Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1
lượt xem 8
download
Sáng kiến kinh nghiệm "Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1" nhằm tìm hiểu về thực trạng việc phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong các giờ học. Góp phần đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá nhân phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu họccó vai trò hết sức quan trọng. Điều này đã được ghi rõ trong “Luật Phổ cập giáo dục tiểu học”: “Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói, giáo dục tiểu học chính là những viên gạch đầu tiên xây dựng một nền móng vững chắc cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Trong xu thế hiện nay, phương pháp giáo dục tập trung vào vai trò người giáo viên (GV) sang phương pháp tập trung vào vai trò của học sinh (HS); từ hình thức dạy học truyền thốngsang hình thức dạy học bằng việc tổ chức các hoạt động nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của HS. Phương pháp dạy học mới nhằm phát huy khả năng và kiến thức của HS ở mức cao nhất, ở đó các em không bị "áp đặt" phải nghe và tiếp nhận kiến thức một cách thụ động mà các em được chủ động tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức, đinh hướngcủa GV. Qua quá trình giảng dạy học sinh (HS) lớp 1 tại trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít. Các em còn ỷ lại, muốn dựa vào những gì có sẵn, thụ động trong học tập. Để làm rõ vấn đề trên tôi đã chủ động quan sát tìm hiểu và tìm ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng nhiều học sinh chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên chưa ham học đó là: Bước vào học lớp 1, cuộc sống của trẻ có nhiều thay đổi lớn. Thứ nhất, trẻ phải làm quen với một môi trường mới, bạn bè mới, thầy cô mới và đặc biệt là những môn học mới đem lại cho các em những hiểu biết về cuộc sống. Nếu như ở mẫu giáo, chơi là hoạt động chủ đạo thì ở tiểu học, hoạt động học lại là hoạt động chủ đạo. Đây chính là thay đổi thứ hai trong đời sống của trẻ. Việc chuyển từ hoạt động chơi sang hoạt động học là một rào cản rất lớn đối với HS lớp 1. Các em thường khó tập trung trong một thời gian dài, học theo cảm hứng nên kết quả học tập còn chưa cao. Vì vậy, người giáo viên phải có biện pháp giúp trẻ có hứng thú học tập, học với niềm thích thú, say mê ở tất cả các môn học. Để làm được điều đó, người GV phải kết hợp sử dụng nhiều phương pháp dạy học (PPDH) với nhiều hình thức khác nhau để lôi cuốn, hấp dẫn trẻ vào bài học, khơi dậy ở các em lòng ham hiểu biết, tìm tòi học hỏi, tạo cho HS động cơ học tập, có nhu cầu học tập để tiếp thu những kiến thức mới. Khi có hứng thú học tập thì các em tham gia hoạt động sôi nổi, hào hứng và tích
- cực. Hứng thú với học tập là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết giúp cho việc học tập của HS mang lại hiệu quả cao, tránh được sự căng thẳng và nhàm chán. Trên thực tế, hiện nay, GV thường chú trọng tới việc dạy kiến thức, kĩ năng cho HS chứ ít quan tâm đến việc HS có thích học hay không. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tiết học trở nên nhàm chán, đơn điệu, hiệu quả chưa cao. Từ thực tế như vậy, tôi luôn băn khoăn làm thế nào để học sinh thích học, muốn tìm tòi, hứng thú khi biết được thêm kiến thức mới. Đó chính là lí do tôi tìm hiểu và nghiên cứu biện pháp “ Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1”. 2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu về thực trạng việc phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS trong các giờ học. - Góp phần đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, tăng cường hoạt động cá nhân phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế. - Góp phần gây hứng thú học tập cho HS, việc phát huy tính tích cực của HS trong giờ học không chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó. 3. Đối tượng nghiên cứu. - Học sinhkhối lớp 1 năm học 2020-2021 ở trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh. - Một số biện pháp đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lí luận - Phương pháp điều tra - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp quan sát, tọa đàm - Phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh,… 5. Phạm vi - Thời gian nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 1A4 trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2020 đến tháng 4/2021.
- PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Việc đổi mới giáo dục Tiểu học dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo dục của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng trong việc phát triển và đổi mới giáo dục Tiểu học. Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng được thể hiện trong nhiều văn bản. Theo khoản 2 điều 29 Luật giáo dục 2019 đã nêu rõ mục tiêu của Giáo dục tiểu học:" nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. Khoản 3 điều 30 Luật giáo dục 2019 đã nêu: “Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục.” Nghị quyết sổ 29-NQ/TW yêu cầu “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT&TT trong dạy và học”. Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục. Tính tích cực học tập - về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như:
- hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn… Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như: - Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn… - Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề… - Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu. Tính tích cực, chủ động học tập thể hiện ở cả hai mặt: tính chuyên cần trong hành động và tính sâu sắc trong các hoạt động trí tuệ. Cách học tích cực thể hiện trong việc tìm kiếm, xử lý thông tin và vận dụng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ học tập và thực tiễn cuộc sống, thể hiện sự tìm tòi, khám phá vấn đề mới bằng phương pháp mới, không phải là sao chép, mà là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Như vậy dạy học phát huy tính tích cực học tập của học sinh, có tác dụng mạnh mẽ và to lớn trong quá trình dạy học. Trong dạy học, tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp thu các kiến thức, kĩ năng, biến những cái đó thành kiến thức, kỹ năng của mình. Học như vậy, khiến sự hiểu biết của các em vững chắc hơn, hứng thú của các em sẽ được tăng cường hơn. Dạy học phát huy tính tích cực giúp hoạt động tư duy của học sinh được khơi dậy và phát triển, giúp hình thành và phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ. 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1. Thực trạng việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học trong nhà trường Qua thực tế giảng dạy, điều tra việc dạy và học của giáo viên và học sinh tôi nhận thấy một số thực trạng sau: 2.1.1Thuận lợi: 2.1.1.1Nhà trường: -Luôn hỗ trợ, tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho việc giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh như phòng học có đầy đủ bàn ghế, bảng, thiết bị dạy học (tivi, máy chiếu),… - Quan tâm, chỉ đạo sát sao đến việcđến việc bồi dưỡng chuyên môn đặc biệt là đổi mới phương pháp, hình thức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh bằng việc tổ chức các hội thảo, chuyên đề cấp trường, cấp huyện. Chú trọng đến nội dung các buổi Sinh hoạt chuyên môn của tổ, khối.
- 2.1.1.2 Giáo viên: - Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chuyên môn, hội thảo, chuyên đề,… - Giáo viên đã thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức cho phù hợp qua việc: + Tổ chức cho học sinh tự phát hiện kiến thức qua các hoạt động dạy học. + Đưa ra những câu hỏi vấn đáp để học sinh suy nghĩ và tìm ra đáp án mà đáp án là ý tưởng, là sự hồn nhiên theo suy nghĩ của trẻ. + Thường xuyên tổ chức cho học sinh chia sẻ trong nhóm, thực hành theo nhóm, đánh giá trong nhóm,… - Thực hiện thành thạo ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy bằng việc xây dựng bài giảng điện tử; sưu tầm tranh, ảnh; làm video, …. 2.1.1.3 Phụ huynh học sinh: - Đa số phụ huynh quan tâm tới việc học tập của con như chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết; chuẩn bị đồ dùng, vật liệu,… giúp con với từng bài học cụ thể,… - Phối hợp với nhà trường để tạo điều kiện cho HS có môi trường học tối ưu nhất. 2.1.2Khó khăn: 2.1.2.1 Giáo viên: - Ở một số giờ học, một số giáo viên chưa biết thiết kế và tổ chức kế hoạch dạy học theo hướng đổi mới phương pháp, vẫn quen dạy theo phương pháp cũ. - Ở một số tiết, giáo viên đã tổ chức hoạt động cho học sinh phát hiện các chi tiết, hình ành nhưng vẫn còn tồi tại một số vấn đề như: + Việc tổ chức hoạt động mất nhiều thời gian. + Giáo viên chưa hướng dẫn học sinh sưu tầm, chuẩn bị trước cho bài học. + Sử dụng đồ dùng chưa hợp lí, chưa khoa học do đó không phát huy được tính sáng tạo của học sinh. + Một số bài giảng điện tử chưa có chất lượng nên hiệu quả còn chưa cao. + Một số giáo viên vì trình độ ứng dụng công nghê thông tin còn hạn chế, hoặc chưa sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại nên còn lúng túng hoặc có tâm lí “e ngại” khi đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. 2.1.2.2 Học sinh: - Học sinh lớp 1 còn nhỏ nên ý thức tự giác trong việc học tập còn chưa cao. -Còn hạn chế về ngôn ngữ nên có em còn rụt rè. - Đối tượng học sinh có nhiều hoàn cảnh khác nhau, khả năng tiếp thu khác nhau. 2.2. Nguyên nhân
- - Nhận thức về sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và ý thức thực hiện đổi mới của một bộ phận giáo viên chưa cao. - Năng lực của một số giáo viên về vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cựccòn hạn chế. - Việc sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong dạy học còn chưa tối ưu. Chính vì vậy chúng ta cần có những giải pháp hay hơn để giúp học HS hứng thú trong học tập, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho HS. 3. Các biện pháp đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1 Để phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo học tập của HS đòi hỏi người GV rất nhiều điều, phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ. Ngoài ra muốn phát huy tính tích cực, tự giác học tập của HS phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức phù hợp. Vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh động não, tìm tòi, suy nghĩ làm việc, trao đổi thảo luận với bạn.Cụ thể là tôi đã sử dụng các biện pháp sau: 3.1. Biện pháp 1:Vận dụng các phương pháp dạy học truyền thống một cách hiệu quả. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của từng phương pháp trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, có thể tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học truyền thống là cách dạy học được truyền từ lâu đời qua nhiều thế hệ. Về cơ bản thì có thể hiểu, phương pháp này lấy trung tâm là giáo viên. Giáo viên sẽ là người thuyết trình, diễn giải kho tàng tri thức còn học sinh sẽ là lắng nghe, ghi chép và học thuộc.
