intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh qua bài 22, lịch sử 12 - Tiết 39: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân Miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

53
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là áp dụng một cách có hiệu quả ở cả phần lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam ở các giai đoạn khác nhau. Với sự hạn hẹp của một sáng kiến trong quá trình thực hiện các phương pháp đưa ra chưa phải đã đầy đủ và hoàn chỉnh mà còn nhiều mặt hạn chế nhưng tôi hy vọng với sáng kiến của mình nó sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử ở Trường trung học phổ thông Nguyễn Viết Xuân nói riêng và dạy học lịch sử nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh qua bài 22, lịch sử 12 - Tiết 39: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân Miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)

  1. SỞ GD& ĐT VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT NGUYỄN VIẾT XUÂN ­­­­­***­­­­­***­­­­­***­­­­­ BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH  NGHIỆM Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Dạy học theo định hướng phát triển năng   lực của học sinh qua bài 22, lịch sử 12 ­ Tiết 39: Nhân dân hai miền trực   tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân Miền Bắc vừa   chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)”                                 Tác giả sáng kiến: Đặng Hà Giang               Mã sáng kiến: 22. 57.01
  2. Vĩnh Phúc, năm 2019 MỤC LỤC 1. Lời giới thiệu.................................................................................... 2 2. Tên sáng kiến...........................................................................................2 3. Tác giả sáng kiến.....................................................................................3 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến...................................................................3 5. Lĩnh vực áp dụng sán kiến....................................................................3 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu..................................................3 7. Mô tả bản chất của sáng kiến................................................................3 7.1. Về nội dung sáng kiến.........................................................................3 7.2. Khả năng áp dụng sáng kiến.............................................................17 8. Những thông tin cần thiết đươc bảo mật............................................17 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng  kiến.....................................18 9.1. Đối với giáo viên.................................................................................18 9.2. Đối với học sinh..................................................................................18 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp  dụng sáng kiến theo ý kiến tác giả hoặc theo ý kiến của tổ chức, cá  nhân
  3. 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp  dụng sáng kiến theo ý kiến tác  giả............................................................................18 10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp  dụng sáng kiến theo ý kiến của cá nhân, tổ  chức.....................................................20 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp  dụng sáng kiến lần  đầu………………………………………………………………21
  4. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Trong những năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện  đổi mới giáo dục phổ  thông, cải cách nội dung chương trình sách giáo khoa,  đổi mới phương pháp dạy và học, đẩy mạnh và coi trọng vào việc đổi mới  dạy học. Chỉ  có đổi mới căn bản phương pháp dạy và học nhằm phát triển   năng lực của học sinh, phát huy tính tích cực, chủ  động của học sinh thì  chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể  đào tạo lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong  bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Giáo dục phổ  thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ  chương  trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học ­ từ  chỗ quan tâm tới việc học sinh tiếp thu được những  gì đến chỗ quan tâm tới  việc học sinh học được những gì qua việc học. Để  thực hiện được điều đó,  nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ  phương pháp dạy học  theo lối “ truyền thụ  một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến  thức, rèn luyện kỹ  năng, hình thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải   chuyển cách đánh giá kết quả  giáo dục từ  nặng về  kiểm tra trí nhớ  sang  kiểm tra đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng  kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học  tập để có tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy học và  giáo dục. Trong bối cảnh đó, việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định   hướng phát triển năng lực của người học là rất cần thiết. Ứng dụng việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học  sinh,  phát huy tính tích cực, chủ  động của học sinh trong giáo dục, đào tạo  được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới phương pháp dạy  học nhằm phát triển năng lực của học sinh, phát huy tính tích cực, chủ động   1
  5. của học sinh có sự hỗ trợ của các phương tiện, đồ dùng trực quan hiện đại là   điều hết sức cần thiết.           Trong những năm gần đây cùng các môn học khác, bộ môn Lịch sử  đã   triển khai đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới chương trình sách giáo  khoa và đổi mới trong các khâu cơ bản của quá trình dạy học. Trong các khâu  đó, bộ phận khó khăn và chậm đổi mới là phương pháp dạy học.  Những năm  qua đã có rất nhiều hoạt động theo hướng đổi mới phương pháp dạy học như  tăng cường công tác bồi dưỡng giáo viên thay sách giáo khoa ở mọi cấp học,   lớp học từ  Trung  ương  đến các địa phương đã tổ  chức nhiều hoạt  động  chuyên môn, các sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn cụm,  hội thảo  về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, ứng dụng công nghệ thông tin vào   trong dạy học, tổ  chức khai thác của dạy học hiện nay để  đề  ra những giải   pháp vừa căn bản, vừa thiết thực và vừa có tính khả thi. Trong quá trình dạy học, ngoài việc đổi mới,  ứng dụng phương pháp   giảng dạy trên lớp theo hướng phát triển năng lực của học sinh, lấy học sinh   làm   trung  tâm, giáo  viên nên  tăng  cường  hướng  dẫn học sinh  tự  học,  tự  nghiên cứu theo các chuyên đề. Để  đáp  ứng mục tiêu đào tạo, đáp  ứng sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong công cuộc đổi mới đất nước  hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào tạo những con người phát triển  toàn diện và để  lịch sử  xứng đáng với vai trò, ý nghĩa của nó, việc dạy học  bộ môn lịch sử ở trường phổ thông phải có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu   đổi mới của giáo dục, của xã hội. Do đó, việc  ứng dụng việc dạy học theo định hướng  phát triển năng  lực của học sinh, tính tích cực, chủ  động của học sinh trong học tập sẽ  góp  phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong học tập bộ môn Lịch   sử ở trường phổ thông. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn sáng kiến: “Dạy học theo định hướng   phát triển năng lực của  học sinh  qua bài 22, lịch sử  12 ­ Tiết 39: Nhân   dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân   2
  6. Miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)” để cùng trao đổi với  các đồng nghiệp. 2. Tên sáng kiến kinh nghiệm:  “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh qua   bài 22, lịch sử 12 ­ Tiết 39: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống   đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân Miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất   (1965 – 1973)” 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Đặng Hà Giang ­ Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Viết Xuân ­ Vĩnh Tường­ Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0984649645 ­ Email: danghagianggv.nguyenvietxuan@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Đặng Hà Giang 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Sử dụng kiến thức môn Lịch sử và sử dụng các kĩ thuật dạy học  như    phương pháp trình bày, giải thích trong khi thuyết trình, phương pháp   đặt câu hỏi và xử  lý các câu trả  lời trong đàm thoại hay phương pháp làm  mẫu trong luyện tập …để  thực hiện sáng kiến  “Dạy học theo định hướng   phát triển năng lực của  học sinh  qua bài 22, lịch sử  12 ­ Tiết 39: Nhân   dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân   Miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)” 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:          Sáng kiến được dạy trên đối tượng là học sinh lớp 12D3 và 12D2 ­  Trường THPT Nguyễn Viết Xuân vào 11/2018. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến:  Để  đảm bảo việc thiết kế và sử  dụng dạy học theo định hướng phát  triển năng lực  của học sinh, nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động và sáng  3
  7. tạo của học sinh có hiệu quả, giáo viên cần nắm được những đặc trưng của   phương pháp dạy học này và vận dụng một cách tốt nhất vào việc thực hiện   những nguyên tắc, biện pháp sử dụng nó theo hướng phát triển năng lực của  học sinh và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc góp phần đổi mới phương  pháp dạy học và nâng cao chất lượng bài học lịch sử ở trường phổ thông. Hoạt  động  đổi mới phương pháp dạy học  ở  trường trung học phổ  thông chưa mang lại hiệu quả  cao. Truyền thụ  tri thức một chiều vẫn là   phương pháp dạy học chủ  đạo của nhiều giáo viên. Số  giáo viên thường  xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng   như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng   tạo của học sinh chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí   thuyết. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực   tiễn cho học sinh thông qua khả nằng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực   sự  được quan tâm. Việc  ứng dụng công nghệ  thông tin ­ truyền thông, sử  dụng các phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi và hiệu quả  trong các trường trung học phổ thông. Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh, phát   huy tính tích cực của học sinh  ở tiết 39 bài 22 “ Nhân dân hai miến trực tiếp   chiến đấu chống đế  quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu  vừa sản xuất (1965 – 1973)” sẽ góp phần lớn vào thành công của các tiết dạy  trên  lớp và các tiết dạy khác.   Qua thực tế  giảng dạy  ở  trường phổ  thông và tham dự  các tiết thao  giảng, tôi thấy rằng từ những năm trước đây khi không sử dụng phương pháp  phát triển năng lực của học sinh  ở  tiết 39 bài 22 “ Nhân dân hai miến trực   tiếp chiến đấu chống đế  quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến  đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)” thì hiệu quả chất lượng không cao. Vì vậy   khi sử dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh thì sẽ  đạt hiệu quả cao hơn. Khi ứng dụng việc dạy học theo định hướng phát triển   năng lực của học sinh, nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của   học sinh đã giúp học sinh có hứng thú, tích cực, chủ động tham gia xây dựng  4
  8. bài, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu để hoàn thành  thói quen học suốt đời. Việc sử  dụng dạy học theo định hướng phát triển  năng lực của học sinh, nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của   học sinh  ở  trên lớp có tác dụng tích cực góp phần không nhỏ  vào việc đổi  mới phương pháp dạy học và gây được sự  hứng thú học tập bộ  môn lịch sử  cho học sinh. Hiện nay vẫn còn có rất nhiều ý kiến khác nhau bàn về vấn đề này: có  ý kiến cho rằng vẫn nên dạy học theo phương pháp truyền thống, nhưng lại  có ý kiến nên dạy học theo phương pháp hiện đại và có ý kiến cho rằng nên   kết hợp cả hai ­ cả truyền thống và hiện đại.  Còn đối với học sinh: một bộ phận lớn học sinh hiện nay chưa nhận   thức đúng về vai trò, tác dụng của môn lịch sử mà chỉ cho đó là một môn học  thuộc với nhiều sự  kiện khô khan, khó nhớ, với lối học thực dụng “ thi gì   học nấy”, thái  độ  học để   đối phó…Vì không hiểu nên không yêu   thích,  không say mê và chỉ học để đối phó với thi cử, kiểm tra. Vì thế, theo tôi để  việc dạy của thầy và việc học của trò đạt được   hiệu quả  cao cần kết hợp đa dạng các năng lực của học sinh, chú trọng tới  việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh, để  học sinh  có thể lĩnh hội kiến thức một cách toàn diện, có như vậy các em mới tự thực   hành trực quan, tự biết cách đánh giá, tự liên hệ với thực tế cuộc sống. Các biện pháp để giải quyết vấn đề            Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học người giáo viên  trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử  dụng thành thạo các kĩ thuật  dạy   học,   ví   dụ   phương   pháp   trình   bày,   giải   thích   trong   khi   thuyết   trình,  phương pháp đặt câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại hay phương   pháp làm mẫu trong luyện tập. Vì thế  bên cạnh các phương pháp dạy học  truyền thống cần kết hợp và sử  dụng các phương pháp dạy học mới, đặc   biệt là những phương pháp và kĩ thuật dạy học theo định hướng phát triển   năng lực của học sinh, phát huy tính cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. 5
  9.            Trong quá trình dạy học giáo viên cần kết hợp đa dạng các kỹ thuật   dạy học nhằm phát triển các năng lực của học sinh. Mỗi phương pháp và  hình thức dạy học đều có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng.  Vì vậy việc phối hợp đa dạng các năng lực của học sinh và hình thức dạy  học trong toàn bộ  quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để  phát  triển năng lực của học sinh và nâng cao chất lượng dạy học. Do đó, trong tiết   39 bài 22 sách giáo khoa lịch sử 12, tôi đã sử dụng một số phương pháp  dạy  học nhằm phát triển năng lực của học sinh,  phát huy tính tích cực, chủ động ,  sáng tạo của học sinh. *  Phát triển năng lực tự học :         Khai thác nội dung trong sách giáo khoa: Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh, nhằm   phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong giảng dạy cần đi đôi với  việc khai thác và sử dụng sách giáo khoa hợp lý. Sách giáo khoa lịch sử hiện  nay được biên soạn theo tinh thần  đổi mới, hình thức đẹp hơn, đặc biệt  lượng kênh hình tăng lên đáng kể, nội dung bài viết có tính mở. Đây là một  điều kiện thuận lợi song cũng đòi hỏi giáo viên phải nâng cao trình độ  và đổi  mới cách dạy cho phù hợp để  đạt chất lượng cao. Trong bài 22  “Nhân dân  hai miến trực tiếp chiến đấu chống đế  quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền  Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)” giáo viên cần xác định trọng   tâm kiến thức và hướng học sinh vào trọng tâm đó, ngoài ra còn hướng dẫn   học sinh phương pháp tự học ở nhà.  Ví dụ: Để khai thác nội dung trong sách giáo khoa giáo viên có thể nêu  một câu hỏi: Mĩ đã tiến hành  chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam   như  thế  nào?  Ở  đây giáo viên cần gợi ý cho học sinh thấy: dựa vào những   ưu thế  nào, mở  những cuộc hành quân nào?  Học sinh có thể  theo dõi sách  giáo khoa để  hoàn thành nội dung câu hỏi: Dựa vào  ưu thế  quân sự  với số  quân đông, vũ khí hiện đại, quân Mĩ vừa mới vào miền Nam đã mở ngay cuộc   hành quân “tìm diệt” vào căn cứ  Quân giải phóng  ở  Vạn Tường (Quảng   Ngãi). Tiếp đó, Mĩ mở  liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô đông  6
  10. xuân 1965 ­1966 và 1966 – 1967) bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt”  và “bình định” vào vùng “Đất thánh Việt Cộng”.             Khai thác bảng biểu:  Sau khi dạy phần cuộc phản công  chiến lược trong hai mùa khô, để giúp học  sinh thấy được mức độ của hai cuộc phản công mùa khô 1965 – 1966 và 1966  ­ 1967, giáo viên phát phiếu học tập cho học:  em hãy thảo luận và  lên điền   vào  bảng so sánh  của hai cuộc phản công trong hai mùa khô 1965 – 1966 và   1966  –  1967  theo  các   tiêu  chí   sau:   lực  lượng  của  địch,  cuộc  hành  quân,   hướng tấn công chính, mục tiêu, kết quả; Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh  điền vào bảng giáo viên đã chuẩn bị sẵn, các nhóm khác bổ sung. Sau đó, giáo  viên yêu cầu học sinh đánh giá về các tiêu chí đã cho trong bảng so sánh. Học   sinh sẽ  thấy được về  lực lượng, cuộc hành quân của mùa khô thứ  hai lớn  hơn so với mùa khô lần thứ nhất.         Bảng so sánh giáo viên chuẩn bị cho học sinh điền vào để hoàn thành các  nội dung trong  bảng so sánh: Nội dung so  Lực  Cuộc  Hướng tấn  Mục tiêu Kết quả sánh lượng  hành  công chính địch quân Mùa khô lần I                  . (1965­1966) Mùa khô lần               . II(1966­1967)                     Sau khi học sinh đã hoàn thành bảng so sánh, giáo viên treo lên bảng   bảng so sánh đã chuẩn bị sẵn vào tờ giấy khổ giấy Ao để đối chiếu với bảng  so sánh  của học sinh để  các em thấy được mức độ  chính xác của hai bảng   so sánh. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thiện bảng so sánh vào vở. Bảng so sánh cuộc phản công trong hai mùa khô 1965 ­1966 và 1966 ­  1967 (giáo viên chuẩn bị trước trên khổ giấy A0):        7
  11. Nội dung so  Lực  Cuộc  Hướng  Mục tiêu Kết quả sánh lượng  hành  tấn công  địch quân chính Mùa khô lần I  72 vạn 450  Đông Nam      Đánh     Tiêu diệt  (1965­1966) Bộ và Liên  bại chủ  104 nghìn tên  khu V lực quân  địch,bắn rơi  giải phóng 1430 máy  bay. Mùa khô lần  98 vạn 895 Dương    Tiêu diệt      Tiêu diệt  II(1966­1967) Minh Châu   quân chủ  151 nghìn tên  (Bắc Tây  lực  và cơ  địch,bắn rơi  Ninh) quan đầu  1231 máy  não của ta bay.        Sau khi theo dõi bảng so sánh học sinh sẽ thấy được về lực lượng của   địch, về  các cuộc hành quân, hướng tấn công,  mục tiêu, kết quả  của cuộc  phản công trong hai mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967. Khai thác lược đồ:  Khi dạy mục 2, phần chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ  ”giáo viên dùng lược đồ: Trận Vạn Tường ­ Quảng Ngãi, qua theo dõi lược  đồ, học sinh có thể thấy được cuộc tấn công của Mĩ và thôn Vạn Tường như  thế nào? Mĩ đã mở hai cuộc phản công mùa khô ra sao? Quân dân ta đã giành   những thắng lợi như thế nào trong hai mùa khô? Cụ thể: Trước hết giáo viên  đề nghị học sinh quan sát lược đồ  sau đó phát vấn:  quan sát lược đồ em hãy   cho biết quân dân miền Nam đã đập tan cuộc hành quân của Mĩ ­ Ngụy  vào   vùng đất thánh như   thế  nào ? Hay giáo viên có thể  khai thác hình 69 trong  sách giáo khoa: Lược đồ trận Vạn Tường ­ Quảng Ngãi (8­ 1965) 8
  12.                                       Lược đồ trận Vạn Tường ­ Quảng Ngãi (8/1965).                Giáo viên nêu câu hỏi: Qua quan sát lược đồ, hãy tường thuật lại trận   Vạn Tường ­ Quảng Ngãi tháng 8 năm 1965?. Trước tiên giáo viên chỉ  trên  lược đồ  các kí hiệu trên lược đồ. Học sinh quan sát lược đồ  và kết hợp  tường thuật: Vạn Tường là một làng nhỏ  ven biển huyện Bình Sơn (Quãng  Ngãi). Tại đây một đơn vị  chủ  lực quân Giải phóng đang đóng giữ. Để  tiêu  diệt quân Giải phóng, gây thanh thế cho quân viễn chinh Mĩ và thí nghiệm về  chiến thuật, kĩ thuật lục, hải quân Mĩ trên chiến trường miền Nam, mờ sáng   ngày 18 tháng 8 năm 1965, Mĩ đã huy động 9.000 quân Mĩ, nhiều xe tăng, xe   bọc thép, máy bay lên thẳng, máy bay phản lực chiến đấu, tấn công vào thôn  Vạn Tường. Lợi dụng địa bàn nhỏ hẹp, chúng bao vây Vạn Tường, kết hợp   đổ  bộ  bằng đường biển, đường không, tiến công trên bộ. Lực lượng quân  Giải phóng ở đây chỉ bằng 1/10 quân Mĩ, trang bị vũ khí thiếu thốn. Nhưng do   đề cao cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu, chỉ sau một ngày giao chiến ác liệt,   một trung đoàn chủ  lực của ta với quân du kích và nhân dân địa phương đã   9
  13. đẩy lùi cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên địch, bắn   hàng chục xe tăng và xe bọc thép, hạ nhiều tàu chiến. Như  vậy, khai thác lược đồ  giúp học sinh có thể  so sánh, phân tích,  đánh giá và khái quát được các sự kiện lịch sử.            Khai thác tranh ảnh:   Trong tiết dạy cụ  thể  tôi còn sử  dụng phương pháp khai thác tranh  ảnh:  Chân dung đại tướng  Oét – molen.                                     ĐẠI TƯỚNG OÉT – MOLEN             Sau khi giáo viên chiếu hình ảnh đai tướng Oét – molen lên giáo viên  nêu câu hỏi: nhìn vào bức  ảnh em có  thể  cho biết đôi nét về đại tướng? Học  sinh sẽ  khai thác, trả  lời: Đaị  tướng Oét – molen chỉ  huy quân Mĩ tại miền  Nam Việt nam. Tướng Oét –molen là tư  lệnh quân đội Mĩ là người khởi  xướng chiến lược “tìm diệt” và “bình định”được Tổng thống Giôn ­ Xơn  chuẩn y ngày 17/7/1965, ra đời sau sự  phá sản của chiến lược “Chiến tranh   đặc biệt”.          Khi khai thác hình ảnh: Sinh viên, học sinh Sài Gòn biểu tình  10
  14.                                 Sinh viên, học sinh sài Gòn biểu tình                Sau khi giáo viên chiếu hình ảnh sinh viên, học sinh Sài Gòn lên giáo  viên nêu câu hỏi: nhìn vào bức tranh em có nhận xét gì? Học sinh sẽ khai thác,  trả  lời: Ngày 5/1/1965 sinh viên, học sinh biểu tình phản đối   việc Mĩ can  thiệp vào nội bộ  miền nam Việt Nam. Họ  phản đối việc không đi lính cho   quân đội Sài Gòn và biểu tình đòi Mĩ rút quân về  nước. Khi khai thác tranh   nhân dân Sài Gòn biểu tình.                                             Nhân dân Sài Gòn biểu tình      Giáo viên cho học sinh quan sát: nhận xét về  không khí đấu tranh của  nhân dân Sài Gòn? Học sinh quan sát, trả  lời: Hòa chung với cuộc biểu tình  của sinh viên và học sinh, 70 vạn nhân dân Sài Gòn biểu tình đòi Mĩ rút quân   về  nước, phá “ấp chiến lược” với không khí sôi nổi, quyết liệt chưa từng   thấy trong lịch sử. 11
  15.                                            Nhân dân Mĩ biểu tình                                                    Khi khai thác tranh nhân dân Mĩ biểu tình, giáo viên có thể gợi ý và nêu  câu hỏi : Vì sao nhân dân Mĩ cũng phản đối việc Mĩ thực hiện chiến tranh ở  miền Nam Việt Nam? Học sinh dựa vào kiến thức đã học trả  lời: đời sống  của người dân Mĩ cũng chịu nhiều cảnh tang thương, chết chóc, áp bức ……  vì vậy họ cũng nổi dậy biểu tình phản đối việc đế  quốc Mĩ thực hiện cuộc   chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngoài ra giáo viên còn khai thác một số tranh   ảnh như: Quân đội Mĩ đổ bộ vào Việt Nam,  ảnh bàn kế chống “Chiến tranh  cục bộ”.             Qua khai thác tranh ảnh giúp các em hiểu rõ hơn về  nhưng cuộc đấu   tranh, biểu tình phản công của nhân dân ta chống lại chiến lược “Chiến tranh  cục bộ” của Mĩ  ở  miền   Nam từ  năm 1965 ­ 1973. Đây cũng là một trong   những phương pháp gây sự  hứng thú trong học tập bộ  môn của học sinh.   Ngoài ra giáo viên còn có thể  sử  dụng các năng lực dạy học như  : năng lực   giao tiếp, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sử  dụng ngôn ngữ va còn kết hợp các phương pháp dạy học theo dự án, phương  pháp dạy học đóng vai, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp  ứng  dụng công nghệ thông tin. Ngày nay người ta còn rất chú trọng phát triển và   sử dụng các phương pháp dạy học phát triển năng lực của học sinh, phát huy  tính tích cực, sáng tạo của người học như “ động não”, “ tia chớp”, bản đồ tư  duy…       * Phát triển năng lực nêu và giải quyết vấn đề. 12
  16.                   Năng lực giải quyết vấn đề  giúp học sinh phân tích được tình  huống trong học tập, trong cuộc sống, phát hiện và nêu được tình huống có  vấn đề  trong học tập, trong cuộc sống. Đồng thời giúp học sinh thu thập và  làm rõ các  thông tin  có liên quan đến vấn đề, đề xuất và phân tích được một   số  giải pháp giải quyết vấn đề, lựa chọn giải pháp phù hợp nhất. Ngoài ra   còn giúp học sinh thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề, suy   ngẫm về  cách thức và tiến trình giải quyết vấn đề  để  điều chỉnh và vận  dụng trong bối cảnh mới.              Dạy học theo năng lực nêu và giải quyết vấn đề là việc phát triển tư  duy sáng tạo, độc lập suy nghĩ, khơi gợi nhu cầu, hứng thú học tập của học  sinh được đặt lên hàng đầu. Vai trò của giáo viên là vô cùng quan trọng, đặc  biệt trong việc tạo ra tình huống có vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết  sáng tạo vấn đề đó. Dạy học nêu vấn đề là cách tổ chức dạy học gồm 3 yếu  tố  cơ  bản: tình huống có vấn đề, biểu đạt vấn đề  đưa học sinh vào tình   huống có vấn đề và tổ chức, hướng dẫn giúp học sinh tích cực, tự giác, sáng   tạo trong giải quyết  “ vấn đề ”.             Dạy học theo năng lực nêu và giải quyết vấn đề  không phải là một   phương pháp dạy học riêng, mà là một kiểu dạy học được tiến hành thông  qua sự liên kết nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau nhằm mục đích cuối  cùng là nâng cao chất lượng dạy học. Nói cách khác, đây là một hình thức tổ  chức sự tìm tòi kiến thức mới khi trong quá trình học tập thông qua việc giải   quyết vấn đề. Để thực hiện dạy học theo năng lực nêu vấn đề giáo viên phải  tạo ra tình huống có vấn đề  để  học sinh phải tự  đặt vấn đề    tìm hiểu, tự  mình tìm ra kiến thức.                Ví dụ: Về mặt trận quân sự giáo viên nêu vấn đề: Trong cuộc phản   công vào  thôn Vạn Tường và cuộc phản công trong hai mùa khô 1965 – 1966   và 1966 – 1967 em hãy cho biết những âm mưu mà Mĩ thực hiện trong mỗi   cuộc hành quân là gì ? giáo viên gợi ý: Trong cuộc phản công thôn Vạn   Tường âm mưu của Mĩ là tấn công vào vùng nào?Trong cuộc phản công   13
  17. trong hai mùa khô Mĩ đã mở  bao nhiêu cuộc hành quân, vào những hướng   chính nào? Âm mưu chính của mùa khô thứ nhất và thứ hai ? học sinh có thể  định hình được ngay và học sinh trả lời: Trong cuộc phản công vào thôn Vạn  Tường, Mĩ ­ Ngụy muốn “tìm diệt” và “bình định” vùng “ đất thánh Việt  Cộng” đẩy lùi cuộc hành quân của 9.000 tên địch. Trong cuộc phản công mùa  khô lần thứ nhất (1965 – 1966), Mĩ đã mở 450 cuộc hành quân (trong đó có 5   cuộc hành quân “tìm diệt” lớn của địch, nhằm vào hai hướng chính  ở  Đông  Nam Bộ  và Liên khu V. Trong cuộc phản công mùa khô thứ  hai (1966 –   1967), Mĩ đã mở 895 cuộc hành quân, trong đó có 3 cuộc hành quân lớn “tìm   diệt” và “bình định”, lớn nhất là cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào căn  cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), loại khỏi vòng chiến đấu 68.000 quân  Mĩ.             Sau đó giáo viên lại tiếp tục gợi ý cho học sinh: các em có thể theo dõi   Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, qua chuẩn bị  bài  ở   nhà các em có thể rút ra ý nghĩa của cuộc Tổng Tiến công? giáo viên có thể   gợi ý: Cuộc Tổng Tiến công đã buộc Mĩ phải chấm dứt những điều kiện gì   và thừa nhận sự  thất bại ra sao?.   Học sinh có thể  xác định được ngay  nội  dung kiến thức: Thứ nhất, làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải  tuyên bố  “Phi mĩ hóa chiến tranh”. Thứ  hai, Mĩ phải chấm dứt không điều  kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán  tại Pa ri. Thứ ba,   Mĩ thừa nhận sự  thất bại trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Như vậy,   dạy học theo năng lực nêu vấn đề là một trong những phương pháp đáp ứng  được nhu cầu của nền kinh tế  ­ xã hội hiện đại. Đó là đào tạo thế  hệ  trẻ  thành một lực lượng lao động  “ tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề do thực tiễn  đặt ra”.          Trong dạy học lịch sử, dạy học theo năng lực nêu vấn đề với những ưu   điểm   của mình đã góp phần thiết thực   vào việc nâng cao chất lượng bộ  môn, nhất là việc phát triển năng lực nhận thức các vấn đề  lịch sử   ở  học  sinh.   14
  18.       *Phát triển năng lực hợp tác, hội nhập.               ­ Dạy học theo năng lực hợp tác, hội nhập còn có tên gọi khác là dạy  học hoạt động theo nhóm hay dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó học sinh của  một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn,   mỗi nhóm tự  lực hoàn thành các nhiệm vụ  học tập trên cơ  sở  phân công và  hợp tác làm việc.  Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh  giá trước toàn lớp. Trong tiết 39 bài 22 tôi tiến hành tổ chức hoạt động nhóm  ở  mục 2 : chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ, giáo  viên chia lớp thành 4 nhóm và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm như sau:                Nhóm 1: Sử dụng Hình 69 trong SGK để trình bày: Quân dân miền  Nam đã đập tan cuộc hành quân của Mĩ – Ngụy vào vùng “đất thánh Việt  cộng” như thế nào?               Nhóm 2: Quân dân miền Nam đã đánh bại cuộc phản công mùa khô  lần thứ nhất (1965 – 1966) của Mĩ – Ngụy như thế nào?               Nhóm 3: Quân dân miền Nam đã đánh bại cuộc phản công mùa khô  lần thứ hai (1966 – 1967) của Mĩ – Ngụy như thế nào?              Nhóm 4: Nhân dân miền Nam đã giành được những thắng lợi gì trên  mặt trận đấu tranh chính trị và chống, phá bình định? Ý nghĩa?              Học sinh dựa vào sách giáo khoa nghiên cứu, các nhóm cử  thư  ký  nhóm, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm, phát biểu ý kiến, sau đó  thư kí ghi kết quả của nhóm mình.               Sau thời gian thảo luận 3 phút các nhóm lên báo cáo kết quả  của   nhóm mình, sau đó giáo viên nhận xét, chốt ý và đưa ra bảng kiến thức đã  chuẩn bị  sẵn trên khổ  giấy Ao để  các em có thể  so sánh với phần kết quả  của nhóm mình.  Bảng hệ  thống hoá kiến thức (giáo viên đã chuẩn bị  sẵn vào khổ  giấy  A0):                                         Kiến thức  cơ bản 15
  19.    ­ Tháng 8/ 1965, quân ta giành thắng lợi lớn ở Núi Thành (Quảng Nam) và  Vạn Tường ( Quảng Ngãi), đã làm dấy lên cao trào “ Tìm Mĩ mà đánh, lùng  ngụy mà diệt ” trên khắp miền Nam.    ­ Quân dân miền Nam đã đập tan cuộc phản công  chiến lược mùa khô thứ  nhất 1965 – 1966 của địch với 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành   quân “ Tìm diệt” lớn của địch, nhằm vào hai hướng chính ở  Đông Nam Bộ  và Liên khu V. Quân ta loại khỏi vòng chiến đấu 42.000 quân Mĩ.    ­ Quân và dân ta đập tan cuộc phản công chiến lược lần thứ  hai 1966 ­   1967 của địch với 895 cuộc hành quân, trong đó có 3 cuộc hành quân lớn “   tìm diệt” và “ bình định”, lớn nhất là cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào  căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), loại khỏi vòng chiến đấu 68.000  quân Mĩ.       ­ Phong trào chống bình định, phá “ ấp chiến lược”diễn ra trên toàn miền   Nam, do đó nhiều ấp chiến lược của Mĩ ­ Ngụy bị phá vỡ.    ­ Các vùng giải phóng được mở rộng, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền   Nam Việt Nam ngày càng có uy tín.                 Dạy học theo năng lực hợp tác, hội nhập (hay còn gọi dạy học theo   nhóm) thường được áp dụng để  đi sâu, luyện tập, củng cố  một chủ  đề  đã  học hoặc cũng có thể  tìm hiểu một chủ  đề  mới. Như  vậy ta thấy dạy học   theo nhóm nếu được chuẩn bị  tốt sẽ  phát huy được tính tích cực, tính trách   nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của học  sinh. * Phát triển năng lực sáng tạo( năng lực tư duy). Trong dạy học theo năng lực sáng tạo cùng tham gia, giáo viên thường  phải sử dụng câu hỏi gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khám phá thông tin,   kiến thức, kĩ năng mới để  đánh giá kết quả  học tập của học sinh; học sinh   cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm giáo viên và học sinh khác về  những nội dung bài học chưa sáng tỏ. Sử  dụng câu hỏi có hiệu quả  đem lại   sự  hiểu biết lẫn nhau giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với học  16
  20. sinh. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ  tham gia của học sinh càng   nhiều; học sinh sẽ học tập tích cực hơn. Ví dụ khi dạy mục 1: Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền  Nam, giáo viên có thể đặt một số  câu hỏi như:  Vì sao đến năm 1965, Mĩ lại   chuyển sang chiến lược “ chiến tranh cục bộ” ? Học sinh trả  lời (Sau thất  bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm  lược miền Nam, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”  ở mi ền Nam   và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.). Hay giáo viên đặt câu hỏi: Em  hiểu thế nào về chiến lược “ Chiến tranh cục bộ”ở Việt Nam.  Học sinh trả  lời (“Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới,   được tiến hành bằng lực lượng quân Mĩ, quân một số  nước đồng minh của   Mĩ và quân đội sài Gòn). Hay giáo viên nêu câu hỏi: Mĩ thực hiện chiến lược “ Chiến tranh cục   bộ” nhằm mục đích gì?(Với chiến lược “ Chiến tranh cục bộ” Mĩ âm mưu  nhanh chóng tạo ra  ưu thế về binh lực, hỏa lực có thể   đàn áp quân chủ  lực   của ta bằng chiến lược quân sự  mới “ tìm diệt”, cố  giành lại thế  chủ  động  trên chiến trường, đẩy lực lượng vũ trang của ta trở  về  phòng ngự, buộc ta  phải phân tán nhỏ, hoặc rút lui về biên giới, làm cho chiến tranh tàn lụi dần.   Như  vậy, chúng ta thấy rằng, Mĩ trực tiếp nhảy vào cuộc chiến nhằm cứu   quân đội Sài Gòn khỏi bị sụp đổ, tiếp tục thực hiện những mục tiêu của chủ  nghĩa thhực dân mới ở miền Nam.             Hoặc nêu câu hỏi: Để  thực hiện mục đích đó, Mĩ đã có những thủ   đoạn và hành động như thế nào?Học sinh theo dõi SGK trả lời (Dựa vào ưu   thế quân sự, Mĩ cho cho quân mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt” vào căn cứ  của Quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi) và mở liền hai cuộc phản   công chiến lược mùa khô ( 1965 – 1966 và 1966 – 1967) bằng hàng loạt cuộc   hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào vùng “đất thánh Việt cộng”. Hoặc giáo viên có thể nêu câu hỏi: Qua việc theo dõi đoạn phim tư liệu   về việc Mĩ đổ quân vào Đà Nẵng và hình ảnh Mĩ ­ Ngụy mở cuộc hành quân   “tìm diệt” vào vùng “đất thánh Việt Cộng” em có nhận xét gì về  qui mô và   17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0