intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy học Luyện từ và câu nhằm bồi dưỡng tư duy cho hoc sinh lớp 4

Chia sẻ: Lê Thị Quỳnh Nga | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:39

334
lượt xem
70
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy học Luyện từ và câu nhằm bồi dưỡng tư duy cho hoc sinh lớp 4 được nghiên cứu với mục đích làm rõ tầm quan trọng của việc bồi dưỡng tư duy cho học sinh Tiểu học, đề xuất một số biện pháp nhằm bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4 thông qua môn Luyện từ và câu. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy học Luyện từ và câu nhằm bồi dưỡng tư duy cho hoc sinh lớp 4

  1. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài
  2. Năng lực tư duy là điều kiện cần và đủ để khám phá và lĩnh hội tri thức.   Ngày nay, khi nền kinh tế tri thức tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển của  lực lượng sản xuất thì việc rèn luyện tư  duy của mỗi người lại càng hết sức  cần thiết. Trong nền kinh tế   ấy, tri thức trở  thành quyền lực, trở  thành chìa  khoá mở  cửa tương lai. Không có những năng lực, phẩm chất của tư  duy, con  người không có khả  năng nắm bắt tri thức, lĩnh hội tri thức và cũng không có  khả năng vận dụng tri thức. Làm thế nào để phát triển tư duy cho người học một cách hiệu quả? Đó  là câu hỏi đặt ra không chỉ cho ngành Giáo dục mà cho toàn xã hội. Trong thực tế, phát triển tư duy cho người học là mục tiêu quan trọng của  các chương trình dạy học. Để  đạt được mục tiêu đó, chương trình thường cấu  trúc theo hướng đồng tâm và phát triển; Phương pháp dạy học hướng vào người  học nhằm tôn trọng lợi ích, quyền lợi, sáng tạo cá nhân của họ. Nhờ đó, tư duy   của người học sẽ được hình thành và phát triển trong môi trường, điều kiện tốt  nhất. “Ngôn ngữ  là hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (Mác). Ngôn ngữ  và tư  duy luôn có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ. Thực tế cho thấy trẻ em có kỹ  năng giao tiếp bằng ngôn ngữ thì những năng lực, phẩm chất tư duy của các em  cũng được thể  hiện rõ. Ngược lại, trẻ  em không có ngôn ngữ  hoặc khả  năng   ngôn ngữ kém thì năng lực tư duy cũng hạn chế. Tuy vậy, cần nhận thức rằng,   ngôn ngữ và tư duy thống nhất chứ không đồng nhất. Mối quan hệ  biện chứng giữa ngôn ngữ  và tư  duy cho thấy môn Tiếng  Việt có nhiều lợi thế  trong việc rèn luyện và phát triển tư  duy cho học sinh.   Chính vì vậy, mục tiêu cơ  bản của việc dạy học Tiếng Việt là hình thành và  phát triển năng lực sử  dụng ngôn ngữ  trong giao tiếp cho học sinh. Điều đó  cũng có nghĩa là hình thành và phát triển điều kiện cần thiết, quan trọng để phát   triển tư duy.
  3. Mặt khác, Tiểu học là cấp học đầu tiên đặt cơ sở cho việc hình thành và  phát triển nhân cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông và các cấp  học trên. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, đòi hỏi học sinh cần phải   có khả năng tư duy cần thiết. Nhằm giúp học sinh có khả năng tư duy, môn Tiếng Việt ở Tiểu học đặt  ra mục tiêu là trang bị  cho các em những kiến thức về  hệ  thống tiếng Việt,   chuẩn tiếng Việt, rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp.   Trong đó phân môn Luyện từ và câu là một trong những phân môn quan trọng có   ý nghĩa to lớn trong chương trình Tiểu học. Luyện từ và câu giúp học sinh mở  rộng, hệ thống hoá vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về  từ và câu. Rèn cho học sinh một số kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu   câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ  đúng, nói ­ viết thành câu, có ý  thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp, rèn luyện phát triển tư duy, bồi   dưỡng tình cảm tốt đẹp cho học sinh. Việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng phân môn "Luyện từ và câu" sẽ  giúp các em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về  tâm hồn. Từ  đó, các em tích luỹ  cho mình những kỹ năng tư duy phù hợp. Nhận thức được những vấn đề trên nên em quyết định chọn đề tài: “Một   số biện pháp dạy học Luyện từ và câu nhằm bồi dưỡng tư duy cho hoc sinh   lớp 4”. 2. Mục đích nghiên cứu Làm rõ tầm quan trọng của việc bồi dưỡng tư duy cho học sinh Tiểu học. Đề  xuất một số  biện pháp nhằm bồi dưỡng tư  duy cho học sinh lớp 4  thông qua môn Luyện từ và câu. 3. Đối tượng nghiên cứu ­ Biện pháp, phương pháp dạy học tiếng Việt. ­ Bồi dưỡng tư duy cho học sinh Tiểu học. 4. Giả thuyết khoa học.
  4. Nếu đề  tài này thành công thì sẽ  giúp cho giáo viên có được một số  phương pháp dạy học phù hợp nhằm bồi dưỡng tư duy cho sinh Tiểu học. Bên   cạnh đó học sinh sẽ  được phát triển khả  năng tư  duy một cách tốt nhất trong  phân môn Luyện từ và câu. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ­ Nghiên cứu về bồi dưỡng học sinh giỏi về mảng bồi dưỡng tư duy. ­ Nghiên cứu về thực trạng bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4 qua phân   môn Luyện từ và câu. ­ Đề  xuất một số  biện pháp nhằm bồi dưỡng tư duy cho hoc sinh lớp 4   qua phân môn Luyện từ và câu. 6. Phạm vi nghiên cứu ­ Học sinh lớp 4. ­ Phân môn Luyện từ và câu. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết Để  thực hiện đề  tài này thì trong nhóm này tôi chọn phương pháp chính   là: ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp các lý thuyết. ­ Phương pháp mô hình hóa. Ngoài ra, tôi còn sử dụng thêm phương pháp: đọc sách và nghiên cứu tài  liệu. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Tôi chọn phương pháp chính là: ­ Phương pháp quan sát sư phạm. ­ Phương pháp thực nghiệm khoa học. Bên cạnh đó tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp sau: ­ Phương pháp điều tra. ­ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
  5. 7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học ­ Phương pháp thống kê, lập bảng số liệu. 8. Đóng góp mới của đề tài Về  mặt lý luận: Làm sáng tỏ  cơ  sở  lý luận của việc bồi dưỡng tư  duy   cho học sinh Tiểu học. Về  mặt thực tiễn: Đưa ra một số  phương pháp dạy Luyện từ  và câu  nhằm bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4; là tài liệu nghiên cứu cho các công   tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt và các công trình nghiên cứu sau có   liên quan. 9. Cấu trúc của đề tài: Gồm có 3 phần: Mở đầu; Nội dung; Kết luận. Trong phần nội dung gồm có 3 chương chính: ­ Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu ­ Chương 2: Một số biện pháp bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4 qua   phân môn Luyện từ và câu ­ Chương 3: Thực nghiệm sư phạm PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ  SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ  SỞ  THỰC TIỄN CỦA VẤN   ĐỀ NGHIÊN CỨU
  6. 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Bồi dưỡng tư duy 1.1.1.1. Khái niệm Trong thế giới hiện thực có rất nhiều cái con người chưa biết, chưa nhận   thức được. Nhiệm vụ  của cuộc sống luôn đòi hỏi con người phải hiểu thấu   những cái chưa biết đó, phải vạch ra được cái bản chất và những quy luật tác  động của chúng. Quá trình nhận thức đó gọi là tư duy.  Theo tâm lý học, tư duy là thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao  – bộ não người. Tư duy phản ánh thế giới vật chất dưới dạng các hình ảnh lý   tưởng: “Tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất, những mối liên   hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà trước đó ta chưa biết”. Quá trình  phản ánh này là quá trình gián tiếp, độc lập và mang tính khái quát, được nảy   sinh trên cơ  sở  hoạt động thực tiễn, từ  sự  nhận thức cảm tính nhưng vượt xa  các giới hạn của nhận thức cảm tính. Dưới  góc  độ  giáo dục, có thể  hiểu tư  duy là hệ  thống gồm nhiều  ý   tưởng, tức là gồm nhiều biểu thị tri thức về một vật hay một sự kiện. Nó dùng  suy nghĩ hay tái tạo suy nghĩ để hiểu hay giải quyết một việc nào đó.  Theo cách hiểu đơn giản nhất, tư  duy là một loạt những hoạt động của   bộ não diễn ra khi có sự kích thích. Những kích thích này nhận được thông qua   bất kì giác quan nào trong năm giác quan: xúc giác, thị giác, thính giác, khứu giác   hay vị giác.  Tóm lại, có thể hiểu tư duy là một hiện tượng tâm lý, là hoạt động nhận  thức bậc cao ở con người. Cơ sở sinh lý của tư duy là sự hoạt động của vỏ đại   não. Hoạt động tư duy đồng nghĩa với hoạt động trí tuệ. Mục tiêu của tư duy là  tìm ra các triết lý, lý luận, phương pháp luận, phương pháp, giải pháp trong các   tình huống hoạt động của con người. 1.1.1.2. Đặc điểm của tư duy
  7. Tư duy mà con người là chủ thể chỉ nảy sinh khi gặp tình huống “có vấn   đề”. Tuy nhiên vấn đề  đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển  thành nhiệm vụ  cá nhân (cái gì đã biết, cái gì cần tìm kiếm), đồng thời nằm  trong ngưỡng hiểu biết của cá nhân và là nhu cầu động cơ  tìm kiếm của cá  nhân. Tiếp theo, tư duy luôn phản ánh cái bản chất nhất chung cho nhiều sự vật   hợp thành một nhóm, một loại, một phạm trù, đồng thời trừu xuất khỏi những   sự  vật đó những cái cụ  thể, cá biệt. Ngoài ra, tư  duy luôn phản ánh gián tiếp  hiện thực. Trong tư  duy, có sự  thoát khỏi những kinh nghiệm cảm tính. Cuối   cùng, ngôn ngữ  có vai trò cố  định lại các kết quả  của tư  duy và nhờ  đó làm  khách quan hóa chúng cho người khác và cho cả bản thân chủ thể tư duy. 1.1.1.3. Các giai đoạn của tư duy  K.K.Platonôv sơ đồ  hóa các giai đoạn của một hành động (quá trình) tư  duy.  Theo đó, mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ  nảy sinh trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Quá trình tư  duy bao gồm nhiều giai đoạn từ  khi gặp tình huống có vấn đề  đến khi giải   quyết nó rồi lại khởi đầu cho một hành động tư  duy mới. Có thể  nói, xác định  được vấn đề là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất của mỗi quá trình tư duy.   Tiếp theo là việc huy động các tri thức, kinh nghiệm, những liên tưởng nhất  định của bản thân chủ thể đến vấn đề đã được xác định và biểu đạt. Cuối cùng,   khi giả  thuyết đã được khẳng định và chính xác hóa thì nó sẽ  được hiện thực   hóa bằng câu trả lời, hay đáp số cho vấn đề đặt ra. Vấn đề đã được giải quyết   lại làm một khâu khởi đầu cho một hoạt động tư duy mới. Như vậy quá trình tư  duy diễn ra theo các giai đoạn, cho dù vấn đề  tư  duy nảy sinh từ đâu, trong lý   luận hay trong hoạt động thực tiễn, thì cũng đều diễn ra theo quy trình kể trên. 1.1.1.4. Các thao tác tư duy  Tính giai đoạn của tư duy mới chỉ phản ánh được cấu trúc bên ngoài của   tư duy, còn nội dung bên trong của mỗi giai đoạn trong hành động tư duy lại là 
  8. một quá trình diễn ra trên cơ sở những thao tác tư duy. Có thể nói các thao tác trí   tuệ  chính là các quy luật bên trong của tư  duy. Theo các kết quả  nghiên cứu  trong tâm lý học, tư duy diễn ra thông qua các thao tác sau:  ­ Phân tích: là quá trình dùng trí óc để  phân chia đối tượng nhận thức   thành các bộ  phận, các thành phần khác nhau từ  đó vạch ra được những thuộc  tính, những đặc điểm của đối tượng nhận thức hay xác định các bộ  phận của   một tổng thể  bằng cách so sánh, phân loại, đối chiếu, làm cho tổng thể  được  hiển minh.  ­ Tổng hợp: là quá trình dùng trí óc để  hợp nhất, sắp xếp hay kết hợp   những bộ phận, những thành phần, những thuộc tính của đối tượng nhận thức  đã được tách rời nhờ sự phân tích thành một chỉnh thể để  từ  đó nhận thức đối   tượng một cách bao quát, toàn diện hơn. Trong tư  duy, tổng hợp là thao tác  được xem là mang dấu  ấn sáng tạo. Khi nói người có “đầu óc tổng hợp” thì  cũng tương tự như nói người có “đầu óc sáng tạo”.  ­ So sánh ­ tương tự: là thao tác tư duy nhằm “xác định sự giống nhau và  khác nhau giữa các sự vật hiện tượng của hiện thực”. Nhờ so sánh người ta có  thể tìm ra các dấu hiệu bản chất giống nhau và khác nhau của các sự vật. Ngoài   ra còn tìm thấy những dấu hiệu bản chất và không bản chất thứ yếu của chúng.  ­ Trừu tượng hoá: trừu tượng hoá là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những  mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ  thứ  yếu, và chỉ  giữ  lại  những yếu tố đặc trưng, bản chất của đối tượng nhận thức.  ­ Khái quát hoá: là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác   nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ  chung, bản chất của sự  vật, hiện tượng. Kết quả  của khái quát hoá là cho ra   một đặc tính chung của hàng loạt các đối tượng cùng loại hay tạo nên nhận   thức mới dưới hình thức khái niệm, định luật, quy tắc.  Tóm lại, các thao tác tư duy cơ bản được xem như quy luật bên trong của  mỗi hành động tư duy. Trong thực tế tư duy, các thao tác đan chéo vào nhau mà 
  9. không theo trình tự  máy móc. Tuy nhiên, tùy theo từng nhiệm vụ  tư  duy, điều  kiện tư duy, không phải mọi hành động tư  duy cũng nhất thiết phải thực hiện   tất cả các thao tác trên. 1.1.2. Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 1.1.2.1. Mục đích dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4: a) Hình thành và phát triển kỹ năng tiếng Việt: ­ Thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở  học sinh các kỹ  năng sử  dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để  học tập và giao tiếp trong các môi  trường hoạt động của lứa tuổi. Sách giáo khoa tiếng Việt 4 tiếp tục lấy nguyên  tắc giao tiếp làm định hướng cơ  bản. Việc rèn luyện kỹ  năng sử  dụng tiếng   Việt thông qua tất cả các phân môn Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ  và câu. Phân môn luyện từ  và câu được học từ  lớp 2, song đến lớp 4 mới có  những tiết học dành riêng để trang bị kiến thức cho học sinh. Các em được mở  rộng, hệ thống hoá vốn từ, được trang bị kiến thức sơ giản về từ, câu, kỹ năng  dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu Việt để học tốt các phân môn tiếng  b) Sử dụng từ, câu tiếng việt giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, năng lực  tư duy: ­ Thông qua các bài Tập đọc, Kể  chuyện, Tập làm văn, Luyện từ  và  câu...học sinh được rèn luyện và phát triển trí tưởng tượng ngay từ các bài thơ,  bài văn...  c) Giúp học sinh ý thức và thói quen sử  dụng tiếng Việt, văn hóa trong  giao tiếp để trẻ tích luỹ những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt:  ­ Quá trình học "Luyện từ  và câu" giúp các em biết sử  dụng từ  ngữ  phù  hợp trong giao tiếp hàng ngày với bạn bè, bố mẹ và mọi người xung quanh. Bồi  dưỡng cho các em biết thưởng thức cái đẹp, biết thể hiện những buồn, vui, yêu,  ghét của con người. Từ đó, học sinh biết phân biệt đẹp, xấu, thiện, ác để hoàn  thiện nhân cách cho bản thân.
  10. 1.1.2.2. Nội dung và mức độ cần đạt: a) Đối tượng để học sinh làm bài: ­ Là những bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm, những bài tập về  từ,   câu. b) Yêu cầu cần đạt: ­ Nắm kiến thức về từ ngữ qua các chủ điểm. ­ Nắm kiến thức sơ giản về câu. ­ Rèn cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. ­ Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu; có  ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp. c) Nội dung dạy học:  Phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 được dạy trong 62 tiết : HKI : 32 tiết ;  HKII 30 tiết. Bao gồm các nội dung sau: *Mở rộng hệ thống hoá vốn từ: (19 tiết) ­ Các từ  ngữ  được mở  rộng và hệ  thống hoá theo trường nghĩa tương   đương các chủ điểm.                    + HK I: 9 tiết Nhân hậu – Đoàn kết (tuần 2, 3) Trung thực – Tự trọng (tuần 5, 6) Ước mơ (tuần 9) Ýchí – Nghị lực (tuần 12, 13) Đồ chơi – Trò chơi (tuần 15; 16)                     + HK II: 10 tiết  Tài năng (tuần 19)                           Sức khoẻ (tuần 20) Cái đẹp (tuần 22, 23) Dũng cảm (tuần 25, 26) Du lịch – Thám hiểm (tuần 29, 30)
  11. Lạc quan – Yêu đời (tuần 33, 34)    ­ Các từ ngữ được mở  rộng và hệ  thống thông qua các bài tập. Tìm từ  ngữ  theo chủ  điểm. Tìm hiểu nắm nghĩa của từ; Phân loại từ  ngữ. Tìm hiểu   nghĩa của thành ngữ, tục ngữ theo chủ điểm; luyện sử dụng từ ngữ. * Tiếng, cấu tạo từ: (5 tiết)  ­ Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng, c ấu t ạo c ủa   từ   + Cấu tạo của tiếng tuần 1: 2 tiết  + Từ đơn và từ phức tuần 3: 1 tiết  + Từ ghép và từ láy tuần 4: 2 tiết  ­ Các dạng bài tập: Nhận diện và phân tích cấu tạo của tiếng, từ; Phân  loại từ theo cấu tạo; Tìm từ theo kiểu cấu tạo; Luyện sử dụng từ. * Từ loại: (9 tiết) ­ Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo từ loại của tiếng Việt. + Danh từ (tuần 5, 6, 7, 8: 5 tiết gồm cả cách viết danh từ riêng) + Động từ (tuần 9 và 11: 2 tiết) + Tính từ (tuần 11 và 12: 2 tiết) ­ Các dạng bài tập: Nhận diện từ  theo loại; Luyện viết danh t ừ  riêng;  Tìm và phân loại từ theo từ loại; Luyện sử dụng từ. * Câu: 26 tiết  ­ Cung cấp các kiến thức sơ giản về cấu tạo, công dụng, và cách sử dụng   các kiểu câu: + Câu hỏi: tuần 13, 14, 15 – 4 tiết.  + Câu kể: tuần 16, 17, 19, 20, 21, 22, 24, 25, 26 – 12 tiết bao gồm các kiểu  câu: ai làm gì; ai thế nào; ai là gì? + Câu khiến: tuần 27, 29­ 3 tiết  + Câu cảm: tuần 30 – 1 tiết  + Thêm trạng ngữ cho câu: tuần 31, 32, 33, 34 ­ 6 tiết
  12.  ­ Các dạng bài tập: Nhận dạng các kiểu câu; Phân tích cấu tạo câu; Đặt   câu theo mẫu nhằm thực hiện các mục đích cho trước; Lựa chọn kiểu câu để  đảm bảo lịch sự trong giao tiếp; Luyện sử câu trong các tình huống khác nhau;   Luyện mở rộng câu. * Dấu câu: 3 tiết    ­ Cung cấp kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng các dấu câu:             + Dấu hai chấm (tuần 2: 1 tiết)            + Dấu ngoặc kép (tuần 8: 1 tiết)            + Dấu chấm hỏi (tuần 13 học cùng câu hỏi)            + Dấu gạch ngang (tuần 13: 1 tiết)  ­ Các dạng bài tập: Tìm công cụ  của dấu câu; Luyện sử  dụng dấu câu  (đặt dấu câu vào chỗ thích hợp, tập viết câu, đoạn có sử dụng dấu câu). 1.1.2.3. Các biện pháp dạy học chủ yếu: a) Cung cấp kiến thức mới: ­ Giáo viên tổ chức cho HS làm các bài tập ở phần nhận xét theo các hình   thức: + Trao đổi chung cả lớp. + Trao đổi từng nhóm (tổ; bàn; hoặc 2, 3HS). + Tự làm cá nhân, qua đó HS rút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ về  kiến thức.         b) Luyện tập và mở rộng vốn từ: ­ Giáo viên cho học sinh nhắc lại một số  kiến thức có liên quan, rồi tổ  chức cho học sinh làm các bài tập theo các hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa  các nhóm, cá nhân. Cần lưu ý các vấn đề sau:  + Hướng dẫn HS tìm hiểu kĩ yêu cầu của bài tập. + Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc 1 bài để hướng dẫn cách làm. + Hướng dẫn học sinh làm vào vở ( bảng con, bảng phụ, bảng nháp…)
  13. + Hướng dẫn HS nêu kết quả, chữa bài tậpvà tự kiểm tra kết quả luyện  tập. 1.1.3. Cơ sở tâm lí học 1.1.3.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học  Hệ  thần kinh của học sinh Tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh.  Đến chín, mười tuổi hệ  thần kinh của trẻ  căn bản được hoàn thiện và chất   lượng của nó sẽ được giữ lại trong suốt cuộc đời. Trong thời kì này các em sẽ  có những đặc điểm tâm lý như  khả  năng kìm hãm (khả  năng  ức chế) của hệ  thần kinh còn yếu, dễ bị kích thích. Tri giác mang tính đại thể, toàn bộ, ít đi sâu  vào chi tiết, mang tính không chủ  động, gắn với hành động và với hoạt động   thực tiễn. Tuy vậy trẻ  cũng bắt đầu có khả  năng phân tích , tách dấu hiệu, chi  tiết nhỏ của một đối tượng cụ thể.  Trí nhớ  tuy đã phát triển nhưng còn chịu nhiều tác động từ  hứng thú và   các hình mẫu tác động mạnh. Nhiều học sinh còn chưa biết tổ  chức việc ghi   nhớ có ý nghĩa mà có khuynh hướng phát triển trí nhớ máy móc. Tưởng tượng của học sinh  Tiểu học đã phát triển phong phú.  Càng về  những năm cuối cấp học, tưởng tượng của các em càng gần hiện thực hơn .  Điều này chứng tỏ  học sinh cuối cấp Tiểu học đã biết tưởng tượng sáng tạo,  một trong những yếu tố cơ bản, cần thiết của tư duy. 1.1.3.2. Đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học  Trong Tâm lý học nhận thức, Piaget đã đưa ra thuyết hoạt động hóa nhằm  mô tả các cấu trúc lôgic khác nhau có tính kế  thừa trong quá trình phát triển trí  tuệ của con người từ khi sinh ra tới tuổi tr ưởng thành. Ông cho rằng tư duy của   trẻ hình thành và phát triển liên tục theo từng giai đoạn cụ thể. Theo ông, ở giai  đoạn từ 0 đến 2 tuổi, trẻ chỉ sử dụng công cụ  tư  duy là tri giác và động tác có  khả  năng biểu hiện. Đó là thời kì trí tuệ  cảm giác – vận động tiền ngôn ngữ.  Từ 2 tuổi đến khoảng 7 tuổi là khởi đầu cho một thời kì mới. Ở giai đoạn này,  trẻ có tư duy mang chức năng tượng trưng (kí hiệu), chuyển từ trí tuệ cảm giác  
  14. ­ vận động sang trí tuệ biểu tượng. Có nghĩa là các em nhận thức đối tượng chủ  yếu và trực tiếp thông qua các giác quan. Như vậy tư duy của trẻ đã chuyển từ  tiền hoạt động sang thời kì hoạt động cụ thể, từ tiền thao tác sang thao tác.  Thực chất của loại tư  duy này là trẻ  tiến hành các hành động để  phân  tích, so sánh, đối chiếu các sự vật. Trong giai đoạn tiếp theo (thường là học sinh từ  lớp 3, lớp 4), trẻ   đã   chuyển được các hành động phân tích, khái quát, so sánh từ bên ngoài thành các   thao tác trí óc bên trong, mặc dù tiến hành các thao tác này vẫn phải dựa vào các  hành động đối với đối tượng thực, chưa thoát ly khỏi chúng. Trẻ đã có khả năng  đảo ngược các hình ảnh tri giác, khả năng bảo tồn sự vật khi có sự thay đổi các  hình ảnh tri giác về chúng. Từ 10 và 11 tuổi trở đi, tư duy của trẻ đã chuyển dần  sang hoạt động hình thức hay còn gọi là hoạt động giả thuyết – suy diễn, không  còn bám giữ  vào đối tượng (đồ  vật, hiện tượng) cụ  thể, mà căn cứ  vào “giả  thuyết’’. Thời kì tư duy hình thức phát triển ở tuổi thiếu niên (vị thành niên).  Các thao tác tư duy như phân tích – tổng hợp, khái quát – trừu tượng hóa  còn sơ đẳng ở các lớp đầu cấp Tiểu học, chủ yếu chỉ tiến hành hoạt động phân  tích – trực quan ­ hành động khi tri giác trực tiếp đối tượng. Nhưng trong quá   trình học tập dần lên các lớp trên thì khả năng phân tích ­ tổng hợp, trừu tượng   hóa – khái quát hóa trong tư  duy của trẻ  có sự  phát triển vượt bậc. Học sinh  cuối cấp này có thể  phân tích đối tượng mà không cần tới những hành động  thực tiễn đối với đối tượng đó. Các em có khả năng phân biệt những dấu hiệu,  những khía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ.  Như  vậy, theo thời gian, hoạt  động tư  duy của học sinh  Tiểu học có  nhiều biến đổi cơ  bản. Sự thay đổi mối quan hệ  giữa tư  duy hình tượng, trực   quan cụ  thể  sang tư  duy trừu tượng, khái quát chiếm  ưu thế  và là đặc điểm   mới, nổi bật về hoạt động tư duy của học sinh cuối cấp Tiểu học.  1.1.3.2. Lý Luận dạy học:
  15. Trong lứa tuổi Tiểu học, học sinh có rất ít vốn từ, mỗi môn học cung cấp   cho học sinh thêm một số từ để  làm công cụ  học tập cũng như trong giao tiếp.  Tất cả các môn học và các phân môn Tiếng Việt đều có vai trò to lớn trong việc  dạy từ. Chúng mở rộng sự hiểu biết về thế giới, con người, góp phần làm giàu  vốn từ cho học sinh. Nguồn cơ bản của dạy Luyện t ừ và câu được xem là kinh  nghiệm sống của cá nhân học sinh và những quan sát thiên nhiên, con người của  các em. Dạy Luyện từ  và câu phải gắn với đời sống, gắn với việc làm giàu  những biểu tượng tư  duy, bằng con  đường quan sát trực tiếp và thông qua  những mẫu lời nói.  Tiết học Luyện từ  và câu góp phần rèn luyện và phát triển kỹ  năng sử  dụng ngôn ngữ  một cách thành thạo, góp phần phát triển kỹ  năng giao tiếp và  sử dụng văn bản sau này. 1.2. Cơ sở thực tiễn Trong quá trình dạy học chúng ta thường quan tâm đến 3 vấn đề  quan  trọng đó là sách giáo khoa và các tài liệu khác, trình độ  giáo viên, trình độ  học  sinh. Sách giáo khoa có chức năng giúp học sinh lĩnh hội, củng cố, đào sâu  những tri thức tiếp thu được trên lớp, phát triển năng lực trí tuệ  và có tác dụng  giáo dục học sinh đồng thời giúp giáo viên xác định nội dung kiến thức và lựa  chọn phương pháp, phương tiện dạy học, tổ chức công tác dạy học của mình.  Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải tìm hiểu nghiên cứu để có hiểu biết về chương   trình. 1.2.1. Về phía giáo viên Trước đây được đào tạo chuyên ngành với nhiều hình thức trình độ  đào   tạo khác nhau, có sự chênh lệch nhau về kiến thức, kỹ năng. Không ít giáo viên  gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy. Vì vậy, dạy học  ở  Tiểu học còn đơn  điệu, nặng nề, học sinh chưa tích cực chủ động tiếp thu bài, giáo viên cũng gặp   không ít khó khăn về  cơ sở vật chất, về phương tiện dạy học… Hiện nay, đã 
  16. thực hiện đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm giáo viên  chỉ  là người hướng dẫn chỉ  đạo, tổ  chức cho học sinh hoạt động nên giờ  học  hiện nay có khởi sắc hơn nhưng vấn đề quan tâm đến bồi dưỡng tư duy cho các   em còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, đối với phân môn Luyện từ  và câu không ít   giáo viên vẫn chưa thoát khỏi quỹ đạo của phương pháp dạy học truyền thống.  Một số  giáo viên vẫn coi học sinh Tiểu học là đối tượng nói theo, làm theo   khuôn mẫu, ít sáng tạo và khả năng tư duy còn thấp. Chính vì vậy cần đổi mới phương pháp dạy học "Luyện từ và câu" theo   hướng tích cực hoá hoạt động của người học để  giờ  học sinh động, hấp dẫn,  hiệu quả.  Với đặc thù của phân môn Luyện từ và câu là trang bị những kiến thức cơ  bản về  từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để  các em học tốt các môn học khác. Bởi  vậy, việc bồi dưỡng và nâng cao hiểu biết về  từ, câu, kỹ  năng sử  dụng tiếng  Việt văn hoá là vô cùng quan trọng góp phần kích thích sự  phát triển tư  duy,   hoàn thiện nhân cách cho học sinh. 1.2.2. Về phía học sinh Đối với học sinh trong nhà trường, học sinh không chỉ là đối tượng được   giáo dục mà còn là chủ thể chính của nhận thức, rèn luyện kỹ năng và thông qua  đó hình thành nhân cách con người mới. Vì vậy, hoạt động giảng dạy của giáo   viên đều hướng vào học sinh làm sao cho học sinh có hứng thú với bài học   thông qua đó rút ra được kiến thức. Tuy nhiên học sinh Tiểu học ngại học môn từ  ngữ, ngữ  pháp. Phải nói  rằng phân môn Luyện từ và câu đối với các em là một môn học khó, khô khan   nên bồi dưỡng tư duy về tiếng Việt cho học sinh lớp 4 r ất khó. Các em chỉ mới  hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, song vốn từ  của các em còn nghèo, không thể  diễn đạt một cách trôi chảy những cảm nhận của mình. Nhưng nếu giáo viên tổ  chức không linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học thì học sinh tiếp thu 
  17. kiến thức một cách thụ  động, các em sẽ  không có điều kiện để  thỏa sức sáng  tạo, nâng cao trình độ hiểu biết và khả năng tư duy thấp. CHƯƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP DẠY LUYỆN TỪ  VÀ CÂU NHẰM  BỒI DƯỠNG TƯ DUY CHO HỌC SINH LỚP 4 2.1. Quy trình dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4: Các bước lên lớp của một tiết dạy Luyện từ  và câu giữ  một vị  trí quan  trọng, với nội dung kiến thức mỗi bài khác nhau, song lại tương đương nhau và  “đồng dạng”. nên có quy trình chung là : 2.1.1. Kiểm tra bài cũ: Giáo viên yêu cầu học sinh giải được các bài tập  ở  nhà hoặc nêu ngắn   gọn những điều đã học ở tiết trước, cho ví dụ minh hoạ. 2.1.2. Dạy bài mới: ­ Giới thiệu bài: + Có thể giới thiệu gián tiếp (như liên hệ với bài cũ) + Giới thiệu trực tiếp. ­ Hướng dẫn học sinh luyện tập: Giáo viên tổ  chức cho học sinh thực  hiện từng bài tập trong sách giáo khoa theo một trình tự chung là: + Đọc và xác định yêu cầu của bài tập. + Học sinh giải một phần bài tập làm mẫu. + Học sinh làm bài tập theo hướng dẫn của giáo viên. + Tổ chức trao đổi, nhận xét về  kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ  vào   kiến thức. 2.1.3. Củng cố, dặn dò:
  18. Giáo viên chốt lại những kiến thức, kỹ năng cần nắm vững  ở  bài luyện  tập, nêu yêu cầu thực hành, luyện tập ở nhà. 2.2. Các biện pháp dạy Luyện từ và câu nhằm bồi dưỡng tư duy cho  học sinh lớp 4: Để bồi dưỡng tư duy cho học sinh trong môn Luyện từ và câu, giáo viên   cần tăng cường cho học sinh thực hiện những hoạt động học tập như:  ­ Đặt câu hỏi với các từ ngữ, thành ngữ đã cho;  ­ Viết tiếp vào chỗ chấm đề hoàn chỉnh câu;  ­ Tìm các từ theo chủ đề; Trong môn Tiếng Việt, đặc biệt là Luyện từ và câu có nhiều dạng bài tập  có thể  làm ngữ  liệu để  khai thác phát triển tính mềm dẻo của tư  duy cho học   sinh, bao gồm:  + Tìm từ ngữ thích hợp điền từ  vào chỗ  trống (chỗ  trống trong câu, chỗ  trống trong đoạn, chỗ trống trong thành ngữ, tục ngữ,..).  + Xác định nghĩa từ, giải nghĩa từ.  + Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa với từ cho sẵn; từ cùng âm khác  nghĩa với từ cho sẵn; thay từ bằng một từ cùng nghĩa khác.  + Xác định cấu tạo của từ (từ đơn, từ láy, từ ghép...), cấu tạo cụm từ.  + Tìm các từ ngữ có cùng một phạm vi nội dung.  + Tìm những câu có từ dùng sai. + Đặt câu với từ cho sẵn + Tìm từ láy từ yếu tố cho sẵn, tìm từ láy tương đương thay thế từ trong   câu.           +Phân biệt nghĩa đen, nghĩa bóng của từ + Viết một đoạn văn với một số từ cho sẵn.  + Đưa ra một câu, yêu cầu học sinh chỉ ra thành phần chính, phụ...; + Yêu cầu học sinh kết hợp các thành phần chính của câu, thêm các thành  phần câu; 
  19. + Yêu cầu học sinh đặt câu theo mẫu nào đó, hoặc là viết nhiều câu để  tạo thành đoạn văn hoặc tách đoạn văn ra thành các câu... tách câu thành từ, sắp  xếp các câu có sẵn thành đoạn… Dưới đây là một số  phương pháp cụ  thể  dạy Luyện từ  và câu cơ  bản  nhằm bồi dưỡng tư duy cho học sinh lớp 4. 2.2.1. Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu: ­ Việc phân tích ngữ liệu giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập và   thực hành tốt nhằm rút ra kiến thức.  * Ví dụ  : Khi dạy bài "Động từ" ( tuần 9),  ở  phần nhận xét sau khi cho   học sinh: đọc kĩ, thảo luận theo cặp tìm các từ chỉ hoạt động của người, các từ  chỉ  trạng thái của vật, rồi trình bày kết quả  trước lớp. Giáo viên sẽ  chốt lại:   Các từ  nêu trên là động từ. Vậy động từ  là gì? Học sinh trả  lời – giáo viên  khẳng định và ghi bảng. (Động từ là từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật ) 2.2.2. Dạy nội dung mở rộng và hệ thống hoá vốn từ: ­ Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn Luyện từ và câu   ở  lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với   chủ  điểm của từng đơn vị  học. Để  học sinh hiểu nghĩa và biết dùng từ  ngữ,   thành ngữ, tục ngữ... thuộc các chủ điểm. Giáo viên cần gợi ý cho học sinh liên  tưởng, so sánh hoặc tra từ   điển để  tìm hiểu nghĩa. Với những từ  ngữ  trừu   tượng, ít gần gũi với học sinh, cần đưa chúng vào văn cảnh cụ  thể  để  làm rõ   nghĩa. ­ Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ tên chủ điểm. Từ đó, học sinh có   cơ sở tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho.  * Ví dụ: Khi dạy bài ­ Mở rộng vốn từ: Trung thực ­ Tự trọng.  Bài tập 4: Có thể  dùng thành ngữ, tục ngữ  nào dưới đây để  nói về  tính  trung thực hoặc lòng tự trọng: ­ Thẳng như ruột ngựa. ­ Giấy rách phải giữ lấy lề.
  20. ­ Thuốc đắng giã tật.  ­ Cây ngay không sợ chết đứng. ­ Đói cho sạch rách cho thơm. ­ Cho học sinh thảo luận nhóm 4, đọc kĩ nội dung bài tập, xác định yêu   cầu, trao đổi tìm hiểu nghĩa của từng thành ngữ, tục ngữ  (cả  nghĩa đen lẫn   nghĩa bóng). Rồi học sinh tiến hành phân loại, sau đó báo cáo kết quả trước lớp,   lớp nhận xét, bổ sung, thống nhất kết quả. Nếu câu nào các em chưa hiểu nghĩa  giáo viên phải giải thích cho các em rõ. Ngoài ra, cho các em tìm thêm một số  câu thành ngữ, tục ngữ có nội dung theo chủ điểm và yêu cầu học thuộc để vận   dụng. *Ví dụ: Khi dạy bài ­ Mở rộng vốn từ: Ước mơ. ­ Học sinh bước đầu tìm được một số  từ cùng nghĩa với từ   ước mơ  bắt   đầu bằng tiếng  ước, bằng tiếng mơ, ghép được từ  ngữ, hiểu ý nghĩa và nhận   biết được sự đánh giá của từ ngữ đó. 2.2.3. Dạy kiến thức về từ, câu, kỹ năng dùng từ, đặt câu và sử  dụng   dấu câu: ­ Kiến thức tiếng Việt là cả  một kho tàng phong phú. Ngay từ  khi mới   bập bẹ biết nói, các em đã biết dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Thế nhưng đến  lớp 4 các em mới bước đầu phân tích cấu tạo của từ, câu, từ loại, cách sử dụng  dấu câu. ­ Trong mỗi bài học gồm 3 phần: Nhận xét, ghi nhớ, luyện tập.  Để giúp học sinh nhận ra hệ thống từ, nhận xét về mặt cấu tạo giáo viên  cần: ­ Giáo viên giúp học sinh thao tác ghép các từ với từng phần trong sơ đồ  lần lượt theo thứ tự tầng bậc. * Ví dụ: Khi dạy bài "Luyện tập về từ ghép, từ láy" (tuần 4) ­ Giáo viên hướng dẫn học sinh phân loại từ  "bánh trái" (chỉ  chung cho  các loại bánh) nên là từ ghép có nghĩa tổng hợp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0