- Trong các phương pháp dạy học truyền thống,giáo viên chính là tâm điểm còn học sinh là khách thể, là quỹ đạo xung quanh.Phương pháp dạy học này đã được tiến hành lâu đời và vẫn mang đến những hiệu quả tích cực. Tuy nhiên khi giảng dạy bằng phương pháp dạy học truyền thống cũng sẽ tồn đọng những nhược điểm như học sinh sẽ tiếp thu kiến thức theo cách thụ động, giờ học sẽ diễn ra trong sự buồn tẻ và thiên về các kiến thức lý thuyết. Học sinh sẽ ít có điều kiện được thực hành, chủ động tìm tòi nên rất khó nhớ lâu và áp dụng được trong thực tế. 3.1.1. Phương pháp thuyết trình Phương pháp thuyết trình là phương pháp dạy học mà phương tiện cơ bản dùng để thực hiện là lời nói sinh động của giáo viên. Phương pháp thuyết trình được sử dụng chủ yếu để trình bày kiến thức mới, sử dụng trong việc làm mẫu hoặc hệ thống hoá kiến thức trong ôn tập chương, phần. Phương pháp thuyết trình có ưu điểm là trong thời gian ngắn, GV có thể trình bày một khối lượng lớn các nội dung, chủ động được về thời gian và kế hoạch toàn lớp. Nếu trong thuyết trình GV lập luận gọn gàng, chặt chẽ, diễn đạt có hệ thống thì HS có thể học tập và rèn luyện các mặt đó. Tuy nhiên, phương pháp thuyết trình có những mặt hạn chế như: HS phải tiếp thu kiến thức một cách thụ động vì chỉ dùng lời nói.Nếu lời nói đơn điệu, HS dễ bị mệt. Chỉ đòi hỏi một quá trình nhận thức thụ động ở HS nên không giúp trò phát triển ngôn ngữ nói vì HS chỉ nghe . Chính vì vậy, ở bậc Tiểu học GV nên hạn chế sử dụng phương pháp này. Khi cần thiết, cũng chỉ nên sử dụng với mức độ vừa phải : nhịp điệu chậm, phần tài liệu thuyết trình ngắn và chiếm khoảng thời gian ngắn nhất trong một tiết học. Ví dụ, khi dạy các tiết tập đọc, trước khi vào bài GV có thể sử dụng phương pháp thuyết trình để giới thiệu, dẫn dắt. Với tiết tập đọc:Anh hùng biển cả- sách Cánh Diều, để giới thiệu bài, trước hết tôi hỏi HS những hiểu biết của bản thân về cá heo. HS trả lời theo hiểu biết của bản thân. Sau đó, GV giới thiệu: cá heo là một trong số các loài động vật thông minh và thân thiện. Cá heo là loài động vật có vú, sinh con và nuôi con bằng sữa. Cá heo có khả năng hiểu được ngôn ngữ, hành vi đơn giản của con người,… Khi thuyết trình, GV có thể sử dụng tranh, ảnh minh họa hoặc video để học sinh hứng thú và chú ý hơn. Ngoài ra GV còn có thể sử dụng phương pháp này ở để giúp HS hiểu được nghĩa của một số từ ngữ trong phần luyện đọc từ ngữ. Khi dạy tiếtTự nhiên và xã hội - sách Cánh diều - bài An toàn trên đườngsau khi HS chỉ ra được một số biển báo và đèn tín hiệu giao thông trong hình, GV có thể sử dụng phương pháp thuyết trình để giới thiệu thêm, cung cấp thêm cho HS về một số loại biển báo giao thông khác có kèm hình ảnh. Việc này sẽ giúp HS có thêm hiểu biết, hiểu hơn về các loại biển báo giao thông. 3.1.2. Phương pháp giảng giải - minh hoạ
- Phương pháp giảng giải minh hoạ là phương pháp dùng lời nói để giải thích tài liệu, kiến thức có sẵn, kết hợp với việc dùng các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích từ đó giúp HS hiểu nội dung bài học. Phương pháp này kết hợp được giữa cái cụ thể và cái trừu tượng nên có ưu thế hơn phương pháp thuyết trình trong việc gây hứng thú học tập, trong việc giúp HS hiểu, nhớ kiến thức. Trong dạy học, khi sử dụng phương pháp này GV cần lưu ý rằng càng ở lớp dưới thì thành phần minh hoạ càng phải chiếm tỉ trọng lớn hơn. Tuy nhiên phương pháp này cũng vẫn chỉ nhằm thông báo những kiến thức có sẵn cho HS. Vì vậy, HS vẫn bị đặt trong tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực nhận thức của các em. Ví dụ đối với tiết Toán - sách Cánh Diều - bài Làm quen với phép cộng, dấu cộngđể hình thành kiến thức về phép cộng, GV đưa ra tình huống có thao tác gộp 3 que tính ở tay phải với 2 que tính ở tay trái. Gộp lại cả hai tay và yêu cầu HS đếm xem có tất cả bao nhiêu que tính. Sau đó giáo viên dùng các chấm tròn để diễn tả các thao tác vừa thực hiện trên que tính rồi giới thiệu phép cộng (với nghĩa gộp), và dấu cộng (+). Ở tiết 2 của bài, GV sẽ sử dụng que tính và thao tác: lấy ra 4 que tính, lấy thêm 1 que tính. Đếm xem có tất cả bao nhiêu que tính? GV dùng chấm tròn để diễn tả các thao tác trên que tính rồi giới thiệu phép cộng (với nghĩa thêm). Từ việc giảng giải và minh họa trên, HS sẽ nhận biết được ý nghĩa của phép cộng với nghĩa gộp lại và nghĩa thêm. Hình thành cho HS khái quát ban đầu về phép cộng, giúp HS nắm chắc bản chất của phép cộng, ghi nhớ kiến thức. Trong các tiết thực hành, luyện tập, ôn tập, phương pháp này thường được dùng khi phát hiện các vấn đề mà dùng các phương pháp dạy học khác không hiệu quả. Khi học sinh không hiểu rõ các kiến thức hoặc hiểu chưa đầy đủ thì giáo viên nên sử dụng phương pháp này. 3.1.3. Phương pháp gợi mở vấn đáp Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học mà GV không trực tiếp đưa ra những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn HS tư duy từng bước một để các em tự tìm ra kiến thức mới phải học. Phương pháp vấn đáp là phương pháp đưa ra những câu hỏi thích hợp cho HS trả lời để dần dần đi đến kết luận cần thiết. Thường người ta sử dụng phương pháp vấn đáp để tiến hành gợi mở. Phương pháp gợi mở vấn đáp tương đối thích hợp trong dạy học ở tiểu học. Nó làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động; kích thích hứng thú học tập và lòng tự tin của HS; rèn luyện cho các em năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình bằng ngônngữ; làm cho các em thu nhận kiến thức được nhanh chóng, chắc chắn. Khi dạy tiết Toán - sách Cánh Diều - bài: Phép trừ trong phạm vi 6 (tiếp theo)dựa vào phương tiện trực quan (Các tấm thẻ phép tính) qua thao tác tìm ra được kết quả của các phép tính, GV phối hợp thao tác cùng HS xếp các thẻ thành một bảng cộng. 1 + 1 = 2; 2 + 1 = 3, vậy làm thế nào để biết được phép
- tính tiếp theo? (HS nói lấy 1 số cộng với 1) tương tự như vậy GV tiếp tục gợi mở để giúp HS hoàn thành được bảng cộng trong phạm vi 6. Sau khi hoàn thành, GV sử dụng các câu hỏi để giúp HS nhận ra đặc điểm của các phép cộng ở từng dòng hoặc từng cột. Từ đó có thể nhớ Bảng cộng nhanh hơn. 3.2. Biện pháp 2:Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh. Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm và dạy học cá thể là những hình thức của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá “bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hoá “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học tích cực khác. Ví dụ: Ở tiết học vần- môn Tiếng Việt - sách Cánh Diềukhi dạy các bài dạy vần ngoài việc sử dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề để cá nhân HS tự phát hiện ra được vần mới có trong bài ở phần làm quen, trong hoạt động Mở rộng vốn từ GV có thể sử dụng kết hợp các hình thức làm việc nhóm và trò chơi để HS được chia sẻ ý kiến của bản thân với các bạn. - Khi chia nhóm, có thể chia nhóm theo nhiều hình thức: + Nhóm cố định: Học sinh sẽ quay lại với bàn dưới tạo thành một nhóm. + Chia nhóm theo ngẫu nhiên: Điểm số theo thứ tự, khi thực hiện học sinh sẽ có cơ hội học hỏi, giao lưu với các bạn trong lớp. + Chia nhóm với từng năng lực của học sinh: Chia nhóm theo từng đối tượng, trình độ, nhận thức của các em. + Chia nhóm theo sở thích: Những em có chung sở thích sẽ tự động tạo thành một nhóm. + Chia nhóm theo tháng sinh: Các em cùng tháng sinh sẽ tạo thành một nhóm.
- + Mỗi một lần hoạt động nhóm tôi sẽ cho thay đổi nhóm trưởng và thư ký, như vậy tất cả các em sẽ được tham gia. Ngoài ra có thể kết hợp PPDH theo lối kiến tạo: Dạy học theo quan điểm của thuyết kiến tạo nghĩa là GV hướng dẫn để HS tự khám phá ra tri thức, thực hiện những nhiệm vụ học tập, từ đó kiến tạo tri thức cho bản thân. Vì vậy, các kiểu dạy học như: dạy học khám phá, dạy học họp tác, dạy học giải quyết vấn đề,... đều được coi là các PPDH vận dụng quan điểm của lí thuyết kiến tạo. Trong dạy học, HS được khuyến khích sử dụng các phương pháp riêng của họ để kiến tạo tri thức chứ không phải chấp nhận lối tư duy của người khác. Như vậy, tri thức được kiến tạo một cách tích cực bởi chủ thể nhận thức chứ không phải được tiếp nhận một cách thụ động từ môi trường bên ngoài. Trong môi trường học tập kiến tạo, HS được học nhiều hơn khi thực sự được cuốn hút vào việc học, thay vì chỉ lắng nghe thụ động. Thuyết kiến tạo coi trọng vai trò chủ động và tích cực của HS trong quá trình học tập để tạo nên tri thức cho bản thân, đặc biệt tư duy của HS dần trở nên trừu tượng và phát triển hơn, HS được thúc đẩy để hoạt động trong tiến trình học tập. Vai trò trung tâm của quá trình dạy học được chuyển từ GV sang HS, GV đóng vai trò là người cố vấn, dàn xếp, nhắc nhở và giúp HS phát triển, đánh giá những hiểu biết và việc học của mình. Ví dụ, khi dạy tiết Tự nhiên và xã hội- Sách Cánh Diều - bài Cây xanh quanh em hoạt động:Tìm hiểu một số bộ phận bên ngoài của cây. GV có thể chonhóm HS thảo luận và vẽ một cái cây hoàn chỉnh. HS trình bày: + Nhóm em đã vẽ cây gì? + Cây đó có những bộ phận nào? + Tại sao nhóm em lại vẽ cây đó như thế? + Tại sao nhóm em nghĩ cây đó lại có bộ rễ trông như vậy? HS quan sát theo nhóm cây xoài và cây cỏ mà bộ rễ đã được che kín và trả lời các câu hỏi sau: Đoán xem bộ rễ của từng cây trông như thế nào? Tại sao nhóm em lại nghĩ vậy? Trình bày dự đoán. HS thực hành quan sát rễ cây và trả lời các câu hỏi liên quan trong phiếu. Nhóm HS trình bày kết quả thực hành. HS trả lời các câu hỏi được các bạn đặt ra. HS trả lời những câu hỏi của GV. Khả năng trình bày, phân tích của HS được phát triển. HS tự tin, mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến của bản thân. Dạy học theo mô hình trên đã chứa đựng sự thay đổi quan điểm là dạy học phải luôn chú ý tới những tri thức và kĩ năng đã có của HS, đó là một trong những tiền đề để tổ chức dạy học những kiến thức mới. Việc kết hợp đa dạng nhiều phương pháp dạy học sẽ mang lại hiệu quả cao trong các tiết học. HS vừa nắm được kiến thức của bài, vừa có hứng thú với bài học, yêu thích môn học, vừa phát huy được tính tích cực và sáng tạo. 3.3. Biện pháp 3: Dạy học thông qua hoạt động trải nghiệm
- Học qua trải nghiệm là một quá trình học diễn ra một cách tự nhiên trong mỗi người. Học qua trải nghiệm là quá trình học thông qua việc xem xét, phân tích những sự việc mỗi người đã trải qua, đã chứng kiến, đã nghe thấy, đã đọc được, hoặc xem được, để tự rút ra kinh nghiệm, bài học cho chính mình và áp dụng các bài học đó để ứng xử hợp lí, hiệu quả hơn, góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo và khả năng thích ứng với cuộc sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai. Ví dụ: Khi dạy bài “Em tự giác làm việc của mình” ở môn Đạo đức - Sách Cánh Diều - GV cho HS trải nghiệm với tình huống giả định tại lớp học: sắp xếp sách vở, đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp; tự gấp chăn; vệ sinh lớp học,….hướng dẫn HS các thao tác phù hợp, nhanh gọn. Sau đó hỏi: + Em cảm thấy thế nào khi tự giác làm việc của mình? + Em nên làm những việc nào? + Vì sao nên tự giác làm việc của mình? Sau khi rút ra các việc cần làmHS sẽ rèn được các kĩ năng,đưa kiến thứcvào trong những tình huống thực của cuộc sống. Đối với môn Tự nhiên và xã hội - Sách Cánh diều - bài: Giữ an toàn cho cơ thể ở hoạt động Thực hành bảo vệ sự an toàn cho bản thân, sau khi tìm hiểu 3 bước giữ an toàn cho bản thân GV có thể cho HS thực hành đóng vai xử lí tình huống như: Trên đường về bị người lạ rủ rê, lôi kéo, có những hành vi gây hại cho bản thân; Nhìn thấy người lạ đang cố bắt cóc, làm hại bản thân hay bạn bè,… Phương pháp dạy học này được thể hiện rõ nhất qua môn Hoạt động trải nghiệm - Sách Cánh Diều. Ở bài Ngày Tết quê em: Hoạt động Tìm hiểu về ngày Tết quê em:các nhóm chia sẻ, thảo luận với nhau trong nhóm kể cho bạn nghe những hiểu biết của mình về ngày Tết, giới thiệu với bạn những loại bánh, kẹo, loại quả, loại cây, hoa (chuẩn bị sẵn vật thật, tranh ảnh). HS mạnh dạn, tự tin giới thiệu về các đồ vật mình đã chuẩn bị. Các nhóm hoạt động sôi nổi, hào hứng. Hoạt động Tập trang trí cho ngày TếtHS sẽ sử dụng các vậy đã chuẩn bị sẵn ở hoạt động trước sau đó trải nghiệm làm một số hoạt động thường có trong ngày Tết như: + Nhóm 1: Bày mâm ngũ quả: HS sử dụng các loại quả đã chuẩn bị, cùng nhau lựa chọn và sắp xếp để bày được mâm ngũ quảđẹp. + Nhóm 2: Bày khay bánh kẹo: nhóm sẽ chia nhau bày các loại bánh kẹo vào khay để tiếp khách vào dịp Tết. + Nhóm 3:Trang trí cây đào: HS sử dụng hoa đào (giấy, vải) đã chuẩn bị sẵn, sau đó gắn lên cành đào rồi tiếp tục trang trí bằng dây kim tuyến, móc treo, …
- + Nhóm 4: Viết câu đối, thiệp lời chúc: HS sẽ chọn tự tay viết câu: Chúc mừng năm mới – Vạn sự như ý bằng bút lông lên giấy đỏ. Trang trí và viết lời chúc Tết vào thiệp. Qua bài học, khi được trải nghiệm HS vô cùng hào hứng, sôi nổi, tự tin mạnh dạn xây dựng bài và ghi nhớ kiến thức một cách hiệu quả. Học qua trải nghiệm là một cách học có hiệu quả và lí thú, giúp cho người học hưng phấn và cảm thấy quá trình học tập nhẹ nhàng. Trong dạy học thông qua hoạt động trải nghiệm, GV là người điều hành, dẫn dắt HS qua các hoạt động học tập theo các bước của chu trinh học qua trải nghiệm để các em biến các trải nghiệm thành kinh nghiệm hữu ích cho bản thân sau mỗi tiết học và trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên để có những tiết học đạt được hiệu quả cao cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng của GV, người GV biết thiết kế các hoạt động dạy học, tổ chức các hoạt động linh hoạt, phù hợp. Ngoài ra cần có sự chuẩn bị của HS, phối hợp của phụ huynh HS. 3.4. Biện pháp 4. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường tiểu học từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Tôi luôn tìm tòi và học hỏi để sử dụng công nghệ thông tin vào bài học để gây hứng thú học tập cho HS. Thứ nhất, ở các môn học tôi thường sử dụng bài giảng điện tử, sách điện tử, những video, hình ảnh thật, tiếng động, âm nhạc để minh họa các nội dụng có liên quan đến bài mà các em khó quan sát đến thực tế. Phân môn tập viết: để HS có thể quan sát rõ cách viết các con chữ, nét nối GV có thể sử dụng các video viết chữ ở Sách giáo khoa điện tử. Phân môn kể chuyện: sử dụng các video kể chuyện có hình làm tăng sự chú ý, hứng thú và nhớ lâu ở học sinh.Môn Tự nhiên và xã hội - sách Cánh Diều - bài: Cơ thể em, bài: Giữ an toàn cho cơ thể, GV sử dụng video để học sinh nhận biết được vùng riêng tư của con trai và con gái; nhấn mạnh hơn cho HS việc bảo vệ vùng riêng tư của cơ thể, hay thực hành bảo vệ sự an toàn cho bản thân. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning), sử dụng các trang web tổ chức cho HS ôn luyện kiểm tranhư olm, vioedu,…
- Thứ hai, việc sử dụng đồ dùng trực quan cũng rất cần thiết để nâng cao tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. HS lớp 1, năm đầu tiên trẻ mới tới trường nên còn nhiều bỡ ngỡ. Đặc biệt tư duy của trẻ lớp 1 là tư duy trực quan cụ thể, đó là kiểu tư duy được hình thành trong quá trình vui chơi. Ở tuổi này các em rất dễ xúc cảm, thích cái đẹp, cái mới lạ vì vậy đồ dùng trực quan sinh động góp phần trong việc hình thành kiến thức và giáo dục. Ở môn Toán, khi dạy bài: “ Các số 1, 2, 3” GV cùng trò cần có các nhóm có 1, 2, 3 đồ vật cùng loại. Chẳng hạn: 3 bông hoa, 3 hình vuông, 3 con bướm, 3 hình tròn, … (trong bộ đồ dùng) Giáo viên cần giới thiệu từng số 1( 2, 3) Giáo viên hướng dẫn học sinh lấy và quan sát các nhóm chỉ có một phần tử(từ cụ thể đến trừu tượng, khái quát), chẳng hạn: thẻ có một con chim, thẻ vẽ một chấm tròn, một que tính, 1 hình tam giác, ... Mỗi lần cho học sinh quan sát một nhóm đồ vật, học sinh nêu, chẳng hạn: học sinh chỉ vào bức tranh và nói: “ Có một con chim, có một chấm tròn, có một hình tam giác, ...” Ở bài: Phép cộng, trừ trong phạm vi 6, phạm vi 10 (tiếp theo). Để hình thành được bảng trừ, bảng cộng trong phạm vi 6, phạm vi 10 GV sẽ chuẩn bị các thẻ phép tính, chia học sinh thành các nhóm và điền kết quả của phép tính. Sau đó lần lượt HS sẽ gắn (xếp) các phép tính theo quy luật nhất định để dần hình thành được bảng cộng, bảng trừ. Hay ở bài: Khối hộp chữ nhật, khối lập phương. HS sẽ sử dụng các khối hình để xếp thành các hình yêu thích. GV khuyến khích HS suy nghĩ và xếp nhiều hình, HS được thỏa sức sáng tạo. Thứ ba,sử dụng trò chơi học tập là hoạt động tạo hứng thú, duy trì tốt hơn sự chú ý của các em vào bài học, giảm tính chất căng thẳng của giờ học. Trong thực tế tôi sử dụng trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Vì thế tôi luôn tìm tòi những trò chơi để các em vừa có thể học vừa chơi lại đem lại hiệu quả trong học tập. Khi sử dụng trò chơi học tập, mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học và mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây hứng thú giữa học sinh và cá nhân. Tôi thường tổ chức các trò chơi sau: Giải toán nhanh, đố vui, bắn tên, truyền điện gà đẻ trứng, ong tìm hoa, thi điền nhanh đúng kết quả giữa cá nhân, nhóm, tổ...sau khi chơi sẽ có đội thắng cuộc, giáo viên nhận xét- tuyên dương. Khi tổ chức các trò chơi phải luân phiên, thay đổi một cách hợp lí, không sẽ gây nhàm chán cho học sinh. Trong tiết học vần khi học về các dấu thanh, tôi chọn trò chơi “Dấu thanh” để giúp HS có thể phân biệt các dấu một cách chính xác. Ví dụ: Quy định dấu huyền HS giơ tay phải (như đang chào cờ); Dấu sắc HS giơ tay bên
- trái; Dấu hỏi HS dùng tay phải giơ móc giống như cách viết dấu hỏi; Dấu ngã dùng 2 bàn tay úp ngược vào nhau; Các dấu thanh đó HS sẽ giơ tay lên cao biểu thị khi viết chúng sẽ nằm trên đầu của chữ cái. Còn dấu nặng HS sẽ nắm 2 nay lại và để ở dưới. Trò chơi vừa tạo cho HS hứng thú, yêu thích học Tiếng Việt, vừa củng cố kiến thức về các dấu thanh và cách viết dấu thanh. Khi dạy tiết học vần bài30: u – ư phần mở rộng vốn từ, thay vì cho HS chia sẻ trong nhóm, tôi đã sử dụng trò chơi “Ai nhanh ai đúng” bằng cách dùng các cánh hoa có ghi các từ ngữ của phần mở rộng vốn từ, 2 nhị hoa ghi u, ư. HS sẽ suy nghĩ và sắp xếp những cánh hoa vào nhị hoa cho phù hợp. Hoặc có thể sử dụng trò chơi trong các bài tìm tiếng chứa vần bằng trò chơi:Đoàn tàu. Đối với môn Toán: GV có thể sử dụng các trò chơi tìm kết quả thích hợp bằng cách sử dụng 2 mảnh ghép ghép lại thành chiếc bút chì để được phép tính đúng, hay trò chơi Cánh diều ước mơ, khi trả lời được đúng kết quả của phép tính cánh diều sẽ được bay lên bầu trời. Việc sử dụng đồ dùng trực quan, hình minh họa hay trò chơi để dạy học gây hứng thú, “xóa tan” những nhàm chán, nặng nề của tiết học. Tuy nhiên cần cân nhắc kĩ lưỡng. Cần phải căn cứ vào đối tượng học sinh cụ thể để lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học sao cho có thể hỗ trợ học sinh đạt được các mục tiêu cơ bản của bài học. Đối với các hình minh hoạ và đồ dùng dạy học ở lớp Một, giáo viên cũng phải sử dụng đúng mức, không được coi nhẹ nhưng cũng phải tránh “ lạm dụng”. Vì vậy giáo viên nên tìm hiểu kĩ, cân nhắc sử dụng hình minh hoạ, các đồ dùng dạy học ở mỗi dạng bài, ở mỗi giai đoạn học tập. 4. Kết quả Sau khi sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trên, tôi nhận thấy: học sinh học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo. Đặc biệt còn giúp phong trào thi đua học tập của lớp trở nên sôi nổi hơn.Trong lớp nhiều em rụt rè đã hăng hái phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, học sinh hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh, các em thích được đến trường, thích học hỏi, từ đó cũng phát huy được năng lực, khả năng sư phạm của người giáo viên.
- PHẦN III. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Khi đổi mới các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, tiết dạy của mỗi giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của người thầy được đề cao hơn. Bên cạnh đó, khả năng chuyên môn của người thầy sẽ tăng lên nhờ sự linh hoạt, kết hợp giữa các phương pháp, hình thức. Khi giáo viên biết đổi mới phương pháp, hình thứctổ chức dạy học, học sinh sẽ được học chứ không bị học. Học sinh được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ giáo viên mà còn từ chính các bạn trong lớp. Học sinh sẽ hạnh phúc khi được học, được sáng tạo, được thể hiện, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà học sinh ghi nhớ sâu kiến thức và tăng khả năng áp dụng vào thực tế lên gấp 3-4 lần so với cách học thụ động một chiều. Thể hiện cụ thể qua bảng: TS Cuối Giữa học kì II HS Nội kì I dung Tốt Đạt Tốt Đạt đánh SL TL SL TL SL TL SL TL giá Nănglự - Tự chủ và tự 17 41,5 24 58,5 31 75,6 10 24,4 c chung học - Giao tiếp và 15 36,6 26 63,4 25 61 16 39 hợp tác - Giải quyết 12 29,3 29 70,7 20 48,8 21 51,2 vấn đề và 41 sáng tạo Năng - Ngôn ngữ 17 41,5 24 58,5 23 56 18 44 lực đặc - Tính toán 19 46,3 22 53,7 26 63,4 15 36,6 thù - Khoa học 15 36,6 26 63,4 24 58,5 17 41,5 - Thẩm mĩ 14 34,1 27 65,9 20 48,8 21 51,2 - Thể chất 16 39 25 61 20 48,8 21 51,2 2. Khuyến nghị - Nhà trường thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học. Tăng cường tổ chức giao lưu học hỏi giữa các giáo viên trong trường và trường bạn. Tổ khối quan tâm bồi dưỡng hơn đối với giáo viên. - Đối với giáo viên: Phải gần gũi, yêu thương học sinh, khuyến khích tinh thần học hỏi của các em một cách kịp thời, tạo cơ hội cho học sinh học hỏi, tự
- tìm tòi tri thức. Phối hợp với cha mẹ học sinh để giúp các em cởi mở, tích cgur động hơn trong học tập. - Đối với cha mẹ học sinh: Cần quan tâm hơn nữa đến việc học tập của con em mình. Kết hợp với nhà trường và giáo viên chủ nhiệm để cùng giáo dục con em, nâng cao chất lượng giáo dục. Trên đây là biện pháp “ Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1”bản thân tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy. Tôi rất mong được sự góp ý từ quý đồng nghiệp và cấp lãnh đạo để tôi có phương pháp giảng dạy tốt hơn, nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy cho giáo viên. Tôi xin trân trọng cảm ơn ! Thanh trì, ngày tháng năm 2021 Tôi xin cam đoan nội dung SKKN của bản thân, không sao chép của người khác. Nếu vi phạm tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Người viết XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG Chử Thị Phương Thảo
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2237 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn