SKKN: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT. Ứng dụng vào thực tiễn dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của Sê-khôp
lượt xem 4
download
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp giáo viên có thể bao quát được cả quá trình học cũng như sự trưởng thành của học sinh nên năng lực của các em được đánh giá chính xác hơn. Đó là hình thức đánh giá dân chủ, bình đẳng giữa thầy và trò, là một cuộc đối thoại thật sự để giáo viên và học sinh thấu hiểu, tạo môi trường giáo dục thân thiện, tích cực. Mời các bạn cùng tham khảo sáng kiến.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT. Ứng dụng vào thực tiễn dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của Sê-khôp
- 1.Giới thiệu đề tài Từ xưa đến nay, công việc của người giáo viên, nhất là người giáo viên dạy văn vốn nhọc nhằn và cũng thật cao quý bởi “Mặt trời mọc rồi lặn, mặt trăng tròn lại khuyết nhưng ánh sáng mà người thầy rọi vào ta sẽ còn mãi trong cuộc đời” (Quách Mạt Nhược). Vinh quang của người thầy bao giờ cũng hóa thân trong thành công của học trò. Thành công của người thầy dạy văn suy cho cùng chính là vun đắp cho các thế hệ học trò có những rung cảm văn chương, biết yêu những điều tốt lành, hướng thiện, biết ghét và biết tránh những thói xấu xa, bạc ác... Môn văn còn giúp cho các em hình thành các kĩ năng sống, hình thành và phát triển năng lực còn khuất lấp, để mai này ra cuộc đời, cần lắm cho bài học về sự thành công. Có điểu, ở mỗi thời điểm lịch sử khác nhau đòi hỏi người thầy cần có những phương pháp và kĩ thuật khác nhau. Trong bối cảnh hiện nay, môn văn đang đứng trước nguy cơ bị học trò “quay lưng” do nhiều nguyên nhân: do tác động của cơ chế thị trường; do quan niệm đã trở thành thâm căn cố đế “lập thân tối hạ thị văn chương”(Viên Mai); do sự hạn hẹp trong việc tuyển sinh và tuyển dụng…Nhưng có một nguyên nhân cơ bản còn xuất phát từ thực tế dạy học hiện nay: việc đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế, chưa thật nhiều tiết học được đầu tư công phu, phương pháp chưa phù hợp để các em có những tiết học không chỉ được “say” với văn chương, có những rung cảm sâu sắc từ vốn sống và kiến thức người thầy truyền thụ. Hơn thế nữa, người giáo viên thật sự tạo ra những “ sân chơi trí tuệ” để học trò thể hiện và phát huy năng lực. Bởi lẽ, nhu cầu tự khẳng định bản thân hơn bao giờ hết đã trở thành một nhu cầu mạnh mẽ trong giới trẻ hiện nay. Do đó, việc đổi mới dạy học để phát huy năng lực học sinh là tất yếu, là phù hợp với xu thế chung của thời đại và sự tiến bộ của xã hội. Để có giờ học tốt, đòi hỏi cả giáo viên và học sinh đều phát huy tối đa trí lực. Thay đổi phương pháp dạy truyền thống bằng dạy học phát triển năng lực sẽ hứa hẹn những bất ngờ về khả năng của trò. Mỗi giờ học trở thành mỗi giờ khám phá, sáng tạo và giáo viên sẽ là người khơi nguồn cho mọi đam mê, tạo sân chơi trí tuệ để học sinh tự phát hiện ra năng lực trong mình bấy lâu nay còn tiềm ẩn chưa được dịp bộc lộ. 3
- Từ thực tế dạy học trong năm qua, người viết chọn bài “ Người trong bao” (Sêkhôp) – một tác phẩm văn học nước ngoài tưởng khô cứng và thường không được giáo viên và học sinh chú ý trong chương trình Ngữ văn để minh họa cho việc dạy học phát huy năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở nhà trường THPT hiện nay của mình. Người viết hi vọng những ứng dụng thực tiễn của mình sẽ có những đóng góp cho con đường đi tìm những phương pháp dạy học văn còn nhiều tranh biện trong nhà trường hiện nay. 2. Tên sáng kiến Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT. Ứng dụng vào thực tiễn dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của Sê khôp 3. Tác giả sáng kiến Họ và tên: Trịnh Lan Anh Địa chỉ : Trường THPT Trần Hưng Đạo Tam Dương Vĩnh Phúc. Số điện thoại: 0947845888 Email: trinhlananh.gvtranhungdao@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trịnh Lan Anh 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Chương trình ngữ văn lớp 11. Cụ thể bài “Người trong bao” (Sêkhốp) nhằm phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu : 22/2/ 2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH MÔN NGỮ VĂN 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Khái niệm năng lực Năng lực là vấn đề rộng với nhiều định nghĩa khác nhau: Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) thì năng lực có thể được hiểu theo hai nét nghĩa: (1) Chỉ một khả năng, điều kiện tự nhiên có sẵn để thực hiện một hoạt động nào đó [4] 4
- (2) Là một phẩm chất tâm sinh lí tạo cho con người có khả năng để hoàn thành một hoạt động nào đó có chất lượng cao [4]. Hiểu theo (1) năng lực là một khả năng có thực, được bộc lộ ra thông qua việc thành thạo một hoặc một số kĩ năng nào đó của người học. Hiểu theo (2) năng lực là một một cái gì đó sẵn có ở dạng tiềm năng của người học có thể giúp họ giải quyết những tình huống có thực trong cuộc sống. Như vậy, từ hai nét nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu năng lực là một cái gì đó vừa tồn tại ở dạng tiềm năng vừa là một khả năng được bộc lộ thông qua quá trình giải quyết những tình huống có thực trong cuộc sống. Theo PGS.TS. Nguyên Công Khanh dẫn: “Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002) [2]. Như vậy, năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công và có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi. Có thể nhận thấy điểm chung cốt lõi của các cách hiểu trên về khái niệm “năng lực” chính là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ để giải quyết một tình huống có thực trong cuộc sống. Từ đó chúng ta có thể nhận định năng lực của học sinh phổ thông chính là khả năng vận dụng kết hợp kiến thức, kĩ năng và thái độ để thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập, giải quyết có hiệu quả những vấn đề có thực trong cuộc sống của các em. 1.1.2. Các năng lực của học sinh *Các năng lực chung Theo cuốn Tài liệu tập huấn Dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn của Bộ giáo dục và Đào tạo, 2014 có: Các năng lực chung, cốt lõi: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực quản lí bản thân , Các năng lực xã hội: Năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác Các năng lực công cụ: Năng lực tính toán, Năng lực sử dụng ngôn ngữ, Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. 5
- *Các năng lực chuyên biệt của môn Ngữ văn Năng lực sử dụng tiếng Việt , năng lực đọc – hiểu bản (năng lực đọc văn), năng lực tạo lập văn bản (năng lực làm văn), năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mỹ . Từ việc phát huy các năng lực sẽ giúp hình thành trong học sinh 6 phẩm chất: Yêu gia đình, quê hương đất nước; Nhân ái khoan dung; Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; Nghĩa vụ công dân. 1.1.3. Đánh giá theo năng lực học sinh Theo quan niệm truyền thống: đánh giá chỉ là đánh giá một chiều: giáo viên đánh giá học sinh và việc đánh giá thường chỉ được thực hiện chủ yếu dựa vào điểm số của các bài kiểm tra cuối kì hoặc điểm số của các bài kiểm tra một tiết. Theo quan điểm dạy học tích cực: thì việc đánh giá phải diễn ra đa chiều: kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò, có thể tham chiếu thêm sự đánh giá lẫn nhau giữa trò và trò. Việc đánh giá nên được diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình học chứ không chỉ mang tính chất định kì như kiểm tra học kì hoặc giữa kì. Giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh tự đánh giá không chỉ bằng điểm số mà phản hồi lại cho giáo viên những nỗ lực, quá trình phấn đấu và kết quả mà mình đạt được. Theo Nguyễn Công Khanh thì “đánh giá học sinh theo cách tiếp cận năng lực là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu ra… nhưng sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn nào đó” Như vậy, đánh giá theo năng lực học sinh theo cách hiểu này đòi hỏi phải đáp ứng hai điều kiện chính là: phải có sản phẩm đầu ra và sản phẩm đó phải đạt được một chuẩn nào đó theo yêu cầu. Như vậy đánh giá theo năng lực không chỉ là đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh mà phải hướng tới việc đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ của học sinh để thực hiện nhiệm vụ học tập theo một chuẩn nhất định. Đánh giá theo năng lực phải dựa trên việc miêu tả rõ một sản phẩm đầu ra cụ thể mà cả hai phía giáo viên và học sinh đều biết và có thể đánh giá được sự tiến bộ của học sinh dựa vào mức độ mà các em thực hiện sản phẩm. 6
