intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 trường Tiểu học Ngũ Hiệp học bài thể dục phát triển chung đạt kết quả cao

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

18
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 trường Tiểu học Ngũ Hiệp học bài thể dục phát triển chung đạt kết quả cao" nhằm góp phần làm sáng tỏ, tìm ra những biện pháp có cơ sở khoa học mang tính khả thi về đổi mới phương pháp dạy học bài thực hành (ngoài trời) của môn Giáo dục thể chất.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 trường Tiểu học Ngũ Hiệp học bài thể dục phát triển chung đạt kết quả cao

  1. UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG TIỂU HỌC NGŨ HIỆP ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC NGŨ HIỆP HỌC BÀI THỂ DỤC PHÁT TRIỂN CHUNG ĐẠT KẾT QUẢ CAO” Lĩnh vực/ Môn : Thể dục Cấp học : Tiểu học Tên Tác giả : Trần Thị Hải Yến Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ngũ Hiệp Chức vụ : Giáo viên NĂM HỌC: 2022 – 2023
  2. 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đất nước ta đang ở trong thời kỳ đổi mới. Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là Quốc sách hàng đầu. Sức khỏe con người ngày càng được nâng cao hơn, cho nên việc giảng dạy, giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ, thế hệ tương lai mai sau trong trường học là một việc không thể thiếu. Đặc biệt ở lứa tuổi học sinh Tiểu học, việc rèn luyện thể chất cho các em thông qua các bài tập thể dục là một việc làm hết sức quan trọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Mỗi người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân mạnh khỏe tức là làm cho đất nước hùng mạnh thêm”. Chúng ta cũng nhớ rằng sức khỏe là vốn quý nhất của con người “Sức khỏe là vàng”. Thể dục thể thao góp phần bảo vệ tăng cường sức khỏe cho học sinh, phát triển các tố chất thể lực, đặc biệt là sức nhanh, khả năng mềm dẻo, khéo léo… Trang bị cho học sinh một số hiểu biết và kỹ năng vận động cơ bản về bài tập thể dục. Làm giàu thêm vốn kỹ năng vận động cơ bản thường gặp trong đời sống như: Đi, chạy, nhảy, ném....phù hợp với khả năng trình độ, lứa tuổi giới tính của các em. Tạo điều kiện cho các em tập luyện thường xuyên để nâng cao sức khỏe và thể lực của học sinh. Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng trong chương trình giáo dục phổ thông. Yêu cầu cấp thiết là hình thành và phát triển nhân cách học sinh với mục tiêu giáo dục toàn diện (đức, trí, thể, mỹ, lao động). Môn Thể dục là một môn học hết sức quan trọng trong nhà trường, học sinh tham gia học tốt sẽ góp phần phát triển thể chất, đảm bảo các yêu cầu về sức khỏe để tham gia học tốt các môn học khác cũng như thực hiện tốt các mặt hoạt động mà nhà trường đề ra. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 trường Tiểu học Ngũ Hiệp học bài thể dục phát triển chung đạt kết quả cao”. 1. Mục đích nghiên cứu - Việc chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 trường Tiểu học Ngũ Hiệp học bài thể dục phát triển chung đạt kết quả cao” này nhằm tìm ra
  3. 3 để phát huy tính tích cực, hứng thú trong học tập ở một phần cụ thể từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. - Đề tài còn góp phần làm sáng tỏ, tìm ra những biện pháp có cơ sở khoa học mang tính khả thi về đổi mới phương pháp dạy học bài thực hành (ngoài trời) của môn Giáo dục thể chất. - Giúp giáo viên hiểu rõ hơn vai trò của môn Thể dục và bài thể dục phát triển chung lớp 5. Góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học. Đề từ đó tổ chức cho học sinh lớp 5 học đạt hiệu quả cao hơn trong giờ Thể dục. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối lớp 5 Trường Tiểu học Ngũ Hiệp năm học 2022-2023. - Đối tượng nghiên cứu: Các nội dung bài thể dục phát triển chung lớp 5 được sử dụng tổ chức trong sách giáo viên Thể dục lớp 5. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. Tìm hiểu nghiên cứu phân phối chương trình, sách giáo khoa, nội dung điều chỉnh của Bộ và thực tiễn giảng dạy môn Thể dục tại trường Tiểu học. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Điều tra chất lượng môn học Thể dục trường tại Tiểu học Ngũ Hiệp trước và sau khi áp dụng sáng kiến. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm, rút ra kết luận và đưa ra một số đề xuất cho việc dạy học môn Thể dục có hiệu quả tốt hơn. Phương pháp dạy học thể dục và trò chơi vận động cho học sinh trường Tiểu học Ngũ Hiệp.
  4. 4 PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Qua những bài tập: Đội hình đội ngũ, bài thể dục phát triển chung, bài tập rèn luyện tư thế cơ bản, bài tập về kỹ năng vận động cơ bản, trò chơi vận động có tác động lên cơ thể các em, làm cho cơ thể các em chuyển biến về hình thái chức năng theo chiều hướng tích cực là một trong những mặt giáo dục có ý nghĩa nêu cao tầm vóc, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tốt về mặt thể chất. * Mục tiêu môn thể dục lớp 5: - Biết được một số kiến thức, kỹ năng vận động và giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực. - Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, kỷ luật, thói quen tự giác tập luyện Thể dục thể thao, giữ gìn vệ sinh và nếp sống lành mạnh. - Biết vận dụng ở mức nhất định những điều đã học vào nếp sinh hoạt ở trong và ngoài nhà trường. * Yêu cầu của bài thể dục phát triển chung: - Biết cách thực hiện 8 động tác của Bài thể dục phát triển chung nhằm rèn luyện và phát triển thể lực. - Thực hiện được các động tác tương đối chính xác, đúng biên độ, phương hướng và nhịp điệu. - Thuộc Bài thể dục phát triển chung để tập luyện hàng ngày. Để tìm ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 trường Tiểu học Ngũ Hiệp học bài thể dục phát triển chung đạt kết quả cao” là cần thiết, là điều kiện để học sinh phát huy tính tự giác sáng tạo trong học tập nâng cao chất lượng dạy học, đem lại hiệu quả giáo dục. 2. Cở sở thực tiễn * Thuận lợi và khó khăn: a. Thuận lợi: Môn thể dục do đặc thù của môn học là môn học ngoài trời và thực hành nên cách dạy học có nhiều điểm khác so với các môn học văn hóa. Trong điều kiện hiện nay, trong các nhà trường nói chung và trường Tiểu học Ngũ Hiệp nói
  5. 5 riêng, việc dạy và học đã có một số cải thiện nhất định về dụng cụ học tập, tranh ảnh miêu tả kỹ thuật động tác, phòng thể chất và sân bãi tập có chú trọng và khang trang, cơ bản gần như được hoàn thiện. - Ban giám hiệu Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao, khoa học và tạo điều kiện cho công tác chuyên môn. - Lãnh đạo địa phương đã chú ý quan tâm đến phong trào giáo dục thể chất. Đã cùng với nhà trường huy động nguồn lực từ phụ huynh học sinh để quyên góp, ủng hộ kinh phí cho các hoạt động TDTT, trang bị các phương tiện phục vụ cho dạy và học. - Hội phụ huynh, hội khuyến học hoạt động đều, có chất lượng. Các lực lượng giáo dục đã có sự phối hợp với nhà trường. - Năm học này, nhà trường đã được công nhận trường chẩn Quốc Gia mực độ I. Do đó cơ sở vật chất nhà trường luôn được đảm bảo, mạng lưới trường, lớp phù hợp, trang thiết bị nhà trường luôn được bổ sung tương đối đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học. - Học sinh ngoan, có ý thức tu dưỡng, rèn luyện và chăm chỉ học tập. b. Khó khăn: - Do diện tích khuôn viên còn hạn chế nên cơ sở vật chất nhà trường (khuôn viên, sân chơi, bãi tập, một số trang thiết bị dạy học) chưa thực sự đáp ứng nhu cầu của công tác dạy và học môn Thể dục. - Vẫn còn có một số cơ sở vật chất đồ dùng dạy học còn thiếu, chưa đủ đáp ứng cho môn học. Phòng thể chất còn nhỏ hẹp nên có một phần chưa tốt đến chất lượng giờ học, chưa tạo hứng thú, tính tích cực và còn hạn chế áp dụng các bài tập dạy học, dẫn đến chất lượng học của học sinh chưa cao. - Nhà trường chưa có nhà tập đa năng nên những hôm trời mưa hoặc nắng quá làm cho việc giảng dạy của giáo viên cũng như việc luyện tập của học sinh còn nhiều khó khăn. Mặc dù có phòng thể chất nhưng chưa đủ diện tích để cô và trò có những tiết học hiệu quả. Những buổi trời mưa hoặc nắng quá, các em còn phải học trong lớp, nên rất khó khăn cho các em trong việc thực hành.
  6. 6 - Nhiều phụ huynh phải đi làm ăn xa nhà nên sự quan tâm đến việc học của con cái là chưa kịp thời. Một số phụ huynh khác do nhận thức hạn chế còn phó mặc nhà trường, không để ý đến việc học tập của con em. - Trang phục thể dục của các em học sinh không đồng đều vì hoàn cảnh gia đình còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc tập luyện của các em không được thoải mái. *Bảng tổng hợp một số lỗi sai thường mắc trong bài tập thể dục phát triển chung đối với học sinh lớp 5. TT Động tác Lỗi sai Không vươn căng thân ở nhịp 1,3. 1 Động tác vươn thở Không hóp ngực ở nhịp 2. 2 Động tác tay Nhịp 1,2 co tay. Nhịp 1 nâng đùi chưa cao. 3 Động tác chân Nhịp 3, chân đá thấp, co gối và không duỗi căng mũi bàn chân. 4 Động tác vặn mình Quay thân chưa đủ 90 độ. 5 Động tác toàn thân Nhịp 1, tay giơ lên cao không thẳng (co tay). 6 Động tác thăng bằng Đưa chân ra sau thấp và co gối chân trụ, cúi đầu. Bị vặn người khi đưa tay sang ngang và co tay 7 Động tác nhảy khi giơ cao. 8 Động tác điều hòa Động tác của tay cứng quá, không lắc cổ tay. * Khảo sát chất lượng ban đầu Bài thể dục phát triển chung khối 5 của trường Tiểu học Ngũ Hiệp giữa HK1 năm học 2022-2023. TT Lớp Sĩ số Kết quả Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn
  7. 7 thành SL % SL % SL % 1 5A 49 18 36,73% 34 63,27% 0 0 2 5B 44 15 34,09% 29 65,91% 0 0 3 5C 41 12 29,27% 29 70,73% 0 0 4 5D 43 15 34,88% 28 65,12% 0 0 5 5E 51 24 47,06% 27 52,94% 0 0 6 5G 47 18 38,30% 29 61,70% 0 0 7 5H 42 16 38,10% 26 61,90% 0 0 Tổng 317 118 37,22% 199 62,78% 0 0% Bảng khảo sát kết quả ban đầu khi học bài thể dục của HS khối lớp 5 trường TH Ngũ Hiệp - Qua việc khảo sát kết quả ban đầu cho thấy số học sinh hoàn thành tốt bài thể dục phát triển chung còn thấp đạt 37,22%. Số học sinh được đánh giá hoàn thành cao hơn rất nhiều chiếm 62,78%. Nguyên nhân một phần do các động tác khó hơn và bài học thể dục lớp 5 yêu cầu cần các em học sinh cố gắng hơn so với lớp 1,2,3,4. Ngoài ra là do các bài tập đưa ra chưa phù hợp với tất cả các em học sinh khối lớp 5. - 3. Các biện pháp thực hiện 3.1. Biện pháp 1: Nghiên cứu tài liệu, tham khảo sách giáo viên, sách thiết kế bài dạy, sách báo giáo dục thời đại. - Giáo viên cần nắm vững đặc điểm, yêu cầu của nội dung giảng dạy như: Yêu cầu kỹ thuật từng động tác, độ khó, mấu chốt kỹ thuật, khối lượng vận động, thứ tự trước sau của động tác, mối liên hệ giữa các động tác, mối liên hệ giữa các nội dung…dự kiến những sai lầm có thể xảy ra ở học sinh để đề phòng hoặc sữa chữa là yêu cầu cần thiết trước mỗi giờ dạy. Vì vậy, trước mỗi tiết dạy tôi luôn nghiên cứu kỹ tài liệu, sách giáo viên, các tài liệu liên quan cùng với tình hình của lớp học từ đó định ra lượng vận động cho từng nội dung và cả giờ học, tìm các tổ chức động viên học sinh tập luyện đạt hiệu quả cao nhất. 3.2. Biện pháp 2: Lập kế hoạch bài học và chuẩn bị bài dạy - Xây dựng kế hoạch dạy học rất cần thiết cho mỗi họat động giáo dục nhằm xác định nhiệm vụ toàn diện (về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất ý chí và rèn luyện thể lực) yêu cầu phải cụ thể (mức độ học tập động tác mới, ôn bài cũ,
  8. 8 cái gì là chủ yếu, cái gì là thứ yếu…) khối lượng phải cụ thể (số lần tập, thời gian tập từng động tác…) sắp xếp nội dung có thứ tự rõ ràng và cách tiến hành cụ thể (cách triển khai đội hình, đội ngũ, chỗ đứng để giảng dạy tập mẫu của giáo viên, vị trí của học sinh). - Xác định được tầm quan trọng này, sau khi đã soạn giáo án xong, tôi nghiên cứu kỹ để nắm chắc nội dung, phương pháp và các bước lên lớp (Bởi vì khi lên lớp giáo viên thể dục dạy ngoài trời khác so với giáo viên dạy lớp là phải nắm vững các động tác). Có như thế việc giảng dạy mới thành thạo, thực hiện một cách chủ động, linh hoạt và có hiệu quả. - Ngoài nghiên cứu kỹ nội dung giảng dạy, tôi tập luyện trước những động tác của bài thể dục phát triển chung cho chính xác nhằm nâng cao kỹ thuật để khi lên lớp truyền thụ, hướng dẫn học sinh được tốt hơn. Bởi vì giáo viên là người làm mẫu, tập mẫu thì động tác phải chuẩn xác, không để bất kỳ một sơ suất nào. 3.3. Biện pháp 3: Chuẩn bị thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ tốt cho giảng dạy bộ môn. Thiết bị, đồ dùng dạy học là những phương tiện vật chất giúp giáo viên và học sinh tổ chức có hiệu quả trong quá trình giáo dục. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên, học sinh thực hiện dạy và học. Hơn nữa thiết bị, đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh phát huy tối đa được tính năng động khi tiếp cận thực tiễn nâng cao khả năng tự học, rèn luyện kỹ năng học tập và thực hành. Nếu việc ''Dạy chay, dạy suông'' làm cho người học không phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo thì tính hỗ trợ đắc lực của thiết bị, đồ dùng dạy học sẽ là cầu nối giữa người dạy và người học, làm cho hai nhân tố này gắn kết với nhau. - Trong giờ dạy bài thể dục phát triển chung sử dụng đồ dùng dạy học là: Tranh, ảnh, video, loa, còi,… 3.4. Biện pháp 4: Điều tra đặc điểm tâm sinh lý học sinh Tiểu học:
  9. 9 - Để giảng dạy tốt và giúp học sinh nắm vững kiến thức - kỹ năng môn thể dục theo chương trình quy định. Ngoài việc nắm vững nội dung, chương trình, cải tiến phương pháp giảng dạy thì việc nắm bắt tâm sinh lý của các đối tượng học sinh các khối lớp là một vấn đề cần thiết và hết sức quan trọng. - Học sinh Tiểu học thuộc lứa tuổi 6-11 tuổi, lứa tuổi này có những biến đổi quan trọng trong cuộc sống, học tập vì vậy đặc điểm tâm sinh lý thể hiện qua các hoạt động về nhận thức, tiếp thu…có những thay đổi cơ bản. - Đối với học sinh khối 5 khả năng tiếp thu được hình thành và phát triển, ý thức tự giác tập luyện động tác được nâng lên. Vì vậy nắm được đặc điểm từng đối tượng học sinh sẽ giúp giáo viên vận dụng tốt những phương pháp giảng dạy và theo hướng dạy học phân hóa đối tượng học sinh. - Ngay từ đầu năm học tôi đã phối hợp với giáo viên chủ nhiệm các lớp tôi phụ trách để tìm hiểu tình hình cụ thể của từng học sinh. Sau khi nắm bắt được về tình hình của học sinh tôi lên kế hoạch gửi lên Ban giám hiệu nhà trường phối hợp kết hợp với trạm y tế địa phương kiểm tra toàn bộ sức khỏe học sinh. Đặc biệt tôi chú ý đến các bệnh tật mãn tính, điêù kiện của địa phương… - Trước giờ học, tôi luôn cho các sự lớp báo cáo tình hình của các bạn trong lớp để nắm rõ những diễn biến sức khỏe, hoạt động học tập, lao động sinh hoạt, kết quả của bài trước. Từ đó để có những thay đổi tổ chức học tập, những vấn đề chung của cả lớp và những em cá biệt. Từ đó kịp thời điều chỉnh kế hoạch, mức độ hình thức, phương pháp lên lớp. Ví dụ: Năm học 2022-2023 ở khối 5 có 3 em học sinh là: Lê Kim Thạch lớp 5E, Vũ Quý Hiển lớp 5D, Nguyễn Khánh Huyền lớp 5G người ốm, gầy, nước da xanh xao yếu ớt, chậm chạp. Qua quá trình điều tra để nắm được đặc điểm tâm sinh lý cho thấy bản thân em khó hoàn thiện bài “Thể dục phát triển chung” và một số trò chơi đòi hỏi “Sức nhanh”. Bản thân tôi sử dụng việc giảng dạy theo hướng phân hóa đối tượng học sinh, khi giảng dạy tôi hướng dẫn và định hướng cho em những kiến thức cơ bản về động tác để khi sức khỏe em bình phục thì em sẽ thực hiện nội dung một cách dễ dàng… 3.5. Biện pháp 5 : Bồi dưỡng cán sự trong giờ thể dục
  10. 10 - Trong mỗi giờ học, đặc biệt là giờ thể dục cán sự lớp, nhóm có vai trò rất quan trọng. Giờ dạy thể dục đạt hiệu quả cao hay không chính là nhờ đội ngũ cán sự tổ chức cho nhóm hoạt động. Vì vậy, ngay từ những buổi đầu năm học tôi đã tổ chức hướng dẫn cho tất cả các em được lựa chọn làm cán sự những kỹ năng lãnh đạo, tổ chức cơ bản tôi đã áp dụng một số cách làm sau: - Mỗi lớp có một cán sự để giúp giáo viên, tổ chức hoạt động. Vì vậy tôi đã lựa những em có năng lực và thể lực tốt, có khả năng tổ chức, tích cực gương mẫu trong học tập, có uy tín trong tổ để hướng dẫn các bạn hỗ trợ giáo viên trong tập luyện phát hiện những sai trái của từng động tác báo cáo với giáo viên để sửa lại kịp thời. Vào các buổi học tôi hướng dẫn cho các em cách điều hành nhóm, cách hô các khẩu lệnh, cách tốt chức…Sau đó tôi cho các em thực hiện vai trò điều hành tổ, nhóm. - Với những em điều hành còn lúng túng tôi là người “làm mẫu” cho các em ,tức là tôi đóng vai là một nhóm trưởng tổ chức để các em học tập. - Các em làm cán sự, nhóm trưởng tốt tôi tập trung các cán sự cho các em theo dõi, học tập. - Nhằm phát huy khả năng tổ chức, kỹ năng điều hành của tất cả học sinh, tôi thường tổ chức luân phiên thay đổi các nhóm trưởng để tất cả các em trong lớp đều được làm nhóm trưởng. 3.6. Biện pháp 6: Sử dụng có hiệu quả phương pháp trực quan - Trong giáo dục thể chất, trực quan giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi vì hoạt động của học sinh chủ yếu mang tính chất thực tiễn, đồng thời một trong những nhiệm vụ của giáo dục thể chất là phát triển toàn diện các cơ quan cảm giác. - Trong môn Thể dục, để có một tiết học có hiệu quả cao, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập, tập luyện, nắm vững được nội dung bài học, không cần ghi lý thuyết, thực hiện động tác một cách chính xác, hoàn hảo không có dấu hiệu mệt mỏi, chán nản tập luyện cho có, cho xong, mà phải đảm bảo tốt chất lượng môn học. Muốn đạt được những yêu cầu trên, cần có phương pháp thiết yếu sau:
  11. 11 - Phương pháp giảng giải và làm mẫu: + Phương pháp giảng giải: - Giáo viên phải biết vận dụng giảng giải những điều quan trọng nhất, mấu chốt cơ bản nhất của động tác, phải đảm bảo chính xác về nội dung. Lời nói phải ngắn gọn, sinh động, hình tượng, hấp dẫn, nêu bật được những điểm chính của động tác thì học sinh mới khái niệm chính xác bước đầu, học sinh mới hứng thú học tập. Nói dài dòng, khó hiểu học sinh sẽ chán, ảnh hưởng tới mật độ luyện tập và khối lượng vận động của bài. - Việc giảng giải giúp học sinh nắm vững những nét cơ bản kỹ thuật, tránh được sai sót mắc phải trong tập luyện. Vì vậy việc chỉ dẫn của giáo viên có ý nghĩa đáng kể trong quá trình tập luyện, học tập. Ví dụ: Ở động tác “Thăng bằng” lời chỉ dẫn của giáo viên khi thực hiện bài tập nhắc học sinh là rất cần thiết. Như sau:“ Để giữ được thăng bằng tốt hơn thì chân làm trụ phải thẳng và không được khụy đầu gối”. - Bên cạnh đó đàm thoại là hình thức hỏi và trả lời. Câu hỏi dùng trong đàm thoại nhằm kích thích sự quan sát, tích cực sáng tạo trong suy nghĩ, giúp học sinh nắm được quy tắc đánh giá được hành động của mình và của bạn. Ví dụ: “Em thấy bạn làm động tác như vậy đã đúng chưa”?... + Làm mẫu (thị phạm): - Trước hết giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy. Giáo viên phải tập làm mẫu từng động tác, thao tác nhuần nhuyễn, phân tích rõ ràng từng chi tiết, yếu lĩnh kỹ thuật động trác trước khi lên lớp để học sinh hiểu và nắm bắt ngay. - Làm mẫu thì động tác phải đạt yêu cầu chính xác, đẹp, đúng kỹ thuật. Vì những động tác ban đầu dễ gây ấn tượng sâu trong trí nhớ các em. Đối với giáo viên không chuyên, giáo viên không có khả năng làm mẫu thì nên cho học sinh quan sát kỹ tranh ảnh hoặc có thể bồi dưỡng cán sự, chọn những em có năng khiếu tốt về mặt này để làm mẫu thay cho giáo viên khi giảng dạy động tác mới.
  12. 12 - Khi làm mẫu, giáo viên phải chọn vị trí đứng thích hợp để tất cả học sinh đều nhìn thấy các chi tiết của động tác. Tránh không nên để học sinh đứng ngược gió, quay mặt về hướng mặt trời, hay có những hoạt động khác trước mặt. Ví dụ: Bài thể dục phát triển chung, giáo viên cần đứng ở cự li phù hợp. - Khi giảng dạy động tác “Thăng bằng” đây là một động tác khó cho nên ngoài việc làm mẫu, giáo viên cần giảng giải kỹ thuật động tác rất kỹ cho học sinh; Tuy nhiên, trong quá trình tập luyện các em mắc sai sót rất nhiều (thường là các em không thăng bằng được, hay bị vấp ngã, đưa chân không thẳng, tay không ngang…) Cho nên khi thấy các em sai sót nhiều giáo viên nên tạm dừng và thực hiện làm mẫu lại đồng thời hướng dẫn cách “Thăng bằng” tốt hơn. - Làm mẫu phải kết hợp với giảng giải, nhắc nhở các em tập trung quan sát những khâu chủ yếu mà giáo viên yêu cầu, lời nói khi giảng giải phải rõ ràng để cho toàn thể học sinh đều nghe thấy. - Những sai sót nhỏ về kỹ thuật giáo viên có thể nhắc bằng lời. Nếu thấy cả lớp sai sót nhiều quá thì giáo viên nên tạm dừng lại và thực hiện làm mẫu, giảng giải lại kỹ thuật động tác đồng thời giáo viên cũng vạch ra những sai sót mà các em thường mắc phải, từ đó hướng dẫn học sinh cách tập luyện rồi tiếp tục tập luyện.
  13. 13 - Bản thân tôi khi dạy bài thể dục phát triển chung, học động tác mới tôi nêu tên động tác và làm mẫu hoàn chỉnh động tác giải thích ngắn gọn mà chính xác. Sau đó tôi làm mẫu lại và cho học sinh tập theo những động tác có sự phối hợp nhiều bộ phận, tôi luôn tập chậm từng nhịp và dừng lại ở những cử động khó để học sinh làm theo, lúc này tôi và cán sự quan sát xem động tác có đúng không? Sau một lần tập tôi cho học sinh xem tranh minh hoạ. Khi các em xem tranh, tôi chỉ cần nhấn mạnh những điểm cơ bản của động tác. - Tôi luôn thực hiện đúng những nội dung đã soạn trong giáo án, thực hiện vai trò chủ đạo giáo dục và phát huy tính tích cực tự giác của học sinh. - Bản thân luôn thực hiện đầy đủ và linh hoạt các bước lên lớp, các nguyên tắc, phương pháp giảng dạy và các điều kiện dạy học để nâng cao hiệu quả giờ dạy nhất là để cho học sinh được tập luyện nhiều. 3.7. Biện pháp 7 : Thực hiện khẩu lệnh trong bài học. - Khẩu lệnh của giáo viên phát ra phải nội dung chính xác, bắt buộc học sinh phải hành động theo. Ví dụ: Bài 16 : Động tác vươn thở và tay -Trò chơi “ Lăn bóng bằng tay” - Khi hô cho học sinh tập từng động tác, giáo viên hô tên động tác, sau đó hô lệnh bắt đầu. Ví dụ: “ Động tác vươn thở – bắt đầu” giáo viên dùng khẩu lệnh để điều hành nhịp hô nhanh hay chậm tùy theo tính chất của từng động tác. - Hô nhịp cho học sinh tập cả bài: Giáo viên vừa hô nhịp, vừa kết hợp nhắc nhở học sinh và kết thúc của động tác trước chính là tên của động tác sau. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu “ Bây giờ các em sẽ tập cả bài thể dục phát triển chung, mỗi động tác chúng ta tập 2x8 nhịp động tác vươn thở… bắt đầu 1,2,3,4,5,6,7,8,; 2,2,3,4,5,6,7, tay 1,2,3,4” 3.8. Biện pháp 8 : Phân bố thời gian tập luyện hợp lý. Bằng cách giáo viên làm mẫu, thông tin ngắn gọn giảm bớt thời gian giảng giải, phân tích của thầy các nội dung đưa ra chính xác và học sinh thực hiện. Để học sinh nắm bắt giáo viên chỉ cần tập đồng loạt 1 -2 lần sau đó triển
  14. 14 khai phân nhóm tập luyện ngay. Làm như vậy học sinh có điều kiện hoạt động dưới sự giám sát của giáo viên và cán sự lớp. 3.9. Biện pháp 9: Sửa sai chung cho toàn bài thể dục.. - Chỉ dẫn cho học sinh biết chỗ sai và làm mẫu đúng để học sinh làm theo - Giáo viên trực tiếp sửa chữa,uốn nắn ,điều chỉnh sai sót của học sinh - Có thể học sinh vừa tập vừa nghe những chỉ dẫn kịp thời của giáo viên - Giáo viên có thể cho dừng lại ở chỗ học sinh thường sai để tập luyện nhiều lần cho đến khi đúng mới tập động tác tiếp theo ,có thể sửa cho từng hàng hoặc từng cá nhân - Cần hô to, rõ ràng nhanh hoặc chậm tùy theo yêu cầu của từng động tác. - Cho một số em thực hiện động tác, sau đó giáo viên và học sinh nhận xét ,đánh giá rồi cùng tập theo động tác mẫu . - Khi phân nhóm, chia tổ để học sinh ôn tập, GV đi đến từng tổ để sửa sai. 3.10. Biện pháp 10: Tập phân nhóm. - Môn giáo dục thể chất đòi hỏi giáo viên phải đổi mới cách tổ chức sao cho giờ dạy học thật sinh động, hấp dẫn. Hứng thú tập luyện đạt đến lượng tập đồng loạt với lần lượt phân nhóm có quay vòng hoặc không quay vòng, cần thay đổi theo hướng nâng cao tích cực chủ động sáng tạo của học sinh bằng cách tăng cường sử dụng phương pháp trò chơi thi đấu theo tình huống hấp dẫn và đảm bảo tính an toàn. - Phát huy tính tích cực tự giác chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với trường, lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn luyện kỹ năng vận động vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. Nhằm tăng cường hoạt động tối đa của học sinh tạo điều kiện cho em nào cũng có thời gian hoạt động. - Phát huy tinh thần “ Học thầy học bạn” cùng khả năng thì mới tạo dựng được lòng tin cho mình chứ để em có hạn chế với em có khả năng thì em hạn chế không bao giờ dám tập, trong khi tập các em học hỏi nhau kích thích hoạt động một cách tự nhiên.
  15. 15 - Xác định bài học phân nhóm một giờ học.Tùy thuộc vào nội dung bài tập mới hay ôn tập để đưa nhóm tập triển khai sớm hay muộn. Ví dụ: Như bài giới thiệu kiến thức mới, kỹ thuật mới thì thời gian phân nhóm được tiến hành muộn hơn, sau khi đã giới thiệu các động tác nội dung bài tập, còn ôn tập thì có thể triển khai ngay mà không cần phải giới thiệu lại, kể cả giờ kiểm tra chúng ta cũng có thể phân nhóm, nhóm kiểm tra, nhóm ôn… 3.11. Biện pháp 11: Đội hình tập luyện. - Sử dụng đội hình phù hợp với nội dung bài học. Ví dụ: Bài 16 : Động tác vươn thở và tay -Trò chơi “ Lăn bóng bằng tay” Bài thể dục : * Đội hình tập luyện theo tổ:     GV * Đội hình thi đua trình diễn:   *Đội hình chơi trò chơi “ Lăn bóng bằng tay ”:
  16. 16 * Lưu ý trong giờ dạy: Khi tiến hành dạy giáo viên cần lưu ý những điểm sau: - Phân nhóm tập cần phù hợp nhóm tập thể lực theo giới tính; - Nhắc nhở những học sinh hiếu động hay đùa nghịch; - Giáo viên không nên góp ý kiến khi đang cao điểm tập luyện vì thời điểm này tính hiệu quả không cao và mang tính thống nhất vì chỉ nhắc riêng không đảm bảo tính tập trung; - Hết đợt giáo viên có thể củng cố hoặc bổ sung nêu ra một vấn đề mà các em chưa vận dụng thực hiện trong thao tác. 3.12. Biện pháp 12: Tập theo hình thức thi đua, tuyên dương. - Cuối mỗi buổi tập, giáo viên cho các em về vị trí ban đầu tập trung, giáo viên tổ chức cho thi đua giữa các tổ chức hoặc trình diễn giữa các tổ chức để tăng thêm sự hào hứng, cố gắng trong tập luyện tuyên dương tổ cá nhân tập luyện tốt trong buổi học, kết quả giờ học. - Thời gian học sinh tập sẽ có biểu hiện tốt phản ánh những điểm yếu, mạnh để giáo viên có phương pháp khắc phục kịp thời. - Qua đây ta có thể rút ra được tính tích cực, hứng thú của các biện pháp trên. 3.13. Biện pháp 13: Rút kinh nghiệm giờ dạy - Rút kinh nghiệm giờ dạy là đánh giá giờ dạy,phản ánh thực trạng đồng thời tìm những biện pháp giải quyết tình hình, sửa chữa những sai sót của học sinh sau mỗi tiết dạy, giáo viên cần nhìn lại toàn bộ những khâu lên lớp, tiến hành các bước lên lớp theo đúng kế hoạch đề ra không nội dung tập luyện có
  17. 17 hoàn thành được nhiệm vụ yêu cầu hay không, việc áp dụng hình thức tổ chức và sử dụng các phương pháp giảng dạy có thích hợp, hiệu quả không, khối lượng vận động có phù hợp với yêu cầu và năng lực học sinh. - Kết quả tập luyện của học sinh tiếp thu đến đâu, tồn tại những gì, tinh thần thái độ và tổ chức kỹ thuật của học sinh khi lên lớp ra sau…Những vấn đề được phân tích sau tiết dạy giáo viên phải ghi vào phần cuối giáo án, hoặc sau một kỳ học, cần phân tích đánh giá khái quát các vấn đề, những vấn đề này được ghi vào sổ công tác chuyên môn. - Đối với những động tác khó hoặc một số nhịp động tác khó tập giáo viên có thể cho các em tập đi tập lại nhiều lần ở nhịp đó hoặc động tác đó để các em nhớ và thực hiện thành thục hơn. - Để một tiết học có hiệu quả thì giáo viên luôn luôn nghiên cứu tài liệu ,chuẩn bị tốt giáo án, đồ dùng dạy học, dạy theo phương pháp mới, đánh giá đúng theo thông tư 22 được sửa đổi bởi thông tư 30. 4. Kết quả Trong thời gian áp dụng những giải pháp tổ chức tập luyện động tác thể dục, cũng như chuẩn bị tốt về sân bãi, dụng cụ để tập luyện, phương pháp giảng dạy, tôi thấy rằng học sinh luôn luôn yêu thích, ham học môn thể dục hơn, tham gia luyện tập một cách tự giác và tích cực. Các em luôn siêng năng và thường xuyên luyện tập, rèn luyện thân thể, rèn luyện sức khỏe, rèn luyện tố chất thể lực để phát triển tốt thể chất của các em học sinh ngày càng được nâng lên. Hơn nữa tính thật thà, tính trung thực, tính khiêm tốn của học sinh được thể hiện rõ rệt. Qua đó các em đã biết vận dụng vào trong học tập, kết quả đánh giá, nhận xét của các em cũng đạt cao hơn.
  18. 18 + Kết quả đánh giá cuối HK1 học sinh khối lớp 5 sau khi thực nghiệm như sau: Kết quả Chưa hoàn TT Lớp Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành thành SL % SL % SL % 1 5A 49 27 55,10% 22 44,90% 0 0 2 5B 44 25 56,82% 19 43,18% 0 0 3 5C 41 24 58,54% 17 41,46% 0 0 4 5D 43 25 58,14% 18 41,86% 0 0 5 5E 51 32 62,75% 19 37,25% 0 0 6 5G 47 28 59,57% 19 40,43% 0 0 7 5H 42 23 54,76% 19 45,24% 0 0 58,04 41,96 Tổng 317 184 133 0 0% % % - Niềm yêu thích của học sinh qua những buổi tập luyện các em có những bước tiến triển vượt bậc. Qua bước đầu vận dụng những biện pháp về “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học bài thể dục phát triển chung đạt kết quả cao” trên và cách làm mới để giảng dạy môn thể dục nói chung phân môn bài thể dục phát triển chung khối 5 nói riêng, tôi thấy sức khỏe của các em được nâng lên rõ rệt. Qua bảng thống kê trên, tôi thấy mức độ hoàn thành tốt trong kiểm tra đánh giá học sinh khi thực nghiệm nghiên cứu có sự tiến bộ hơn nhiều so với kết quả ban đầu. + Kết quả so sánh trước thực nghiệm và sau khi thực nghiệm cụ thể như sau: Lớp Nội dung Trước Sau Tăng Giảm
  19. 19 Hoàn thành tốt 36,73% 55,10% 18,37% 5A Hoàn thành 63,27% 44,90% 18,37% Không hoàn thành 0% 0% 0% 0% Hoàn thành tốt 34,09% 56,82% 22,73% 5B Hoàn thành 65,91% 43,18% 22,73% Không hoàn thành 0% 0% 0% 0% Hoàn thành tốt 29,27% 58,54% 29,27% Hoàn thành 70,73% 41,46% 29,27% 5C Không hoàn thành 0% 0% 0% 0% Hoàn thành tốt 34,88% 58,14% 23,26% 5D Hoàn thành 65,12% 41,86% 23,26% Không hoàn thành 0% 0% 0% 0% Hoàn thành tốt 47,06% 62,75% 15,69% 5E Hoàn thành 52,94% 37,25% 15,69% Không hoàn thành 0% 0% 0% 0% Hoàn thành tốt 38,30% 59,57% 21,27% Hoàn thành 61,70% 40,43% 21,27% 5G Không hoàn thành 0% 0% 0% 0% Hoàn thành tốt 38,10% 54,76% 16,66% 5H Hoàn thành 61,90% 45,24% 16,66% Không hoàn thành 0% 0% 0% 0% Cả Hoàn thành tốt 37,22% 58,04% 20,82% Hoàn thành 62,78% 41,96% 20,82% khối Không hoàn thành 0% 0% 0% 0% Bảng so sánh kết quả đánh giá trước thực nghiệm và sau thực nghiệm - Từ bảng so sánh trước và sau khi thực nghiệm của các em học sinh khối lớp 5 trường TH Ngũ Hiệp cho thấy tất cả các lớp đều có sự tiến bộ rõ rệt. Điều đó chứng tỏ các biện pháp tôi đưa ra phù hợp với các em và có hiệu quả rất tốt. + Tinh thần học tập của học sinh tích cực. + Học sinh luôn tự khẳng định mình trước thầy cô và bạn bè. + Các tổ trưởng và thành viên trong nhóm luôn nêu cao tinh thần tự giác tích cực. + Học sinh có hứng thú tham gia học tập môn học. *Kết quả môn thể dục dự thi cấp Thành phố: - Từ việc rèn luyện tốt bài thể dục thể lực của các em đã được nâng lên rõ rệt mà trong những năm học qua học sinh nhà trường tham dự thi cấp Thành phố, cấp huyện đã đạt được nhiều thành tích trong phong trào Thể dục thể thao.
  20. 20 - Năm học 2022-2023 nhà trường có học sinh tham gia dự thi Hội Khỏe Phù Đổng giỏi cấp huyện và cấp thành phố đã đạt được 9 giải cấp huyện (03 giải Nhất, 03 giải Nhì và 03 giải Ba) và 01 giải Nhất thành phố. Trong đó: + Đạt 03 giải Nhất: 02 giải môn Cờ Vua, và 01 giải môn Cầu lông; + Đạt 03 giải Nhì: 01 giải môn Aerobic, 01 giải môn Cầu lông và 01 giải môn Cờ Vua; + Đạt 03 giải Ba: 01 giải Wushu và 03 giải môn Cờ Vua. + 01 giải Nhất môn Cờ Vua cấp thành phố. + Những giải này chủ yếu là học sinh khối lớp 5.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2