intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1

Chia sẻ: Bananalachuoi | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

49
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm là việc trang bị vốn sống (kĩ năng sống) cho học sinh và con cái là một điều vô cùng cần thiết, giúp chúng có thể ứng phó trước các tình huống, quản lý cảm xúc, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh, cách để giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ, cách thể hiện bản thân một cách tích cực, lành mạnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 1. Lời giới thiệu : “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn  diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với  lý tưởng độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân  cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự  nghiệp xây  dựng và bảo vệ Tổ quốc” (   Luật   Giáo   dục   ­   2005).   Việc   giáo   dục   kỹ  năng sống cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng là vô  cùng cần thiết, nó phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo   “con người mới” với đầy đủ  các mặt “đức, trí, thể, mỹ”,   qua đó học sinh  được phát triển toàn diện và có thể đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội. Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở cho HS phát triển học  tiếp các bậc học tiếp theo, vì vậy bên cạnh việc trang bị cho học sinh những   vốn kiến thức kỹ  năng cơ  bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý  đến việc rèn kỹ  năng sống cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để  học sinh có thêm vốn kinh nghiệm thích  ứng với môi trường mới, yêu cầu  mới. Rèn kỹ năng sống cho học sinh là giúp cho học sinh thích ứng được với  môi trường xã hội, tự  giải quyết được một số  vấn đề  thiết thực trong cuộc   sống như vấn đề sức khoẻ, môi trường, tệ nạn xã hội,...để  các em có thể tự  tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ  mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn  luyện, học tập phấn đấu vươn lên. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà sự  nghiệp xây dựng XHCN  ở nước ta đang phát triển với tốc độ ngày càng cao, với qui mô ngày càng lớn   và đang được tiến hành trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ  thuật phát  triển như vũ bão, nó tác động một cách toàn diện lên mọi đối tượng, thúc đẩy  sự tiến bộ của xã hội. Song song với điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật   phát triển như  vũ bão, con trẻ  ngày nay luôn bị  bủa vây bởi game online,  Internet, cùng những chương trình ti­vi với đầy rẫy những bộ  phim đầy  ắp  các cảnh quay bạo lực, lừa lọc ... Chính vì vậy, việc trang bị  vốn sống (kĩ   năng sống) cho học sinh và con cái là một điều vô cùng cần thiết, giúp chúng  có thể   ứng phó trước các tình huống, quản lý cảm xúc, học cách giao tiếp,  ứng xử với mọi người xung quanh, cách để  giải quyết mâu thuẫn trong mối  quan hệ, cách thể hiện bản thân một cách tích cực, lành mạnh. 1
  2. Trong thực tế  hiện nay việc rèn kỹ  năng sống cho học sinh trong nhà  trường đã được chú ý đến, song nhiều trường nhất là các trường tiểu học còn  lúng túng trong việc tổ  chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kỹ  năng sống cho học sinh. Vậy làm thế  nào để  trang bị  cho học sinh những kĩ  năng sống là nhiệm vụ và yêu cầu bức thiết của ngành giáo dục nói chung và  mỗi giáo viên nói riêng       Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài:  “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1" 2. Tên sáng kiến:  Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Phượng ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Chấn Hưng ­ Số điện thoại: 0973 940 935   E_mail: thuyphuong8289@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Phượng  ­ Chức vụ: Giáo viên ­ Địa chỉ: Trường Tiểu học Chấn Hưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh   Phúc 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử Từ tháng 8 năm 2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Cơ sở lí luận 7.1.1. Đặc điểm tâm lý trẻ: ­ Đặc điểm về  thể  chất của trẻ: Cơ  thể  trẻ  em là nền tảng vật chất  của trí tuệ và tâm hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ  và tình cảm mới có khả  năng phát triển tốt. “Thân thể  khoẻ  mạnh thì chứa  đựng một tinh thần sáng   suốt”, ngược lại “tinh thần sáng suốt thì cơ  thể  có điều kiện phát triển”.  Trong cuộc sống thực tế cho thấy những trẻ có thể lực yếu thường hay ỷ lại,   phụ thuộc nhiều vào những người thân trong gia đình những việc làm tự phục   vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm tự lập dần: rửa chân tay, mặc quần áo,... ­ Một yếu tố  nữa  ảnh hưởng đến việc tự  lập của HS là hệ  thần kinh  của trẻ. Hệ thần kinh của trẻ tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh. Bộ  2
  3. óc của các em phát triển về  khối lượng, trọng lượng và cấu tạo. Đến 9, 10  tuổi hệ  thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện và chất lượng của nó sẽ  được giữ lại trong suốt cuộc đời. Khả  năng kìm hãm( khả  năng ức chế) của  hệ  thần kinh còn yếu. Trong khi đó bộ  óc và hệ  thần kinh của các em đang  phát triển đi dần đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Thầy cô giáo và   cha mẹ, người thân của các em cần chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ hình  thành tính tự  chủ, lòng kiên trì, sự  kìm hãm của bản thân trước những kích  thích của hoàn cảnh xung quanh, biết giữ  gìn trật tự  nơi công cộng và trong   lớp học. Mặt khác không được mắng, doạ dẫm, nạt nộ các em vì làm như thế  không những bị tổn thương đến tình cảm mà còn gây tác hại đến sự phát triển   thần kinh và bộ óc của các em.  ­ Khi trẻ bắt đầu gia nhập cuộc sống nhà trường ­ đi học tiểu học, các  em được học thêm những điều chưa hề có trong 6 năm đầu đời; khi gia nhập   cuộc sống nhà trường các em phải tiến hành hoạt động học – hoạt  động  nghiêm chỉnh có kỉ  cương, nề  nếp với những yêu cầu nghiêm ngặt. Chuyển  từ  hoạt động chủ  đạo là vui chơi sang hoạt động chủ  đạo là học tập; chắc  chắn trẻ  không tránh khỏi sự  bỡ  ngỡ  vì thế  phải chuẩn bị  cho các em tâm lí  chuẩn bị  sẵn sàng đi học.Việc rèn kĩ năng sống cho HS tiểu học cũng được  bắt đầu ngay từ những buổi đầu các em đến trường. Nếu  không chuẩn bị chu  đáo về mặt tâm lí cho trẻ trước khi đi học sẽ dẫn đến những tình huống như:   đòi theo bố  mẹ  về nhà, không dám nói chuyện với bạn bè,  không dám chào  hỏi thầy cô, không dám xin phép cô khi ra vào lớp,... không ít những tình  huống dở cười dở mếu vì trẻ lớp 1 không dám xin đi vệ sinh rồi bậy ra quần  ngay tại trong lớp, hoặc có trẻ  xin ra ngoài đi vệ sinh nhưng lại tranh thủ đi  chơi để GV phải đi tìm, .... ­ Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ bao gồm quá trình tri giác, chú  ý,trí nhớ, tưởng tượng, tư duy. Đặc điểm nhân cách của trẻ tiểu học gồm có:  tính cách, nhu cầu nhận thức, tình cảm, sự  phát triển của năng khiếu. Sự  nhận thức của trẻ   ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nhân cách,  ảnh hưởng   đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sống của trẻ. Sự  nhận thức đúng   đắn sẽ giúp trẻ có được kiến thức vận dụng trong cuộc sống sinh hoạt, giao  tiếp,  ứng xử  phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội. Một đặc điểm quan  trọng trong lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước. HS tiểu học thích bắt  chước hành vi, cử chỉ, lời nói,... của các nhân vật trong phim, của các thầy cô   giáo, của những người thân trong gia đình. tính bắt chước là con dao “hai  lưỡi”, vì trẻ em bắt chước cái tốt cũng nhiều, cái xấu cũng lắm. Chính vì vậy  những tính cách hành vi của những người xung quanh là môi trường  ảnh  hưởng trực tiếp đến tính cách, hành vi, ứng xử của trẻ. Các dạng hoạt động của trẻ em được thực hiện trong các quan hệ: 3
  4. Trẻ em – Gia đình Trẻ em ­ Đồ vật  Trẻ em – Nhà trường Trẻ em – Xã hội Trong các mối quan hệ, quan hệ thầy trò là mối quan hệ đặc biệt của   mối quan hệ  người – người.  Ở  tiểu học, do uy tín của người thầy giáo các  quan điểm, niềm tin, toàn bộ những hành vi cử chỉ chủa người thầy thường là  những mẫu mực cho hành vi của học sinh nói chung. Nó  ảnh hưởng sâu sắc  đến thái độ  và cách ứng xử của các em trong quan hệ với người khác và với  xã hội. Các em thường tin tưởng tuyệt  đối  ở  nơi thày cô giáo nên chúng  thường bắt chước những cử  chỉ  tác phong của thầy cô giáo mình.  ở  trường   các em còn được tiếp xúc với bạn bè, với tập thể  nhóm bạn, tổ, lớp; những  hoạt động tập thể  cũng  ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển   nhân cách, rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ.  7.1.2. Đặc điểm sinh lý trẻ: Trong quá trình giáo dục học sinh, rèn kĩ năng sống cho học sinh, người   giáo viên không những cần am hiểu về  tâm lý trẻ  em mà còn phải có kiến   thức về sinh lý trẻ em. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và phân loại hoạt động thần kinh ở trẻ  em làm 4 loại: Loại hình thần kinh mạnh, cân bằng, hưng phấn tối  ưu, nhanh: đặc  điểm của loại hình thần kinh này là các phản xạ  có điều kiện được hình  thành bền vững; ngôn ngữ trẻ phát triển rất tốt với khối lượng từ lớn. Loại hình thần kinh mạnh, không cần bằng, hưng phấn tăng, kém kiềm   chế: Đặc điểm của trẻ em thuộc nhóm này là quá trình hưng phấn mạnh, ức  chế  yếu. Các em rất dễ  bị  xúc động. Cũng do hưng phấn mạnh nên chúng  nóng nảy hay cáu gắt. Trẻ  em thuộc nhóm này thường hay nói nhanh và hét   trong khi nói. Loại hình thần kinh mạnh, cân bằng, chậm: Đặc điểm trẻ  em thuộc  nhóm này là chậm chạp. Chúng nhanh biết nói nhưng thường hay nói chậm.  Đây là những đứa trẻ tích cực và kiên trì khi thực hiện bất kì một nhiệm vụ  khó khăn nào. Loại hình thần kinh yếu với quá trình hưng phấn giảm: Quá trình hình  thành phản xạ có điều kiện ở trẻ em thuộc nhóm này rất khó khăn. Trẻ chóng  bị mệt mỏi, không chịu được tác động của các kích thích mạnh và kéo dài. Việc xác định loại hình thần kinh có tầm quan trong đặc biệt đối với  giáo dục, việc tạo ra môi trường giáo dục cho học sinh sẽ  giúp cho việc cải   tạo, làm xuát hiện những tính chất mới trong hoạt động thần kinh. 4
  5. Trên cơ  sở  những hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, người giáo viên có thể  phân loại nhóm học sinh và tìm các biện pháp phù hợp với các đối tượng học  sinh để giáo dục rèn luyện, rèn kỹ năng sống cho học sinh. Như vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học hiện nay đang là   vấn đề được cả  xã hội quan tâm trú trọng. Bộ  giáo dục và đào tạo đã đặt ra  cùng với việc triển khai “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”  là liên tục mở các lớp tập huấn giáo dục kĩ năng sống, tăng cường vốn sống   cho học sinh , nhất là học sinh Tiểu học ; phụ huynh cũng đã quan tâm , ủng   hộ  cho con em đến với các lớp kĩ năng sống này. Tuy nhiên việc giáo dục kĩ  năng sống phải gắn bó mật với việc xác định giá trị sống. Giá trị là gốc còn kĩ  năng sống chỉ  là phần ngọn. Vì vậy, dạy về  kĩ năng sống là dạy cái gốc rễ  của cuộc  sống,  là dạy cho  mọi người  cách  sống  với  nhau bằng  tình yêu  thương và sự tôn trọng.  Học sinh hiện đại sống trong xã hội phát triển cần phải được trang bị  những kĩ năng thích hợp để hòa nhập với cộng đồng, với xu thế toàn cầu hóa.  Đối với học sinh, đặc biệt là học sinh bậc Tiểu học nói chung và học sinh lớp   1 nói riêng cần phải được giáo dục một số vốn sống, kĩ năng sống cần thiết.   Do đó , Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đầu cấp càng trở  nên cấp thiết  đối với mọi thời đại xã hội,. Các em là những chủ  nhân tương lai của đất  nước. Lứa tuổi tiểu học là lứa tuổi đang hình thành những giá trị  nhân cách,   giàu  ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá. Song các em còn thiếu   hiểu biết sâu sắc về xã hội, thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động,  … Vì vậy, việc giáo dục và rèn luyện kỹ  năng sống cho các em là rất cần   thiết. Việc giáo dục kỹ năng sống sẽ không đạt kết quả nếu chúng ta không   quan tâm đến giáo dục giá trị sống. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là làm sao để  giáo dục được kĩ năng sống cho học sinh tiểu học? Trong hướng dẫn tổ chức giáo dục giá trị  sống, kỹ  năng sống cho học  sinh tại các cơ  sở  giáo dục, của Bộ  GD&ĐT, các trường căn cứ  điều kiện  thực tế của địa phương và đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi, khả năng, nhu cầu  của học sinh để  tổ  chức các hoạt động giáo dục giá trị  sống, kỹ  năng sống   cho học sinh, không gây áp lực, không ép buộc học sinh tham gia. Đồng thời,   việc tổ  chức giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh phải đảm bảo an toàn,  nghiêm túc, thiết thực, hiệu quả, phát huy tính tự  quản, chủ  động, sáng tạo  của học sinh. Về  nội dung giáo dục kỹ  năng sống, Bộ  GD&ĐT chỉ  rõ giáo dục cho   người học những kỹ năng cơ bản, cần thiết, hướng tới hình thành những thói  quen tốt giúp người học thành công, bảo đảm vừa phù hợp với thực tiễn và  thuần phong mỹ  tục Việt Nam vừa hội nhập quốc tế  trong giai đoạn công   5
  6. nghiệp hoá đất nước. Nội dung giáo dục kỹ năng sống phải phù hợp với từng  lứa tuổi và tiếp tục được rèn luyện theo mức độ tăng dần. Theo các chuyên gia về  giáo dục, kĩ năng sống không phải là tri thức   được chuyển tải theo cách thông thường. Thậm chí giáo dục kĩ năng sống  bằng lời khuyên, sự thuyết giảng đạo đức, ... thường không đem lại kết quả.   Giáo dục kí năng sống chỉ thực sự hiệu quả khi chính bản thân học sinh được  trải nghiệm thực tế, trải nghiệm cảm xúc,... dẫn đến thay đổi nhận thức, thái  độ, hành vi. Học sinh, nhất là học sinh tiểu học luôn có nhu cầu khẳng định mình,  muốn được thể  hiện, luôn mong muốn khám phá các năng lực của bản thân  và muốn phát huy những năng lực, sở  trường của mình về  một số  lĩnh vực  nào đó, chính vì thế  các kĩ sống của mỗi học sinh sẽ  được hình thành bởi   chính quá trình tìm kiếm, khám phá và trải nghiệm . 7.2. Cơ sở thực tiễn ­ Môi trường  ảnh hưởng đến kỹ  năng sống của trẻ: Thời gian trong 6  năm đầu đời và giai đoạn học tiểu học của trẻ, các em sống trong gia đình,   nhà trẻ và lớp mẫu giáo, trường tiểu học, các em bước đầu tích luỹ được một  số ít những kinh nghiệm, kĩ năng, tri thức, kinh nghiệm, các thói quen đạo đức  để các em dùng trong cuộc sống hàng ngày bằng cách học lỏm, học mót, học  tại chỗ, học trực tiếp nhờ phương pháp kèm cặp, truyền tay, thầy cô hướng  dẫn,...  ­ Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên  thế giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát  triển mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh   hưởng đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ  phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan  tâm, mải lo đến việc làm kinh tế  mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ,  quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm  ấm, người lớn gương  mẫu, quan tâm dạy dỗ  trẻ; Không những thế  còn có những gia đình cha mẹ  nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè,...ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới   sự phát triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy  dỗ  trẻ  cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh tế, quá  chiều chuộng con dẫn đến trẻ  thiếu sự  sáng tạo, luôn  ỷ  lại, phụ  thuộc vào   người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử  lý thế  nào, hạn chế  trong việc tự  bảo vệ  bản thân mình; hoặc có trẻ  được   chiều chỉ  làm theo ý của mình chứ  không làm theo ý người khác. Bên cạnh  việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kỹ  năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ  chối cám dỗ, biết  ứng xử,   6
  7. biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ  là người tác  động tốt đến gia đình, xã hội. ­ Trong các nhà trường ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi  nhau, chửi nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp,  trốn học đi chơi,... ­ Trong thực tế hiện nay việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn   kỹ năng sống cho học sinh  ở  một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu  thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung,   biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn   mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ rèn kỹ năng sống cho học sinh là rèn những kỹ  năng gì; vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp,   hình thức tổ  chức hữu hiệu  để  rèn kỹ  năng sống cho học sinh.   Các nhà  trường đã có tổ chức một số hoạt động nhằm rèn kỹ năng sống cho học sinh   nhưng còn chung chung, chưa đi sâu, chưa thể hiện thường xuyên rõ nét. ­ Kết quả khảo sát đầu năm: HS lớp 1E trường TH Chấn Hưng TSHS Tự mặc quần áo Tự giác ngồi học ở nhà Tự mình mặc  Cần người lớn  Tự giác  Chưa tự giác, bố  quần áo giúp mặc quần  không cần  mẹ phải nhắc  áo nhắc nhở nhở nhiều SL % SL % SL % SL % 38 15 39,4 23 60,6 11 28,9 27 71,1 Như  vậy, việc bồi dưỡng hình thành cho các em những năng lực, phẩm  chất đạo đức, những thái độ  đúng đắn , những ý thức bảo vệ  môi trường   sống, giữ  gìn giá trị  bản thân, ... đâu phải đó là một bài mẫu có sẵn, áp đặt,   khuôn mẫu để học sinh thực hiện theo. Mà nhiệm vụ của từng môn học trong  chương trình Tiểu học là một chuẩn mực hành vi đạo đức, là các giá trị sống  vô cùng cần thiết giúp các em nắm được những điều sơ  đẳng của phép ứng  xử  trong cuộc sống hằng ngày, cách giữ  gìn môi trường tự  nhiên trong sạch.  Qua bài dạy của giáo viên các em nắm được nội dung và ý nghĩa của chuẩn  mực hành vi đạo đức trong các hoạt động và trong các mối quan hệ xã hội,... Chúng ta đang sống trong một thời đại mà việc dạy sao cho trẻ em nên  người thực sự là một thách thức. Con trẻ ngày nay luôn bị bủa vây bởi những   game online, Internet, cùng những chương trình ti­vi với đầy rẫy   những bộ  phim đầy ắp các cảnh quay bạo lực, lừa lọc,... Thách thức mà chúng ta đang  7
  8. đối mặt cũng là thách thức mà từ bao lâu nay, các nhà triết học, tâm lý học đeo  đuổi và tìm cách giải quyết.  Trong bối cảnh như  vậy, chúng ta cần truyền cho học sinh một vốn   sống lành mạnh, đúng đắn , những kĩ năng cơ  bản mà sẽ  là hành trang cho   chúng mang theo trong suốt cuộc đời như: sự chân thật, đoàn kết , công bằng,  cảm thông , chia sẻ, yêu thương và sự tự tin, biết tôn trọng bản thân và những  người xung quanh, khiêm tốn, dũng cảm và rộng lượng, ... Thiếu nền tảng giá  trị sống vững chắc, con người rất dễ bị  ảnh hưởng bởi những giá trị vật chất   và rồi mau chóng định hình chúng thành mục đích sống, đôi khi đưa đến kiểu   hành vi thiếu trung thực, bất hợp tác, vị  kỷ  cá nhân. Giá trị  sống giúp chúng   cân bằng lại những mục tiêu vật chất. Mặt khác, nếu không có nền tảng giá  trị sống rõ ràng và vững chắc, dù cho được học nhiều kỹ năng đến đâu, chúng  sẽ không biết cách sử dụng nguồn tri thức ấy sao cho hợp lý, mang lại lợi cho   bản thân và cho xã hội. Không có nền tảng giá trị, chúng sẽ  không biết cách  tôn trọng bản thân và người khác, không biết cách hợp tác, không biết cách  xây dựng và duy trì tình đoàn kết trong mối quan hệ, không biết cách thích   ứng trước những đổi thay, có khi còn tỏ  ra tham lam, cao ngạo về  kỹ  năng  mình có. Bằng việc nâng cao nhận thức và đưa các thành tố  trọng yếu của kỹ  năng sống vào cuộc sống của học sinh sẽ giúp các em nâng cao năng lực để  có được những lựa chọn lành mạnh hơn, có được sự  kháng cự  tốt hơn với   những áp lực tiêu cực và kích thích những thay đổi tích cực trong cuộc sống   của các em. Chính vì vậy, trước khi hình thành những kỹ  năng sống nào đó,  học sinh cần được cảm nhận rõ ràng về  các giá trị  sống và sự  lựa chọn của  các cá nhân ấy đối với các giá trị. Chính vì thế  ngoài việc học cách để  làm nhằm chuẩn bị mưu sinh cho  cuộc sống, thế  hệ mầm non tương lai của đất nước cũng cần biết nên sống  ra sao. Nghĩa là làm thế  nào để   ứng phó trước tình huống, quản lý cảm xúc,  học cách giao tiếp,  ứng xử  với mọi người xung quanh, làm thế  nào để  giải  quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ, làm thế  nào để  thể  hiện bản thân một  cách tích cực, lành mạnh. Bên cạnh đó, lứa tuổi học sinh cũng cần được trang  bị  các kỹ  năng như: ý thức về  bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ  sáng tạo và có phán đoán, truyền thông và giao tiếp có hiệu quả, giải quyết  vấn đề, tự ra quyết định, ứng phó , kiểm soát với cảm xúc của bản thân...  Đặc biệt  trong một  xã hội cạnh tranh khốc liệt như  hiện nay, nếu  không được trang bị sẵn một vốn sống, một hiểu biết sâu rộng thi chắc chắn   khi lớn lên, các em sẽ  khó có thể   ứng phó tích cực nhất trước những tình   huống thử  thách, hoặc sẽ  dễ  dàng bị  sa ngã, bị   ảnh hưởng tiêu cực bởi môi  trường sống. 8
  9. 7.3. Thực trạng  giáo dục kĩ năng sống ở trường TH Chấn Hưng 7.3.1.Một số quan niệm về kỹ năng sống: ­ Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội cơ bản giúp cho cá nhân  tồn tại và thích  ứng trong cuộc sống, giúp cho mỗi người vững vàng trước  cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ  hội trong thực tại. Kỹ  năng sống đơn giản là tất cả  những điều cần thiết chúng ta phải biết để  có   được khả  năng thích  ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc  sống. ­ “Năng lực tâm lý xã hội là khả  năng  ứng phó một  cách có hiệu quả  với những yêu cầu thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá  nhân để  duy trì một trạng thái khoẻ  mạnh về  mặt tinh thần, biểu hiện qua   những hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn   hoá và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng  trong việc phát huy sức khoẻ theo nghĩa rộng về thể chất, tinh thần và xã hội.  Kỹ   năng   sống   là   khả   năng   thể   hiện   thực   thi   năng   lực   tâm   lý   xã   hội  này”(WHO­1993). ­ “Giáo dục dựa trên kỹ  năng sống cơ  bản là sự  thay đổi hành vi hay  một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ, hành  vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái  độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, tin tưởng vào giá trị nào) thành hành  động (làm gì và làm như thế nào)”(UNICEF). ­ Kỹ năng sống được thể hiện trong kỹ năng đánh giá, quyết định, hành  động, ứng xử,... trong các mối quan hệ đa dạng:      + Mối quan hệ với bản thân (sức khoẻ, thật thà, trung thực, kiên nhẫn, tự  kiềm chế,... )      + Mối quan hệ của các em với những người xung quanh (ông, bà, cha, mẹ,  anh chị em, thầy cô giáo, những người lớn tuổi, bạn bè,...)      + Mối quan hệ của các em với công việc(học tập, hoạt động của lớp, của   trường, công việc giúp đỡ gia đình, hoạt động xã hội,...)       + Mối quan hệ  của các em với thiên nhiên (môi trường, động vật, thực   vật,....)      + Mối quan hệ của các em với tài sản riêng, tài sản chung(tài sản riêng: đồ  dùng học tập, sách vở, quần áo,....; tài sản chung: bàn ghế, đồ  vật trong lớp,  trong trường, các di sản văn hoá, di tích lịch sử,...)      + Mối quan hệ của các em với xã hội (quê hương, Tổ  quốc, Bác Hồ, bộ  đội, thương binh, gia đình liệt sĩ,...) 7.3.2. Thực trạng về giáo dục kỹ năng sống  hiện nay . 9
  10. Từ  những năm 90 của thế  kỷ  XX đến nay, khái niệm thường được  nhắc đến trong giáo dục nhân cách cho HSTH chính là giáo dục kỹ năng sống.   Ở Việt Nam hiện nay, khi nói đến giáo dục kỹ năng sống, không ít người, kể  cả  một số  giáo viên, vẫn cho rằng đây là một vấn đề  mới, cần đưa vào nhà  trường để  giáo dục học sinh trước khi trở  nên quá muộn. Thực ra, điều đó  không mới, chỉ  là cách gọi khác của việc giáo dục đạo đức, thái độ  (hình   thành nhân cách) và giáo dục kiến thức, kỹ năng (bồi dưỡng nhân tài) cho học  sinh.  Trong giai đoạn hiện nay, có những ý kiến cho rằng nhà trường dường  như  thiên lệch việc giáo dục “Tài” so với việc giáo dục “ Đức”. Nhưng  Bác  Hồ đã nói  “ Có tài mà không có đức là vô dụng                             Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”        Ghi nhớ  lời dạy của Bác Hồ, Đảng ta khi đánh giá một con người  luôn lấy đức làm gốc. Một con người không có đức dù tài cán đến đâu cũng   không thể làm nổi việc gì có ích cho dân, cho nước. Xuất phát từ thực tiễn xã   hội hiện nay, tác động của ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn đến tư  tưởng đạo   đức của học sinh ngay từ khi bước vào trường học. Đối với học sinh lớp Một   khi cắp sách tới trường, tất cả  mọi hoạt động, các mối quan hệ  với các em   còn mới mẻ. Do vậy việc hình thành cho các em những kĩ năng sống là điều   rất quan trọng Tuy nhiên trước một nền giáo dục thời đại không đồng nhất giữa gia  đình, nhà trường và ngoài xã hội dễ  khiến cho trẻ  em rơi vào những khủng   hoảng tiêu cực và có  ảnh hưởng không nhỏ  đến bước đường tương lai sau   này. Sự bùng nổ thông tin khiến cho HSTH có thêm nhiều lựa chọn, điều này  dễ  khiến các em bị  phân tâm, sao nhãng trong việc định hướng cuộc đời về  sau này. Về phía gia đình, cha mẹ cũng một phần đang có khuynh hướng ngại  ngần hy sinh bằng quan tâm thực sự đến con cái trên nhiều khía cạnh: tâm lý   cảm xúc, mong muốn nguyện vọng của các em. Những thách thức đang đặt ra  đang cần lắm sự  gánh vác, tinh thần trách nhiệm cao cả  của quý thầy cô.  “Tình yêu đi vào tận tâm hồn” chính là chiếc chìa khóa diệu kì mà Đức Cha  Giuse đã đưa ra để nhờ thầy cô mà học trò sẽ  được “mở” tâm hồn bằng tình  yêu thương.  7.3.3. Thực trạng về việc quản lý con em ở các gia đình hiện nay  Do đặc điểm nơi cư trú của các em ở vùng nông thôn , bố mẹ mải làm ăn,   buôn bán nên ít có thời gian quan tâm đến việc học tập của các em, nhất là  sửa những hành vi thói quen chưa đúng,  chưa chuẩn. VD: Khi con nói trống   không thì chưa chú ý sửa lại lời nói chuẩn cho các em, hoặc khi các em đưa   đón vật  gì đó với người lớn tuổi các em đưa một tay cũng cho qua không sửa   10
  11. lại đúng cho các em … nhiều bậc phụ huynh đi làm kinh tế xa,  hầu như chỉ  chú ý con em mình có ăn là được chứ không có thời gian quan tâm đến tâm tư  tình cảm của các em. Nhiều phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng  của việc giáo dục các kĩ năng sống cơ  bản hàng ngày cho các em, c hưa thực  sự  quan tâm đúng mức đến việc giáo dục kỹ  năng sống cho các em, chưa có  trách nhiệm trong việc giáo dục vốn sống cũng như viêc học tập của con em   mình , còn phó thác cho giáo viên.  7.3.4. Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khối 1 hiện nay  ở  trường TH Chấn Hưng Sự bùng nổ thông tin, nhất là game ­ online, các trò chơi mang tính bạo  lực đã  ảnh hưởng rất nhiều đến sự  phát triển nhân cách và năng lực hành vi   của một bộ  phận học sinh. Nhiều học sinh có thành tích học tập rất tốt,   nhưng kĩ năng sống rất thấp (thể  hiện khi giao tiếp, tham gia các hoạt động  xã hội, ứng phó với những thử thách …). Có nhiều học sinh có hành vi ứng xử  sai lệch chuẩn mực đạo đức xã hội (vô cảm).  Trong quá trình nghiên cứu sáng kiến, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh  như sau: ­ Đối tượng khảo sát: Học sinh khối 1 ­ Trường Tiểu học Chấn Hưng ­   huyện Vĩnh Tường ­ tỉnh Vĩnh Phúc  ­ Số lượng học sinh tham gia khảo sát: 248 học sinh. ­ Thời điểm khảo sát: Cuối tháng 9 năm 2018 ­ Hình thức khảo sát: Hỏi ­ đáp ­ Nội dung khảo sát: Bước đầu, tôi khảo sát một số  kĩ năng sống cơ  bản của học sinh. Kết quả khảo sát thu được như sau:  Có Không STT Các KNS cơ bản SL % SL % 1 Tự giới thiệu 130 52,4 118 47,6 2 Tự nhận thức 111 44,7 137 55,3 3 Tự phục vụ 96 38,7 152 61,3 4 Bày tỏ ý kiến 68 27,4 180 72,6 5 Giao tiếp, hợp tác , ứng xử 103 41,5 145 58,5 6 Tư duy phê phán , đánh giá 85 34,2 163 65,8 7 Tự chịu trách nhiệm 68 27,4 180 72,6 8 Giải quyết vấn đề 85 34,2 163 65,8 9 Thể hiện sự tự tin 75 30,2 153 69,8 10 Bảo vệ , chăm sóc sức  82 33,1 166 66,9 11
  12. khỏe Đã từ  lâu,    phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học  sinh tích cực” được triển khai rộng rãi, trong đó nội dung rèn luyện kỹ  năng  sống cho học sinh là một trong những tiêu chí cơ  bản để  đánh giá, xếp hạng   trường học thân thiện. Yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả quá trình giáo  dục, rèn kỹ  năng sống cho học sinh trong các nhà trường chính là các thầy  giáo, cô giáo. Song, chính kỹ năng sống của một bộ phận giáo viên chưa đáp  ứng được yêu cầu. Nhiều ứng xử của các thầy cô giáo với học sinh trong môi  trường giáo dục còn chưa đạt thì không thể  nói đến những  ứng xử  ngoài xã   hội. Sự quan tâm của đa số cán bộ quản lý và giáo viên về vấn đề giáo dục kĩ  năng sống cho học sinh trong các nhà trường còn nhiều hạn chế. Mặt khác,  việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống có những  đặc thù riêng khác với các hoạt  động giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ  diễn ra trong môn học mà  còn thông qua một số hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp,...) cho nên  phải tính đến cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện. Đội ngũ cán bộ quản lý, GV  chưa được đào tạo bài bản về  kỹ  năng sống, không có GV chuyên trách nên  còn nhiều lúng túng trong việc tổ  chức giáo dục kỹ  năng sống qua các hoạt  động thích hợp, chưa tận dụng hoặc có thực hiện song không mang ý nghĩa   hình thành và phát triển kỹ năng sống trong giảng dạy các môn học. Ngoài ra,  thói quen chú trọng vào kiến thức mang tính lý thuyết của GV sẽ  là cản trở  lớn khi triển khai giáo dục kĩ năng sống, loại hình giáo dục nhằm tạo thói  quen, thái độ, hành vi ứng xử phù hợp với các tình huống của cuộc sống. 7.4. Một số  giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 trường   Tiểu học Chấn Hưng 7.4.1.Một số hình thức và biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh:      1. Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh,  chơi các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ  thể  thao, qua các  hoạt động rèn cho học sinh kĩ năng  ứng xử  với bạn bè, xây dựng tinh thần   đoàn kết tốt, kỹ  năng lắng nghe, kỹ  năng hợp tác, kỹ  năng quyết định, biết  kiềm chế bản thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè.       2. Rèn kỹ  năng sống cho học sinh lồng ghép trong nội dung các tiết học  phù hợp.VD: Môn đạo đức: giáo viên giáo dục, rèn cho học sinh kỹ năng giao   tiếp ứng xử: kính trọng, lễ phép với người lớn tuổi, đoàn kết hoà nhã với bạn   bè, tôn trọng không tự ý mở xem đồ đạc của người khác, giữ gìn vệ sinh môi  trường, nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp, quan tâm giúp đỡ những người xung  quanh, kỹ năng nhận lời, kỹ năng từ chối, kỹ năng quyết định, kỹ năng kiềm   chế xúc cảm, kỹ năng vận động, kỹ năng xử lý một số tình huống cụ thể,...;   trong các tiết tự  nhiên và xã hội, khoa học, học sinh được rèn kỹ  năng sử  12
  13. dụng có hiệu quả đồ dùng dụng cụ chăm sóc cây trồng, vật nuôi, kỹ năng giữ  gìn vệ  sinh các nhân, giữ  gìn vệ  sinh môi trường,...v...v...; tuỳ  từng bài, tuỳ  từng nội dung giáo viên có thể  lồng ghép rèn kỹ  năng sống cho học sinh cho   hợp lý.       3. Tổ chức hoạt động ngoại khoá chuyên đề “Rèn kỹ năng sống cho HS”,   tạo cho HS một sân chơi để HS được thực hành kỹ năng sống, được giao lưu,   được tư  vấn về  kỹ  năng sống để  hiệu quả  rèn kỹ  năng sống cho học sinh   được nâng lên gắn liền với thực tế  cuộc sống.(VD: Hoạt động ngoại khoá  rèn kỹ năng sống cho học sinh – tr 14)      4. Giáo viên không chỉ  nhằm hình thành những khái niệm khoa học, cách  làm việc trí óc mà còn hướng dẫn tới sự  tạo dựng phát triển các nhân cách   của học sinh. Đặc biệt trẻ  tiểu học thường hay bắt chước người lớn và rất   tin tưởng  ở  các thầy giáo, cô giáo. Vì vậy, mỗi giáo viên cũng phải luôn  thường xuyên tự  rèn kỹ  năng sống, luôn thể  hiện là tấm gương trong sáng,  mẫu mực cho học sinh noi theo.      5. Giáo viên cần thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học để phát huy   tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh (VD: sử dụng phương pháp thảo  luận nhóm, phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương pháp đóng vai,...; biết   lựa chọn phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ  chức dạy   học.); qua các hoạt động học tập học sinh được rèn các kỹ  năng phân tích,   tổng hợp, tư duy sáng tạo, hợp tác theo nhóm, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hợp  tác trong hóm, kỹ năng xử lý tình huống,...      6. Rèn kỹ năng cho học sinh kết hợp với rèn học sinh thực hiện các nề nếp   hàng ngày: VD: Yêu cầu đi học đúng giờ: buộc học sinh phải có thói quen dậy  sớm, có tác phong nhanh nhẹn ( rèn kỹ năng khắc phục khó khăn để đạt mục   tiêu);   Yêu cầu xếp hàng ra vào lớp thẳng hàng, ngay ngắn, không xô đẩy   nhau trong hàng (rèn cho học sinh kỹ  năng kiềm chế  bản thân, kỹ  năng vận   động, gây ảnh hưởng); Yêu cầu học sinh đến lớp phải có đầy đủ sách vở, đồ  dùng học tập ( rèn cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, xây dựng kế hoạch).          7.Tổ  chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ  sinh sân  trường, lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ;  học sinh được rèn một số  kỹ  năng như: cầm chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa  lá,...; thông qua đó HS biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.      8. Xây dựng các nhóm bạn cùng tiến: nhóm bạn giúp nhau học tập, nhóm  bạn ATGT, nhóm phòng chống ma tuý, ... trong qua trình hoạt động của các   nhóm, học sinh được rèn kỹ  năng hợp tác, chia sẻ, biết đối xử,  ứng xử  với   bạn hài hoà phù hợp,...      9.Tổ tư vấn của nhà trường cần có kiến thức hiểu biết về tâm sinh lý trẻ,  nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của rèn kỹ  năng sống cho học sinh, có  13
  14. kế hoạch cụ thể, biết cách và thường xuyên quan sát, gần gũi, thân thiện với   trẻ, phát hiện khó khăn, giúp đỡ tư vấn giúp học sinh biết cách tự giải quyết   đúng được những vấn đề khúc mắc trong cuộc sống đa dạng.       10. Quan tâm chú ý đến việc tuyên truyền phổ  biến pháp luật trong nhà  trường. Khi học sinh biết những điều luật cho phép làm hay những điều luật   cấm (Một số nội dung trong Luật giáo dục, Luật giao thông, Luật bảo vệ và  chăm sóc trẻ  em,..v.v...), học sinh sẽ  hiểu rõ nhiệm vụ  quyền hạn của mình  để  học tập, rèn luyện tốt hơn, biết ra những quyết định đúng đắn, biết tự  kiềm chế mình không mắc sai lầm, biết xử lý tình huống đúng hướng, biết tự  bảo vệ mình,...       11. Nhà trường phối kết hợp các tổ  chức, đoàn thể  để  thực hiện rèn kỹ  năng sống cho học sinh: Phối kết hợp với gia đình học sinh, Hội cha mẹ học  sinh: liên lạc trao đổi thông tin về  sự  tiến bộ  của học sinh, có thể  được tư  vấn thêm về  cách rèn luyện, giáo dục trẻ, tạo sự  thống nhất giữa gia đình ­  nhà trường trong cách giáo dục trẻ. Công đoàn tham gia trong tổ  tư  vấn của  nhà trường giúp trẻ biết tháo gỡ vướng mắc, xử lý một số tình huống mà trẻ  khó tự mình giải quyết đúng đắn. Đoàn thanh niên thường xuyên tổ  chức các hoạt động tập thể  vui chơi lành  mạnh, bổ ích để trẻ được thực hành rèn kỹ năng sống. Các GV thường xuyên   lồng ghép rèn kỹ  năng sống cho HS trong các giờ  học. Các đoàn thể  của xã,  thôn cũng phải tìm hiểu và tham gia tư vấn cho các gia đình về kiến thức pháp  luật,   kiến   thức   khoa   học,   kinh   nghiệm   thực   tế   “nuôi   con   khoẻ,   dạy   con  ngoan”, tạo cho trẻ một môi trường lành mạnh, an toàn; cách dạy cho trẻ một  số kiến thức để trẻ biết tự bảo vệ mình (Ví dụ: cách từ chối, tránh xa các tệ  nạn xã hội,...)  7.4.2. Giáo dục  KNS thông qua các môn học 7.4.2.1. Môn Đạo đức Xuất phát từ  quan điểm chung Dạy – học môn Đạo đức được tiếp cận   theo hướng đi từ  quyền đến trách nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp   cận đó sẽ  giúp cho việc Dạy – học môn Đạo đức trở  nên nhẹ  nhàng, sinh   động hơn, tránh được tính chất nặng nề, áp đặt trước đây. Dạy – học Đạo đức chỉ đạt được hiệu quả khi học sinh hứng thú và tích  cực, chủ  động tham gia vào quá trình dạy học. Dạy – học Đạo đức phải là  quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, Phát huy vốn kinh   nghiệm và thói quen đạo đức, tự  khám phá và chiếm lĩnh tri thức mới, kỹ  năng mới.         ­ Do cấu trúc chương trình các bài Đạo đức sắp xếp lô gích với nhau, có  mối quan hệ  mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Qua từng bài học kết hợp   giữa giáo dục quyền với giáo dục trách nhiệm bổn phận cho học sinh. Giáo  14
  15. viên cần  nghiên cứu và hiểu mục đích nội dung chương trình  SGK để  nâng  cao hiệu quả giờ dạy Đạo đức. ­ Giáo viên cần nghiên cứu tâm lý học sinh lớp Một các em là tuổi hoa   thích được làm việc, thích làm ra sản phẩm, thích được khen, từ đó lựa chọn   phương pháp dạy học nhằm đạt hiệu quả cao. ­ Giáo viên, các bậc cha mẹ là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Trong các chương trình giáo dục kỹ  năng sống cho HSTH , người ta   nhắc đến những nhóm kỹ năng sống sau đây: a) Nhóm kỹ năng nhận thức: Nhận thức bản thân. Xây dựng kế hoạch. Kỹ năng học và tự học Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo. Giải quyết vấn đề b) Nhóm kỹ năng xã hội: Kỹ năng giao tiếp . Kỹ năng thuyết trình và nói được đám đông. Kỹ năng diễn đạt cảm xúc và phản hồi. Kỹ năng làm việc nhóm (làm việc đồng đội) Kỹ năng quan sát. Kỹ năng lãnh đạo (làm thủ lĩnh). c) Nhóm kỹ năng quản lý bản thân: Kỹ năng làm chủ. Quản lý thời gian Giải trí lành mạnh d) Nhóm kỹ năng giao tiếp:      Xác định đối tượng giao tiếp Xác định nội dung và hình thức giao tiếp  đ) Nhóm kỹ năng phòng chống bạo lực: Phòng chống xâm hại thân thể. Phòng chống bạo lực học đường. Phòng chống bạo lực gia đình. Tránh tác động xấu từ bạn bè. 7.4.2.2. Môn Tiếng Việt: 15
  16. Môn TV là một trong những môn học  ở  cấp tiểu học có khả  năng GD  KNS khá cao, hầu hết các bài học đều có thể  tích hợp GD KNS cho HS  ở  những mức độ  nhất định. Số lượng phân môn nhiều. Thời gian dành cho môn  học chiếm tỉ  lệ  cao. Các bài học trong các phân môn đều có khả  năng giáo  dục KNS cho học sinh  Mục tiêu và nội dung sống qua môn Tiếng Việt: ­ Giúp HS bước đầu hình thành và rèn luyện các KNS cần thiết, phù  hợp lứa tuổi; nhận biết được những giá trị  tốt đẹp trong cuộc sống, biết tự  nhìn nhận, đánh giá đúng về  bản thân; biết  ứng xử  phù hợp trong các mối  quan hệ; biết sống tích cực, chủ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. ­ Nội dung GD KNS được thể hiện ở  tất cả các nội dung học tập của  môn học. Những KNS chủ yếu đó là: KN giao tiếp; KN tự nhận thức; KN suy   nghĩ sáng tạo; KN ra quyết định; KN làm chủ bản thân. ­ Các yêu cầu cần thiết phải đưa GD KNS vào môn Tiếng Việt: + Xuất phát từ  Thực tế  cuộc sống: sự  phát triển của KHKT, sự  hội   nhập, giao lưu, những yêu cầu và thách thức mới của cuộc sống hiện đại + Xuất phát từ mục tiêu GDTH: GD con người toàn diện + Xuất phát từ đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học + Xuất phát từ  thực tế  dạy học Tiếng việt: cung cấp KT và KN sử  dụng Tiếng việt thông qua thực hành ( hành dụng) ­ Nội dung GD KNS cho HS qua môn Tiếng Việt + KNS đặc thù, thể hiện ưu thế của môn TV: KN giao tiếp + KN nhận thức (gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra   quyết định,...) là những KN mà môn TV cũng có ưu thế vì đối tượng của môn  học này là công cụ của tư duy. + Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư  tưởng, tình cảm, cảm xúc,... giữa  các thành viên trong xã hội. Gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), ký mã   (phát thông tin) qua : nghe, nói và đọc, viết. Các KNS này của HS được hình thành, phát triển dần, từ  những KN   đơn lẻ đến những KN tổng hợp.  7.4.2.3. Môn Tự nhiên xã hội: TN­XH là một trong các môn học nhằm giúp học sinh lĩnh hội những tri   thức ban đầu và thiết thực về con người, tự nhiên và xã hội xung quanh. Qua  đó, phát triển cho các em năng lực quan sát, năng lực tư  duy, lòng ham hiểu   biết khoa học và khả  năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp phần hình  thành nhân cách cho học sinh. Do đó khi dạy môn TNXH GV cần lưu ý tích  hợp rèn kĩ năng sống cho HS.   16
  17. Thông qua môn  Tự nhiên và Xã hội 1 , HS biết : ­ Tự  nhận thức và xác định được giá trị  của bản thân mình, biết lắng  nghe,  ứng xử  phù hợp  ở  một số  tình huống liên qua đến sức khỏe bản thân,  các quan hệ trong gia đình, nhà trường, trong tự nhiên và xã hội. ­ Biết tìm kiếm, xử lí thông tin và phân tích, so sánh để  nhận diện,nêu   nhận xét về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong TN – XH. ­ Hiểu và vận dụng các kĩ năng trên: Cam kết có những hành vi tích   cực,Tự  nguyện (tự phục vụ, tự bảo vệ) trong việc thực hiện các quy tắc vệ  sinh, chăm sóc sức khỏe của bản thân, trong việc đảm bảo an toàn khi ở nhà,  ở trường, ở nơi công cộng; Thân thiện với cây cối, con vật xung quanh và môi  trường. Nội dung và địa chỉ  giáo dục kĩ năng sống trong môn Tự  nhiên và Xã   hội 1:  Các kĩ năng sống chủ yếu cần giáo dục cho HS trong môn Tự nhiên và  Xã hội :  + Kĩ năng tự  nhận thức: Tự  nhìn nhận, đánh giá về  bản thân để  xác  định được mặt mạnh, mặt yếu của bản thân; biết vị  trí của mình trong các   mối quan hệ ở nhà, ở trường và ở cộng đồng.(Bài 2: Chúng ta đang lớn) + Kĩ năng tự  phục vụ  và tự  bảo vệ: Biết cách tự  phục vụ: rửa mặt,   đánh răng, tắm, tự bảo vệ chăm sóc sức khỏe của bản thân liên quan đến các  vấn đề  vệ  sinh cá nhân, vệ  sinh môi trường, dinh dưỡng, phòng bệnh và an   toàn  ở  nhà,  ở  trường,  ở  nơi công cộng.( Bài 7: thực hành Đánh răng và rửa  mặt) + Kĩ năng ra quyết định: nên và không nên làm gì để  bảo vệ  sức khỏe   của bản thân; để   ứng phù hợp trong gia đình, nhà trường và cộng đồng để  bảo vệ môi trường.(Bài 4: bảo vệ mắt và tai ) + Kĩ năng kiên định và kĩ năng từ chối: kiên quyết giữ vững lập trường   và nói lời từ chối trước những lời rủ rê của bạn bè và người xấu; không tham   gia vào những việc làm, hành vi mang tính tiêu cực. (Bài 23: Cây hoa ­ lớp 1) + Kĩ năng làm chủ bản thân: biết đảm nhận trách nhiệm, cam kết thực  hiện công việc và biết  ứng phó với căng thẳng trong những tình huống của  cuộc sống một cách tích cực.(Bài 17: Giữ gìn lớp học sạch đẹp) + Kĩ năng giao tiếp: Tự tin khi giao tiếp; Lắng nghe tích cực; Phản hồi   xây dựng; Bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ với bạn bè trong lớp, trường,   với những người có hoàn cảnh khó khăn.( Bài3: Nhận biết các vật xung quanh   ) + Kĩ năng hợp tác: Khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam   kết và cùng chung sức làm việc có hiệu quả với những thành viên khác, giúp  17
  18. đỡ, hỗ  trợ  lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích  chung. (Bài 13: Công việc ở nhà­lớp 1) + Kĩ năng tư  duy phê phán: Biết phê phán, đánh giá các ý kiến, hành  động, lời nói, việc làm, các hiện tượng trong đời sống hàng ngày. ( Bài 8: Ăn  uống hàng ngày ) + Kĩ năng tìm kiếm và xử  lí thông tin: Biết tìm kiếm và xử  lí thông tin   để giải quyết vấn đề trên cơ  sở vận dụng tư duy phê phán và sáng tạo. (Bài  9: Hoạt động và nghỉ ngơi ) 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có):                 Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 9.1. Với lãnh đạo cấp trên: ­ Xây dựng lộ  trình triển khai dạy kĩ năng sống cụ  thể, đảm bảo tính  khả  thi và hiệu quả khi tổ  chức thực hiện. Đặc biệt, phải dự  báo được khả  năng phát triển quy mô trường lớp, để  có kế  hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội  ngũ CBQL và GV kịp thời. ­ Quán triệt tinh thần triển khai lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho cán  bộ  quản lý các cấp và giáo viên nhận thức rõ khó khăn, thuận lợi, quyết tâm  thực hiện đạt hiệu quả. ­ Phân công một vài chuyên viên phụ trách nhằm đảm bảo tính kiểm soát,  chủ  động trong việc lập kế hoạch tập huấn, hỗ trợ, kiểm tra giám sát, đánh  giá kết quả và báo cáo lãnh đạo các cấp. ­ Tổ chức các đợt tập huấn giáo dục giá trị  sống và rèn luyện kỹ  năng   sống cho toàn thể giáo viên ở các trường học ­ Trang bị thêm tài liệu giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho các nhà   trường. 9.2. Với nhà trường: ­ Xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện. ­ Tạo điều kiện cho sáng kiến kinh nghiệm này được áp dụng rộng rãi  đối với tất cả khối lớp . ­ Trang bị thêm tài liệu tham khảo cho giáo viên. ­ Tạo điều kiện tốt nhất về  thời gian và vật chất trọng việc tổ  chức   các hoạt động giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. 9.3. Với giáo viên: ­ Gắn lí thuyết với thực hành, tư  duy và hành động, nhà trường và xã  hội 18
  19. ­ Kích thích động cơ, hứng thú học tập của HS ­ Có phương pháp phát huy tính tự lực, tinh thần trách nhiệm; phát triển  khả năng sáng tạo, rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; kĩ năng hợp tác; năng lực  đánh giá của học sinh. ­ GV tạo cơ hội rèn luyện nhiều kĩ năng sống quan trọng cho học sinh   trong học tập cũng như  trong đời sống hàng ngày như: giao tiếp, ra quyết  định, giải quyết vấn đề, đặt mục tiêu … 10. Đánh giá lợi ích thu được của sáng kiến 10.1.Đánh giá kết quả do áp dụng sáng kiến theo ý kiến tác giả:      Đối tượng thực nghiệm:  38 học sinh lớp 1E 10.1.1. Giáo án minh họa môn Đạo Đức  :  Bài 10 : LỄ PHÉP, VÂNG LỜI THẦY GIÁO, CÔ GIÁO  I. Mục tiêu: ­ Học sinh hiểu: Thầy giáo, cô giáo là những người không quản khó  nhọc, chăm sóc dạy dỗ em. Vì vậy em cần lễ phép, âng lời thầy cô giáo. ­ Học sinh biết lễ phép, vâng lơì thầy cô giáo. ­ Học sinh tích cực học tập  II.Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục: ­ Kĩ năng giao tiếp,  ­ Kĩ năng ứng xử lễ phép với thầy cô giáo. III. Phương pháp/ kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng: ­ PP thảo luận nhóm , thảo luận cặp đôi ­ PP sắm vai,  ­ PP động não,  ­ PP đặt và giải quyết vấn đề ­ PP vấn đáp , ... IV. Đồ dùng dạy học: ­ Vở bài tập Đạo đức ­ Tranh minh họa ­ Bút màu V. Các hoạt động dạy học chủ yếu : Tên HĐ        Hoạt động của thầy   Hoạt động của trò 1. Tổ chức ­ HS ổn định TC 2. KTBC ­ GV đặt câu hỏi ? ­ HS TL theo ý hiểu: 19
  20. +   Khi ngồi trong lớp học em  +  Khi ngồi trong lớp học em  cần phải làm gì ? cần   phải   giữ   trật   tự,   không  được   nói   chuyện   làm   ảnh  ­   GV   nghe   và   nhận   xét   khen  hưởng đến các bạn,... ngợi các câu trả lời của HS 3.Bài mới Hoạt  ­ GTB ­ GB động1:  + Bài tập 1 : Đóng vai  ­ GV chia nhóm và yêu cầu các  ­   Các   nhóm   chuẩn   bị   đóng  nhóm   đóng   vai   theo   1   tình  vai. huống của bài tập 1. ­   Một   số   nhóm   lên   đóng  ­ Cả  lớp thảo luận, nhận xét  trước lớp. các nhóm lên trình bày: + Nhóm nào thể  hiện được lề  phép và vâng lời thầy giáo. cô  giáo ? Nhóm nào chưa ngoan ,  chưa lễ phép? +Cần   làm   gì   khi   đưa   hoặc  nhận   sách   vở   từ   tay   thầy   cô  giáo? ­ Khi đưa hoặc nhận vật gì  từ tay thầy cô giáo phải đưa  ( nhận) bằng 2 tay. GV đưa ra kết luận: ­ HS nghe và nhắc lại ­Khi gặp thầy giáo,cô giáo cần   phải chào hỏi lễ phép. ­Khi đưa hoặc nhận vật gì từ   tay   thầy   cô   giáo   phải   đưa( nhận) bằng 2 tay. Khi đưa nói:"Thưa cô, đây ạ!" Khi   nhận   nói:Em   cảm   ơn   cô   ạ!" Hoạt   động  2:   Tô   màu  * Yêu cầu HS tô màu vào quần  tranh BT2. áo   các   bạn   biết   lẽ   phép,vâng  lời thầy cô giáo. ­ GV cho HS QS tranh ­HS quan sát tranh. ­ HD HS tô màu vào tranh thể  ­  HS  tham gia  thảo luận, tô  hiện các bạn HS lễ  phép với  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2