intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT. Ứng dụng vào thực tiễn dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của Sê-khôp

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:52

63
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp giáo viên có thể bao quát được cả quá trình học cũng như sự trưởng thành của học sinh nên năng lực của các em được đánh giá chính xác hơn. Đó là hình thức đánh giá dân chủ, bình đẳng giữa thầy và trò, là một cuộc đối thoại thật sự để giáo viên và học sinh thấu hiểu, tạo môi trường giáo dục thân thiện, tích cực. Mời các bạn cùng tham khảo sáng kiến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT. Ứng dụng vào thực tiễn dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của Sê-khôp

  1. 1.Giới thiệu đề tài     Từ  xưa đến nay, công việc của người giáo viên, nhất là người giáo  viên dạy văn vốn nhọc nhằn và cũng thật cao quý bởi “Mặt trời mọc rồi lặn,   mặt trăng tròn lại khuyết nhưng ánh sáng mà người thầy rọi vào ta sẽ  còn   mãi trong cuộc đời” (Quách Mạt Nhược). Vinh quang của người thầy bao giờ  cũng hóa thân trong thành công của học trò. Thành công của người thầy dạy   văn suy cho cùng chính là vun đắp cho các thế hệ học trò có những rung cảm  văn chương, biết yêu những điều tốt lành, hướng thiện, biết ghét và biết   tránh những thói xấu xa, bạc ác... Môn văn còn  giúp cho các em hình thành các  kĩ năng sống, hình thành và phát triển năng lực còn khuất lấp, để  mai này ra  cuộc đời, cần lắm cho bài học về sự thành công.   Có điểu, ở mỗi thời điểm lịch sử  khác nhau đòi hỏi người thầy cần có  những phương pháp và kĩ thuật khác nhau. Trong bối cảnh hiện nay, môn văn  đang đứng trước nguy cơ bị học trò “quay lưng” do nhiều nguyên nhân: do tác  động của cơ  chế  thị  trường; do quan niệm đã trở  thành  thâm căn cố  đế    ­   “lập thân tối hạ thị văn chương”(Viên Mai); do sự hạn hẹp trong việc tuyển   sinh và tuyển dụng…Nhưng có một nguyên nhân cơ  bản còn xuất phát từ  thực tế dạy học hiện nay: việc đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế,   chưa thật nhiều tiết học được đầu tư  công phu, phương pháp chưa phù hợp  để các em có những tiết học không chỉ được “say” với văn chương, có những  rung cảm sâu sắc từ vốn sống và kiến thức người thầy truyền thụ. Hơn thế  nữa, người giáo viên thật sự   tạo ra những “ sân chơi trí tuệ” để học trò thể  hiện và phát huy năng lực. Bởi lẽ, nhu cầu tự khẳng định bản thân hơn bao  giờ hết đã trở thành một nhu cầu mạnh mẽ trong giới trẻ hiện nay. Do đó, việc đổi mới dạy học để phát huy năng lực học sinh là tất yếu,   là phù hợp với xu thế chung của thời đại và sự tiến bộ của xã hội.  Để có giờ  học tốt, đòi hỏi cả giáo viên và học sinh đều phát huy tối đa trí lực. Thay đổi   phương pháp dạy truyền thống bằng dạy học phát triển năng lực sẽ hứa hẹn   những bất ngờ về khả năng của trò. Mỗi giờ học trở thành mỗi giờ khám phá,  sáng tạo và giáo viên sẽ  là người khơi nguồn cho mọi đam mê, tạo  sân chơi   trí tuệ để học sinh tự phát hiện ra năng lực trong mình bấy lâu nay còn tiềm   ẩn chưa được dịp bộc lộ.  3
  2. Từ  thực tế  dạy học trong năm qua, người viết chọn bài “ Người trong   bao” (Sêkhôp) – một tác phẩm văn học nước ngoài tưởng khô cứng và thường   không được giáo viên và học sinh chú ý trong chương trình Ngữ văn  để minh  họa cho việc dạy học phát huy năng lực học sinh trong dạy học Ngữ  văn  ở  nhà trường THPT hiện nay của mình. Người viết hi vọng những  ứng dụng   thực   tiễn   của   mình   sẽ   có   những   đóng   góp   cho   con   đường   đi   tìm   những   phương pháp dạy học văn còn nhiều tranh biện trong nhà trường hiện nay. 2. Tên sáng kiến  Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT.  Ứng dụng vào thực tiễn dạy học  truyện ngắn “Người trong bao” của Sê­ khôp 3. Tác giả sáng kiến ­ Họ và tên: Trịnh Lan Anh ­ Địa chỉ : Trường THPT Trần Hưng Đạo ­ Tam Dương ­ Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0947845888 ­ Email: trinhlananh.gvtranhungdao@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trịnh Lan Anh 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến   Chương trình ngữ văn lớp 11. Cụ thể bài “Người trong bao” (Sêkhốp) nhằm  phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu : 22/2/ 2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN  VỀ  DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH MÔN NGỮ VĂN 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Khái niệm năng lực  Năng lực là vấn đề rộng với nhiều định nghĩa khác nhau:   Theo Từ  điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ  biên) thì năng lực có thể  được hiểu theo hai nét nghĩa:    (1) Chỉ một khả năng, điều kiện tự nhiên có sẵn để thực hiện một hoạt   động nào đó [4]  4
