tuệ của con người theo cách thức mới, đa dạng hơn, rộng mở hơn. Thuyết đa trí tuệ ra đời đã được các nhà GD nghiên cứu và áp dụng một cách khoa học, sáng tạo vào nhiều lĩnh vực và hoạt động của nhà trường, từ chiến lược xây dựng và triển khai mục tiêu, chương trình GD; Xây dựng môi trường/cảnh quan trường học, lớp học, công tác quản lí lớp học; Đánh giá kết quả đầu ra, cho đến nhận thức và hành động của mỗi giáo viên. * Đối với người dạy: Một trong những đóng góp lớn nhất mà Thuyết đa trí tuệ mang lại là sự tác động đến việc đổi mới PPDH của giáo viên, đổi mới cách nhìn nhận năng lực người học, bao gồm cả việc soạn giáo án theo lí Thuyết đa trí tuệ để phù hợp và khuyến khích tư duy của mọi người học. Thuyết đa trí tuệ đã gợi mở ra rất nhiều PPDH tích cực. Không thể phủ nhận hoàn toàn vai trò của các PPDH truyền thống. Các phương pháp này cũng đã góp phần phát triển ở người học một số dạng trí tuệ nhất định (như trí tuệ ngôn ngữ, logic-toán học). Người dạy khi đã hiểu rõ bản chất của Thuyết đa trí tuệ, họ sẽ là người tự giác và tích cực đổi mới các PPDH theo hướng khai phá tiềm năng của người học, góp phần “thức tỉnh” các dạng trí tuệ tiềm ẩn của người học. Mỗi dạng trí tuệ sẽ có các PPDH phù hợp và đặc trưng. Ví dụ: Các PPDH phù hợp với dạng trí tuệ ngôn ngữ gồm có kể chuyện, động não, viết nhật kí,..., hoặc đối với dạng trí tuệ không gian thì có các phương pháp: vẽ tranh, lập mã bằng màu sắc, biểu tượng bằng đồ thị, sơ đồ tư duy; các phương pháp góp phần phát huy dạng trí tuệ giao tiếp như thảo luận nhóm,… Tuy nhiên, không có phương pháp nào là vạn năng hay duy nhất để “thức tỉnh” đầy đủ cả 8 dạng trí tuệ. Vì vậy, người dạy cần áp dụng linh hoạt nhiều PPDH khác nhau và phải biết cách lựa chọn phù hợp, phối hợp nhuần nhuyễn các phương pháp, có như vậy mới khơi dậy, phát huy tối đa các dạng trí tuệ ở người học. Hiểu biết về các dạng trí tuệ khác nhau còn giúp cho giáo viên thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về khả năng, phong cách học tập đa dạng của người học, tránh sự áp đặt những cách học, cách dạy không phù hợp với đặc điểm cá nhân, khó phát huy tiềm năng của người học. Đặc biệt, với vận dụng thuyết đa trí tuệ, nhà GD sẽ thực hiện được mục tiêu cá thể hóa trong dạy học, phát huy thế mạnh học tập riêng ở người học mà không đóng khung họ trong một mẫu chung kiểu “đo ni đóng giày”. 6
  12. Thông điệp của Howard Gardner truyền tải cho các GV rất rõ ràng: Khi giáo dục con người cần thông qua các điểm mạnh của họ, chúng ta không chỉ kích thích sự phát triển mà còn đặt niềm tin vào người học mới có thể đạt được các mục tiêu giáo dục. * Đối với người học: Thuyết đa trí tuệ không chỉ giúp bài học trở nên thú vị mà còn giúp học sinh tiếp cận, lưu giữ thông tin theo những cách khác nhau. Ý nghĩa cao nhất mà thuyết Đa trí tuệ mang đến là cá nhân hóa việc học: HS được học tập đúng phong cách, đặc điểm, nhu cầu và sở thích cá nhân, được phát huy thế mạnh riêng. HS được đặt niềm tin và giữ vai trò trung tâm, chủ động và tích cực tiếp cận bài học theo cách riêng phù hợp. Đồng thời với hoạt động học, HS được đánh giá linh hoạt ở nhiều dạng trí thông minh đa dạng. Tránh một phương pháp học tập theo kiểu “một cỡ vừa cho tất cả”, áp đặt đóng khung người học trong hai loại hình trí tuệ ngôn ngữ và toán học/lôgic. 1.1.2. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học trong nhà trường phù hợp với yêu cầu thời đại 4.0 và nền giáo dục hiện đại Cách mạng 4.0 tất yếu dẫn đến nền giáo dục 4.0. Tại đây, con người, máy móc, thiết bị, công việc liên kết với nhau để tạo nên nền GD thiên về đào tạo cá nhân hóa. Trong nền GD đó, “Trường học không tường” được xây dựng thành hệ sinh thái mà ở đó mọi người có thể dạy học ở mọi nơi, mọi lúc để tạo ra sản phẩm là những nhà sáng tạo và nhà khởi nghiệp, những công dân kĩ thuật số biết giải quyết các vấn đề phức tạp, có tư duy phân tích, phản biện, tư duy sáng tạo, có khả năng thích nghi với các thách thức, đặc biệt là trí tuệ cảm xúc (EQ). Như vậy, xu hướng giáo dục hiện đại, mục tiêu đào tạo không chỉ là những con người có kiến thức, kĩ năng làm việc mà còn cần các loại năng lực tổng hợp, các loại hình thông minh và các dạng trí tuệ đặc biệt. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) cũng đã đề xướng phương châm GD của thế kỉ XXI: “Học để biết, học để làm việc, học để chung sống và học để tự khẳng định mình”. Mỗi con người là một nhân cách trong cộng đồng, xã hội, phải biết tự khẳng định để có chỗ đứng, có vị thế trong cộng đồng. Học để tự khẳng định bản thân chính là sự tự vươn lên để sống thực sự có ý nghĩa, để mọi người và xã hội công nhận, tôn trọng. Học để biết là chưa đủ, học để làm, để cùng chung sống, để tự khẳng định mình mới là cốt yếu; khi đó tác dụng của việc học mới thực sự có ý nghĩa. Hơn thế, dạy học tích hợp và dạy học phân hóa đang là xu thế phổ biến của giáo dục trên thế giới, được coi như đòn bẩy cho chương trình giáo dục phổ thông mới Việt Nam. Tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ các kiến thức, kĩ năng thuộc những môn học khác nhau thành một nội dung thống nhất. Dạy học 7
  13. tích hợp là dạy học theo định hướng phát triển (ở người học) khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng,... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, được thực hiện ngay trong qua trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện các kĩ năng. Dạy học phân hóa là định hướng trong đó giáo viên tổ chức dạy học tùy theo đối tượng, nhằm đảm bảo yêu cầu giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý, nhịp độ, khả năng, nhu cầu và hứng thú khác nhau của những người học. Trên cơ sở đó, giáo viên có thể phát triển tối đa tiềm năng vốn có của mỗi học sinh. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học cũng có thể xem là con đường tích hợp nhiều lĩnh vực kiến thức vào khám phá bài học và phát huy cao độ học tập theo phong cách riêng. Chính vì thế, từ những năm 80 khi thuyết đa trí tuệ ra đời, thuyết này được áp dụng trong các nền giáo dục tiên tiến ở các quốc gia Châu Âu, Châu Mỹ, và một số nước Châu Á, và đã đạt được những thành công nhất định. Thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner phù hợp với thời đại và đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thời kỳ hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước trên thế giới, đặt ra trách nhiệm vinh quang nhưng cũng hết sức nặng nề cho sự nghiệp giáo dục là phải đào tạo ra những con người thông minh, năng động, sáng tạo, tự tin, tự chủ, thực tiễn. Đó là yêu cầu thiết thực không phải chỉ với thế hệ trẻ Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. 1.1.3. Sự phù hợp khi vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học ngữ văn 1.1.3.1. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Ngữ văn phù hợp với đặc trưng bộ môn Ngữ văn là môn học công cụ có tính thẩm mĩ, nhân văn. Nghĩa là, môn học vừa giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường vừa đồng thời giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc, phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha. Thông qua các văn bản ngôn từ và hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói, nghe, môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, đề học tập suốt đời. Môn Ngữ văn là môn học tích hợp từ ba phân môn: Văn, Tiếng Việt, Làm văn. Nói cách khác, ngữ văn bao gồm phần Ngữ và phần Văn, gắn bó, hỗ trợ nhau một cách chặt chẽ; vừa là môn học nghệ thuật vừa là môn học thực hành vừa bao gồm các hoạt động cảm thụ, thưởng thức cái đẹp, vừa bao gồm hoạt động sáng tạo ra cái đẹp bằng cả văn bản nói và viết, với hai hoạt động chủ yếu: Đọc hiểu văn bản - Tạo lập văn bản. Như vậy, nhìn từ góc độ này môn Ngữ văn có lợi thế hướng tới phát triển trí thông minh ngôn ngữ, thông minh logic, thông minh giao tiếp và trí thông minh nội tâm của học sinh hơn bất cứ môn học nào. Đặc biệt, môn Ngữ văn còn nằm trong trục tích hợp mật thiết của văn hóa, 8
  14. lịch sử, địa lý, âm nhạc, hội họa, điện ảnh… nên giáo viên vừa có thế vận dụng các dạng trí thông minh hội họa/không gian, trí thông minh âm nhạc, trí thông minh tự nhiên/thiên nhiên,… để đạt mục tiêu bài học vừa tạo điều kiện học tập theo phong cách cá nhân của học sinh. Môn Ngữ văn trong chương trình phổ thông, riêng phần văn là các tác phẩm tiêu biểu được tuyển chọn của văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, phong phú ở nhiều thể loại, phong cách, trải dài theo từng giai đoạn; và xoay quanh các chủ đề: tình yêu nước, yêu quê hương; tình yêu con người, yêu thiên nhiên và các giá trị văn hóa. Bằng phương tiện ngôn từ nghệ thuật, tác phẩm văn học phản ánh diện mạo phong phú của hiện thực mọi thời đại, mọi nền văn hóa, bất chấp không gian, thời gian. Chỉ khi người học vận dụng trí thông minh đa dạng, hòa cảm vào thế giới nghệ thuật thơ văn mới hiểu được chân dung thời đại, hay một nền văn hóa, văn minh, một miền quê hương xứ sở. Bởi thế, vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học ngữ văn hoàn toàn phù hợp với đặc trưng và là yêu cầu cần thiết trong việc thiết kế, tổ chức và sử dụng phương pháp/kĩ thuật dạy học ngữ văn. Các chiến lược dạy học phân hóa môn Ngữ văn nhằm phát triển đa trí tuệ trong lớp học như kể chuyện, làm thơ, bình thơ, thuyết minh, đóng vai, viết bản tin, mô phỏng, sân khấu hóa tác phẩm văn học, nhóm hợp tác xây dựng ý tưởng, thiết kế ý tưởng, tổ chức thực hiện ý tưởng dự án,… đã và đang được giáo viên thể nghiệm. 1.1.3.2. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Ngữ văn phù hợp định hướng năng lực Hơn mười năm qua, nền GD nước ta chuyển từ quá trình giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Định hướng dạy học theo năng lực đòi hỏi các môn học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng phải tích hợp một số nội dung tri thức và kĩ năng nhằm giải quyết các tình huống trong học tập và trong cuộc sống. Chương trình ngữ văn THPT mới đã xác định yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung: Năng lực tự chủ và tự học (Tự lực; Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng; Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình; Thích ứng với cuộc sống; Định hướng nghề nghiệp; Tự học, tự hoàn thiện); Năng lực giao tiếp và hợp tác (Xác định mục đích, nội dung, phương tiện và thái độ giao tiếp; Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội; điều chỉnh và hoá giải các mâu thuẫn; Xác định mục đích và phương thức hợp tác, Xác định trách nhiệm và hoạt động của bản thân; Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp tác; Tổ chức và thuyết phục người khác; Đánh giá hoạt động hợp tác; Hội nhập quốc tế); Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo (Nhận ra ý tưởng mới; Phát hiện và làm rõ vấn đề; Hình thành và triển khai ý tưởng mới; Đề xuất, lựa chọn giải pháp; Thiết kế và tổ chức hoạt động; Tư duy độc lập). Đây cũng là biểu hiện của các loại hình trí thông minh cảm xúc (EQ), trí thông minh giao tiếp/hướng ngoại, trí thông minh logic. 9
  15. Chương trình Ngữ văn THPT tổng thể cũng qui định các yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù của học sinh như phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống. Mà để hình thành các năng lực này, người học phải phát huy các dạng trí thông minh đa dạng và nổi bật của mình, đặc biệt trí thông minh ngôn ngữ, trí thông minh nội tâm, trí thông minh tự nhiên, trí thông minh logic, trí thông minh hiện sinh,… vốn sẵn có và được hình thành, rèn luyện từ các cấp học dưới. Vậy dạy học vận dụng thuyết đa trí tuệ chính là một con đường để dạy học ngữ văn theo định hướng năng lực. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực trạng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Ngữ văn trung học phổ thông nước ta hiện nay 1.2.1.1. Qua phiếu khảo sát Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học ở các nước trên thế giới khá phổ biến tuy nhiên, ở nước ta chủ yếu xuất hiện ở một số trường DH năng khiếu hay các trường mầm non. Ở các cấp THPT, DH theo thuyết đa trí tuệ được đề cập đến ở một số bài tạp chí chuyên ngành hay bước đầu vận dụng vào các môn KHTN. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy những đề tài nghiên cứu vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học môn Ngữ văn THPT nói chung và dạy học phần hai văn bản kí hiện đại ở ngữ văn 12 nói riêng. Vì vậy, việc vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học môn Ngữ văn vẫn đang ở mức thử nghiệm, tìm tòi và nghiên cứu. Thực trạng này vừa là cơ hội vừa là thử thách để các nhà giáo dục, các GV tâm huyết đổi mới giáo dục bắt tay vào việc vận dụng, ứng dụng dạy học môn Ngữ văn mang lại hiệu quả cao. Để thấy rõ hơn thực trạng trên, chúng tôi tiến hành khảo sát bằng phiếu trả lời trắc nghiệm online trên Google Forms (https://docs.google.com/forms/) và nhận được kết quả dưới đây (khảo sát ý kiến của 20 GV Ngữ văn trên địa bàn huyện Hưng Nguyên, thị xã Cửa Lò, huyện Nghi Lộc). Kết quả khảo sát được tổng hợp, phân tích kết quả thu được như sau: - Khi được hỏi hiểu biết như thế nào về thuyết Đa trí tuệ thì có 30% GV trả lời đã đọc, đã nghe nói và biết được thuyết đa trí tuệ (trí thông minh đa dạng), và 40% GV đã tập huấn và tự nghiên cứu về thuyết đa trí tuệ và đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều có 8 dạng trí tuệ. Đó là, trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ logic/toán học, trí tuệ không gian, trí tuệ âm nhạc, trí tuệ vận động cơ thể, trí tuệ tương tác xã hội, trí tuệ nội tâm, trí tuệ tự nhiên học/thiên nhiên. Tuy nhiên, ứng với mỗi cá nhân sẽ có những dạng trí tuệ vượt trội hơn các trí tuệ còn lại. 10
  16. Ảnh chụp phiếu khảo sát google forms - Tìm hiểu về việc GV đã được làm quen và vận dụng thuyết đa trí tuệ vào DH ngữ văn thì 25% GV cho rằng họ đã bước đầu vận dụng lý thuyết này vào dạy học ngữ văn và có thành công nhất định. - Khi hỏi về mức độ quan tâm DH theo hướng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học ngữ văn và DH là dựa vào sự khác biệt về các dạng trí tuệ để sử dụng nhiều cách/con đường khác nhau giúp cho HS có cơ hội phát huy tốt nhất các dạng trí tuệ nổi trội thì có 85% GV bày tỏ rất quan tâm và quan tâm. Rất ít GV (15%) tỏ ra chưa hứng thú thay đổi phương pháp và cách DH mới hoặc còn thấy băn khoăn. GV đều đồng quan điểm Thuyết đa trí tuệ “Đáp ứng nhu cầu học tập riêng của mỗi cá nhân”. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy đa số GV nhận thức là DH theo hướng vận dụng thuyết Đa trí tuệ là tạo điều kiện cho HS được học tập theo đúng trí tuệ nổi trội của bản thân: Ảnh chụp phiếu khảo sát google forms 1.2.1.2. Qua dự giờ thăm lớp Chúng tôi đã tiến hành dự giờ 04 tiết dạy ngữ văn ở 3 khối lớp (10C, 11A1, 11
  17. 11C, 12A1) trường THPT Nguyễn Trường Tộ, Hưng Nguyên, Nghệ An. Quá trình dự giờ, chúng tôi đã ghi chép lại tiến trình của các tiết dạy. Bên cạnh những nỗ lực cải tiến bài dạy theo định hướng năng lực và áp dụng một số PP/KTDH mới đáng được ghi nhận thì nhìn chung các giờ học văn còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại. Đại đa số GV chỉ cố gắng truyền tải nội dung bài học, có đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học nhưng mang tính hình thức, định hướng phát triển năng lực và các dạng trí thông minh cho HS chưa rõ ràng ở từng hoạt động dạy học. GV chưa dành đủ thời gian thích hợp để HS suy nghĩ về vấn đề cần giải quyết. Nhiều GV còn không dám để HS tự do tranh luận vì sợ làm mất thời gian, không hoàn thành được bài dạy “cháy” giáo án. Nhiều khi HS chưa kịp bộc lộ hết ý tưởng đã bị GV thúc giục, thậm chí bác bỏ làm cho HS không được tự tin, không muốn bày tỏ hết suy nghĩ, cảm nhận của bản thân. GV chưa phân hóa nội dung bài học để phù hợp với năng lực học, phong cách học của từng nhóm đối tượng khác nhau; chưa phân hóa cách hướng dẫn, cách gợi ý, gợi mở để phù hợp với từng nhóm đối tượng. Nhìn suốt tiến trình tổ chức hoạt động học, GV chưa thể hiện mục tiêu khơi dậy và phát triển các dạng trí thông minh của người học. Nói cách khác, GV chưa thể cá thể hóa quá trình học tập, vẫn áp dụng một cách dạy chung chung cho cả tập thể lớp, nên những HS nào mạnh về trí thông minh ngôn ngữ mới tham gia tích cực, còn nhiều em học sinh cảm thấy “bị bỏ rơi” trong quá trình học tập và không tương tác. 1.2.2. Khả năng vận dụng thuyết đa trí tuệ dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) 1.2.2.1. Thuận lợi Kí là một trong những thể loại văn học gần gũi với đời sống, lối viết chân thực, giản dị, cách bộc lộ tình cảm chân thành, giàu cảm xúc, sâu lắng, mượt mà. Hai văn bản kí Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? lại vô cùng đặc sắc từ hình tượng thẩm mĩ tới nghệ thuật điêu luyện và hành văn độc đáo, đặc biệt vận dụng tri thức nhiều ngành như văn hóa, lịch sử, âm nhạc, hội họa và triết học nên có nhiều khả năng khơi dậy hứng thú và phát triển các dạng trí thông minh của HS hơn bất cứ một thể loại văn học nào. Hơn thế, đối tượng tiếp nhận tác phẩm kí là các em học sinh lớp 12, là HS cuối cấp THPT, các em đã được cung cấp khá đầy đủ những kĩ năng và tri thức cần thiết cho việc tiếp nhận văn bản văn học thể kí. Phần đông các em cũng đã tự đánh giá được các trí thông minh nổi trội của mình, ý thức được điểm mạnh trong học tập của mình thuộc lĩnh vực, hoạt động nào. Số lượng HS làm bài test trí thông minh để hướng nghiệp cũng chiếm khá nhiều. Đặc biệt, sống trong một môi trường xã hội mới, học sinh có nhiều cơ hội tiếp xúc với lối sống hiện đại nên các em rất năng động, sáng tạo, ưa khám phá, thích tìm tòi. Hệ thống mạng Internet, cơ sở vật chất, kỹ thuật số và công nghệ số ngày 12
  18. càng phát triển cho phép GV và HS có thể dễ dàng khai thác, lựa chọn, xử lí và tạo ra các tư liệu theo mục tiêu bài học cũng như thiết kế, tổ chức và thực hiện ý tưởng, chẳng hạn: dạy học dự án, dạy học mô góc, dạy học trải nghiệm,… Việc vận dụng âm nhạc, hội họa/ không gian, sơ đồ tư duy vào dạy học hay kết nối trí thức với đời sống đều trở nên dễ dàng. Giáo viên đã ít nhiều quan tâm đến thuyết đa trí tuệ, đã hiểu về vai trò của lí thuyết này với giáo dục và dạy học ngữ văn. Qua khảo sát ở trên, khi được hỏi về khả năng vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản kí Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? 90% GV (18/20 người) đều cho rằng rất có khả năng và có khả năng thành công. Ảnh chụp phiếu khảo sát google forms 1.2.2.2. Khó khăn Về phía giáo viên: Ở một số GV, cách dạy học truyền thống còn ăn sâu, khi dạy học văn bản kí còn thiên về truyền thụ tri thức văn học mà ít gắn với thực tiễn, ít tích hợp kiến thức liên môn. Vài năm gần đây, bên cạnh phương pháp thuyết trình GV đã kết hợp một số phương pháp/kĩ thuật dạy học mới như: thảo luận nhóm, kĩ thuật sơ đồ tư duy, kĩ thuật phòng tranh,… và vận dụng công nghệ thông tin vào dạy học văn bản ký tuy hiệu quả đang dừng lại ở sinh động hóa tiết dạy và tạo hứng thú cho học sinh. Còn việc phát triển toàn diện, tích cực khả năng sáng tạo và kích hoạt nhiều dạng trí thông minh học sinh như: hội họa/không gian, âm nhạc, logic, tự nhiên học… khi tiếp cận bài học thì GV chưa làm được. Thực tế, giáo viên chưa vận dụng thuyết Đa trí tuệ vào hoạt động dạy học văn bản và dạy học hai văn bản kí nói riêng, do tâm lí ngại thay đổi, sợ mất thời gian và thiếu mạnh dạn, tự tin. Đặc biệt, trong quá trình triển khai thiết kế bài dạy ứng dụng công nghệ số, giáo viên còn gặp khó khăn. Bởi hạn chế các kĩ năng như soạn thảo văn bản, PowerPoint, Internet, nhiều giáo viên còn nhận thức mơ hồ 13
  19. hoặc lạm dụng công nghệ thông tin, lúng túng khi sử dụng máy tính và các phần mềm, chưa biết khai thác công nghệ số để hỗ trợ đắc lực vào việc tìm kiếm tài liệu và tổ chức hoạt động dạy học. Về phía học sinh: Thói quen học thụ động vẫn còn khá phổ biến. Đa số các em không quan tâm đến hoạt động tự tìm đến tri thức mà quen nghe, chép và ghi nhớ, tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì mà giáo viên đã giảng hoặc tài liệu soạn sẵn trên internet. Cùng với lối học hành chỉ để đáp ứng yêu cầu thi cử, đã và đang làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến người học thành quen suy nghĩ, diễn đạt bằng ý vay mượn, lời sẵn có và thành người nô lệ của sách vở. Ở nhiều học sinh, khi GV áp dụng phương pháp mới, giao nhiệm vụ học tập làm việc nhóm hoặc tự học thì không tự giác, ỷ lại vào bạn khác, không hợp tác. Tình trạng lười học văn trở nên đáng lo ngại, nếu kéo dài, không chỉ ảnh hưởng tới mục tiêu lớn đào tạo con người phát triển năng lực toàn diện mà cũng làm giảm động lực dạy học ở người thầy. Thực trạng này gây cản trở việc tổ chức một giờ dạy học văn hiệu quả nói chung và văn bản kí Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) nói riêng. Một số lớp học sinh dù cuối cấp THPT nhưng vẫn chưa xác định được trí thông minh nổi trội của mình. Các em chưa từng làm bài test trí thông minh đa dạng hoặc chỉ được đánh giá năng lực theo khuôn chung là trí tuệ logic (IQ) cùng trí tuệ ngôn ngữ (EQ), chưa biết thế mạnh, sở trường của mình nên thiếu tự tin và mạnh dạn khẳng định mình trong học tập. Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng dạy học ngữ văn ở trường THPT hiện nay, tuy còn khá nhiều tồn tại ở GV và HS trong giờ DH ngữ văn nhưng chúng tôi nhận ra GV đã và đang quan tâm tìm hiểu học thuyết đa trí tuệ để vận dụng vào dạy học, nhận ra ưu điểm của con đường dạy học này và đã thử áp dụng ở một số nội dung học. Đa số GV thấy tính khả thi khi dạy văn bản kí hiện đại theo hướng phát triển đa trí tuệ. Tuy nhiên, rất cần một nền tảng lí luận dạy học khoa học, tiên tiến và hiệu quả làm định hướng để những đổi mới trên thực sự hiệu quả. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào các khâu của quá trình dạy học là một hoạt động thiết thực và hiệu quả trong bối cảnh đổi mới giáo dục trên. 2. Vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Ngữ văn 12 2.1. Đề xuất quy trình vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học ngữ văn và hai văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) Bước 1: Phát hiện các dạng trí tuệ của học sinh * Tiến hành khảo sát: 14
  20. DH theo hướng vận dụng thuyết Đa trí tuệ dựa trên sự khác biệt về biểu hiện các dạng trí tuệ nổi trội của mỗi HS. Vì thế, việc xác định được các dạng trí tuệ của HS là khâu đầu tiên của việc DH theo hướng vận dụng thuyết Đa trí tuệ, có ảnh hưởng rất lớn đến HĐ thiết kế kế hoạch, tổ chức, kiểm tra, đánh giá quá trình DH về sau. Cách tốt nhất để đánh giá các trí tuệ là thông qua thực tế đánh giá thành tích trong nhiều dạng HĐ, thực hiện nhiệm vụ học tập, kiểm nghiệm liên kết với từng dạng trí tuệ. Có rất nhiều công cụ, phương tiện đo lường các dạng trí tuệ của HS trong lớp học. Trong điều kiện DH ở trường THPT hiện nay, GV có thể sử dụng các phương pháp thu nhận thông tin như: bộ công cụ để test về các dạng trí tuệ, quan sát, phỏng vấn, thiết kế bảng hỏi, nghiên cứu hồ sơ… để xác định các dạng trí tuệ nổi trội của HS. Cụ thể: - Sử dụng phiếu trắc nghiệm: Có rất nhiều bộ công cụ trắc nghiệm trí thông minh và trong thực tế, chẳng có một bộ “trắc nghiệm” nào xác định chính xác dùng để đo lường các dạng trí tuệ mà mỗi HS biểu hiện. GV có thể tham khảo từ Trung tâm phát triển năng khiếu trẻ em và từ các chuyên gia về giáo dục. Hiện nay có thể sử dụng bộ công cụ test của Thomas Armstrong để kiểm tra các dạng trí tuệ của HS. GV có thể sử dụng google form với những lớp khá công nghệ và có đủ phương tiện kĩ thuật số học tập. Còn với những lớp khác, GV in ra văn bản giấy và tiến hành khảo sát. Chúng tôi đã sử dụng bộ công cụ test dưới đây để khảo sát trí tuệ đầu vào HS khối 12. Với những lớp học phương tiện kĩ thuật số hạn chế chúng tôi dùng mẫu in (Phụ lục 01). Với lớp học thiết bị học tập và Internet đầy đủ khảo sát qua link kết nối: http://www.literacynet.org/mi/assessment/findyourstrengths.html. Nội dung bộ trắc nghiệm trên gồm 80 tình huống diễn tả về đặc trưng của 8 dạng trí tuệ: trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ logic/toán, trí tuệ không gian, trí tuệ giao tiếp, trí tuệ nội tâm, trí tuệ âm nhạc và trí tuệ tự nhiên học (mỗi dạng trí tuệ gồm 10 tình huống), sử dụng để thu thập thông tin và phát hiện thiên hướng phát triển các dạng trí tuệ của HS. Mỗi tình huống được đánh dấu tính 1 điểm. Điểm tối đa cho mỗi dạng trí tuệ là 10 điểm. - Phương pháp quan sát: Ta có thể đánh giá tốt nhất các dạng trí tuệ của mỗi HS bằng cách quan sát kĩ cách mà các em vận dụng hệ thống biểu tượng của mỗi dạng trí tuệ. Với HS có năng lực ngữ văn và trí tuệ ngôn ngữ phát triển thường hay đọc sách, viết lách tốt hơn HS trung bình cùng lứa tuổi, kể chuyện lưu loát; HS có trí tuệ giao tiếp sẽ hào hứng với trò chuyện hoặc các trò chơi tập thể, thích bày tỏ chính kiến và quan điểm cá nhân trước lớp; HS có trí tuệ nội tâm thường biểu lộ ý thức độc lập hoặc cá tính mạnh. GV hãy sử dụng sổ theo dõi để ghi lại các vấn đề mình quan sát được. Với 12A2 trường THPT Nguyễn Trường Tộ là một tập thể lớp thiên hướng học các môn tự nhiên với lối tư duy logic, tuy nhiên theo quan sát GV phát hiện những em Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn Thị Thảo nổi trội hơn về trí tuệ ngôn ngữ và trí tuệ nội tâm, thường ít nói, nhưng 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2