intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp dạy và học nhằm nâng cao vốn từ vựng Tiếng Anh cơ bản cho học sinh yếu-kém lớp 10 trường THPT Trần Hưng Đạo

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

116
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Khảo sát và đánh giá thực trạng dạy và học từ vựng tiếng Anh lớp 10 ở trường THPT Trần Hưng Đạo huyện Tam Dương. Đề xuất một số biện pháp dạy và học giúp nâng cao vốn từ vựng tiếng Anh cơ bản cho học sinh lớp 10 THPT, đặc biệt là học sinh yếu kém.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp dạy và học nhằm nâng cao vốn từ vựng Tiếng Anh cơ bản cho học sinh yếu-kém lớp 10 trường THPT Trần Hưng Đạo

  1. MỤC LỤC   Nội dung  Trang PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Lời giới thiệu                                                                                    3 1.1. Lý do chọn đề tài                                                                           3 1.2. Mục tiêu của đề tài 3 2. Tên sáng kiến 3 3. Tác giả sáng kiến 3 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến 4 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến                                                             4 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu                                            4 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 4 Phần I: NỘI DUNG Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN                                                I. Lý luận chung về từ vựng                               4 I.1. Định nghĩa về từ vựng 4 I.2. Tầm quan trọng của từ vựng 4 I.3. Các loại từ vựng 5 Chương II: CƠ SỞ THỰC TIỄN II.1. Về giáo viên 6­7 II.2. Về học sinh 7­8  Chương III:  MỘT SỐ  BIỆN PHÁP DẠY VÀ HỌC NHẰM   NÂNG CAO VỐN TỪ VỰNG TIẾNG ANH CHO HỌC SINH   LỚP 10 TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO 9 III.1. Đối với giáo viên: 9 1. Sử dụng các phương tiện trợ giảng( Visual aids) 9­15 2. Dạy từ dựa vào văn cảnh 15­16 III.2. Đối với học sinh: 16­18 Chương IV: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC  Kết quả của đề tài 19 Chương V: PHỤ LỤC( Tổng hợp phiếu điều tra học sinh)  20 8. Những thông tin cần bảo mật(nếu có)  21 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến  21 1
  2. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp  21­22 dụng sáng kiến  11. Danh sách những tổ  chức, cá nhân đã tham gia áp dụng thử  22 hoạc áp dụng sáng kiến lần đầu. Tài liệu tham khảo 23 2
  3. PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Lời giới thiệu 1.1.  Lý do chọn đề tài:           Ngày nay, tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ quốc tế, được sử dụng  trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để  làm chủ  được ngôn ngữ  này   người học cần phải có vốn từ vựng phong phú và đa dạng. Do đó , xây dựng   vốn từ vựng cơ bản cho học sinh nói chung và đặc biệt học sinh yếu kém nói   riêng luôn là một nhu cầu thiết yếu đối với công tác dạy và học tiếng Anh ở  trường phổ  thông. Tuy nhiên trên thực tế, vốn từ  vựng tiếng Anh của học   sinh trung học phổ thông vẫn còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được yêu cầu của   bậc học. Nhiều học sinh không có được vốn từ  vựng cơ  bản nhất sau nhiều   năm học Tiếng Anh ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Có rất nhiều nguyên   nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó nguyên nhân chủ  yếu là giáo viên và   học sinh chưa có phương pháp dạy và học thích hợp. Bởi vậy tôi đã chọn đề  tài này với mong muốn tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp nhằm  góp phần giúp cho giáo viên giảng dạy từ vựng một cách hiệu quả nhất; đồng   thời giúp cho học sinh lớp 10, đặc biệt là học sinh yếu kém có thể tích lũy cho  bản thân vốn từ vựng cơ bản, đáp ứng yêu cầu của bậc học. Nếu đề tài thành   công sẽ không chỉ là cơ sở cho giáo viên dạy tốt hơn mà còn giúp cho học sinh   sử dụng vốn từ vựng có hiệu quả hơn.  1.2. Mục tiêu của đề tài: 1.2.1. Khảo sát và đánh giá thực trạng dạy và học từ vựng tiếng Anh lớp 10 ở  trường THPT Trần Hưng Đạo huyện Tam Dương. 1.2.2.  Đề xuất một số biện pháp dạy và học giúp nâng cao vốn từ vựng tiếng   Anh cơ bản cho học sinh lớp 10 THPT, đặc biệt là học sinh yếu kém. 3
  4. 2. Tên sáng kiến: MỘT SỐ  BIỆN PHÁP DẠY VÀ HỌC NHẰM NÂNG CAO VỐN   TỪ  VỰNG TIẾNG ANH CƠ  BẢN CHO HỌC SINH YẾU­ KÉM LỚP 10   TRƯỜNG   THPT TRẦN HƯNG ĐẠO 3. Tên tác giả: ­ Đào Thị Hường – giáo viên Tiếng Anh­ Trường THPT Trần Hưng Đạo 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: ­ Đào Thị Hường – giáo viên Tiếng Anh­ Trường THPT Trần Hưng Đạo 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Anh­ lớp 10 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 11/ 2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: Phần I. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỪ VỰNG: I.1. Định nghĩa về từ vựng:           Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ vựng. Mỗi nhà ngôn ngữ học  lại đưa ra một định nghĩa riêng về từ vựng dựa trên tiêu chí mà họ cho là quan  trọng nhất về mặt ngôn ngữ, ngữ  nghĩa, từ  vựng. Trong cuốn sách của mình  mang tên “ A Course in Language Teaching” , Penny Ur đã định nghĩa từ vựng   là “ những từ  thuộc tiếng nước ngoài mà chúng ta dạy cho người học”. Tuy  nhiên, ông cũng chấp nhận ý kiến rằng “ từ vựng không chỉ là một từ đơn lẻ  mà cũng có thể là từ ghép của hai hay ba từ khác hoặc là những thành ngữ bao   gồm nhiều từ”. Pyles và Algeo đã nói rằng “ Sự thật thì từ vựng là trọng tâm  của ngôn ngữ  với dạng âm thanh và ngữ  nghĩa của nó, cái mà đan xen với  nhau cho phép chúng ta giao tiếp với người khác”.           Trong cuốn sách “ A Course in TEFL Theory and Practice II”, Nguyễn   Bàng và Nguyễn Bá Ngọc cho rằng “ Từ  vựng của một ngôn ngữ  là tất cả  những từ  đơn, từ  ghép, các thành ngữ  được sử  dụng để  chuyển tải và tiếp   nhận thông tin thông qua hình thức nói và viết”. 4
  5. I.2. Tầm quan trọng của từ vựng:           Từ vựng thường được coi là bộ  phận cấu thành quan trọng nhất của   một ngôn ngữ. Wilkins, một nhà ngôn ngữ học ứng dụng nổi tiếng người Anh  đã nhấn mạnh tầm quan trọng của từ vựng khi nói rằng “ Nếu không có ngữ  pháp, rất ít thông tin được chuyển tải, nhưng nếu không có từ vựng thì chúng  ta sẽ không thể chuyển tải được điều gì”. Pyles và Algeo cũng ủng hộ ý kiến  này với nhận định “ Khi chúng ta đề  cập đến ngôn ngữ, điều đầu tiên chúng  ta nghĩ đến là từ  vựng. Nhờ có từ  vựng, chúng ta có thể  tạo nên câu, bài hội  thoại và các hình thức giao tiếp khác bằng ngôn ngữ. Từ  những ý kiến này,   chúng ta có thể  kết luận rằng từ  vựng là yếu tố  quyết định trong việc giao  tiếp bằng ngôn ngữ. Tất cả  những điều này đúng với người học ngoại ngữ.  Nếu người học có vốn từ  vựng tiếng Anh phong phú, anh ta có thể  làm cho   người khác hiểu mình cũng như  hiểu được người khác nói gì một cách dễ  dàng. Ngược lại, nếu như vốn từ vựng của một người nghèo nàn, chắc chắn  anh ta sẽ gặp khó khăn trong việc giao tiếp. Và như vậy, trong việc học tiếng   Anh, từ  vựng là một yếu tố  bắt buộc phải được xây dựng đối với tất cả  những người học ngoại ngữ. I.3. Các loại từ vựng:           Nhìn chung, từ loại có thể  được phân loại bằng nhiều cách: Về  mặt   ngữ nghĩa, từ vựng được phân làm hai loại là “những từ biểu đạt ý nghĩa” và   “những từ chức năng”. Phần lớn từ vựng là từ biểu đạt ý nghĩa, chúng gọi tên  những đồ vật, hành động, chất lượng và mang ý nghĩa tự thân. Chúng có thể  là danh từ, tính từ, động từ, trạng từ. Những từ  chức năng là những từ  chỉ  mang ý nghĩa về  mặt ngữ pháp, chúng chỉ  có nghĩa khi đi cùng với những từ  khác. Chúng là những quán từ, mạo từ và giới từ. Về mặt ngữ pháp, từ vựng   được phân chia thành danh từ, động từ, tính từ và trạng từ. Tuy nhiên, về mặt   học thuật, từ vựng của người học ngoại ngữ được phân chia thành hai loại là   nhóm từ  chủ  động và nhóm từ  bị  động. Nhóm từ  chủ  động là những từ  mà   5
  6. người học có thể hiểu và phát âm đúng, sử dụng một cách có hiệu quả trong   khi nói và viết. Nhóm từ bị động là những từ mà người học có thể nhận ra và   hiểu khi chúng xuất hiện trong văn cảnh nhưng lại không thể  tự  mình sử  dụng được. Một giáo viên dạy ngoại ngữ nên biết những cách phân loại trên.  Nhưng điều quan trọng nhất là làm thế nào để giúp học sinh mở rộng vốn từ  vựng, tăng cường những từ chủ động. 6
  7. CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN                    Để  phục vụ  cho việc nghiên cứu đề  tài, tôi đã thực hiện việc phát  phiếu điều tra cho 180 học sinh lớp 10 trường THPT Trần H ưng Đạo, huyện   Tam Dương để lấy ý kiến của các em về những vấn đề có liên quan đến việc   dạy và học từ vựng. Sau khi sử  dụng phương pháp toán thống kê và sử  lí số  liệu, tôi đã rút ra được một số nhận xét như sau: II.1. VỀ GIÁO VIÊN:          Qua quá trình quan sát và phỏng vấn 5 giáo viên dạy môn tiếng Anh , tôi   đã ghi nhận được một số vấn đề sau: 1­  Số lượng từ trong một bài giảng:           Với thời lượng giờ học hiện nay, các giáo viên đều cho rằng số lượng   từ vựng trong một bài giảng là quá nhiều, họ không có đủ thời gian để hướng   dẫn, chuyển tải đến học sinh đầy đủ các khía cạnh của từ, những mối liên hệ  nội tại trong từ, các từ đồng nghĩa, trái nghĩa…., luyện cho học sinh cách phát  âm, cách sử  dụng. Điều này  gây không ít khó khăn cho học sinh trong việc   học từ vựng. 2­  Phương pháp dạy từ vựng:           Đây là phần quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dạy và   học của cả  giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, qua khảo sát tôi thấy rằng các  phương pháp của giáo viên vẫn còn nghèo nàn. Phương pháp chủ yếu mà giáo  viên sử dụng là dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Do vậy việc học sinh cảm   thấy nhàm chán trong việc học từ  vựng là điều không thể  tránh khỏi. Điều  này có ảnh hưởng không tốt đến khả năng tiếp thu từ mới của học sinh. Các   em có thể nhớ từ khi giáo viên dịch nghĩa tiếng Việt của nó nhưng lại quên đi   nhanh chóng và không biết từ đó được sử  dụng và phát âm như  thế nào, học  sinh lại không được luyện tập và sử  dụng từ  mới thường xuyên do đó từ  7
  8. vựng của học sinh dần dần trở thành những từ chết và khi gặp lại từ đó học  sinh lại coi đó như là những từ hoàn toàn mới. 3­ Những khía cạnh thường được giáo viên chú ý trong quá trình dạy từ   vựng:            Trong các khía cạnh của từ  như  nghĩa của từ, cách sử  dụng từ, hình   thức của từ thì cách sử dụng từ là quan trọng nhất. Tuy nhiên, trong quá trình  dạy từ vựng giáo viên chủ yếu chỉ chú trọng vào việc dạy nghĩa của từ đang  được sử dụng trong bài học mà ít quan tâm nghĩa của từ trong những văn cảnh   khác hay giáo viên thường chỉ  dạy cho học sinh nghĩa biểu vật mà quên đi  một nét nghĩa khác cũng rất quan trọng đó là nghĩa biểu cảm của từ. Cách dạy   này đã gây nên rất nhiều khó khăn trong học sinh trong quá trình học từ vựng.   Học sinh không thể phát âm từ  một cách chính xác, không biết cách sử  dụng  từ trong những văn cảnh khác ngoài văn cảnh đã được học ở trong bài. 4­   Những   phương   tiện   thường   được   sử   dụng   trong   quá   trình   dạy   từ   vựng:           Trong quá trình dạy từ vựng, có rất nhiều phương tiện trợ giảng có thể  giúp giáo viên dạy có hiệu quả. Tuy nhiên hiện nay giáo viên chỉ sử dụng một   số tranh , ảnh hay đài cassettes. Mặc dù vậy việc sử dụng những phương tiện   trợ giảng này là không thường xuyên. II.2. VỀ HỌC SINH: 1­ Về việc học từ vựng:            Hơn nửa số  học sinh được điều tra có ý kiến cho rằng việc học từ  vựng rất khó khăn. Các em gặp nhiều trở  ngại trong việc tiếp thu và vận   dụng từ  mới học. Các học sinh được hỏi cũng cho rằng số  lượng từ  mới   trong một bài hiện nay là quá nhiều, các em phải chịu áp lực phải nhớ  quá  nhiều từ trong một bài học. Rất ít em trong số học sinh lớp 10 của trường cho   8
  9. rằng việc học từ  vựng là dễ  dàng, các em này không phải chịu nhiều áp lực   trong khi học. 2­ Về cách học:           Theo số  liệu thu được, tôi nhận thấy phần lớn học sinh học từ vựng   theo cả hai cách: Học từ riêng lẻ cũng như  đặt từ  vào câu cụ  thể. Tuy nhiên   số học sinh chỉ học từ bằng cách học riêng lẻ chiếm tỷ lệ khá lớn, tương ứng   với 58,3%. Điều này thể hiện các em chưa nhận thức rõ, chưa tìm được cách   học phù hợp để  đạt được hiệu quả  cao. Hiển nhiên đây là một yếu tố  gây  cản trở lớn đến khả năng học và hiệu quả học từ của học sinh. 3­ Về thời gian học từ mới của một bài:             Với số lượng từ trong một bài nhiều như hiện nay, phần lớn học sinh   đều có ý thức dành thời gian để tìm hiểu, ghi nhớ và luyện tập từ. Cụ thể, số  học sinh dành hơn 60 phút để học từ  mới của một bài là 18 em, chiếm tỷ  lệ  10% trong tổng số học sinh được điều tra. Số các em dành khoảng 60 phút để  học từ mới là 52 em chiếm 28,9%. Tuy nhiên, bên cạnh những em có ý thức   đầu tư  thời gian và công sức cho việc học từ vẫn còn một số  em không học  từ mới của bài, số học sinh này gồm 30 em, chiếm 16,7%. 9
  10. CHƯƠNG   III:   MỘT   SỐ   BIỆN   PHÁP   DẠY   VÀ   HỌC   NHẰM   NÂNG  CAO VỐN TỪ  VỰNG TIẾNG ANH CƠ  BẢN CHO HỌC SINH YẾU­   KÉM LỚP 10  TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO           Sau khi nghiên cứu lý luận việc dạy và học từ vựng, đồng thời căn cứ  vào kết quả khảo sát thực tế việc dạy và học từ  vựng ở trường THPT Trần   Hưng Đạo, tôi xin đề xuất một số  biện pháp nhằm nâng cao vốn từ vựng cho   các em học sinh lớp 10 như sau: III.1. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN: 1­ Sử dụng các phương tiện trợ giảng (Visual aids):           Muốn sử dụng các phương tiện trợ giảng đạt hiệu quả cao trong việc   dạy học nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh giáo viên cần:           Trước hết phải chọn những phương tiện  trợ gi ảng mà bản thân chúng  phải chứa đựng những câu hỏi, những bài tập nghiên cứu , các tư  liệu để  phân tích và trình bày các thông tin kiến thức một cách nêu vấn đề; đồng thời  thiết lập mối liên hệ bên trong và bên ngoài của các phương tiện đó với kiến   thức kỹ năng, kỹ xảo đã có của học sinh, với các phương án có thể tiến hành  được của công tác tự lập và sáng tạo của học sinh trong các giai đoạn sau.          Sử dụng phối hợp các loại phương tiện dạy học khác nhau trong một   giờ học nhằm huy động nhiều cơ quan cảm giác tham gia vào quá trình nhận   thức. Điều này sẽ  góp phần phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của  học sinh. Khi sử dụng phối hợp cần chú ý tập trung vào những điểm bản chất  nhất, có tác dụng mạnh nhất khi nó diễn tả đúng nội dung chính của bài học,   đồng thời phải sử dụng tập hợp thành bộ phương tiện dạy học tối ưu.          Cần phối hợp một cách khéo léo, chính xác lời nói của giáo viên mang   tính chất khơi gọi hướng dẫn học sinh với việc biểu diễn các phương tiện   dạy học hoặc học sinh tiến hành quan sát, sử dụng trực tiếp các phương tiện   trực quan. 10
  11.           Điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để tiến hành một cách có hiệu quả  nhất các phương tiện dạy học để  phát huy tính tích cực, sáng tạo của học   sinh là phải có đầy đủ  các dụng cụ  dạy học, trong điều kiện có thể  nhà   trường nên đầu tư xây dựng hệ thống phòng học bộ môn. 1.1 Sử dụng bảng: 1.1.1. Dạy nghĩa của từ bằng việc sử dụng bảng:          Việc sử dụng bảng là một trong những kỹ thuật hữu ích nhất mà giáo  viên có thể  sử  dụng để  giới thiệu từ  mới cho học sinh bởi nó đóng vai trò  quan trọng đối với sự thành công của một bài giảng. Giáo viên có thể vẽ  lên  bảng những bức tranh như hình que, hình mặt… a. Sử dụng hình que ( Stick figures):          Bằng cách vẽ một hình que cơ bản với những đường nét đơn giản, giáo   viên có thể  dễ  dàng chỉ  ra nghĩa của từ  cho học sinh. Hơn nữa qua việc sử  dụng hình que giáo viên còn kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Ví dụ: Để  dạy nghĩa của động từ  “to run”, giáo viên có thể  vẽ  một hình   người đang chạy rồi nói: GV: Look, there is a boy. What is he doing? HS: He is running. GV: Yes, he is running. To run. Can you say it? HS: To run, to run. GV: Very good. But why is he running? HS: Có thể  nghĩ ra một lý do, tuy nhiên họ  không thể  diễn đạt bằng tiếng  Anh. GV: Ah, he may be late for school or go to school late. He is in a big hurry.  (Giáo viên cũng có thể nghĩ gia một lý do khác nữa) 11
  12.                  Như  ví dụ  trên, chúng ta thấy nhờ  việc sử  dụng hình que giáo viên   không chỉ  dạy cho học sinh từ mới mà còn giới thiệu cho các em những cấu   trúc ngữ pháp hoặc một câu trọn vẹn có chứa từ cần dạy.  b. Sử dụng cách vẽ khuôn mặt (faces):          Việc dạy nghĩa của từ bằng cách vẽ khuôn mặt với từng trạng thái khác  nhau là một cách rất đơn giản và hiệu quả, đặc biệt là trong việc diễn tả  nghĩa của từ  thuộc về  tình cảm. Hình khuôn mặt thường có hình tròn hoặc  hình quả  trứng.Trên khuôn mặt đôi mắt và miệng là những chi tiết có tầm  quan trọng rất lớn trong việc biểu đạt.           Giáo viên cũng có thể  thể  hiện giới tính, tuổi tác bằng cách thay đổi   kiểu tóc theo từng khuôn mặt. c. Vẽ đồ vật( Objects):           Giáo viên nên vẽ  những đồ  vật phổ  biến, thân thuộc trong cuộc sống   hằng ngày lên bảng để giúp học sinh nhận biết. Bản vẽ không cần phải chính   xác nhưng nó phải đầy đủ, rõ ràng để  học sinh có thể  nhận ra đó là vật gì.  Chính vì vậy, giáo viên cần phải tập vẽ vài lần trước khi giảng để có thể vẽ  những hình dễ hiểu nhất và nhanh nhất. d. Sử dụng biểu đồ ( Word­ field diagram):           Việc sử dụng biểu đồ  là một cách rất hiệu quả  để  dạy cho học sinh   những từ  có liên quan tới nhau qua một chủ  đề  nhất định. Nó giúp cho học   sinh nhớ từ nhanh hơn. 12
  13. Ví dụ: Để dạy những từ thuộc về gia đình, giáo viên có thể sử dụng biểu đồ  Son Father niece Mother Family daughter Children grandfather grandmother sau: 1.1.2. Dạy hình thức và cách sử dụng của từ bằng cách sử dụng bảng: a. Dạy hình thức của từ:          Trong quá trình học từ mới, học sinh cần biết cách phân loại những từ  mà họ  học thành những từ  loại khác nhau như  danh từ, động từ, tính từ  và   trạng từ. Ví dụ : Khi giáo viên muốn giúp học sinh luyện tập một số từ về những chủ  đề  như  cảm giác, sự  đo lường, nghề  nghiệp… thì ta có thể  làm theo những   bước sau: ­ Bước 1: Giáo viên viết các từ lên bảng: length         happy   police short angry          long cheerful  teacher worker        wide     width  sad ­ Bước 2: Giáo viên yêu cầu học sinh nghĩ ra càng nhiều cách nhóm từ  vào   cùng một loại càng tốt và giải thích lí do tại sao lại nhóm như thế. Ví dụ như  từ có thể được nhóm theo ngữ nghĩa, ngữ pháp, theo cách phân loại…..Ví dụ,   theo cách phân loại các từ có thể được nhóm như sau: + Nouns: police, worker, length, width, teacher + Adjectives: happy, angry, sad, short, wide, cheerful, long 13
  14. ­ Bước 3: Giáo viên nên khuyến khích học sinh đóng góp một vài từ mà họ đã   học vào từng nhóm. b. Dạy cách sử dụng của từ:          Khi dạy cách sử dụng của từ giáo viên nên gạch chân vào những phần  quan trọng của từ bằng cách sử dụng những phấn màu khác nhau. Ví dụ: success              successful              unsuccessful         Công việc này giúp học sinh chú ý vào thành phần cấu tạo nên từ  loại  cũng như ngữ  nghĩa của từ. Hơn nữa, trong khi dạy giáo viên cũng cần cung  cấp cho học sinh những bộ  từ đồng nghĩa và hướng dẫn cách sử  dụng trong  những văn cảnh khác nhau. Ví dụ: Uncle Ho passed  away in 1969. ( ở đây từ “pass away” sẽ mang thái độ kính trọng hơn là từ “die”. 1.2. Sử dụng tranh: 1.2.1. Tranh tường ( Wall Pictures).          Tranh tường là các tranh cắt ra từ  báo hoặc tạp chí và được treo trên  tường hoặc trên bảng. Giáo viên phải lựa chọn những bức tranh phù hợp với  mục đích của bài học. Quan trọng hơn, những bức tranh này phải đủ  lớn để  tất cả các học sinh đều có thể nhìn thấy rõ. 1.2.2. Thẻ ghi chú ( Flash cards).          Thẻ ghi chú là những tấm thẻ được in và viết những chữ, câu, hình ảnh  lên trên. Chúng có thể được chia thành 2 loại chính là thẻ hình và thẻ chữ. * Một vài hoạt động gợi ý trong việc sử dụng thẻ để  làm cho học sinh hiểu   rõ các từ và nhớ chúng lâu hơn: ­ Gọi tên ( Name it):           Chia học sinh thành từng nhóm 5­ 10 người. Các tấm thẻ được bày úp   trên mặt bàn. Trên mỗi tấm thẻ đều có 1 từ mới. Người chơi thứ nhất nhặt 1   tấm thẻ  và nhắc lại từ  được ghi trên tấm thẻ đó, đưa ra một câu hoàn chỉnh  14
  15. dựa trên trình độ hoặc nhu cầu đặc biệt nào đó của người chơi. Nếu câu văn   của người chơi là đúng, người đó có thể giữ tấm thẻ. Nếu không, người chơi  đặt úp tấm thẻ lên bàn và người tiếp theo tiếp tục lượt chơi. Giáo viên cũng   có thể giúp học sinh nhắc lại từ hoặc đặt câu với từ đó nếu như không có học  sinh nào đưa ra được đáp án đúng. ­ 20 câu hỏi ( Twenty questions):          Các học sinh chơi theo nhóm từ 10­20 người. Giáo viên chọn 1 tấm thẻ  trong số thẻ đã chuẩn bị. Các học sinh lần lượt cố gắng đoán từ đó là gì bằng  việc hỏi các câu hỏi “ Yes/No question”. Ví dụ: “ Is it an animal? Is it big? Does it live in jungle? H ọc sinh đoán đúng từ  được giữ tấm thẻ hoặc thay thế vị trí của người giáo viên. ­ Bỏ từ khác biệt ( Odd man out):          Giáo viên đưa ra một bộ thẻ gồm 5­7 tấm cho mỗi nhóm hoặc cá nhân.  Học sinh phải quyết định xem tấm thẻ nào không thuộc trong nhóm và đưa ra  lý do tại sao. Học sinh có thể giải thích sơ lược về từ mà họ chọn.  Ví dụ: Để luyện tập các từ nói về các loài hoa, giáo viên có thể đưa cho học  sinh một số thẻ như sau: rose    daisy sunflower queen Câu trả lời phù hợp là “ Queen” vì từ này gợi nhắc tới con người trong khi các  từ khác liên hệ đến một số loài hoa. 1.2.3. Dạy hình thức của từ bằng tranh:           Hoạt động này rất hữu ích trong việc luyện tập cấu trúc của từ. Giáo   viên có thể  trưng bày một vài bức tranh trên bảng và yêu cầu học sinh viết  câu với bức tranh. Ví dụ: Để  luyện tập động từ  “ Run” giáo viên có thể  sử  dụng bức tranh vẽ  hình hai người đang chạy và yêu cầu học sinh đặt câu với bức tranh đó. HS1: They are running toghether. 15
  16. HS2: They like running very much. 1.2.4. Dạy cách sử dụng của từ: a. Dạy cách sử dụng của từ bằng cách sử dụng tranh: a.1. Ghép từ hoặc câu với tranh:           Giáo viên đưa ra một bộ tranh và một danh sách các từ hoặc câu tương   ứng với những bức tranh này. Sau đó yêu cầu học sinh ghép các bức tranh với   những từ, câu đó. a.2. Mô tả tranh:         Giáo viên dán một bức tranh lấy từ sách hoặc báo và yêu cầu học sinh  mô tả  bức tranh đó bằng cách đưa ra một vài câu hỏi định hướng. Khi học   sinh đã hoàn thành việc mô tả  tranh, giáo viên có thể  yêu cầu mô tả  lại một   lần nữa hoặc làm theo cặp, nhóm. Trong cặp và nhóm học sinh kể  với bạn  nội dung của bức tranh. b. Dạy cách sử dụng của từ bằng cách sử dụng các tấm thẻ:          Để giúp học sinh luyện tập cách sử dụng của các giới từ, giáo viên đưa   ra các tấm thẻ và yêu cầu học sinh làm theo nội dung ghi trong thẻ. Ví dụ:          Set 1                                                Set 2 Put your book in the bag Put your shoes under the table Put your paper on the desk 1.3. Sử dụng vật thật ( Real objects):                  Trong rất nhiều trường hợp những vật thật là loại phương tiện trợ  giảng đơn giản nhất  ở  trong lớp bởi chúng không cần phải có sự  chuẩn bị  đặc biệt hay những nguyên liệu đặc biệt. Lớp học là một phần của thế  giới   thực.   Ở   mỗi   lớp   học   đều   có   những   đồ   đạc   như   bàn   ghế,   bóng   đèn,  cửa….Giáo viên có thể yêu cầu học sinh nêu tên các đồ vật và miêu tả những   tính chất của nó. Giáo viên cũng có thể  mang một vài vật thật đến lớp như  16
  17. chìa khóa, quả táo, sách báo…. Giáo viên sẽ cầm từng loại vật thật đó và yêu   cầu học sinh đưa ra một vài lời bình luận về vật đó. 2. Dạy từ dựa vào văn cảnh:         Khi gặp 1 bài đọc, học sinh và giáo viên sẽ thấy có rất nhiều từ mới. Do   có quá nhiều từ  mới, giáo viên phải quyết định xem từ  nào cần phải dạy và  thời gian thích hợp để dạy các từ đó. Có 4 loại từ mới như được tóm tắt dưới   dây: 1. Unknown words: những từ  quan   2. Unknown words: những từ không  trọng   để   hiểu   được   một   bài   đọc.  quan   trọng   để   hiểu   được   một   bài  Đầu tiên yêu vầu học sinh đoán từ,  đọc.   giáo   viên   nên   dạy   sau   hoặc  sau đó giáo viên dạy từ. không dạy. 3. Known words: những từ học sinh  4. Known words: những từ học sinh  đã biết, giáo viên không cần dạy. biết   nhưng   không   hiểu   vì   mang  nghĩa bóng. Giaó viên chỉ  nên dạy  từ   đó   khi   nó   được   sử   dụng   phổ  biến. ­> 1. Đối với những từ mới cần thiết cho việc hiểu bài đọc: Trước tiên giáo   viên nên cho học sinh đoán nghĩa của từ  dựa vào ngữ  cảnh hoặc ngữ  pháp,  nếu học sinh không thể đoán được giáo viên nên dạy từ đó cho học sinh trước   khi học bài đọc. ­> 2. Đối với những từ  mà không cần thiết cho việc hiểu bài đọc, giáo viên  nên chọn 1 trong 2 cách sau: ­ Nếu đó là những từ phổ biến, học sinh có thể  học trong  quá trình học sau   này, giáo viên nên dạy nghĩa của từ khi đã học bài đọc. ­ Nếu đó là một từ lạ hoặc không phổ biến, giáo viên có thể không cần thiết  phải dạy từ đó. 17
  18. ­> 3. Đối với những từ học sinh đã biết, tất nhiên không cần phải dạy nghĩa  của chúng. Nếu có quá nhiều từ  học sinh không biết, bài đọc đó có thể  quá  khó với trình độ tiếng Anh của học sinh. ­> 4. Trong một vài cụm từ  học sinh có thể  hiểu tất cả  những từ  riêng lẻ  nhưng lại không thể hiểu nghĩa của cả cụm từ. Ví dụ: Học sinh có thể hiểu   nghĩa của các từ “ Stick”, “in”, “the” và “mud” nhưng lại không thể hiểu được   thành ngữ “ stick in the mud” có nghĩa là “ a person who does not like to have  fun”. Đối với những từ  được sử  dụng trong thành ngữ  giáo viên phải quyết   định xem chúng có quan trọng hay không. Ở trình độ thấp việc giải thích các  thành ngữ nên được giới hạn hoặc để  đến sau bài học. Nếu đó là một thành  ngữ thông dụng, học sinh có thể gặp thường xuyên trong quá trình học tiếng   Anh, sau khi học sinh đã cố gắng đoán nghĩa, giáo viên nên dạy cho học sinh   nghĩa của những thành ngữ  đó. Tuy nhiên không nên tốn quá nhiều thời gian  vào các thành ngữ. III.2. ĐỐI VỚI HỌC SINH:          Quá trình học tập từ vựng là một hoạt động phức tạp. Nó phụ thuộc vào  nhiều điều kiện khách quan như  cơ  sở  vật chất của nhà trường, chất lượng   giảng dạy của đội ngũ giáo viên, nội dung của chương trình đào tạo. Nhưng  trong đó yếu tố tích cực hoạt động của mỗi cá nhân học sinh là điều kiện có  tác dụng quyết định quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập.          Trước hết muốn đạt được kết quả  cao học sinh phải hiểu được mục   đích của môn học một cách rõ ràng, phải vạch ra phương hướng hành động   cụ thể. Đối với việc học từ vựng tiếng Anh cũng vậy, học sinh phải tự đặt ra  cho mình những câu hỏi như: “Học cái gì?”, “ Học như  thế  nào?”, “ Học để  phục vụ  cho việc gì?”. Xác định được mục đích học tập tức là hiểu được   mình cần phải rèn luyện như thế nào để có được vốn từ vựng phong phú. 18
  19.          Từ việc xác định được mục đích học tập của mình, học sinh cần phải   có thái độ học tập đúng đắn, phải có tinh thần say sưa học tập, ý thức tự giác,  chủ động trong học tập.           Để lĩnh hội được tất cả những kiến thức mà giáo viên truyền tải trên  lớp, học sinh cần phải chú ý tới bài giảng, tập trung lắng nghe và phải tích  cực suy nghĩ trong khi nghe để  nắm được những kiến thức cơ  bản về  từ  vựng, phải ghi chép đầy đủ, rõ ràng để lấy đó làm tư liệu học tập ở nhà. Hơn   nữa, phải tích cực hoạt động theo cặp, nhóm. * Một số cách giúp học sinh học từ vựng tốt hơn: ­ Đặt câu với những từ đã học ở trên lớp để biết được cách sử dụng của từ. ­ Thường xuyên nghe băng, đài hoặc các bài hát tiếng Anh để  nhận biết từ  qua cách phát âm. ­ Tập đọc sách, báo, truyện có nội dung đơn giản để biết được cách sử dụng  của từ trong những văn cảnh khác nhau. ­ Sử dụng giấy ghi nhớ để ghi chép những từ đã được học và dán vào bất cứ  chỗ nào dễ nhìn thấy nhất. ­ Khi đứng trước những vật thật hãy cố gắng liên tưởng đến từ tương đương   trong tiếng Anh. Ví dụ: Đồ  đạc trong gia đình, tên các loại hoa quả, tên các  loại động vật nuôi trong gia đình….. ­ Học từ vựng Tiếng Anh qua tên các loại hàng hóa, vật phẩm sử dụng hàng  ngày.Ví dụ: Tên các loại bánh kẹo, đồ uống,….. ­ Gắn từ  vựng Tiếng Anh với những kỷ  niệm đáng nhớ  của bản thân, hay   những điều hài hước để nhớ từ vựng lâu hơn. ­ Đối với những từ  khó nên ghi chép vào một cuốn sổ  nhỏ theo thứ tự  A, B,   C… với tất cả nhứng khía cạnh có liên quan đến từ để tiện tra cứu khi cần.  ­ Luyện tập theo nhóm  ở  nhà bằng cách chơi trò chơi hoặc nói tự  do về  những chủ đề  đơn giản. Từ đó có thể  giải đáp cho nhau những vấn đề  chưa   19
  20. hiểu, kiểm tra vốn từ  vựng của từng người, thảo luận những phần cơ bản,   trọng tâm của bài học, tìm ra cách học hiệu quả nhất cho từng từ. ­ Cách đọc tài liệu: Trong khi đọc tài liệu học sinh cần xác định cho mình   những nhiệm vụ cụ thể. Một là phải hiểu và nắm nội dung đã đọc. Hai là suy   nghĩ về những điều đã đọc. Ba là ghi chép những điều cần nghi nhớ. Bốn là  cần phải suy nghĩ xem những kiến thức vừa đọc có gì mới mẻ không. ­ Cách ghi chép tài liệu một trong những khâu quan trọng để  nâng cao việc  học từ vựng là trong khi đọc tài liệu bao giờ cũng phải có bút, sách vở để ghi  chép lại những kiến thức quan trọng. Chính việc này càng làm tăng thêm sự  tập trung trong lúc đọc. ­ Điều quan trọng trong việc học tập nói chung và trong việc học từ vựng nói   riêng là học sinh cần phải chú ý rằng đó là một quá trình liên tục, lâu dài đòi   hỏi mỗi học sinh phải có tinh thần học tập không biết mệt mỏi, phải biết học  tập ở mọi lúc, mọi nơi có thể. CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
42=>0