  3. (2)  Là một phẩm chất tâm sinh lí tạo cho con người có khả  năng để   hoàn thành một hoạt động nào đó có chất lượng cao [4].  Hiểu theo (1) năng lực là một khả  năng có thực, được bộc lộ  ra thông  qua việc thành thạo một hoặc một số  kĩ năng nào đó của người học. Hiểu  theo (2) năng lực là một một cái gì đó sẵn có ở dạng tiềm năng của người học   có thể  giúp họ  giải quyết những tình huống có thực trong cuộc sống. Như  vậy, từ hai nét nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu năng lực  là một cái gì đó vừa   tồn tại  ở  dạng tiềm năng vừa là một khả  năng được bộc lộ  thông qua quá   trình giải quyết những tình huống có thực trong cuộc sống.  Theo PGS.TS. Nguyên Công Khanh dẫn:  “Năng lực là khả  năng cá   nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong   một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002) [2].   Như  vậy, năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động,  động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể  sử dụng một cách thành công   và có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi. Có thể  nhận thấy điểm chung cốt lõi của các cách hiểu trên về  khái  niệm “năng lực” chính là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ để  giải quyết một tình huống có thực trong cuộc sống. Từ  đó chúng ta có thể  nhận định năng lực của học sinh phổ thông chính là khả  năng vận dụng kết   hợp kiến thức, kĩ năng và thái độ để thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập, giải   quyết có hiệu quả những vấn đề có thực trong cuộc sống của các em.  1.1.2. Các năng lực của học sinh   *Các năng lực chung   Theo cuốn Tài liệu tập huấn Dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả  học   tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn của Bộ giáo  dục và Đào tạo, 2014 có:   Các năng lực chung, cốt lõi: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn   đề,  năng lực sáng tạo, năng lực quản lí bản thân ,   Các năng lực xã hội: Năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác   Các năng lực công cụ: Năng lực tính toán, Năng lực sử dụng ngôn ngữ,   Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông.  5
  4.  *Các năng lực chuyên biệt của môn Ngữ văn  Năng lực sử dụng tiếng Việt , năng lực đọc – hiểu  bản (năng lực đọc   văn), năng lực tạo lập văn bản (năng lực làm văn), năng lực thưởng thức văn   học/ cảm thụ thẩm mỹ .   Từ việc phát huy các năng lực sẽ giúp hình thành trong học sinh 6 phẩm   chất: Yêu gia đình, quê hương đất nước; Nhân ái khoan dung; Trung thực, tự   trọng, chí công, vô tư; Tự  lập, tự  tin, tự  chủ; Có trách nhiệm với bản thân,   cộng đồng, đất nước, nhân loại; Nghĩa vụ công dân.  1.1.3. Đánh giá theo năng lực học sinh Theo quan niệm truyền thống: đánh giá chỉ là đánh giá một chiều: giáo viên  đánh giá học sinh và việc đánh giá thường chỉ được thực hiện chủ yếu dựa vào  điểm số của các bài kiểm tra cuối kì hoặc điểm số của các bài kiểm tra một tiết.  Theo quan điểm dạy học tích cực: thì việc đánh giá phải diễn ra đa  chiều: kết hợp đánh giá của thầy và tự  đánh giá của trò, có thể  tham chiếu  thêm sự  đánh giá lẫn nhau giữa trò và trò. Việc đánh giá nên được diễn ra  thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình học chứ không chỉ mang tính chất   định kì như kiểm tra học kì hoặc giữa kì. Giáo viên cần tạo điều kiện để học  sinh tự đánh giá không chỉ bằng điểm số mà phản hồi lại cho giáo viên những  nỗ lực, quá trình phấn đấu và kết quả mà mình đạt được.  Theo Nguyễn Công Khanh thì  “đánh giá học sinh theo cách tiếp cận   năng lực là đánh giá theo chuẩn về  sản phẩm đầu ra… nhưng sản phẩm đó   không chỉ là kiến thức, kĩ năng mà chủ  yếu là khả năng vận dụng kiến thức,   kĩ năng và thái độ  cần có để  thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn   nào đó”   Như vậy, đánh giá theo năng lực học sinh theo cách hiểu này đòi hỏi  phải đáp ứng hai điều kiện chính là: phải có sản phẩm đầu ra và sản phẩm   đó phải đạt được một chuẩn nào đó theo yêu cầu.  Như  vậy đánh giá theo năng lực không chỉ  là đánh giá việc thực hiện   nhiệm vụ  học tập của học sinh mà phải hướng tới việc đánh giá khả  năng   vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ  của học sinh để  thực hiện nhiệm vụ   học tập theo một chuẩn nhất định. Đánh giá theo năng lực phải dựa trên việc  miêu tả rõ một sản phẩm đầu ra cụ  thể mà cả  hai phía giáo viên và học sinh  đều biết và có thể đánh giá được sự tiến bộ của học sinh dựa vào mức độ mà  các em thực hiện sản phẩm.  6
  5. 1.1.4. Một số hình thức đánh giá Đánh giá năng lực (ĐGNL) không chỉ  là việc đánh giá việc thực hiện  nhiệm vụ  hoặc hành động học tập. Nó bao hàm “việc đo lường khả  năng   tiềm ẩn của học sinh và đo lường việc sử dụng những kiến thức, kỹ năng, và   thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập tới một chuẩn nào đó”  ĐGNL  dựa trên việc miêu tả các sản phẩm đầu ra cụ thể, rõ ràng tới mức giáo viên,  học sinh và các bên liên quan đều có thể hình dung tương đối khách quan và  chính xác về  thành quả  của học sinh sau quá trình học tập. ĐGNL cũng cho   phép nhìn ra tiến bộ của học sinh dựa trên mức độ thực hiện các sản Đánh giá học sinh theo cách tiếp cận năng lực là đánh giá theo chuẩn về  sản phẩm đầu ra… nhưng sản phẩm đó không chỉ  là kiến thức, kĩ năng, mà  chủ  yếu là khả  năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ  cần có để  thực  hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn nào đó. Sử dụng các phương pháp không truyền thống: quan sát, phỏng vấn sâu  và hội thảo, nhật ký người học, hồ  sơ  học tập, bài tập lớn, đánh giá thực  hành (bao gồm tập hợp bài tập và các sản phẩm…), học sinh tự  đánh giá và  đánh giá lẫn nhau….    Để đánh giá năng lực học sinh, giáo viên có thể thực hiện đánh giá qua:  việc tổ chức dạy học trên lớp và theo dự án. 1.1.4.1. Đánh giá qua tổ chức dạy học trên lớp Đây là hình thức dạy học phổ  biến nhất trong nhà trường. Trong quá  trình tổ chức dạy học thì phương pháp dạy học (PPDH) và kĩ thuật dạy học  (KTDH) là quan trọng nhất. PPDH có thể  hiểu là hình thức, cách thức hành   động của GV và HS nhằm thực hiện những mục tiêu dạy học xác định, phù   hợp với những nội dung và điều kiện dạy học cụ thể.  PPDH cụ thể quy định  những   mô   hình   hành   động   của   giáo   viên   và   học   sinh .   Kĩ   thuật   dạy   học  (KTDH)  là những biện pháp, cách thức hành động của giáo viên trong các   tình huống hành động nhỏ  nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học   (QTDH)        Mỗi QĐDH có những PPDH cụ thể phù hợp với nó; mỗi PPDH cụ thể có   các KTDH đặc thù. Tuy nhiên, có những PPDH cụ  thể  phù hợp với nhiều  QĐDH, cũng như  có những KTDH được sử  dụng trong nhiều PPDH khác  nhau (Ví dụ: kĩ thuật đặt câu hỏi được dùng cho cả  phương pháp đàm thoại  7
  6. và phương pháp thảo luận). Có rất nhiều phương pháp, song người ứng dụng  một số phương pháp dạy học tích cực sau: a. Phát huy năng lực qua phương pháp hoạt động nhóm      Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học   hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được chia  thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự  lực hoàn  thành các nhiệm vụ  học tập trên cơ  sở  phân công và hợp tác làm việc. Kết  quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.   Dạy học nhóm nếu được tổ  chức tốt sẽ  phát huy được tính tích cực,   tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp  của HS. b. Phát huy năng lực bằng phương pháp giải quyết vấn đề           Phát hiện và giải quyết vấn đề (GQVĐ) là PPDH đặt ra trước HS các   vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết,   chuyển HS vào tình huống có vấn đề  , kích thích họ  tự  lực, chủ  động và có  nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề. c. Phát huy năng lực học sinh qua phương pháp đóng vai  Đóng vai là phương pháp tổ  chức cho HS thực hành, “ làm thử” một số  cách  ứng xử  nào đó trong một tình huống giả  định. `Đây là phương pháp   nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề  bằng cách tập trung vào một  sự  việc cụ  thể  mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn”  không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự  thảo luận sau phần diễn ấy. d.  Phát huy năng lực học sinh phương pháp trò chơi Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn   đề  hay thể  nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông  qua một trò chơi nào đó.   Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để  không gây   nhàm chán cho HS. Sau khi chơi, giáo viên cần cho HS thảo luận để nhận ra ý  nghĩa giáo dục của trò chơi  1.1.4.2. Đánh giá qua hồ sơ học sinh     Hồ  sơ  học tập của học sinh là một bộ  sưu tập có mục đích và có tổ  chức những công việc của học sinh, được tích lũy trong suốt một thời gian và  8
  7. thể hiện sự nỗ lực, tiến trình của học sinh và những gì các em đạt được. Có   thể phân loại Hồ sơ học tập:  *Hồ sơ đọc – hình thức đánh giá năng tiếp nhận văn bản  Hồ  sơ  đọc này có thể là một hồ  sơ  lưu trữ  tất cả tài liệu đọc độc lập  của các em. Nó được học sinh dùng để  chuẩn bị  bài mới, ghi chép lại nhận   xét của các em về  bài học,  ở  mức độ  cao hơn là đọc những tác phẩm bên  ngoài sách khoa (theo gợi ý của giáo viên hoặc theo sở thích cá nhân của học   sinh). Hình thức cụ thể của hồ sơ đọc cần được giáo viên hướng dẫn cho học  sinh và đảm bảo tất cả các em đều hiểu và có thể làm được.  * Hồ sơ bài viết – hình thức đánh giá năng lực tạo lập văn bản    Hồ sơ bài viết có thể hiểu là hồ sơ theo dõi sát sao quá trình tạo lập các  loại văn  bản của người học trong suốt học kì hoặc cả năm. Giáo viên không  chỉ xem hồ sơ bài viết này như một phản hồi của người học mà còn phải xác   định rõ với học sinh nó là một căn cứ  để  đánh giá năng lực tạo lập văn bản   của các em. Theo hình thức đánh giá này, hồ  sơ  bài viết sẽ  được giáo viên   xem xét và thảo luận với từng học sinh mỗi cuối học kì để  đánh giá mức độ  phát triển của các em. Từ  đó giáo viên có thể  đánh giá cả  quá trình học của   học sinh, cụ thể hơn là sự tiến bộ của học sinh qua từng bài viết.  1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực tiễn tổ chức dạy học   Chương trình theo cách tiếp cận nội dung thì dạy cho học sinh biết cái  gì; Còn chương trình hướng đến năng lự’*c cho học sinh là học sinh làm được   gì trên cơ  sở  các em biết. Như  vậy năng lực là đích, là đầu ra của giáo dục.   Với cách tiếp cận như  vậy nó sẽ  chi phối các yếu tố  của chương trình như  mục tiêu ­ tức là dạy để  làm gì; nội dung dạy học ­ tức dạy cái gì; phương   pháp và hình thức tổ chức dạy học ­ tức là học bằng cách nào; và cuối cùng là   thi, kiểm tra, đánh giá và chất lượng giáo dục.   . Để  phát huy năng lực của học sinh,  cần trăn trở  và tìm tòi hướng đi  mới cho mỗi bài dạy, cách tổ chức sao cho phù hợp với từng bài và từng đối  tượng học sinh. Từ đó, có thể thấy rõ sự khác biệt giữa dạy học truyền thống  và dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 9
  8. 1.2.1.1.Thực trạng dạy học truyền thống Dạy học văn hiện nay đang chịu sự  tác động của cơ  chế  thị  trường, vị  thế môn văn trong nhà trường THPT bấy lâu bị “xem nhẹ”. Các em năng động  hơn cũng đồng nghĩa với nguy cơ sống thực dụng nhiều hơn. Học sinh không  nhận thức vai trò của môn văn là để bồi đắp tâm hồn, rèn luyện kĩ năng giao   tiếp, tạo lập văn bản, để  trau dồi vốn sống và nhân cách nữa. Cách dạy học   thụ  động truyền thống dường như  không còn phù hợp với sự  nhạy bén của  học sinh thời nay.   1.2.1.2. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh   Để  phát huy năng lực của người học, giáo viên luôn phải chủ  động  trong việc tổ chức giờ học. Tức là quá trình chuẩn bị cho một tiết học là khâu   quan trọng nhất. Tùy đặc thù từng bài cũng như  các phân môn khác nhau sẽ  định hướng hình thành năng lực học sinh khác nhau. Mục đích phát triển năng  lực nào sẽ đề ra phương pháp và cách thức nấy.    Để tổ chức tốt một giờ dạy theo đinh hướng phát triển năng lực học sinh   trước hết giáo viên cần định hướng những năng lực mà học sinh cần được phát   huy trong giờ dạy. Sau đó hình dung ra các công việc học sinh có thể hoàn thành,   phân công nhiệm vụ cho các nhóm. Cuối cùng là  kiểm tra đánh giá kết quả.    Thực tiễn dạy học cho thấy học sinh vô cùng hứng thú với các tiết học   này. Có thể lập bảng so sánh tiết dạy học truyền thống với tiết dạy học phát   triển năng lực học sinh như sau: Phướng pháp dạy học Ngữ  Đối Phương pháp dạy học ngữ văn văn  theo định hướng phát  Tượn truyền thống triển g năng lực Học  HS khó nhớ bài học, không nắm  HS   nhớ   và   có   ấn   tượng   sâu  sinh vững hay tiếp thu được nội dung  sắc về  bài học,   hiểu và nắm  kiến thức vững kiến thức ngay trên lớp HS không hợp tác, thụ động, lười tư  HS chủ  động hợp tác, biết vận  duy, xa thực tiễn. dụng kiến thức để  liên hệ  vào  thực tiễn. 10
  9.  HS còn mất tập trung trong giờ học. HS tập trung tham gia giờ học. HS được thể  hiện quan điểm   HS chưa thể hiện được bản thân,  cá nhân, kiến thức được tiếp  thiếu tự tin, hạn chế về kĩ năng giao  nhận   đa   chiều.   HS   tự   tin,   tự  tiếp… chủ có kĩ năng giao tiếp tốt HS thiếu tính sáng tạo, không có khả  ­  HS   chủ   động   hợp   tác,   tinh  năng tư duy độc lập, khẻ năng hợp  thần tự học và tự quản tốt tác và tự học, tự quản hạn chế. ­ HS sáng tạo GV   làm   việc   ít,     chủ   động  GV làm việc nhiều nên đôi khi ham  Giáo  truyền đạt kiến thức cơ  bản,  truyền tải  một chiều dẫn tới thụ  viên chính xác, khoa học, có trọng  động, mệt mỏi tâm. Giáo  viên   đạt  được  mục  tiêu  Phương pháp dạy học đơn điệu,  kiến   thức   ­   kỹ   năng   của   bài  không đổi mới phương pháp dạy  dạy. Giờ học sinh động, có thể  học, chưa tích hợp được kiến thức  tích   hợp   kiến   thức   liên   môn  liên môn… theo chủ đề. Giáo viên còn áp đặt kiến thức, còn  Giờ  học sinh  động, hấp dẫn,  tồn tại tình trạng “thầy đọc, trò  sôi nổi, không khí thân thiện,  chép” bài giảng lôi cuốn. Phương tiện, phương pháp hỗ  GV dạy chay, thiếu đồ dùng DH trợ  phù hợp, linh hoạt, có tính  tích hợp, lồng ghép kiến thức  thực tế   1.2.2. Thực tiễn kiểm tra đánh giá Qua thực tiễn dạy học,  sự khác biệt cách kiểm tra, đánh giá kết quả học  tập theo hướng bồi dưỡng năng lực tự  học với kiểm tra, đánh giá kiểu dạy  học truyền thống như sau: Kiểm tra, đánh giá  Kiểm tra, đánh giá theo hướng  TT kiểu truyền thống bồi dưỡng năng lực tự học 11
  10. Chú trọng kiểm tra tri thức, kỹ  Chú trọng kiểm tra năng lực độc  1 năng lập, sáng tạo, năng lực tự học. Đánh giá kết quả học tập theo các  Đánh giá kết quả học tập theo  2 tiêu chí: kiến thức, kỹ năng các tiêu chí: Độc lập, sáng tạo Kết hợp đánh giá của thầy với tự  3 Thầy giữ vị trí độc tôn trong đánh giá. đánh giá và đánh giá lẫn nhau của  trò.    Xưa nay, đánh giá kết quả học tập là việc làm của thầy giáo, học sinh   là đối tượng được đánh giá. Trong dạy học theo hướng định hướng phát triển  năng lực thì người thầy cần bồi dưỡng cho trò khả năng tự kiểm tra đánh giá  sản phẩm học tập của mình, đánh giá lẫn nhau, để  điều chỉnh cách học sao   cho có hiệu quả nhất.  CHƯƠNG 2 ỨNG DỤNG  DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT  TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT              2.1. Phát triển năng lực học sinh qua hình thức tổ chức dạy học trên lớp   Trong thực tiễn dạy học, với mỗi đối tượng khác nhau giáo viên có  những phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Để  phát huy năng lực của   học sinh không thể  không  ứng dụng các phương pháp kĩ thuật (đã nêu ở  12
  11. chương 1). Người viết bài vận dụng các phương pháp, kĩ thuật đó vào quy  trình dạy học trên lớp để phát triển các năng lực học sinh. Môn Ngữ  văn nói riêng và các môn học khác nói chung không còn đơn  điệu nếu người giáo viên không ngừng trau dồi chuyên môn, đam mê nghề  nghiệp, luôn “giữ lửa” và “truyền lửa” đến các em học sinh. Nhưng hơn hết   là học sinh cần thoát khỏi cái vỏ tự ti, thụ động, được khích lệ thể hiện năng  lực của bản thân. Năng lực  ấy cần phải được học sinh trong lớp ghi nhận,   giáo viên đánh giá thỏa đáng, kịp thời.    Các   năng  lực   của   học  sinh   luôn  đồng  thời  được   thể   hiện  nếu  như  người giáo viên biết định hướng và tổ  chức cho các em học sinh. Trong các   tiết dạy học theo định hướng này, người viết đề  xuất và thực hiện theo quy  trình sau:  Các bước  Quy trình thực hiện dạy học theo định hướng tiến hành phát triển năng lực học sinh Bước 1 Xác định mục tiêu theo chuấn KT­ KN, các năng lực cần hướng  tớ i Bước 2 Xây dựng tiến trình, nội dung, kết cấu bài dạy  Bước 3 Giao nhiệm vụ cụ thể. Cần yêu cầu học sinh có sản phẩm đầu  ra. Thống nhất về thang điểm và tiêu chí giá năng lực học sinh Bước 4 Chuẩn bị chu đáo về phương tiện, kĩ thuật dạy học. Cần đầu  tư thời gian chuẩn bị phiếu học tập, hình dung ra các phần làm  việc của học sinh để chuẩn bị tư liệu, kiến thức, phương tiện  bổ trợ. Bước 5 Tổ chức tiết dạy theo định hướng phát triển năng lực Đánh giá năng lực học sinh theo các tiêu chí đã xây dựng.  Bước 6 Cần lưu lại các sản phẩm của học sinh để làm tư liệu  Mỗi quy trình được coi là một nhiệm vụ  học tập. Mỗi nhiệm vụ  học   tập lại có những phương pháp, kĩ thuật dạy học riêng đề  phát huy năng lực   học sinh. Trong quá trình dạy học, tôi vận dụng chủ yêu các phương pháp, kĩ  thuật sau: phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp nêu vấn đề, phương  pháp đóng vai, phương pháp tổ  chức trò chơi…Mỗi phương pháp tôi lại  ứng  13
  12. dụng những kĩ thuật phù hợp như  kĩ thuật sơ  đồ  tư  duy, kĩ thuật khăn trải   bàn, kĩ thuật giao nhiệm vụ… 2.1.1. Phát huy năng lực qua phương pháp hoạt động nhóm   Khi dạy học theo định hướng phát triển năng lực qua hoạt động nhóm  người viết thường áp dụng theo cách thưc sau:  * Hoạt động nhóm trên lớp :    Bước 1:Thành lập nhóm    Bước 2: Xác định nhiệm vụ của các nhóm, yêu cầu về thời gian  và sản phẩm đấu ra Bước 3: Trình bày kết quả Bước 4: Đánh giá * Hoạt động nhóm khi về nhà: HS nhận nhiệm vụ  và thực hiện theo các  cách   Bước 1:  Chuẩn bị chỗ làm việc   Bước 2: Lập kế hoạch làm việc Bước 3: Thoả thuận quy tắc làm việc Bước 4: Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ Bước 5: Chuẩn bị báo cáo kết quả. Trong bước phân công nhiệm vụ và yêu cầu sản phẩm đầu ra: giáo viên  phân công nhiệm vụ  cần xác định đúng mức độ  công việc có phù hợp với  từng học sinh, nhóm học sinh không? Phải chú ý là học sinh nào cũng được  giao nhiệm vụ, đòi hỏi cá nhân hoặc nhóm học sinh có sự  tương tác. Tránh  hiện tượng chỉ  có rất ít học sinh tham gia, các học sinh khác ỉ  lại vào những  bạn có năng lực hơn mình. Muốn vậy, giáo viên cần hướng dẫn nhóm học  sinh lập Sổ theo dõi chuyên cần. Trong cuốn sổ đó ghi rõ các thành viên trong  nhóm, nhiệm vụ được phân công, công việc tham gia và hoàn thành. Học sinh   trong nhóm có thể tự đánh giá năng lực của nhau, từ đó là cơ sở cho giáo viên   đánh giá. Khi phân nhóm giáo viên cần linh hoạt và đổi mới cách chia nhóm để  các em có cơ  hội giao tiếp, hợp tác, thấu hiểu giữa các thành viên. Để  xây  dựng các nhóm tôi căn cứ  vào đặc điểm cụ  thể  của nhiệm vụ, của bài, đối   tượng học sinh như: 14
  13.   ­ Tùy thuộc từng nhiệm vụ cụ thể mà số lượng học sinh có thể nhiều hay  ít ­ Có thể chia nhóm HS theo không gian có thể căn cứ vào vị trí ngồi trên   lớp, theo địa phương để dễ dàng trao đổi. ­ Phân nhóm theo sở thích và năng lực của học sinh. ­ Phân nhóm sau một trò chơi cụ thể… Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một  nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề  chung. Chú ý khi tổ chức  phòng làm việc, phòng học, cần kê bàn ghế cho thân thiện, phù hợp với hoạt  động nhóm.  2.1.2 Phát huy năng lực qua phương pháp dạy học nêu vấn đề Đây là phương pháp khá phổ  biến trong các giờ  dạy học ngữ  văn. Để  học sinh có thể phát triển năng lực tự  học, tự  quản, giải quyết vấn đề, giải  quyết các tình huống thực tiễn...giáo viên cần vận dụng phương pháp này  một cách linh hoạt. Để  thực hiện phương pháp này, người viết đã vận dụng   theo quy trình sau: Chuyển vấn đề đến học sinh     Quy trình Học sinh thu thập thông tin Giải quyết vấn đề            Đề ra phương án giải quyết Thực hiện phương án phù hợp Đánh giá hiệu quả  Tuy nhiên người viết bài thấy rằng, trong quá trình thực hiện phương   pháp nêu vấn  cần lưu ý: vấn đề/ tình huống phải   hù hợp với chủ  đề  bài   học, phù hợp với trình độ  nhận thức của học sinh, gần gũi với cuộc sống   thực của các em, có cách thể  hiện bằng hình  ảnh sinh động và cách giải  quyết tối ưu đối với mỗi em có thể giống hoặc khác nhau.   Ví dụ, khi dạy bài “Đàn ghi ta của Lorca”,  để  tìm hiểu 6 dòng thơ  đầu, sau khi nêu vấn đề giáo viên phân công nhiệm vụ cho học sinh:    Làm rõ hình tượng Lorca trong bối cảnh chính trị  và nghệ  thuật của   Tây Ban Nha thế kỉ XIX?  15
  14.   Để  thực hiện nhiệm vụ  này, nhóm học sinh 12A3  đưa ra cách giải   quyết vần đề theo trình tự sau:  Một Lorca bất tử  và bất hạnh qua  hình   ảnh“những   tiếng   đàn   bọt  nước” Một   Lorca     anh   dũng   trên   đấu  trường cách tân nghệ  thuật và bảo  vệ công lí Một Lorca cô đơn trong không gian  mênh mông và thời gian thăm thẳm Một hình tượng bi tráng để  người  đọc cảm phục và xót thương    Với quy trình này, rõ ràng học sinh đã thể  hiện được năng lực giải  quyết vấn đề, tự học, tự quản bản thân tốt. Hay khi giáo viên nêu tình huống:  Hãy chứng minh rằng sông Hương là dòng sông âm nhạc và thi ca? khi  dạy học bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”  của Hoàng Phủ  Ngọc Tường,  nhóm học sinh được giao đã thực hiện như sau: ­ Cử đại diện hát một đoạn của bài hát về sông Hương, xứ Huế ­ Sông Hương là cái nôi hình thành nên nền âm nhạc cổ  điển Huế.   Chiếu 1 đoạn clip về ca Huế trên sông Hương để minh họa ­ Khẳng định niềm tự  hào và tình yêu của Hoàng Phủ  Ngọc Tường với   Huế. Gần đây nhất, khi tổ chức dạy học theo hướng phát triển năng lực bài  “Ông già và biển cả” (Hêminh­ uê), giáo viên giao việc cho các nhóm lần lượt  tìm   hiểu các vấn đề  trong tác phẩm. Trong  đó, khi  nhóm 1  trình bày về  nguyên lí ”Tảng băng  trôi” , các em có cách giải quyết vấn đề như sơ đồ sau: 16
  15.   Rõ ràng để có được sơ đồ này, học sinh phải phát huy được năng lực tự  học, tự quản và hợp tác tốt. Nhóm thứ  2, phân tích  hình tượng ông lão đánh cá Xantriagô, ngoài  phần sơ  đồ  kiến thức, học sinh đã cho cả  lớp xem clip trong bộ  phim cùng  tên, sau đó rút ra đặc điểm nhân vật bằng sơ đồ tư duy.    Như vậy có thể khẳng định phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong   phương pháp chủ đạo và tích cực để định hướng học sinh chủ đạo tiếp nhận kiến  thức. Kiến thức học sinh như thế nào, sản phẩm của học sinh tốt hay không phụ  thuộc vào cách tổ chức và nêu vấn đề của người dạy có độc đáo và phù hợp hay   không.  2.1.3. Phát huy năng lực qua phương pháp đóng vai   Đây là phương pháp được học sinh hứng thú nhất. Không phải bài nào  cũng có thể  áp dụng phương pháp phân vai nhưng nếu  ứng dụng vào những   bài phù hợp sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Để  thực hiện phương pháp đóng  vai, người viết thực hiện theo quy trình sau: Bước 1: Giáo viên nêu chủ  đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu  đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian  đóng vai của mỗi nhóm Bước 2: Các nhóm thảo luận, lên kế  hoach về nội dung, phân công các  thành viên trong nhóm tham gia. Bước 3: Tổ chức cho lớp nhận xét về cách tổ chức phân vai, diễn xuất.   Giáo viên đánh giá năng lực của học sinh Khi thực hiện phương pháp đóng vai, giáo viên cần lưu ý: Tình huống  phải phù hợp với lứa tuổi, trình độ  học sinh, lớp học. Thứ  hai, tình huống  17
  16. không nên quá phức tạp, cần diễn ra trong thời gian cụ thể, không cho học  sinh trước kịch bản, lời thoại để  rèn cho học sinh năng lực tạo lập văn bản.  Nên có hoá trang và đạo cụ  đơn giản để  tăng tính hấp dẫn của tiểu phẩm   đóng vai. Trong chương trình Ngữ văn có nhiều bài có thể cho học sinh sử  dụng   phương pháp đóng vai, nhất là những bài đọc văn. Người viết bài đã thực   hiện những tiết dạy có sử dụng phương pháp này và nhận thấy giờ học đạt   được hiệu quả  và học sinh  có  “sân khấu”  để  thể  hiện năng lực rõ rệt.  Chẳng hạn, thay vì việc đọc hay tóm tắt văn bản truyện ngắn  “Chí Phèo”  (Nam Cao), giáo viên đã phân lớp thành ba nhóm thực hiện các nhiệm vụ sau: Nhóm 1: Tìm hiểu đoạn trước khi Chí Phèo gặp thị Nở và dựng lại chân  dung Chí Phèo trong cơn say. Thời gian diễn xuất 2 phút. Nhóm 2: Tìm hiểu đoạn Chí Phèo gặp thị Nở và tái hiện lại bằng tiểu  phẩm trong vòng 3 phút. Nhóm 3:  Tìm hiểu  đoạn cuối của truyện “Chí Phèo”  và tái hiện lại  bằng tiểu phẩm. Thời gian diễn xuất 2 phút. Với cách phân vai như vậy, giờ học không còn nhàm chán, học sinh rất   háo hức mong đợi một giờ văn khi các em được “đồng sáng tạo” với tác giả,  được hóa thân vào nhân vật. Hơn thế  nữa các năng lực như  giải quyết vấn   đề, tự  học, giao tiếp, sử  dụng tiếng Việt, tạo lập văn bản, đọc hiểu...được  thể  hiện. Quan trọng nhất là rèn cho các em tinh thần tự  tin và tự  chủ  bản   thân. Phương pháp dạy học phân vai có thể  ứng dụng trong nhiều tác phẩm   khác như  đoạn trích:  “Chí Phèo”,  “Người trong bao”, “Người cầm quyền   khôi phục uy quyền” ­ V. Huygô), “Vợ nhặt” ...và cả trong dạy học văn học  dân gian.  2.1.4. Phát huy năng lực qua phương pháp tổ chức trò chơi Trong quá trình dạy học, để thay đổi không khí giờ học giáo viên có thể  khéo   léo   lồng   ghép   phương   pháp   tổ   chức   trò   chơi   trong   một   số   bài   học.   Phương pháp này khiến kiến thức được truyền thụ  tự  nhiên, tăng cường sự  tập trung cho các tiết dạy. Ví dụ  như, khi dạy bài  Diễn đạt trong văn nghị   luận (Ngữ văn 12) giáo viên có thể đưa ra một loạt dữ liệu, trong đó có những   từ  dùng sai hoặc chưa chuẩn. Từ  đó chia nhóm tổ  chức cuộc thi   Ai nhanh   hơn.  Nhóm nào phát hiện nhiều từ  sai, sửa sai  được nhiều hơn nhóm đó  18
  17. thắng. Dạy bài  Phát biểu tự  do  giáo viên có thể  sử  dụng phương pháp trò  chơi thông qua trò Hái hoa dân chủ. Mỗi bông hoa là một chủ  đề  phát biểu  theo yêu cầu của giáo viên hoặc nhóm học sinh tự đặt cho nhau. Cho thời gian   chuẩn bị, bốc thăm trả lời.  Ở  một số  bài học có thể  đưa trò chơi vào phần củng cố. Các trò chơi  có thể   ứng dụng như: Nhìn hình bắt chữ (Giáo viên chuẩn bị  tranh,  ảnh tư  liệu liên quan, yêu cầu học sinh tìm từ ngữ tương ứng để trả lời);  “Trình bày  một phút”  (giáo viên chia nhóm, mỗi nhóm đặt một câu hỏi cho nhóm bạn về  vấn đề liên quan đến bài học yêu cầu nhóm bạn trả lời trong một phút. Nhóm  thắng là nhóm có câu tra lời ngắn gọn, hàm súc và độc đáo nhất. Các câu hỏi  cũng như  các câu trả  lời học sinh đưa ra sẽ  giúp củng cố  quá trình học tập   của các em và cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn đề  như  thế  nào.   Qua hình thức tổ  chức như  vậy, các em hình thành được năng lực giao tiếp,  năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tự quản bản thân tốt... 2.1.4 . Kết quả đạt được sau thực tiễn ứng dụng các phương pháp dạy  học phát triển năng lực học sinh   Qua việc  ứng dụng các phương pháp/ kĩ thuật dạy học trên, học tôi  thấy các em hình thành đồng thời nhiều năng lực. Có thể  mô tả  bằng sơ  đồ  sau:    Qua các phương pháp trên các năng lực tiêu biểu được thể hiện như: * Năng lực giải quyết vấn đề, tự học hợp tác , tự quản   Thực tế  cho thấy khi đặt học sinh vào một tình huống đòi hỏi   phải có sự hợp tác giữa các thành viên sẽ duy trì được tinh thần đồng đội, tinh   thần đoàn kết, học sinh có cơ  hội bộc lộ  những lợi thế  của mình. Học sinh  cần có những cách ứng xử hài hòa với nhau, học hỏi nhau.  19
  18. Một sản phẩm của học sinh thể hiện năng lực tự học    Muốn học sinh có sản phẩm đầu ra và qua đó bộc lộ ý thức tự học, tự  nghiên cứu thì bản thân người thầy cũng cần hướng dẫn cho học sinh các  phương pháp, kĩ thuật, tự học như: kĩ thuật sơ đồ tư duy, phương pháp thống kê  – phân loại, so sánh, phân tích, tổng hợp…Có như vậy, việc tự học mới đạt hiệu   quả.   Để phát triển năng giải quyết vấn đề học sinh sẽ phải hợp tác để hoàn  thành nhiệm vụ  tốt nhất. Để  đạt hiệu quả  cao nhất trong hoạt động nhóm  phát huy năng lực hợp tác giáo viên đã ứng dụng những phương pháp, kĩ thuật  dạy học tích cực như kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ thuật   đặt câu hỏi, kĩ thuật mảnh ghép…Kết quả cho thấy học sinh luôn có sự tương  tác giữa các thành viên trong và ngoài nhóm tốt. Những giờ học vì thế  không   còn nhàm chán với các em. * Năng lực Công nghệ thông tin và truyền thông   Đây là một trong những năng lực vượt trội của học sinh ngày nay. Học   sinh vốn thông minh và dễ  tiếp thu cái mới. Chính vì thế  cần phải tổ  chức  dạy học để làm sao các em có cơ hội thể hiện và tự khám phá bản thân.     Để  phát triển năng lực này, quan trọng nhất là giáo viên cần phải nêu  được tình huống, yêu cầu sản phẩm đầu ra cho học sinh. Học sinh có thể bộc  lộ  khả  năng này  ở  nhiều góc độ: Soạn thảo một văn bản, Thiết kế  bài học   trên powerponrt, cắt video, lồng ghép âm thanh, tạo clip…Người viết bài luôn  cảm thấy bất ngờ trước năng lực các em thể hiện trong lĩnh vực này.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2