- 1.1.4. Một số hình thức đánh giá Đánh giá năng lực (ĐGNL) không chỉ là việc đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ hoặc hành động học tập. Nó bao hàm “việc đo lường khả năng tiềm ẩn của học sinh và đo lường việc sử dụng những kiến thức, kỹ năng, và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập tới một chuẩn nào đó” ĐGNL dựa trên việc miêu tả các sản phẩm đầu ra cụ thể, rõ ràng tới mức giáo viên, học sinh và các bên liên quan đều có thể hình dung tương đối khách quan và chính xác về thành quả của học sinh sau quá trình học tập. ĐGNL cũng cho phép nhìn ra tiến bộ của học sinh dựa trên mức độ thực hiện các sản Đánh giá học sinh theo cách tiếp cận năng lực là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu ra… nhưng sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn nào đó. Sử dụng các phương pháp không truyền thống: quan sát, phỏng vấn sâu và hội thảo, nhật ký người học, hồ sơ học tập, bài tập lớn, đánh giá thực hành (bao gồm tập hợp bài tập và các sản phẩm…), học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau…. Để đánh giá năng lực học sinh, giáo viên có thể thực hiện đánh giá qua: việc tổ chức dạy học trên lớp và theo dự án. 1.1.4.1. Đánh giá qua tổ chức dạy học trên lớp Đây là hình thức dạy học phổ biến nhất trong nhà trường. Trong quá trình tổ chức dạy học thì phương pháp dạy học (PPDH) và kĩ thuật dạy học (KTDH) là quan trọng nhất. PPDH có thể hiểu là hình thức, cách thức hành động của GV và HS nhằm thực hiện những mục tiêu dạy học xác định, phù hợp với những nội dung và điều kiện dạy học cụ thể. PPDH cụ thể quy định những mô hình hành động của giáo viên và học sinh . Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách thức hành động của giáo viên trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học (QTDH) Mỗi QĐDH có những PPDH cụ thể phù hợp với nó; mỗi PPDH cụ thể có các KTDH đặc thù. Tuy nhiên, có những PPDH cụ thể phù hợp với nhiều QĐDH, cũng như có những KTDH được sử dụng trong nhiều PPDH khác nhau (Ví dụ: kĩ thuật đặt câu hỏi được dùng cho cả phương pháp đàm thoại 7
- và phương pháp thảo luận). Có rất nhiều phương pháp, song người ứng dụng một số phương pháp dạy học tích cực sau: a. Phát huy năng lực qua phương pháp hoạt động nhóm Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của HS. b. Phát huy năng lực bằng phương pháp giải quyết vấn đề Phát hiện và giải quyết vấn đề (GQVĐ) là PPDH đặt ra trước HS các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển HS vào tình huống có vấn đề , kích thích họ tự lực, chủ động và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề. c. Phát huy năng lực học sinh qua phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “ làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. `Đây là phương pháp nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy. d. Phát huy năng lực học sinh phương pháp trò chơi Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó. Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho HS. Sau khi chơi, giáo viên cần cho HS thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi 1.1.4.2. Đánh giá qua hồ sơ học sinh Hồ sơ học tập của học sinh là một bộ sưu tập có mục đích và có tổ chức những công việc của học sinh, được tích lũy trong suốt một thời gian và 8
- thể hiện sự nỗ lực, tiến trình của học sinh và những gì các em đạt được. Có thể phân loại Hồ sơ học tập: *Hồ sơ đọc – hình thức đánh giá năng tiếp nhận văn bản Hồ sơ đọc này có thể là một hồ sơ lưu trữ tất cả tài liệu đọc độc lập của các em. Nó được học sinh dùng để chuẩn bị bài mới, ghi chép lại nhận xét của các em về bài học, ở mức độ cao hơn là đọc những tác phẩm bên ngoài sách khoa (theo gợi ý của giáo viên hoặc theo sở thích cá nhân của học sinh). Hình thức cụ thể của hồ sơ đọc cần được giáo viên hướng dẫn cho học sinh và đảm bảo tất cả các em đều hiểu và có thể làm được. * Hồ sơ bài viết – hình thức đánh giá năng lực tạo lập văn bản Hồ sơ bài viết có thể hiểu là hồ sơ theo dõi sát sao quá trình tạo lập các loại văn bản của người học trong suốt học kì hoặc cả năm. Giáo viên không chỉ xem hồ sơ bài viết này như một phản hồi của người học mà còn phải xác định rõ với học sinh nó là một căn cứ để đánh giá năng lực tạo lập văn bản của các em. Theo hình thức đánh giá này, hồ sơ bài viết sẽ được giáo viên xem xét và thảo luận với từng học sinh mỗi cuối học kì để đánh giá mức độ phát triển của các em. Từ đó giáo viên có thể đánh giá cả quá trình học của học sinh, cụ thể hơn là sự tiến bộ của học sinh qua từng bài viết. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực tiễn tổ chức dạy học Chương trình theo cách tiếp cận nội dung thì dạy cho học sinh biết cái gì; Còn chương trình hướng đến năng lự’*c cho học sinh là học sinh làm được gì trên cơ sở các em biết. Như vậy năng lực là đích, là đầu ra của giáo dục. Với cách tiếp cận như vậy nó sẽ chi phối các yếu tố của chương trình như mục tiêu tức là dạy để làm gì; nội dung dạy học tức dạy cái gì; phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tức là học bằng cách nào; và cuối cùng là thi, kiểm tra, đánh giá và chất lượng giáo dục. . Để phát huy năng lực của học sinh, cần trăn trở và tìm tòi hướng đi mới cho mỗi bài dạy, cách tổ chức sao cho phù hợp với từng bài và từng đối tượng học sinh. Từ đó, có thể thấy rõ sự khác biệt giữa dạy học truyền thống và dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 9
- 1.2.1.1.Thực trạng dạy học truyền thống Dạy học văn hiện nay đang chịu sự tác động của cơ chế thị trường, vị thế môn văn trong nhà trường THPT bấy lâu bị “xem nhẹ”. Các em năng động hơn cũng đồng nghĩa với nguy cơ sống thực dụng nhiều hơn. Học sinh không nhận thức vai trò của môn văn là để bồi đắp tâm hồn, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, tạo lập văn bản, để trau dồi vốn sống và nhân cách nữa. Cách dạy học thụ động truyền thống dường như không còn phù hợp với sự nhạy bén của học sinh thời nay. 1.2.1.2. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh Để phát huy năng lực của người học, giáo viên luôn phải chủ động trong việc tổ chức giờ học. Tức là quá trình chuẩn bị cho một tiết học là khâu quan trọng nhất. Tùy đặc thù từng bài cũng như các phân môn khác nhau sẽ định hướng hình thành năng lực học sinh khác nhau. Mục đích phát triển năng lực nào sẽ đề ra phương pháp và cách thức nấy. Để tổ chức tốt một giờ dạy theo đinh hướng phát triển năng lực học sinh trước hết giáo viên cần định hướng những năng lực mà học sinh cần được phát huy trong giờ dạy. Sau đó hình dung ra các công việc học sinh có thể hoàn thành, phân công nhiệm vụ cho các nhóm. Cuối cùng là kiểm tra đánh giá kết quả. Thực tiễn dạy học cho thấy học sinh vô cùng hứng thú với các tiết học này. Có thể lập bảng so sánh tiết dạy học truyền thống với tiết dạy học phát triển năng lực học sinh như sau: Phướng pháp dạy học Ngữ Đối Phương pháp dạy học ngữ văn văn theo định hướng phát Tượn truyền thống triển g năng lực Học HS khó nhớ bài học, không nắm HS nhớ và có ấn tượng sâu sinh vững hay tiếp thu được nội dung sắc về bài học, hiểu và nắm kiến thức vững kiến thức ngay trên lớp HS không hợp tác, thụ động, lười tư HS chủ động hợp tác, biết vận duy, xa thực tiễn. dụng kiến thức để liên hệ vào thực tiễn. 10
- HS còn mất tập trung trong giờ học. HS tập trung tham gia giờ học. HS được thể hiện quan điểm HS chưa thể hiện được bản thân, cá nhân, kiến thức được tiếp thiếu tự tin, hạn chế về kĩ năng giao nhận đa chiều. HS tự tin, tự tiếp… chủ có kĩ năng giao tiếp tốt HS thiếu tính sáng tạo, không có khả HS chủ động hợp tác, tinh năng tư duy độc lập, khẻ năng hợp thần tự học và tự quản tốt tác và tự học, tự quản hạn chế. HS sáng tạo GV làm việc ít, chủ động GV làm việc nhiều nên đôi khi ham Giáo truyền đạt kiến thức cơ bản, truyền tải một chiều dẫn tới thụ viên chính xác, khoa học, có trọng động, mệt mỏi tâm. Giáo viên đạt được mục tiêu Phương pháp dạy học đơn điệu, kiến thức kỹ năng của bài không đổi mới phương pháp dạy dạy. Giờ học sinh động, có thể học, chưa tích hợp được kiến thức tích hợp kiến thức liên môn liên môn… theo chủ đề. Giáo viên còn áp đặt kiến thức, còn Giờ học sinh động, hấp dẫn, tồn tại tình trạng “thầy đọc, trò sôi nổi, không khí thân thiện, chép” bài giảng lôi cuốn. Phương tiện, phương pháp hỗ GV dạy chay, thiếu đồ dùng DH trợ phù hợp, linh hoạt, có tính tích hợp, lồng ghép kiến thức thực tế 1.2.2. Thực tiễn kiểm tra đánh giá Qua thực tiễn dạy học, sự khác biệt cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học với kiểm tra, đánh giá kiểu dạy học truyền thống như sau: Kiểm tra, đánh giá Kiểm tra, đánh giá theo hướng TT kiểu truyền thống bồi dưỡng năng lực tự học 11
- Chú trọng kiểm tra tri thức, kỹ Chú trọng kiểm tra năng lực độc 1 năng lập, sáng tạo, năng lực tự học. Đánh giá kết quả học tập theo các Đánh giá kết quả học tập theo 2 tiêu chí: kiến thức, kỹ năng các tiêu chí: Độc lập, sáng tạo Kết hợp đánh giá của thầy với tự 3 Thầy giữ vị trí độc tôn trong đánh giá. đánh giá và đánh giá lẫn nhau của trò. Xưa nay, đánh giá kết quả học tập là việc làm của thầy giáo, học sinh là đối tượng được đánh giá. Trong dạy học theo hướng định hướng phát triển năng lực thì người thầy cần bồi dưỡng cho trò khả năng tự kiểm tra đánh giá sản phẩm học tập của mình, đánh giá lẫn nhau, để điều chỉnh cách học sao cho có hiệu quả nhất. CHƯƠNG 2 ỨNG DỤNG DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT 2.1. Phát triển năng lực học sinh qua hình thức tổ chức dạy học trên lớp Trong thực tiễn dạy học, với mỗi đối tượng khác nhau giáo viên có những phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Để phát huy năng lực của học sinh không thể không ứng dụng các phương pháp kĩ thuật (đã nêu ở 12
- chương 1). Người viết bài vận dụng các phương pháp, kĩ thuật đó vào quy trình dạy học trên lớp để phát triển các năng lực học sinh. Môn Ngữ văn nói riêng và các môn học khác nói chung không còn đơn điệu nếu người giáo viên không ngừng trau dồi chuyên môn, đam mê nghề nghiệp, luôn “giữ lửa” và “truyền lửa” đến các em học sinh. Nhưng hơn hết là học sinh cần thoát khỏi cái vỏ tự ti, thụ động, được khích lệ thể hiện năng lực của bản thân. Năng lực ấy cần phải được học sinh trong lớp ghi nhận, giáo viên đánh giá thỏa đáng, kịp thời. Các năng lực của học sinh luôn đồng thời được thể hiện nếu như người giáo viên biết định hướng và tổ chức cho các em học sinh. Trong các tiết dạy học theo định hướng này, người viết đề xuất và thực hiện theo quy trình sau: Các bước Quy trình thực hiện dạy học theo định hướng tiến hành phát triển năng lực học sinh Bước 1 Xác định mục tiêu theo chuấn KT KN, các năng lực cần hướng tớ i Bước 2 Xây dựng tiến trình, nội dung, kết cấu bài dạy Bước 3 Giao nhiệm vụ cụ thể. Cần yêu cầu học sinh có sản phẩm đầu ra. Thống nhất về thang điểm và tiêu chí giá năng lực học sinh Bước 4 Chuẩn bị chu đáo về phương tiện, kĩ thuật dạy học. Cần đầu tư thời gian chuẩn bị phiếu học tập, hình dung ra các phần làm việc của học sinh để chuẩn bị tư liệu, kiến thức, phương tiện bổ trợ. Bước 5 Tổ chức tiết dạy theo định hướng phát triển năng lực Đánh giá năng lực học sinh theo các tiêu chí đã xây dựng. Bước 6 Cần lưu lại các sản phẩm của học sinh để làm tư liệu Mỗi quy trình được coi là một nhiệm vụ học tập. Mỗi nhiệm vụ học tập lại có những phương pháp, kĩ thuật dạy học riêng đề phát huy năng lực học sinh. Trong quá trình dạy học, tôi vận dụng chủ yêu các phương pháp, kĩ thuật sau: phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đóng vai, phương pháp tổ chức trò chơi…Mỗi phương pháp tôi lại ứng 13
- dụng những kĩ thuật phù hợp như kĩ thuật sơ đồ tư duy, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật giao nhiệm vụ… 2.1.1. Phát huy năng lực qua phương pháp hoạt động nhóm Khi dạy học theo định hướng phát triển năng lực qua hoạt động nhóm người viết thường áp dụng theo cách thưc sau: * Hoạt động nhóm trên lớp : Bước 1:Thành lập nhóm Bước 2: Xác định nhiệm vụ của các nhóm, yêu cầu về thời gian và sản phẩm đấu ra Bước 3: Trình bày kết quả Bước 4: Đánh giá * Hoạt động nhóm khi về nhà: HS nhận nhiệm vụ và thực hiện theo các cách Bước 1: Chuẩn bị chỗ làm việc Bước 2: Lập kế hoạch làm việc Bước 3: Thoả thuận quy tắc làm việc Bước 4: Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ Bước 5: Chuẩn bị báo cáo kết quả. Trong bước phân công nhiệm vụ và yêu cầu sản phẩm đầu ra: giáo viên phân công nhiệm vụ cần xác định đúng mức độ công việc có phù hợp với từng học sinh, nhóm học sinh không? Phải chú ý là học sinh nào cũng được giao nhiệm vụ, đòi hỏi cá nhân hoặc nhóm học sinh có sự tương tác. Tránh hiện tượng chỉ có rất ít học sinh tham gia, các học sinh khác ỉ lại vào những bạn có năng lực hơn mình. Muốn vậy, giáo viên cần hướng dẫn nhóm học sinh lập Sổ theo dõi chuyên cần. Trong cuốn sổ đó ghi rõ các thành viên trong nhóm, nhiệm vụ được phân công, công việc tham gia và hoàn thành. Học sinh trong nhóm có thể tự đánh giá năng lực của nhau, từ đó là cơ sở cho giáo viên đánh giá. Khi phân nhóm giáo viên cần linh hoạt và đổi mới cách chia nhóm để các em có cơ hội giao tiếp, hợp tác, thấu hiểu giữa các thành viên. Để xây dựng các nhóm tôi căn cứ vào đặc điểm cụ thể của nhiệm vụ, của bài, đối tượng học sinh như: 14
- Tùy thuộc từng nhiệm vụ cụ thể mà số lượng học sinh có thể nhiều hay ít Có thể chia nhóm HS theo không gian có thể căn cứ vào vị trí ngồi trên lớp, theo địa phương để dễ dàng trao đổi. Phân nhóm theo sở thích và năng lực của học sinh. Phân nhóm sau một trò chơi cụ thể… Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề chung. Chú ý khi tổ chức phòng làm việc, phòng học, cần kê bàn ghế cho thân thiện, phù hợp với hoạt động nhóm. 2.1.2 Phát huy năng lực qua phương pháp dạy học nêu vấn đề Đây là phương pháp khá phổ biến trong các giờ dạy học ngữ văn. Để học sinh có thể phát triển năng lực tự học, tự quản, giải quyết vấn đề, giải quyết các tình huống thực tiễn...giáo viên cần vận dụng phương pháp này một cách linh hoạt. Để thực hiện phương pháp này, người viết đã vận dụng theo quy trình sau: Chuyển vấn đề đến học sinh Quy trình Học sinh thu thập thông tin Giải quyết vấn đề Đề ra phương án giải quyết Thực hiện phương án phù hợp Đánh giá hiệu quả Tuy nhiên người viết bài thấy rằng, trong quá trình thực hiện phương pháp nêu vấn cần lưu ý: vấn đề/ tình huống phải hù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, gần gũi với cuộc sống thực của các em, có cách thể hiện bằng hình ảnh sinh động và cách giải quyết tối ưu đối với mỗi em có thể giống hoặc khác nhau. Ví dụ, khi dạy bài “Đàn ghi ta của Lorca”, để tìm hiểu 6 dòng thơ đầu, sau khi nêu vấn đề giáo viên phân công nhiệm vụ cho học sinh: Làm rõ hình tượng Lorca trong bối cảnh chính trị và nghệ thuật của Tây Ban Nha thế kỉ XIX? 15
- Để thực hiện nhiệm vụ này, nhóm học sinh 12A3 đưa ra cách giải quyết vần đề theo trình tự sau: Một Lorca bất tử và bất hạnh qua hình ảnh“những tiếng đàn bọt nước” Một Lorca anh dũng trên đấu trường cách tân nghệ thuật và bảo vệ công lí Một Lorca cô đơn trong không gian mênh mông và thời gian thăm thẳm Một hình tượng bi tráng để người đọc cảm phục và xót thương Với quy trình này, rõ ràng học sinh đã thể hiện được năng lực giải quyết vấn đề, tự học, tự quản bản thân tốt. Hay khi giáo viên nêu tình huống: Hãy chứng minh rằng sông Hương là dòng sông âm nhạc và thi ca? khi dạy học bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhóm học sinh được giao đã thực hiện như sau: Cử đại diện hát một đoạn của bài hát về sông Hương, xứ Huế Sông Hương là cái nôi hình thành nên nền âm nhạc cổ điển Huế. Chiếu 1 đoạn clip về ca Huế trên sông Hương để minh họa Khẳng định niềm tự hào và tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế. Gần đây nhất, khi tổ chức dạy học theo hướng phát triển năng lực bài “Ông già và biển cả” (Hêminh uê), giáo viên giao việc cho các nhóm lần lượt tìm hiểu các vấn đề trong tác phẩm. Trong đó, khi nhóm 1 trình bày về nguyên lí ”Tảng băng trôi” , các em có cách giải quyết vấn đề như sơ đồ sau: 16
- Rõ ràng để có được sơ đồ này, học sinh phải phát huy được năng lực tự học, tự quản và hợp tác tốt. Nhóm thứ 2, phân tích hình tượng ông lão đánh cá Xantriagô, ngoài phần sơ đồ kiến thức, học sinh đã cho cả lớp xem clip trong bộ phim cùng tên, sau đó rút ra đặc điểm nhân vật bằng sơ đồ tư duy. Như vậy có thể khẳng định phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong phương pháp chủ đạo và tích cực để định hướng học sinh chủ đạo tiếp nhận kiến thức. Kiến thức học sinh như thế nào, sản phẩm của học sinh tốt hay không phụ thuộc vào cách tổ chức và nêu vấn đề của người dạy có độc đáo và phù hợp hay không. 2.1.3. Phát huy năng lực qua phương pháp đóng vai Đây là phương pháp được học sinh hứng thú nhất. Không phải bài nào cũng có thể áp dụng phương pháp phân vai nhưng nếu ứng dụng vào những bài phù hợp sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Để thực hiện phương pháp đóng vai, người viết thực hiện theo quy trình sau: Bước 1: Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm Bước 2: Các nhóm thảo luận, lên kế hoach về nội dung, phân công các thành viên trong nhóm tham gia. Bước 3: Tổ chức cho lớp nhận xét về cách tổ chức phân vai, diễn xuất. Giáo viên đánh giá năng lực của học sinh Khi thực hiện phương pháp đóng vai, giáo viên cần lưu ý: Tình huống phải phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh, lớp học. Thứ hai, tình huống 17
- không nên quá phức tạp, cần diễn ra trong thời gian cụ thể, không cho học sinh trước kịch bản, lời thoại để rèn cho học sinh năng lực tạo lập văn bản. Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của tiểu phẩm đóng vai. Trong chương trình Ngữ văn có nhiều bài có thể cho học sinh sử dụng phương pháp đóng vai, nhất là những bài đọc văn. Người viết bài đã thực hiện những tiết dạy có sử dụng phương pháp này và nhận thấy giờ học đạt được hiệu quả và học sinh có “sân khấu” để thể hiện năng lực rõ rệt. Chẳng hạn, thay vì việc đọc hay tóm tắt văn bản truyện ngắn “Chí Phèo” (Nam Cao), giáo viên đã phân lớp thành ba nhóm thực hiện các nhiệm vụ sau: Nhóm 1: Tìm hiểu đoạn trước khi Chí Phèo gặp thị Nở và dựng lại chân dung Chí Phèo trong cơn say. Thời gian diễn xuất 2 phút. Nhóm 2: Tìm hiểu đoạn Chí Phèo gặp thị Nở và tái hiện lại bằng tiểu phẩm trong vòng 3 phút. Nhóm 3: Tìm hiểu đoạn cuối của truyện “Chí Phèo” và tái hiện lại bằng tiểu phẩm. Thời gian diễn xuất 2 phút. Với cách phân vai như vậy, giờ học không còn nhàm chán, học sinh rất háo hức mong đợi một giờ văn khi các em được “đồng sáng tạo” với tác giả, được hóa thân vào nhân vật. Hơn thế nữa các năng lực như giải quyết vấn đề, tự học, giao tiếp, sử dụng tiếng Việt, tạo lập văn bản, đọc hiểu...được thể hiện. Quan trọng nhất là rèn cho các em tinh thần tự tin và tự chủ bản thân. Phương pháp dạy học phân vai có thể ứng dụng trong nhiều tác phẩm khác như đoạn trích: “Chí Phèo”, “Người trong bao”, “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” V. Huygô), “Vợ nhặt” ...và cả trong dạy học văn học dân gian. 2.1.4. Phát huy năng lực qua phương pháp tổ chức trò chơi Trong quá trình dạy học, để thay đổi không khí giờ học giáo viên có thể khéo léo lồng ghép phương pháp tổ chức trò chơi trong một số bài học. Phương pháp này khiến kiến thức được truyền thụ tự nhiên, tăng cường sự tập trung cho các tiết dạy. Ví dụ như, khi dạy bài Diễn đạt trong văn nghị luận (Ngữ văn 12) giáo viên có thể đưa ra một loạt dữ liệu, trong đó có những từ dùng sai hoặc chưa chuẩn. Từ đó chia nhóm tổ chức cuộc thi Ai nhanh hơn. Nhóm nào phát hiện nhiều từ sai, sửa sai được nhiều hơn nhóm đó 18
- thắng. Dạy bài Phát biểu tự do giáo viên có thể sử dụng phương pháp trò chơi thông qua trò Hái hoa dân chủ. Mỗi bông hoa là một chủ đề phát biểu theo yêu cầu của giáo viên hoặc nhóm học sinh tự đặt cho nhau. Cho thời gian chuẩn bị, bốc thăm trả lời. Ở một số bài học có thể đưa trò chơi vào phần củng cố. Các trò chơi có thể ứng dụng như: Nhìn hình bắt chữ (Giáo viên chuẩn bị tranh, ảnh tư liệu liên quan, yêu cầu học sinh tìm từ ngữ tương ứng để trả lời); “Trình bày một phút” (giáo viên chia nhóm, mỗi nhóm đặt một câu hỏi cho nhóm bạn về vấn đề liên quan đến bài học yêu cầu nhóm bạn trả lời trong một phút. Nhóm thắng là nhóm có câu tra lời ngắn gọn, hàm súc và độc đáo nhất. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời học sinh đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào. Qua hình thức tổ chức như vậy, các em hình thành được năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tự quản bản thân tốt... 2.1.4 . Kết quả đạt được sau thực tiễn ứng dụng các phương pháp dạy học phát triển năng lực học sinh Qua việc ứng dụng các phương pháp/ kĩ thuật dạy học trên, học tôi thấy các em hình thành đồng thời nhiều năng lực. Có thể mô tả bằng sơ đồ sau: Qua các phương pháp trên các năng lực tiêu biểu được thể hiện như: * Năng lực giải quyết vấn đề, tự học hợp tác , tự quản Thực tế cho thấy khi đặt học sinh vào một tình huống đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các thành viên sẽ duy trì được tinh thần đồng đội, tinh thần đoàn kết, học sinh có cơ hội bộc lộ những lợi thế của mình. Học sinh cần có những cách ứng xử hài hòa với nhau, học hỏi nhau. 19
- Một sản phẩm của học sinh thể hiện năng lực tự học Muốn học sinh có sản phẩm đầu ra và qua đó bộc lộ ý thức tự học, tự nghiên cứu thì bản thân người thầy cũng cần hướng dẫn cho học sinh các phương pháp, kĩ thuật, tự học như: kĩ thuật sơ đồ tư duy, phương pháp thống kê – phân loại, so sánh, phân tích, tổng hợp…Có như vậy, việc tự học mới đạt hiệu quả. Để phát triển năng giải quyết vấn đề học sinh sẽ phải hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ tốt nhất. Để đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động nhóm phát huy năng lực hợp tác giáo viên đã ứng dụng những phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực như kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật mảnh ghép…Kết quả cho thấy học sinh luôn có sự tương tác giữa các thành viên trong và ngoài nhóm tốt. Những giờ học vì thế không còn nhàm chán với các em. * Năng lực Công nghệ thông tin và truyền thông Đây là một trong những năng lực vượt trội của học sinh ngày nay. Học sinh vốn thông minh và dễ tiếp thu cái mới. Chính vì thế cần phải tổ chức dạy học để làm sao các em có cơ hội thể hiện và tự khám phá bản thân. Để phát triển năng lực này, quan trọng nhất là giáo viên cần phải nêu được tình huống, yêu cầu sản phẩm đầu ra cho học sinh. Học sinh có thể bộc lộ khả năng này ở nhiều góc độ: Soạn thảo một văn bản, Thiết kế bài học trên powerponrt, cắt video, lồng ghép âm thanh, tạo clip…Người viết bài luôn cảm thấy bất ngờ trước năng lực các em thể hiện trong lĩnh vực này. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Sử dụng phiếu học tập để phát huy năng lực độc lập trong dạy học bài 46, 47 Sinh học 8 THCS
36 p | 804 | 114
-
SKKN: Rèn luyện phát triển năng lực giải toán thông qua bài tập sách giáo khoa
19 p | 351 | 51
-
SKKN: Dạy học hóa học theo trạm nhằm phát triển năng lực học sinh
37 p | 483 | 51
-
SKKN: Một số giải pháp chỉ đạo dạy học môn Toán ở Tiểu học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh
32 p | 652 | 46
-
SKKN: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
26 p | 99 | 14
-
SKKN: Một số nội dung về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy năng lực người học trong môn GDCD
11 p | 136 | 11
-
SKKN: Tổ chức các hình thức khởi động trong dạy học lịch sử nhằm phát triển năng lực học sinh ở trường trung học phổ thông
42 p | 74 | 10
-
SKKN: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển năng lực học sinh trong phần Địa lí tự nhiên – Địa lí 12 – Ban cơ bản
74 p | 117 | 10
-
SKKN: Dạy học Hồn Trương Ba, da hàng thịt (tiết 53) của Lưu Quang Vũ theo định hướng phát triển năng lực học sinh
32 p | 72 | 9
-
SKKN: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong chương IV. Khúc xạ ánh sáng – Vật lí 11 – Ban cơ bản
45 p | 99 | 7
-
SKKN: Đổi mới soạn giảng theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở bài "Một số vấn đề mang tính toàn cầu" Địa lí lớp 11
33 p | 65 | 6
-
SKKN: Dạy học tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam theo định hướng phát triển năng lực học sinh
33 p | 87 | 6
-
SKKN: Một số kinh nghiệm về vai trò của người lớn trong việc phát triển năng lực xã hội cho trẻ em
20 p | 86 | 5
-
SKKN: Thiết kế bài giảng: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước cuối thế kỉ XVIII” theo định hướng phát triển năng lực học sinh
23 p | 63 | 3
-
SKKN: Một vài biện pháp dạy học Mĩ thuật theo hướng phát triển năng lực học sinh trung học cơ sở
7 p | 63 | 3
-
SKKN: Kinh nghiệm dạy chuyên đề Hình học giải tích phẳng – Phát triển năng lực tư duy học sinh
21 p | 59 | 3
-
SKKN: Dạy học chủ đề Mệnh đề - Tập hợp theo định hướng phát triển năng lực học sinh
43 p | 44 | 3
-
SKKN: Phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh Trung học phổ thông thông qua một số kỹ thuật giải toán hình học không gian lớp 11
21 p | 74 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn