intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có lời văn khi học trực tuyến

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

8
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao chất lượng học giải toán cơ lời văn cho học sinh lớp 3 khi học trực tuyến, giúp các em hứng thú học tập, biết vận dụng những kiến thức toán học vào thực tế, giúp các em phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có lời văn khi học trực tuyến

  1. 0 ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY TRƯỜNG TIỂU HỌC NAM TRUNG YÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI TỐT BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN KHI HỌC TRỰC TUYẾN Lĩnh vực/ Môn: Toán Cấp học: Tiểu học Tên tác giả: Nguyễn Thúy Hà Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nam Trung Yên Chức vụ: Tổ trưởng NĂM HỌC: 2021 - 2022
  2. 1 MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………… 2 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI………………………………………………….. 2 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU…………………………………………… 3 III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU………………………………………… 3 IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU……………………………………... 3 V.PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU…………………………… 4 VI. KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRƯỚC THỰC NGHIỆM………………….. 4 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………………... 4 I. Cơ sở lí luận…………………………………………………………….. 4 II. Thực trạng vấn đề ……………………………………………………… 5 1. Thuận lợi ………………………………………………………………. 5 2. Khó khăn ………………………………………………………………. 6 III. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có lời văn…….. 6 1.Biện pháp 1. Phân loại chất lượng học sinh trong lớp để đưa ra biện….. 6 pháp dạy học phù hợp với trình độ học sinh. 2. Biện pháp 2. Giúp học sinh phân biệt rõ các dạng toán và chuẩn bị cho 7 việc giải toán. 3.Biện pháp 3. Giúp học sinh nắm được các bước tiến hành giải một bài 9 toán. 4. Biện pháp 4. Dự kiến được những sai lầm học sinh thường mắc phải 13 trong khi giải toán để điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp. 5. Biện pháp 5. Hướng dẫn học sinh cách học và tự học khi thời lượng học 14 trực tuyến không nhiều. 6. Biện pháp 6. Vận dụng linh hoạt các phần mềm trò chơi và các hình 15 thức tổ chức dạy học trực tuyến. 7. Biện pháp 7. Thường xuyên khích lệ học sinh tạo hứng thú học tập cho 16 học sinh. 8. Biện pháp 8. Luôn chú trọng dạy học theo định hướng phát triển năng 18 lực. IV. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm……………………………………… 19 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. …………………………………… 20 I. Kết luận …………………………………………………………………. 20 II. Khuyến nghị …………………………………………………………… 21 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………… 23
  3. 1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong các môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm một vị trí cực kì quan trọng. Các kiến thức của môn Toán được ứng dụng rất thiết thực trong đời sống hàng ngày của con người. Môn học này góp phần rèn luyện phương pháp tư duy, suy luận và giải quyết vấn đề cho người học. Việc dạy giải toán có lời văn là một trong những nội dung của chương trình Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh tiếp thu và vận dụng những kiến thức về toán học, các em được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong phú. Giải toán là một trong các biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Giải toán giúp học sinh phát triển tư duy một cách tích cực, huy động tích hợp các kiến thức vào tình huống cụ thể của bài toán. Qua giải toán, học sinh rèn luyện những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động như ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch. Từng bước hình thành và rèn luyện thói quen, khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc, dập khuôn, xây dựng lòng ham thích tìm tòi, óc sáng tạo ở các em học sinh. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh phương pháp giải toán là việc làm hết sức cần thiết. Thực tế hiện nay cho thấy, tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn còn kéo dài và diễn biến phức tạp, các bạn học sinh chưa thể đến trường học trực tiếp. Với những bài giảng trực tuyến, tôi thấy khi học giải toán có lời văn, các em nắm được kĩ năng giải toán như là một văn bản lí thuyết, còn áp dụng vào thực hành giải toán thì hiệu quả chưa cao. Bài toán có lời văn thực chất là những bài toán ứng dụng thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc có liên quan tới cuộc sống thường ngày. Cái khó là các em phải biết tìm ra mối liên hệ giữa cái cần tìm với cái đã biết để tìm ra đáp số của bài toán. Đôi khi, các em cũng phải vận dụng hiểu biết thực tế để giải bài toán chính xác, tránh nhầm lẫn giữa các dạng do không hiểu bản chất của bài toán. Khi giải bài toán lời văn, một số em còn nhầm lẫn các bước giải bài toán và lúng túng khi đặt câu lời giải, nhất là ở bước tính thứ nhất. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn kéo dài, một học kì đã trôi qua mà các em vẫn chưa thể đến trường tham gia học tập trực tiếp cùng các bạn thì đấy là một điều khó khăn lớn cho
  4. 2 mỗi giáo viên khi truyền thụ kiến thức cho học sinh. Việc tiếp cận cách giải bài toán có lời văn khi các em học trực tuyến lại càng khó khăn hơn bởi sự tương tác giữa cô và trò còn hạn chế, các em chưa có nhiều vốn sống cũng như đường truyền không ổn định và thời lượng học toán thì chưa nhiều. Vì vậy đã có hiện tượng học sinh ngại và sợ học toán. Với mong muốn giúp các em học tốt hơn bài toán có lời văn, giúp các em hứng thú và tự tin hơn khi tham gia học tập trong tình hình hình mới nên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có lời văn khi học trực tuyến”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: - Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao chất lượng học giải toán cơ lời văn cho học sinh lớp 3 khi học trực tuyến, giúp các em hứng thú học tập, biết vận dụng những kiến thức toán học vào thực tế, giúp các em phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết. - Rút kinh nghiệm cho bản thân và đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán nói chung khi dạy học trực tuyến. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: - Học sinh lớp 3A2, 3A6 - Trường Tiểu học Nam Trung Yên - Hoạt động dạy và học toán có lời văn lớp 3. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp quan sát. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp trải nghiệm. - Phương pháp phân tích. - Phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh, đối chiếu. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. V. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU: - Môn Toán lớp 3 (Bài toán có lời văn). - Thời gian nghiên cứu: 10/ 10/ 2021 - 21/3/ 2022. VI. KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRƯỚC THỰC NGHIỆM: Trước khi tiến hành nghiên cứu đề tài, tôi đã khảo sát học sinh lớp 3A6 với đề bài : “ Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc?”.
  5. 3 Kết quả thu được như sau: Giải thành thạo Hiểu cách làm Giải toán chậm Sĩ số Số Số % Số lượng % % lượng lượng 59 HS 17 28,8% 30 50,8% 12 20,3% B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh và đặc biệt là ở lớp 3. Các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải nắm chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng và tất cả các kĩ năng khác nói chung. Dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau đây: - Trước hết nó giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành các kiến thức đã học, rèn luyện kĩ năng tính toán, bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn (học tập, đời sống). Qua các biểu hiện trên, giáo viên phát hiện được rõ hơn những gì học sinh đã lĩnh hội và nắm chắc những gì học sinh chưa nắm chắc để có biện pháp giúp học sinh phát huy ưu điểm hoặc khắc phục nhược điểm. - Qua việc dạy học giải Toán, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt quan sát, phỏng đoán tìm tòi. - Cũng qua việc học giải toán, giúp học sinh rèn luyện sự kiên nhẫn, tính cẩn thận, chu đáo và làm việc có kế hoạch. Từ đó hình thành sự hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em thêm yêu thích môn học hơn. Như vậy, việc giải toán theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực vừa đòi hỏi tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong suy nghĩ vừa đòi hỏi một khả năng thực hành tốt. Để giúp học sinh có khả năng làm chủ kiến thức và vận dụng một cách linh hoạt trong thực tế, mỗi giáo viên chúng ta cần lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp. Nhất là trong bối cảnh các em vẫn học trực
  6. 4 tuyến thì điều đó lại càng cần hơn bao giờ hết để nâng cao chất lượng dạy cho giáo viên cũng như chất lượng học tập của học sinh. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ: 1. Thuận lợi: - Khi tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, các cấp lãnh đạo và Ban giám hiệu nhà trường luôn có hướng chỉ đạo đúng đắn và sát sao các hoạt động giáo dục và dạy học trực tuyến của giáo viên. Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ rút kinh nghiệm cho giáo viên, luôn động viên, khích lệ giáo viên và học sinh tạo động lực cho giáo viên hoàn thành nhiệm vụ của mình. - Đa số các em học sinh đều tự giác, chăm chỉ học tập và thích học toán. - Hầu hết các em học sinh đều có phương tiện tham gia học trực tuyến đầy đủ. Phụ huynh học sinh đa số đều quan tâm đến việc học tập của của con em, cho con vào học đúng giờ, kèm con học bài vào các buổi tối và trao đổi với giáo viên chủ nhiệm thường xuyên về vấn đề học tập của con em mình. 2. Khó khăn: 2.1. Khó khăn với giáo viên: - Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều. Một số giáo viên còn thụ động, chưa thực sự chú trọng vào việc đổi mới phương pháp dạy học nên chất lượng học tập của học sinh chưa cao. - Trong quá trình giảng dạy môn toán, giáo viên còn coi nhẹ một số bước trong quá trình giải toán như: tìm hiểu đề, tóm tắt đề, kiểm tra kết quả nên nhiều học sinh thường mắc những lỗi không đáng có khi làm bài. - Khi dạy học trực tuyến, do lỗi đường truyền nên việc tương tác giữa giáo viên với học sinh thường bị gián đoạn, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học của giáo viên. Giáo viên chưa bao quát hết các đối tượng trong mỗi giờ học nên gặp không ít khó khăn trong việc truyền thụ kiến thức tới tất cả các đối tượng học sinh. 2.2. Khó khăn với học sinh: - Do tâm lí chung của học sinh Tiểu học còn ham chơi, một số học sinh chưa tự giác học tập nên nếu không có sự quan tâm của gia đình, nhà trường thì việc học hành của các em khó đạt hiệu quả cao.
  7. 5 - Một số học sinh còn chậm, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán nên thiếu tự tin trong việc tìm cách giải, khả năng ghi nhớ bài còn máy móc nên các em hay quên hoặc nhầm lẫn cách giải các dạng toán. - Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường coi rằng bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số của bài nên thường xảy ra sai sót đáng tiếc khi làm bài. - Khi các em tham gia học trực tuyến, nhiều gia đình chưa trang bị đầy đủ thiết bị học tập cho các em. Mặt khác, do đường truyền mạng kém nên khả năng tương tác giữa giáo viên và học sinh còn hạn chế, học sinh không nghe rõ lời giảng của giáo viên nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải toán của học sinh. Khắc phục được những nguyên nhân trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo con người mới năng động, tự chủ, sáng tạo và thích ứng linh hoạt. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI TỐT BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN KHI HỌC TRỰC TUYẾN. Với mong muốn giúp học sinh lớp 3 giải tốt bài toán có lời văn khi học trực tuyến, góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Toán trong tình hình mới, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau: 1. Biện pháp 1. Phân loại chất lượng học sinh trong lớp, dạy phân hóa đối tượng để nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Từ khi nhận lớp, tôi đã tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, tính cách cũng như năng lực của từng học sinh để nắm bắt được các đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách. Mỗi khi học xong phần nào, dựa trên việc tiếp thu bài của học sinh, tôi đã đánh giá, phân loại chất lượng học sinh, từ đó có biện pháp kèm cặp riêng cho từng nhóm đối tượng để giúp các em phát huy sở trường cũng như khắc phục hạn chế trong quá trình học tập. Ví dụ: Bài 3/ trang 69 (Sách Toán 3): Một công ti dự định xây 36 ngôi nhà, đến nay đã xây được 1/9 số nhà đó. Hỏi công ti còn phải xây tiếp bao nhiêu ngôi nhà nữa? Với bài toán này, chúng ta thường hướng dẫn học sinh đại trà giải theo hai bước: Bước 1: Tìm số ngôi nhà đã xây bằng cách lấy số ngôi nhà dự định xây chia
  8. 6 cho 9 phần. Bước 2: Tìm số ngôi nhà còn phải xây tiếp bằng cách lấy số ngôi nhà dự định xây trừ đi số ngôi nhà đã xây. Nhưng đối với học sinh có năng lực toán, thì tôi đã yêu cầu các em tìm cách giải khác và nêu cách làm của mình. Bằng sự gợi mở của giáo viên, các em sẽ dễ dàng giải thích cách làm như sau: Coi số ngôi nhà đã xây là 1 phần thì số ngôi nhà còn phải xây là 8 phần bằng nhau như vậy. Số ngôi nhà đã xây là: 36 : 9 = 4 (ngôi nhà). Do đó số ngôi nhà còn phải xây sẽ là: 4 x 8 = 32 (ngôi nhà). Điều bất ngờ là rất nhiều em tìm ra cách giải khác và rất hứng thú với những điều mới mẻ các em vừa khám phá. Điều này trước kia bản thân tôi thường đôi khi cũng có tâm lí ngại học sinh không biết nên không khai thác. Như vậy với mỗi bài toán, giáo viên nên khơi gợi óc tò mò, chú ý đến việc phân hóa đối tượng thì chất lượng học sinh mũi nhọn sẽ được nâng cao đồng thời giúp học sinh phát triển năng lực toán học sẵn có của mình. Một mặt, để học sinh giải toán được tốt hơn, tôi đã hướng dẫn học sinh cách học sao cho phù hợp với từng khả năng trên lớp cũng như ở nhà sao cho có hiệu quả. Nhất là việc chuẩn bị sách vở, nháp, đọc bài và hướng làm bài để các em có cái nhìn chung về cách thức học tập, giúp các em tự tin hơn khi gặp các bài toán, có hứng thú và đam mê học toán. Qua từng ngày, từng tuần quan sát và kèm cặp các đối tượng, tôi thấy các em rất thích học toán và ít sai sót hơn khi làm bài. Mặt khác, thời gian học một tiết khi học trực tuyến thường ngắn hơn học trực tiếp nên sau mỗi buổi dạy, tôi đã mạnh dạn trao đổi tình hình học tập của các em với phụ huynh học sinh và hướng dẫn phụ huynh cách kiểm tra, hướng dẫn các em tự học ở nhà sao cho hiệu quả. Có những nội dung khó hiểu, tôi cũng mạnh dạn chia sẻ kiến thức bài học cho phụ huynh để họ có thể kèm cặp con em theo đúng hướng. Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ đó mà tôi thấy kết quả học tập của học sinh có tiến triển rõ rệt. 2. Biện pháp 2. Giúp học sinh phân biệt rõ các dạng toán và chuẩn bị cho việc giải toán. Hai loại toán ở lớp 3 nói riêng và ở Tiểu học nói chung là toán đơn và toán hợp. Mỗi loại toán này có vai trò quan trọng riêng của nó. Việc giải các bài toán hợp thực chất là giải một hệ thống các bài toán đơn. Có kĩ năng giải các bài toán đơn, học sinh mới có cơ sở giải các bài toán hợp. Do đó, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ bản chất bài toán đơn để vận dụng giải các bài toán phức tạp sau này.
  9. 7 Cùng với việc học phép nhân, chia, học sinh sẽ giải các bài toán đơn dùng phép cộng, trừ, nhân hoặc chia. Trong các đề bài toán bằng lời văn, học sinh thường gặp những từ chìa khoá như: "Gấp lên, giảm đi một số lần", "So sánh hai số hơn, kém bao nhiêu lần". Các từ này thường được gợi ra phép nhân, chia tương ứng. Giáo viên cần chú ý học sinh tránh nhầm lẫn "bao nhiêu lần" với "bao nhiêu đơn vị" và hiểu đúng khái niệm này. Củng cố thói quen đọc và hiểu đúng đề bài để ngăn ngừa tác dụng "cảm ứng" của các từ "chìa khoá". Giáo viên giúp học sinh nắm vững ý nghĩa của phép nhân và phép chia đồng thời giúp học sinh hiểu đúng các từ quan trọng trong đề toán. Với các bài toán đơn "Tìm một trong các phần bằng nhau của một số" gắn với phép chia. Đối với học sinh lớp 3, tư duy còn thiên về cụ thể nên hai loại bài toán "chia thành các phần bằng nhau" và "chia theo nhóm" tuy đồng nhất về mặt ý nghĩa toán học và đều giải bằng phép tính chia, nhưng lại là hai bài toán khác nhau về mặt ý nghĩa cụ thể. Tuy nhiên khi giải, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vượt qua sự khác biệt về mặt tâm lí để tập trung chú ý vào việc tìm ra và thực hiện đúng phép tính thích hợp, còn việc tìm ra từ thích hợp (phép chia) và việc tìm ra từ thích hợp để "danh số" hoá thương thì chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sống. Ví dụ 1: Bài 3/ trang 68 (sách Toán 3): Có 45kg gạo chia đều vào 9 túi. Hỏi mỗi túi có bao nhiêu ki-lô-gam gạo? Ví dụ 2: Bài 4/trang 68 (sách Toán 3): Có 45kg gạo chia vào các túi, mỗi túi có 9kg. Hỏi có bao nhiêu túi gạo? Với hai bài toán đơn trên, ở bài toán thứ nhất, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh thấy tìm 1 túi là tìm giá trị 1 phần, ta thực hiện phép chia : 45: 9 = 5(kg). Nhưng ở bài toán thứ hai ngoài việc tìm số túi là: 45 : 9 = 5 (túi) thì các em phải dựa thực tế để hiểu đó chính là đi tìm số phần bằng nhau và đơn vị của bài toán này khác đơn vị của bài toán trên. Như vậy, cần hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức thực tế khi giải toán sẽ giúp các em phân biệt được các dạng toán, từ đó các em hiểu được bản chất của mỗi bài và không nhầm lẫn khi làm bài. Mặt khác, do tư duy của học sinh lớp 3 đã có những tiến bộ, song vốn ngôn ngữ vẫn còn hạn chế nên việc nâng cao dần dần các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng một cách vừa sức học sinh, các yêu cầu về trừu tượng hoá cần được chú ý, nhất là diễn tả các điều kiện, việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng và tia số thay dần các
  10. 8 hình vẽ tượng trưng cần được coi như một công cụ phổ biến, tinh lược hoá những từ ngữ của đề toán, giúp các em tiếp cận tốt hơn với nội dung đề toán, từ đó dẫn đến định hướng cách giải bài toán chính xác hơn. Khi học sinh nắm vững cách giải các bài toán đơn, có thể gợi cho học sinh khá, giỏi dùng chữ thay dữ kiện (ở các bài có cấu trúc giống nhau), diễn đạt các cấu trúc toán học, từ đó củng cố ý thức về việc sử dụng các công cụ, thủ thuật toán học giống nhau khi giải chúng. Việc sắp xếp các bài toán đơn mà khi giải học sinh phải vận dụng các phép tính ngược sẽ giúp các em nâng cao và củng cố nhận thức về mối quan hệ giữa các phép tính ngược. Việc sử dụng hình vẽ hay sơ đồ để minh hoạ các điều kiện của bài toán là cần thiết với học sinh lớp 3 nói riêng và với học sinh Tiểu học nói chung. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ tác dụng của chúng là chỗ dựa cho suy luận trong việc giải toán. Đối với các bài toán dễ hay đã nắm vững cách giải cần chú ý đến phát huy trí tưởng tượng của học sinh, từng bước thay đổi chỗ dựa trực quan bằng hình ảnh trong óc suy luận, vừa giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết vừa thúc đẩy quá trình tư duy của học sinh. Biện pháp 3. Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước tiến hành giải một bài toán. Khi dạy trực tiếp trên lớp, việc hướng dẫn học sinh cách giải bài toán không hề đơn giản. Vậy làm thế nào để hướng dẫn học sinh cách giải một bài toán khi các em học trực tuyến để các em có thể nắm được cách làm một cách thấu đáo và vận dụng làm bài một cách tốt nhất có thể. Cái khó của việc giải bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải và phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên tôi đã hướng dẫn học sinh nắm chắc các bước giải toán như sau: - Bước 1: Đọc kĩ đề toán. - Bước 2: Tóm tắt bài toán. - Bước 3: Tự phân tích đề toán, tìm cách giải.
  11. 9 - Bước 4: Trình bày bài giải. - Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: a. Đọc kĩ đề bài (Tìm hiểu nội dung bài toán): Trong mỗi bài toán, giáo viên cần yêu cầu cả lớp đọc thầm đề bài để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “ những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện và ẩn số. Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên quan đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đã làm ngay. b. Tóm tắt đề toán: Sau khi học sinh đọc kĩ đề toán, tôi đã hướng dẫn các em tự tóm tắt bài toán theo một trong các cách sau: - Cách 1: Tóm tắt bằng lời. - Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. - Cách 3: Tóm tắt bằng hình tượng trưng Với mỗi đề toán, các em sẽ có con đường tóm tắt riêng theo ý hiểu nhưng cuối cùng giáo viên phải là người hướng cho các em chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu nhất, ngắn gọn nhất để dựa vào đó các em tìm ra cách giải bài toán một cách thuận tiện nhất. Ví dụ: Bài 4/ trang 56 (SGK Toán 3): Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 l, người ta đã lấy ra 185 l dầu từ các thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu ? Với bài toán trên học sinh cần xác định được: Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít. Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu. Cái cần tìm (ẩn số): Còn lại bao nhiêu lít dầu? Trên cơ sở phân biệt rõ cái gì đã cho (dữ kiện), cái gì là điều kiện, cái cần tìm (ẩn số) để tập trung suy nghĩ vào các yếu tố cơ bản này, cần giúp học sinh biết tóm tắt đề bài bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn cô đọng nhất. Đa số các bài toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng,
  12. 10 đều có những điều kiện để minh hoạ bằng sơ đồ (đoạn thẳng, hình vẽ tượng trưng). Vì vậy học sinh phải từng bước biết minh hoạ phần tóm tắt bằng sơ đồ, nhất là sơ đồ đoạn thẳng hoặc minh hoạ trên trục số để hiểu rõ yêu cầu của đề bài, tìm hướng giải cho phù hợp. c. Phân tích đề toán, tìm cách giải bài toán: Sau khi cho học sinh tóm tắt xong bài toán, tôi yêu cầu các em đọc thật kĩ lại đề toán (đọc thầm) rồi tự phân tích các dữ kiện và ẩn số của bài toán để sau đó các em tự giải được bài toán. Còn với học sinh chậm hơn, tôi có thể đưa câu hỏi gợi mở dẫn dắt học sinh các bước giải bài toán. Từ việc giải một bài toán đơn sang bài toán hợp, học sinh phải giải quyết một nhiệm vụ khó khăn là phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn. Trên tinh thần dạy học phát triển, việc làm cho các em nắm được các phương pháp chung và các thủ thuật cơ bản thường dùng để giải các bài toán đa dạng nhưng thường gặp và có những mức độ phức tạp khác nhau là rất cần thiết. Để giải quyết được vấn đề này, giáo viên cần giúp học sinh biết đưa về một bài toán đã biết cách giải. Khi giải một bài toán mới, học sinh biết đưa nó về một bài toán mà các em đã biết cách giải hoặc có thể liên tưởng tới những hành động thực tiễn nào đó mà các em đã thực hiện để giải quyết một nhiệm vụ nào đó thì các em có thể có một gợi ý về cách giải bài toán. Ví dụ 1: Bài 2 phần a/trang 38(Sách Toán 3): Một cửa hàng buổi sáng bán được 60 l dầu, số lít dầu bán được trong buổi chiều giảm đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng đó bán được bao nhiêu lít dầu ? Khi giải bài toán này, qua phân tích hai điều kiện của bài toán và tập trung chú ý vào hai điều kiện, các em dựa vào những bài toán đã học về: "Tìm một phần mấy của một số" để tìm số lít dầu bán được vào buổi chiều (60 : 3 = 20 (l.) Ví dụ 2: Bài 2/ trang 88(SGK Toán 3): Người ta uốn một đoạn dây thép vừa đủ thành một hình vuông cạnh 10cm. Tính độ dài đoạn dây thép đó. Đối với bài toán trên, các em cần phân tích các dữ kiện đã biết, kết hợp quan sát giáo viên thao tác trực quan trên mô hình để nhận thấy độ dài đoạn dây chính là chu vi hình vuông được tạo thành từ đoạn dây đó. Dựa trực quan, các em biết vận dụng cách tính chu vi hình vuông để tìm được độ dài đoạn dây thép là :
  13. 11 10 x 4 = 40 (cm) và giải thích cách làm một cách trôi chảy. Như vậy, việc quan sát các dữ kiện có vai trò quyết định trong việc tìm ra lời giải của bài toán, học sinh sẽ hiểu bài và làm bài một cách dễ dàng. d. Trình bày bài giải: Thực hiện giải bài toán bao gồm việc thực hiện các phép tính trong kế hoạch giải bài toán và trình bày bài giải. Dựa vào phần tóm tắt và quá trình tự phân tích bài toán của học sinh, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách chính xác và đầy đủ với những câu lời giải và cách giải khác nhau. Qua phần chữa bài của bạn, các em nhận xét, nêu lại cách làm của mình, có thể tương tác với nhau bằng hình thức hỏi đáp, phản biện, kiểm tra bài trong nhóm để cùng nhau chữa bài, giúp các em hiểu bài hơn. Ví dụ: Bài 3/Trang 74 (Sách Toán 3): Trong Hội khỏe Phù Đổng, đội tuyển của một tỉnh đã giành được 8 huy chương vàng, số huy chương bạc giành được nhiều gấp 3 lần số huy chương vàng. Hỏi đội tuyển đó đã giành được bao nhiêu huy chương? Để giải bài toán này, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng. Sau khi đọc kĩ đề bài ta thấy: Nếu coi số huy chương vàng là 1 phần thì số huy chương bạc sẽ là 3 phần bằng nhau như thế. Ta có sơ đồ: 8 huy chương Huy chương vàng: ? huy chương Huy chương bạc : Từ sơ đồ trên, ta dễ nhận thấy mối quan hệ giữa số huy chương vàng và số huy chương bạc đội tuyển đó giành được, từ đó có thể nêu ra cách giải toán. Bài giải Số huy chương bạc đội tuyển đó giành được là: 8 x 3 = 24 (huy chương). Số huy chương vàng và bạc đội tuyển đó giành được là: 8 + 24 = 32 (huy chương). Đáp số: 32huy chương. Cách 2: Ngoài cách trên, tôi đã hướng dẫn học sinh nhìn vào sơ đồ để nhận thấy số huy chương vàng đội tuyển đó giành được là 1 phần. Vậy số huy chương vàng và
  14. 12 bạc ứng với mấy phần như thế? (4 phần). Lúc này học sinh sẽ dễ dàng tìm ra số huy chương vàng và bạc đội tuyển đó giành được (8 x 4 = 32 (huy chương). Như vậy với mỗi bài toán, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm ra các cách giải khác nhau, từ đó các em phát triển được năng lực tư duy và giải quyết vấn đề. Kĩ năng so sánh, phân tích, tổng hợp cũng từ đó hình thành trong quá trình học giải toán của các em. e. Kiểm tra và đánh giá kết quả: Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải xong khi tìm được đáp số hoặc tìm được câu trả lời cho câu hỏi. Thế nhưng không phải học sinh nào cũng có niềm tin chắc chắn vào kết quả mình tìm được, chỉ cần giáo viên hỏi vặn lại một và câu là các em lại lúng túng, nghi ngờ cách giải của mình. Do đó kiểm tra cách giải và kết quả bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán. Việc làm đó giúp các em biết được kết quả bài làm cũng như cách giải bài toán của mình đã đúng chưa, có phù hợp không. Việc kiểm tra, đánh giá cách giải bài toán phải trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ những lớp học đầu cấp của bậc Tiểu học. Ở lớp 3, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết nhìn lại toàn bộ bài giải để vừa kiểm tra bài giải đã đúng chưa đồng thời vừa nắm vững thêm cách giải các bài toán. Giáo viên cần hướng dẫn từng bước cho học sinh soát lại và suy nghĩ về tính hợp lí của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dòng, chưa hợp lí để tìm cách cải tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự hỏi: "Có thể giải bằng cách khác không ?" Tìm được cách giải khác chính là tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh trong quá trình làm bài. Khi dạy giải toán, tôi đã hướng dẫn các em thông qua các bước: Đọc lại bài giải - Kiểm tra lại các bước giải - Thử lại kết quả bài toán để kiểm tra tính hợp lí của đáp số. Nhờ có sự kiểm tra cách giải bài toán nên tôi thấy các em ít sai sót hơn khi làm bài. Ví dụ: Bài 3/Trang 120 (SGK Toán 3): Một cửa hàng có 2024kg gạo, cửa hàng đã bán 1/4 số gạo đó. Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu ki-lô-gam gạo? Bài giải Số gạo cửa hàng đã bán là: 2024 : 4 = 506 (kg) Số gạo cửa hàng còn lại là:
  15. 13 2024 - 506 = 1518 (kg) Đáp số: 1518 kg gạo. - Để kiểm tra cách giải bài toán trên, tôi đã hướng dẫn học sinh thiết lập tương ứng giữa tổng số gạo còn lại với số gạo đã bán với tổng số gạo lúc đầu cửa hàng có. Ta thấy: 1518 + 506 = 2024 (kg). Dựa vào phép tính tương ứng trên, ta khẳng định bài toán có cách giải và kết quả đúng. - Xét tính hợp lí của đáp số, ta thấy số gạo của cửa hàng lúc đầu trừ đi số gạo còn lại thì ra số gạo đã bán: 2024 - 1518 = 506 (kg). Từ đó ta khẳng định đáp số trên là kết quả đúng. * Hình thức kiểm tra, đánh giá: Như trên đã phân tích, ta thấy việc kiểm tra đánh giá lại bài làm là vô cùng cần thiết. Cho nên hình thức tự kiểm tra được tiến hành thường xuyên và cần hình thành cho mỗi học sinh thói quen tự kiểm tra, đánh giá bài làm của mình. Bên cạnh đó để các bạn học sinh có cơ hội giao lưu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ thì giáo viên cũng có thể cho học sinh kiểm tra, đánh giá lẫn nhau trong nhóm, đánh giá bài làm của bạn khi chữa bài. Sau khi kiểm tra, các học sinh có thể tương tác bằng việc đưa ra lời nhận xét, góp ý phù hợp giúp bạn mình tiến bộ hoặc thông qua đó có thể được nghe ý kiến hay của bạn để mình học tập. Như vậy, nắm được các bước giải một bài toán là rất cần thiết, đó chính là việc rèn kĩ năng giải toán cho học sinh. Vì vậy giáo viên cần tạo cho học sinh có thói quen và coi đó là kĩ năng không thể thiếu được trong quá trình giải một bài toán. Có như vậy học sinh mới hiểu được bản chất của bài toán và giải được dễ dàng khi gặp các dạng toán khác nhau. 4. Biện pháp 4. Dự kiến được những sai lầm học sinh thường mắc phải trong khi giải toán để điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp. Trong khi giải toán, học sinh thường dễ mắc phải những sai lầm do tâm lí chủ quan hoặc thiếu cẩn thận. Những sai lầm có thể là xác định hướng giải sai, đặt câu lời giải và viết phép tính chưa đúng, đôi khi là tính toán nhầm lẫn dấn đến sai đáp số. Đây là những lỗi sai điển hình của học sinh lớp 3. Hiểu được điều này cho nên, trước khi dạy một dạng bài toán mới, tôi luôn đưa ra dự kiến sai lầm học sinh thường mắc phải khi học bài để có biện pháp khác phục những sai lầm đó giúp các
  16. 14 em không những hiểu bài mà cón tránh được những lỗi không đáng có khi các em làm bài. Ví dụ: Lập bài toán theo tóm tắt sau rồi giải bài toán đó: Tóm tắt : 4 xe : 8520 viên gạch 3 xe : … viên gạch? Với đề bài này, tôi thấy học sinh sẽ dễ mắc phải sai lầm là chưa linh hoạt khi đặt đề toán dựa tóm tắt đã cho, một số em sẽ lúng túng khi thực hiện bước rút về đơn vị. Chính vì dự kiến được sai lầm đó cho nên tôi đã cho các em thảo luận nhóm đôi để lập đề toán, rồi thảo luận các bước giải bài toán. Việc thảo luận sẽ giúp các em thay đổi hình thức học tập, hợp tác để giúp nhau học tập tiến bộ hơn. Quả thực, các em đã làm tôi rất hài lòng khi trình bày kết quả thảo luận nhóm với những bất ngờ từ việc đặt đề phong phú cho đến cách trình bày bài giải. Nhờ đó mà hầu như các em đã hiểu bài và làm bài rất tốt. Có em còn biết gộp hai bước tính để giải bài toán một cách ngắn gọn như: (8520: 4) x 3 = 6390 (viên) và giải thích cách làm của mình một cách trôi chảy, đầy tự tin. Như vậy, dự kiến sai lầm khi học sinh làm bài tưởng chừng không cần thiết nhưng nó lại là một việc làm hết sức quan trọng để mỗi giáo viên chúng ta có thể lựa chọn đưa ra giải pháp giúp các em học sinh ít mắc sai lầm hơn và sửa chữa những sai lầm khi các em mắc phải trong quá trình giải toán nói riêng cũng như làm bài nói chung. 5. Biện pháp 5. Hướng dẫn học sinh cách học và tự học khi thời lượng học trực tuyến không nhiều. Trong bối cảnh dịch bệnh kéo dài, các em tham gia học trực tuyến với số tiết và thời gian học mỗi tiết ít hơn so với học trực tiếp ở trường. Điều đó là thách thức cũng như áp lực đối với mỗi giáo viên. Bản thân tôi luôn trăn trở về điều này và đã chủ động hướng dẫn các em cách tự học để các em vẫn có thể tiếp thu được nội dung bài học. Trước tiên, giáo viên cần trò chuyện để định hướng cho các em cách học trong mùa dịch sao cho hiệu quả, nhất là với những dạng toán có lời văn mới mẻ với các em. Trong mỗi tiết học, tôi hướng dẫn các em những kiến thức trọng tâm cơ bản nhất, cho các em thực hành dạng bài tập mới dựa trên việc tương tác với bạn, với thầy cô. Ngoài ra tôi hướng dẫn các em phải biết bố trí thời gian tự học vào các buổi chiều, sắp xếp thời gian biểu cho phù hợp với từng môn. Các em có
  17. 15 thể tự học qua bài giảng giáo viên gửi, qua các phần mềm, qua các trang web toán học. Bản thân tôi cũng chia sẻ với các phụ huynh, nhờ các phụ huynh hợp tác hướng dẫn con học tập, mạnh dạn chia sẻ với cô giáo về tình hình tự học ở nhà của con. Hằng ngày, trước khi vào giờ học, tôi trò chuyện và cho các em chia sẻ việc tự học, kết quả đạt được thế nào. Cuối mỗi tuần, tôi cho các em tự đánh giá về việc tự học của mình và kết quả đạt trong tuần. Qua đó, các em sẽ được giao lưu cách học, bày tỏ nguyện vọng và trao đổi ý kiến với thầy cô, bạn bè. Tôi đã ghi nhận những gì các em đã đạt được và mong muốn những cố gắng mới của các em trong thời gian tiếp theo. Trải qua một quá trinh như vậy, tôi thấy việc tự học của các em đã có hiệu quả. Như vậy, việc rèn kĩ năng tự học cho học sinh là rất cần thiết. Nó rèn các em tính tự lập, từ đó giúp các em phát triển năng lực tự học và tự giải quyết vấn đề. 6. Biện pháp 6. Vận dụng linh hoạt các phần mềm trò chơi và các hình thức tổ chức dạy học trực tuyến. Hiện nay có rất nhiều phần mềm hỗ trợ dạy học trực tuyến. Tuy nhiên chúng ta cần phải lựa chọn được phần mềm nào đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của môn học. Mỗi phần mềm sẽ có những ưu, nhược điểm riêng mà chúng ta phải xem xét để có lựa chọn phù hợp nhất với đối tượng của lớp mình. Khi cho học sinh luyện tập để củng cố kiến thức tôi đã sử dụng phần mềm Classroom, AZOTA, Google Form. Qua các phần mềm này, học sinh được luyện tập dưới dạng tự luận và trắc nghiệm để rèn kĩ năng làm bài, giúp các em củng cố và mở rộng kiến thức. Qua việc làm bài, các em vẫn rèn được kĩ năng trình bày, tự đánh giá được kết quả tiếp thu bài và biết ngay kết quả đánh giá qua phần nhận xét của giáo viên và phần chấm điểm tự động. Như vậy, qua việc làm bài trên các phần mềm đã rèn kĩ năng làm việc độc lập cho các em, giúp các em chủ động hơn trong quá trình học tập. Để giúp các em hứng thú hơn trong mỗi giờ học toán trước màn hình máy tính, tôi thường vận dụng các phần mềm trò chơi như QUIZIZZ, EDUCANDY. Với mỗi trò chơi này, giúp các em khởi động trước khi vào bài mới hoặc củng cố kiến thức bài học để các em nắm chắc nội dung bài học hơn. Các câu hỏi tôi thường thiết kế dưới dạng trắc nghiệm nhiều lựa chọn. Khi tham gia trò chơi, các em rất hào hứng và tham gia nhiệt tình. Cuối mỗi trò chơi, tôi thường tổng kết trò chơi, khen ngợi cũng như nhắc nhở các em về nội dung cần ghi nhớ của một dạng toán nào đó. Như vậy
  18. 16 qua trò chơi, học sinh học mà vui, xua tan cảm giác mệt mỏi khi ngồi trước màn hình máy tính quá lâu, đồng thời cũng rèn cho các em phản xạ nhanh nhạy, khả năng quyết đoán và giải quyết vấn đề trong tình huống cụ thể. Trong mỗi giờ học toán, tôi thường xuyên cho các em thảo luận tương tác lẫn nhau để giúp nhau khám phá cách giải một dạng toán mới hay phản biện cách làm để giúp các em khắc sâu kiến thức. Đồng thời, qua việc chia sẻ của các em, giáo viên cũng thêm hiểu về nhận thức, tính cách của các em, từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học sao cho phù hợp. Việc tương tác với thầy cô, bạn bè hình thành ở các em kĩ năng hợp tác, giúp các em tự tin hơn khi học toán cũng như các môn học khác. Đôi khi giáo viên cũng cần sử dụng linh hoạt các phương pháp khác nhau như: thuyết trình, kể chuyện, hỏi đáp hay trò chơi học tập. Việc áp dụng trò chơi giữa các tiết học cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, hiệu quả hơn. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 đến 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập như đuổi hình bắt chữ, nhanh như chớp, lật mảnh ghép hoặc trò chơi vận động vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ và khắc sâu nội dung bài học. Như vậy, không chỉ trong tiết dạy toán mà bất cứ môn học nào, giáo viên cần linh hoạt khi sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Đó cũng là một yêu cầu khi dạy học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực cùa người học. Có như vậy, giáo viên mới tạo cơ hội cho học sinh được bộc lộ năng khiếu và phát triển một cách toàn diện. 7. Biện pháp 7. Thường xuyên khích lệ học sinh tạo hứng thú học tập cho các em. Đặc điểm chung của học sinh Tiểu học là thích được khen hơn chê. Do đó, mỗi lời khen ngợi, động viên của giáo viên sẽ khích lệ học sinh, giúp học sinh tự tin hơn và hứng thú hơn trong giờ học. Trong khi học giải toán hay bất kì môn học nào, lời khen của giáo viên luôn là động lực để các em cố gắng. Khi các em làm bài hoặc trả lời tốt, giáo viên có thể khen học sinh bằng lời, bằng phiếu khen, bằng hoa điểm tốt, bằng biểu tượng hay sticker. Bất kể phần thưởng nào cũng rất quý giá với
  19. 17 các em bởi những gì các em đạt được đã được cô giáo ghi nhận. Lúc đó, các bạn cảm thấy tự hào và tự tin vào khả năng của bản thân hơn. Còn đối với học sinh làm bài chưa tốt, tôi đã động viên và hướng dẫn các em sửa sai, nhắc nhở các em cố gắng. Khi các em trả lời hoặc làm được một ý trong bài thì tôi đã dành lời khen ngợi cho em đó về sự tiến bộ của em hôm nay hơn ngày hôm qua. Lời khen tưởng chừng như đơn giản nhưng đó lại là động lực để các em thấy các em luôn được đề cao, giúp các em bớt tự ti, có hướng phấn đấu và tiến bộ rõ rệt. Bên cạnh những lời động viên, lời khen trên lớp, tôi cũng thường xuyên gửi tin nhắn cho phụ huynh thông báo về những tiến bộ của các em. Việc phối hợp như vậy giúp phụ huynh vui vẻ và hợp tác kèm cặp con tốt hơn. Đôi khi, mỗi giáo viên chúng ta cũng cần đặt mình vào vai trò học sinh để thấy học sinh mong muốn gì ở cô, từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học cũng như giáo dục sao cho phù hợp. 8. Biện pháp 8. Luôn chú trọng dạy học theo định hướng phát triển năng lực. Khi dạy toán có lời văn hay bất cứ tiết toán nào, giáo viên cần chú trọng hướng tới phát triển năng lực cho học sinh. Mỗi dạng bài khác nhau thì giúp học sính hình thành những năng lực khác nhau. Với tiết toán cung cấp kiến thức mới, giúp học sinh hình thành năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp và tư duy. Còn ở tiết thực hành thì năng lực tính toán, giải quyết vấn đề và tự học được bộc lộ rõ hơn. Để tiết học không bị nhàm chán, tôi đã tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm khi gặp vấn đề mới và khó. Qua quá trình các em thảo luận nhóm để khám phá kiến thức thì năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề đã được hình thành. Mặt khác, năng lực giao tiếp cũng được phát triển. Tôi luôn tạo cơ hội cho các em bày tỏ ý kiến trong nhóm, trước lớp, phản hồi ý kiến với giáo viên và các bạn theo nội dung cần bàn luận thì tôi thấy các em không những hiểu bài mà còn tự tin hơn rất nhiều. Khi thực hành, để huy động tối đa khả năng làm việc của học sinh, tôi đã yêu cầu các em cần ứng dụng kiến thức vào cuộc sống hàng ngày để giải các bài toán có tính ứng dụng không còn xa lạ với các em, từ đó năng lực tự học và ứng dụng thực tế được phát triển. Ví dụ: Bài 3(Sách Toán3/trang 88) : Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép bởi 3 viên gạch như thế. Với bài tập này, tôi đã yêu cầu học sinh vân dụng kiến thức vừa học và kiến thức thực tế để giải bài toán. Tôi hỏi học sinh xem các em đã biết viên gạch men
  20. 18 chưa, chúng thường dùng để làm gì và yêu cầu học sinh vẽ hình minh họa đề toán. Sau đó cho các em thảo luận tìm chu vi hình chữ nhật đó với nhiều cách khác nhau. Với những hình vẽ khác nhau, các nhóm đã có những cách làm khác nhau khiến tôi hết sức bất ngờ. Sau đây là các cách giải bài toán của các nhóm: Hình vẽ minh họa: 20cm Cách 1: Cách 2: Bài giải Bài giải Chiều dài hình chữ nhật đó là: Chu vi hình chữ ghép bởi 3 viên gạch 20 x 3 = 60 (cm) gồm 8 đoạn bằng nhau, mỗi đoạn dài Chu vi hình chữ nhật đó là: 20cm. Do vậy chu vi hình chữ nhật đó (60 + 20) x 2 = 160 (cm) là: 20 x 8 = 160 (cm) Đáp số: 160cm. Đáp số: 160cm. Do vậy, để dạy học theo định hướng phát triển năng lực thì mỗi giáo viên hãy tạo điều kiện cho các em được được nói, được chia sẻ với thầy cô và bạn bè, hãy giúp các em trải nghiệm thực tế, biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Có như vậy, các em mới chiếm lĩnh kiến thức bài học một cách chủ động, tích cực. IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Trong năm học 2021 - 2022, tôi đã dạy học trên hai đối tượng là học sinh lớp 3A6 và 3A2 nhưng ở hai thời điểm khác nhau. Khảo sát học sinh trước và sau thử nghiệm với đề toán : “ Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc?”. Tôi đã thu được kết quả khảo sát như sau: Giải toán Giải toán Thời Hiểu cách làm Lớp Sĩ số thành thạo chậm gian SL % SL % SL % Trước 59 3A6 thử 17 28,8% 30 50,8% 12 20,3% HS nghiệm Sau thử 59 3A2 44 74,6% 13 22,0% 2 3,4% nghiệm HS
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2