intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

84
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng việc dạy lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số trong phân môn đạo đức. Trên cơ sở đó đề xuất rút ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và nêu lên giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong thời gian tới. Giúp học sinh có khả năng ứng xử trước các tình huống xảy ra trong cuộc sống như tự tin, tự phục vụ, mạnh dạn giao tiếp và hợp tác, trung thực, có khả năng tự giải quyết vấn đề.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức

Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU<br />        I. Đặt vấn đề<br />        Như chúng ta đã biết giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế <br /> hệ trẻ. Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người <br /> quyết định sự  phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ <br /> năng sống, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia <br /> đình, cộng đồng và xã hội.<br /> Trong trường học, việc giáo dục kĩ năng sống và rèn luyện sức khỏe cho <br /> học sinh là vấn đề hết sức cần thiết. Nó góp phần hình thành nhân cách cho các  <br /> em, giúp các em tự tin chủ động, biết cách xử  lý tình huống trong cuộc sống và <br /> quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy, sáng tạo.<br /> Từ  năm 2010 – 2011, Bộ  Giáo dục ­ Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục kĩ <br /> năng sống lồng ghép vào các môn học như: Tự nhiên và Xã hội, Tiếng Việt, đạo <br /> đức, lịch sử­ Địa lí, Âm nhạc, Mĩ thuật…. và các hoạt động ngoài giờ  lên lớp ở <br /> bậc tiểu học. Tuy nhiên, để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi <br /> hỏi nhiều yếu tố  chứ  không chỉ  từ  các bài giảng. Kĩ năng sống không phải tự <br /> nhiên có được mà phải hình thành dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn  <br /> luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành kĩ năng sống diễn ra cả  trong và  <br /> ngoài hệ thống giáo dục.<br /> Thực tế cho thấy, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị <br /> nhân cách, giàu ước mơ, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc <br /> về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động... Đặc biệt trong <br /> bối cảnh hội nhập quốc tế  và cơ  chế  thị  trường hiện nay, thế  hệ  trẻ  thường  <br /> xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố  tích cực và tiêu cực, luôn được <br /> đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó <br /> khăn, thách thức. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống <br /> các em dễ bị lôi kéo các hành vi tiêu cực, bạo lực, lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ <br /> bị  phát triển lệch lạc về  nhân cách. Một trong nguyên nhân dẫn đến các hiện <br /> tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian qua như: đua  <br /> xe, nghiện hút, bạo lực, ăn chơi sa đoạ... chính là do các em thiếu những kĩ năng <br /> sống cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ <br /> năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp...  Vì vậy, <br /> giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành  <br /> vi và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp trẻ có  <br /> ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ <br /> tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài <br /> hoà và lành mạnh.<br /> Đối với học sinh lớp 1, là lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học, các em mới <br /> gia nhập cuộc sống nhà trường, chưa biết  ứng xử  với mọi người xung quanh,  <br /> chưa biết tự tin trước đám đông, lúng túng khi gặp tình huống nguy hiểm có thể <br /> 1<br /> xảy ra bất cứ lúc nào… Vì vậy,  sáng kiến được thực hiện áp dụng cho học sinh  <br /> lớp 1 dân tộc thiểu số  qua môn đạo đức ngay từ lớp học đầu tiên, bậc học đầu <br /> tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân là vô cùng cấp thiết.<br /> Giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức không những thể  hiện  ở  nội  <br /> dung môn học mà còn được thể hiện ở phương pháp dạy học đặc trưng của môn  <br /> học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Qua đó,  <br /> học sinh đã được tạo cơ hội để  thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần  <br /> thiết, phù hợp với lứa tuổi.<br /> Thực tế  cho thấy, khi xã hội ngày càng phát triển thì cha mẹ  có rất ít thời <br /> gian chăm sóc con cái hoặc có xu hướng trái ngược là quan tâm thái quá, việc gì <br /> cũng muốn làm thay cho trẻ. Với học sinh lớp 1 đa số  các em là người dân tộc <br /> sống tại địa bàn vừa bước chân vào môi trường học tập mới, các em chưa biết  <br /> ứng xử  với mọi người xung quanh, còn rụt rè, nhút nhát… mà nguyên nhân bắt <br /> đầu từ thiếu kĩ năng sống.<br /> Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số nói  <br /> riêng, cho học sinh bậc học phổ thông nói chung là vô cùng quan trọng. Và đạo <br /> đức là môn học có tiềm năng to lớn trong việc giáo dục kĩ năng sống cho Tiểu <br /> học.<br /> Từ  những thực tế trên, tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả  nghiên cứu của <br /> mình thông qua đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh  <br /> lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức”.<br />         II. Mục đích nghiên cứu<br />         Tìm hiểu thực trạng việc dạy lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh lớp 1  <br /> dân tộc thiểu số trong phân môn đạo đức. Trên cơ sở đó đề xuất rút ra ưu điểm, <br /> hạn chế, nguyên nhân và nêu lên giải pháp chủ  yếu nâng cao chất lượng giáo  <br /> dục kĩ năng sống cho học sinh trong thời gian tới.<br />         Giúp học sinh  có khả năng ứng xử trước các tình huống xảy ra trong cuộc  <br /> sống như tự tin, tự phục vụ,  mạnh dạn giao tiếp và hợp tác, trung thực, có khả <br /> năng tự giải quyết vấn đề.<br />                               Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br />  I. Cơ sở lí luận của vấn đề<br />         1. Kĩ năng sống là gì?<br /> ­ Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là khả năng để  có hành <br /> vi thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu <br /> cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.<br /> ­ Theo UNICEF, kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành <br /> hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức hình <br /> thành thái độ và kĩ năng.<br /> <br /> <br /> 2<br /> ­ Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO),  <br /> kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết, học làm người,  <br /> học để sống với người khác, học để làm.<br /> Từ những quan niệm trên có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ  <br /> năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ <br /> năng sống là kĩ năng tự  quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để  cá nhân  <br /> tự  lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng <br /> sống là khả  năng làm chủ  bản thân của mỗi người, khả  năng  ứng xử  phù hợp <br /> với những người khác và với xã hội, khả  năng  ứng phó tích cực trước các tình <br /> huống trong cuộc sống.<br /> Quá trình dạy học tiết Đạo Đức là quá trình tổ chức cho học sinh thực hiện  <br /> các hoạt động học tập phong  phú, đa dạng như : kể truyện theo tranh; quan sát  <br /> hình  ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử  lý tình huống; chơi trò chơi, đóng <br /> tiểu phẩm, múa hát,…Thông qua các hoạt động đó sự  tương tác giữa GV ­ HS, <br /> HS ­ GV, HS ­ HS được tăng cường và học sinh có thể  tự  phát hiện và chiếm  <br /> lĩnh tri thức mới.<br /> 2. Đạo đức và vị trí môn Đạo đức trong giáo dục.<br /> 2.1 Khái niệm về đạo đức<br /> ­ Đạo đức (đạo: lẽ  phải, đức: điều tốt lành) là nguyên lí phải theo trong <br /> quan hệ  giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội, tùy theo yêu cầu của  <br /> chế độ  chính trị  và kinh tế nhất định. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản văn <br /> hóa và thanh niên, năm 2001)<br /> ­ Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định  <br /> hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, là phẩm chất tốt  <br /> đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn nhất định mà có.<br /> 2.2 Vị trí của môn Đạo đức<br /> Môn Đạo đức có vị  trí đặc biệt quan trọng mà không một môn học nào có  <br /> thể  thay thế  được. Bởi lẽ, chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học sinh  <br /> Tiểu học với hệ thống chuẩn mực hành vi đạo đức được quy định trong chương <br /> trình môn học này. Môn đạo đức thực hiện ba nhiệm vụ sau:<br /> + Hình thành cho học sinh ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức (tri  <br /> thức và niềm tin), từ  đó định hướng cho các em những giá trị  đạo đức phù hợp  <br /> với những chuẩn mực được quy định trong chương trình môn Đạo đức.<br /> + Giáo dục cho học sinh những xúc cảm, thái độ, tình cảm đạo đức đúng <br /> đắn liên quan đến các chuẩn mực hành vi quy định.<br /> + Hình thành cho các em những kĩ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực <br /> và trên cơ sở đó, rèn luyện thói quen đạo đức tích cực.<br /> 2.3 Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 dân <br /> tộc thiểu số qua môn Đạo đức<br /> <br /> <br /> 3<br /> Đạo đức là một môn học được dạy từ  lớp 1 đến lớp 5 ở  trường Tiểu học,  <br /> nhằm giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và  ứng xử  phù hợp với các  <br /> chuẩn mực xã hội. Dạy học môn đạo đức kết hợp hài hòa giữa việc trang bị <br /> kiến thức với bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kĩ năng hành vi cho <br /> học sinh.<br /> Bản thân nội dung môn Đạo đức chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kĩ <br /> năng sống như: kĩ năng giao tiếp,  ứng xử  (với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn <br /> bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh); kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân,  <br /> kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi; kĩ năng giữ gìn <br /> vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự  phục vụ và tự  quản lí thời gian, kĩ năng thu thập và  <br /> xử  lí thông tin về  các vấn đề  trong thực tiễn đời sống  ở  nhà trường,  ở  cộng  <br /> đồng có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức …<br /> Như  vậy, việc giáo dục kĩ năng sống qua môn đạo đức cho học sinh lớp  <br /> 1dân tộc thiểu số  nói riêng, cho học sinh bậc học phổ  thông nói chung có tầm <br /> quan trọng rất lớn trong việc giáo dục học sinh những kĩ năng cần thiết khi các <br /> em mới bước vào lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học..<br /> II. Thực trạng vấn đề<br /> 1. Đặc điểm tình hình<br /> Trường tiểu học Ea Bông có tổng số  học sinh lớp Một là 66 em được chia <br /> thành 03 lớp, trong đó có 02 lớp nằm trên địa bàn vùng khó khăn của xã Ea Bông <br /> – huyện Krông Ana – tỉnh Đăk Lăk. Năm học 2018 – 2019, tôi được nhận nhiệm  <br /> vụ  chủ nhiệm lớp 1C, với 22 em và 100% là học sinh con em đồng bào dân tộc  <br /> thiểu số. Trong số  đó có nhiều gia đình có vợ,  chồng hoặc cả  vợ  và chồng đi  <br /> làm ăn xa. Có em bố mẹ ly hôn phải ở với ông bà từ khi còn nhỏ.<br /> Thực tế, khi các em rời trường Mầm non và bước chân vào lớp 1, tất cả <br /> mọi nề nếp, giờ giấc học tập, sinh hoạt còn xa lạ chưa vào một khuôn khổ nhất  <br /> định, các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như  mạnh dạn bày tỏ  ý <br /> kiến nhất là các em học sinh dân tộc thiểu số  có sự  chênh lệch rất lớn về  kỹ <br /> năng sống so với các em học sinh  ở vùng thuận lợi, khả năng giao tiếp, ứng xử <br /> của các em thấp, nhiều em rụt rè, nhút nhát, không tự tin, buông thả không điều  <br /> chỉnh được hành vi của mình. Chính vì lẽ đó mà việc giáo dục kĩ năng sống cho <br /> các em lồng ghép vào môn học Đạo đức là rất cần thiết, để học sinh mạnh dạn  <br /> hơn trước chỗ đông người, tự tin chủ động trong tình huống cũng như biết cách  <br /> ứng xử đơn giản nhất trong đời sống hằng ngày.<br />        2. Những thuận lợi và khó khăn<br />        2.1 Thuận lợi<br /> ­ Được sự  quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tổ  khối và các thầy cô <br /> trong nhà trường thường xuyên trao đổi qua các tiết dạy tốt, dạy chuyên đề, dự <br /> giờ, sinh hoạt ngoại khóa tôi đã rút ra được nhiều điều bổ ích.<br /> <br /> 4<br /> ­ Qua các phương tiện thông tin như: ti vi, đài, sách, báo….tài liệu giảng <br /> dạy.<br /> ­ Lứa tuổi các em học mà chơi, chơi mà học nên các em rất dễ thâm nhập, <br /> tiếp thu năng động và sáng tạo.<br /> 2.2 Khó khăn<br />         Trường tiểu học Ea Bông là một trường thuộc vùng khó khăn có hai phân  <br /> hiệu thuộc xã Ea Bông – huyện Krông Ana – tỉnh Đắk Lắk. Đa số các em là dân  <br /> tộc thiểu số chủ yếu là dân tộc Ê – đê chiếm trên 70%. Trình độ dân trí còn thấp, <br /> cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ giáo viên trong tổ <br /> chưa đồng đều, kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Chất lượng giáo dục còn  <br /> thấp.<br /> Năm học 2018 – 2019, với tổng số học sinh là 66 em chia thành 3 lớp, trong  <br /> đó học sinh dân tộc thiểu số là 51 em chiếm tỉ lệ 77,3%. Đa số phụ huynh không <br /> có nghề  nghiệp  ổn định, kinh tế khó khăn nên ít có điều kiện quan tâm các em. <br /> Phần lớn các em chưa được gia đình chú ý quan tâm bồi dưỡng vốn kinh nghiệm <br /> trong giao tiếp nên đến lớp các em thường hay nhút nhát. Mặc dù các em đã qua <br /> lớp Mầm non song trong thực tế các em còn hạn chế  về  ngôn ngữ, về  kĩ năng <br /> giao tiếp, kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng tự phục vụ…. Khi tôi nhận <br /> lớp, đã sau một thời gian học nhưng vẫn còn một số  em đến lớp còn hay khóc.  <br /> Gọi đọc bài không dám đọc, không dám xung phong phát biểu, nhiều em còn <br /> chưa biết nói lời thưa gửi, còn nói trống không, ngại giao tiếp với các bạn và <br /> thầy cô giáo.<br />        Các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô giáo và các bạn, nhiều  <br /> em chưa nói được cụ  thể  họ  và tên mình, họ  tên bố  mẹ, chưa phân biệt được <br /> anh em trong nhà với anh em họ. Một số học sinh gần như ngồi im, chưa biết nói <br /> đủ một câu, chưa có ý thức về học tập nghe giảng, chưa biết lĩnh hội kiến thức.<br />          Đa số  các em là người dân tộc thiểu số  sống tại địa bàn sử  dụng cả  hai <br /> ngôn ngữ: tiếng mẹ  đẻ  và Tiếng Việt, trong đó ngôn ngữ  Tiếng Việt còn hạn <br /> chế  và có nhiều khó khăn, các em nói tiếng phổ  thông chưa rành nên khi giảng  <br /> dạy Kĩ năng sống cho các em rất khó tiếp cận nhất là các kĩ năng giao tiếp, ứng  <br /> xử đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo và mọi người xung  <br /> quanh, kĩ năng bày tỏ  ý kiến của bản thân,  kĩ năng giữ  gìn vệ  sinh cá nhân, kĩ  <br /> năng tự phục vụ về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở nhà có <br /> liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức….. hầu như các em còn hạn chế.<br />         Nhà trường, đoàn đội chưa tổ  chức được nhiều các hoạt động ngoại khóa <br /> như: Thi kể chuyện đạo đức, học tập tấm gương người tốt việc tốt để học sinh  <br /> được thực hành hành vi đã học vào những tình huống cụ  thể  trong cuộc sống.  <br /> Đối với bản thân là giáo viên chủ  nhiệm, tôi thấy việc giáo dục kỹ  năng sống <br /> cho học sinh  còn khá nhiều bỡ  ngỡ  về  nội dung giáo dục, phạm vi giáo dục, <br /> chưa có kế hoạch cụ thể, rõ ràng nên chưa có được sự phối hợp  đồng điệu giữa <br /> 5<br /> phụ huynh học sinh. Việc rèn kĩ năng sống qua môn đạo đức còn chưa được chú <br /> trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ  thực hiện giáo dục kĩ năng <br /> sống cho các em chưa nhiều. Trước những khó khăn trên tôi luôn trăn trở làm thế <br /> nào giúp các em có được các kĩ năng cơ bản để vận dụng trong cuộc sống hằng <br /> ngày. Sau khi điều tra học sinh tôi tiến hành khảo sát phân các nhóm đối tượng <br /> như sau:<br /> Năm TS Kĩ năng<br /> học HS<br /> Biết nói năng  Bạo dạn  Ngại giao  Học sinh học hòa <br /> lễ phép, tự  trong giao  tiếp, trầm  nhập, giao tiếp <br /> tin, biết hợp  tiếp nhưng  lặng, nhút  chưa rõ và nhận <br /> tác nói trống  nhát thức chưa ghi nhớ <br /> không được.<br /> SL % SL % SL % SL %<br /> Đầu kì I 22 1 4,5 9 41 10 45,5 2       9<br /> <br />   Điểm qua một số  hành vi đạo đức của các em tôi thấy trạng thái chú ý  <br /> không bền khi giao tiếp với thói quen ngại suy nghĩ, ngại động não, khả năng ghi <br /> nhớ  chậm hình thành, khả  năng tưởng tượng của các em thiếu sinh động nên tỉ <br /> lệ học sinh phát triển chưa toàn diện rất là ít, đa phần các em chưa tự  tin trong  <br /> giao tiếp còn rụt rè, nhút nhát, giao tiếp chưa rõ.<br />  Từ  tình hình thực tế  trên chúng ta phải biết đặc điểm tình hình của từng <br /> đối tượng học sinh và có các giải pháp phù hợp để  nâng cao chất lượng giảng <br /> dạy cũng như trang bị cho học sinh những kĩ năng sống cơ bản thì mỗi giáo viên <br /> là một tấm gương sáng mẫu mực cho học sinh noi theo, giáo viên cần phải gần  <br /> gũi, thường xuyên khuyến khích, tạo môi trường học tập công bằng, tôn trọng, <br /> động viên kịp thời để học sinh thích học, ham học. Giáo dục học sinh bước đầu <br /> biết cách sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã hội thông qua môn đạo <br /> đức. Phối kết hợp với gia đình trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh,  <br /> thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp, các hoạt động Đội trong và  <br /> ngoài nhà trường để quản lý và giáo dục học sinh.<br /> Nhận thức rõ điều này, thấy những khó khăn cơ  bản trên tôi đã thực hiện <br /> một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua  <br /> môn Đạo đức.<br /> III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề<br /> ­ Một bài giáo dục kĩ năng sống thường được thực hiện theo 4 giai đoạn:<br /> Giai đoạn 1: Khám phá<br /> <br /> <br /> <br /> 6<br /> Tìm hiểu kĩ năng hiểu biết của học sinh về  những việc làm hoặc sự  kiện <br /> diễn ra trong cuộc sống .<br /> Giai đoạn 2: Kết nối<br /> Giới thiệu thông tin, kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo “cầu nối”  <br /> liên kết giữa cái đã biết và “cái chưa biết”.<br /> Giai đoạn 3: Thực hành / Luyện tập<br /> Tạo cơ hội cho người học vận dụng kiến thức và kĩ năng mới học vào hoàn <br /> cảnh, điều kiện có ý nghĩa.<br /> Giai đoạn 4: Vận dụng<br /> Nâng cao hơn mức độ vận dụng kiến thức và kĩ năng.<br /> Điều chỉnh hiểu biết và kĩ năng còn sai lệch.<br /> Luyện tập thực hành kĩ năng.<br /> ­ Kĩ năng sống là nền tảng để  hoàn thiện nhân cách của con người, nhằm  <br /> đảm bảo cho mọi cá nhân có thể  tồn tại, phát triển và khẳng định giá trị  của  <br /> mình trong cộng đồng. Đây không phải là trách nhiệm riêng của thầy cô giáo, <br /> ngành giáo dục mà đòi hỏi có sự chung tay góp sức của gia đình và xã hội.<br />  Môn Đạo đức 1 lồng ghép kĩ năng sống có 10 bài gồm 3 chủ điểm:<br /> *  Gia đình      : 2 bài <br /> *  Nhà trường  : 3 bài<br /> *  Xã hội         : 5 bài <br /> Qua quá trình khảo sát thực tế, sử dụng các phương pháp vấn đáp, phương <br /> pháp quan sát,… tôi xin nêu ra một số biện pháp nhằm giáo dục kĩ năng sống cho  <br /> học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức như sau:<br /> 1. Biện pháp 1:  Giáo viên là tấm gương sáng mẫu mực cho học sinh noi  <br /> theo<br />          Rõ ràng, khi tôi được giao trách nhiệm làm chủ  nhiệm một lớp, bản thân <br /> phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước nhà trường về  lớp mình phụ  trách, chịu  <br /> trách nhiệm về  mọi quyền lợi cũng như  nghĩa vụ  học tập, rèn luyện của từng  <br /> học sinh trong lớp mình. Từ khâu hoạch định kế hoạch cho đến khâu điều hành <br /> thực hiện đều từ  giáo viên chủ  nhiệm. Vì vậy, trước hết bản thân tôi phải có  <br /> năng lực tổ  chức, phải có tình thương và trách nhiệm cao thì mới có thể  hoàn  <br /> thành tốt công tác của mình. Để  học sinh nghe và làm đúng những yêu cầu của <br /> giáo viên, trước hết các em phải có niềm tin yêu vào thầy cô giáo. Muốn tạo <br /> được uy tín đó thì không chỉ  có năng lực là đủ  mà phải thực sự  gương mẫu, là <br /> tấm gương sáng cho học sinh noi theo, tất cả  những cử  chỉ, hành động của <br /> chúng ta trong con mắt trẻ  thơ  luôn là khuôn mẫu. Mọi vấn đề  thầy cô giải  <br /> quyết, mọi việc thầy cô làm, mọi điều thầy cô nói với các em luôn là đúng. Đặc <br /> biệt với học sinh lớp 1 các em nghe, làm theo thầy cô còn hơn ông bà, cha mẹ.  <br /> Các em thường rất hay bắt chước thầy cô của mình từng nét chữ, lời nói đến cả <br /> cử chỉ, điệu bộ và nhất là cách ứng xử của cô trước các tình huống. Vì thế bản <br /> 7<br /> thân phải luôn mẫu mực trong mọi cử chỉ, hành động, lời nói, phải nghiêm minh, <br /> công bằng khách quan trong đánh giá học sinh, cần cụ  thể gương mẫu về  mọi  <br /> mặt như: về trang phục và thời gian làm việc; về chào hỏi, xưng hô, xã giao, khi <br /> tiếp đón khách, tiếp dân, ứng xử  trong sử  dụng điện thoại, ứng xử  trong liên <br /> hoan, chiêu đãi, ứng xử trong nhận và tặng vật lưu niệm, ứng xử đối với những <br /> bất đồng, mâu thuẫn, ứng xử  trong công bố, tiếp nhận thông tin... Đặc biệt là <br /> trong cách xử lý công việc hàng ngày, bản thân tôi không dám tuỳ tiện theo kiểu  <br /> “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột”; mà phải thấu đáo, đã nói là làm, làm <br /> đến nơi đến chốn và thật thấu tình đạt lý. Có như  thế  mới thuyết phục được <br /> học sinh, mới tập hợp được các em xung quanh mình cùng hoàn thành tốt kế <br /> hoạch đã định.<br />          Việc đánh giá học sinh cũng cần khách quan và công bằng.Với học sinh <br /> Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số  nói riêng, việc các em <br /> được khen trước bạn bè, được cô giáo động viên kịp thời đúng lúc sẽ là động lực  <br /> rất lớn giúp các em mạnh dạn, tự  tin và hoàn thành tốt nhiệm vụ  học tập. Để <br /> động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện kĩ năng, ngay từ <br /> đầu năm học tôi đã lên kế hoạch rèn luyện cho các em, hằng ngày các em được  <br /> phân công theo dõi các bạn, ghi vào sổ  đến cuối tuần, cuối tháng bình chọn ra  <br /> những bạn thực hiện tốt, những bạn ngoan, luôn được tôi tuyên dương, khen  <br /> thưởng. Cuối tháng, tôi luôn dành những phần quà nho nhỏ, bất ngờ cho các em. <br /> Khi thì chiếc bút chì hay những viên kẹo, những cục tẩy, viên phấn… Tất cả chỉ <br /> là sự  động viên, khích lệ  các em và đó là động lực để  các em có sự  tiến bộ.  <br /> Những học sinh chưa biết vâng lời tôi luôn nhắc nhở bằng cử chỉ nhẹ nhàng và  <br /> cả  tình thương yêu. Tôi cho các em thấy sự gần gũi trong mỗi việc làm. Khi đã  <br /> xóa dần khoảng cách, việc giáo dục sẽ nhẹ nhàng hơn.<br />        Ví dụ: Vào đầu năm học hầu hết các em rất rụt rè khi vào lớp cũng như khi  <br /> ra về chỉ im lặng không chào hỏi, xin phép cô giáo, cô hỏi cũng không nói. Trước  <br /> những khó khăn đó, trong tiết học đầu tiên, tôi tổ  chức cho các em làm quen  <br /> nhau. Đầu tiên tôi tự  giới thiệu mình với cả  lớp sau đó cho từng em giới thiệu, <br /> hướng dẫn cho các em tỉ  mỉ  từng chi tiết khi đến lớp, khi đến nhà người khác,  <br /> khi gặp nhau thì chào hỏi, khi nào ra về, khi muốn nghỉ học thì xin phép. Còn khi <br /> được giúp đỡ thì nói cảm ơn, khi mắc lỗi nói lời xin lỗi. …Cứ như vậy cho từng  <br /> cặp thực hiện các em quen dần dần. Và từ buổi học lần sau tôi đã được nghe lời <br /> chào hỏi xin phép của các em.<br />       <br />        2. Biện pháp 2: Giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn đạo đức<br />         Khi học sinh bắt đầu bước vào môi trường giáo dục ở nhà trường thì thầy <br /> cô giáo chính là người đặt nền móng đầu tiên, người tạo nên những kĩ năng quan  <br /> trọng cho trẻ sau này.<br /> <br /> 8<br /> Giáo viên cũng có thể  tập dần cho các em kĩ năng đặt mục tiêu từ  những <br /> việc nhỏ như thói quen dậy sớm tập thể dục, đi học đúng giờ, phụ mẹ việc nhà,  <br /> giữ lời hứa với mọi người…<br /> Kĩ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, <br /> hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Muốn vậy, giáo viên phải linh hoạt  <br /> trong việc sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để  lôi cuốn số <br /> đông học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục. Cụ thể qua các bài học trong <br /> môn Đạo đức 1 như sau:<br />        Bài 3: Gia đình em<br />              Qua bài học “Gia đình em” giáo viên giúp học sinh hiểu trong gia đình  <br /> thường có ông bà, cha mẹ, anh chị em. Ông bà, cha mẹ có công sinh thành, nuôi <br /> dưỡng, giáo dục, rất yêu quý con cháu nên các em cần phải lễ phép, vâng lời ông <br /> bà, cha mẹ, anh chị để mau tiến bộ cho ông bà, cha mẹ vui lòng. <br />                Thông qua bài học tôi lồng ghép giáo dục kĩ năng giới thiệu về  những <br /> người thân trong gia đình; kĩ năng giao tiếp, ứng xử với những người thân trong  <br /> gia đình, kĩ năng giải quyết vấn đề để thể hiện lòng kính yêu đối với ông bà, cha <br /> mẹ. Ví dụ: Qua bài tập 1 tôi yêu cầu từng cặp học sinh kể cho nhau nghe về gia  <br /> đình mình ( gia đình em có những ai? Thường ngày những người trong gia đình <br /> em làm gì? Mọi người trong gia đình yêu quý nhau như  thế  nào?...) Tôi nhận <br /> thấy các em rất vui khi nói về  các thành viên trong gia đình mình, kể  cả  những <br /> em ngại giao tiếp, rụt rè nhút nhát cũng thấy được những nụ  cười, ánh mắt khi <br /> nói về gia đình em. Mỗi bài tập tôi lại dạy bảo các em những điều hay, lẽ phải  <br /> như: đi phải xin phép, về phải chào hỏi, ăn nói nhẹ nhàng, phải có thưa gửi, biết <br /> nói lời cảm  ơn, xin lỗi, nghe theo lời chỉ bảo của người lớn…Có như  vậy các <br /> em mới là người con ngoan, cháu ngoan, ông bà cha mẹ vui lòng. <br />         Bài 11: Đi bộ đúng quy định<br />         Qua bài học “ Đi bộ đúng quy định” giúp học sinh hiểu đi bộ đúng quy định <br /> là đi trên vỉa hè, theo tín hiệu giao thông, theo vạch sơn quy định; ở những đường <br /> giao thông khác thì đi sát lề đường phía bên tay phải.<br />         Thông qua bài học tôi lồng ghép kĩ năng an toàn khi đi bộ. Ví dụ: Qua bài  <br /> tập 5 tôi lồng ghép kĩ năng sống qua phần tham gia trò chơi. Tôi phổ  biến luật <br /> chơi, tổ chức cho các em đứng tại chỗ khi cô hô “Đèn xanh” học sinh cho hai tay <br /> quay nhanh, khi cô hô “Đèn vàng” học sinh cho hai tay quay từ từ, khi cô hô “Đèn <br /> đỏ” học sinh tay không chuyển động. Kết thúc trò chơi tôi luôn tuyên dương  <br /> những em thực hiện đúng đồng thời nhắc nhở các em về  việc đi lại hằng ngày, <br /> trong đó có việc đi học, luôn lưu ý những đoạn đường nguy hiểm dễ xảy ra tai  <br /> nạn giao thông.<br />          Đối với học sinh dân tộc thiểu số lớp tôi đa số các em sống gần trường nên  <br /> thường đi bộ  đi học, các em sang đường thường thiếu quan sát, cũng chính bởi <br /> các em còn quá nhỏ chưa ý thức được hành vi của mình, gia đình điều kiện kinh <br /> 9<br /> tế khó khăn, thiếu thốn nên có những hôm không thể đưa đón con đi học bởi vậy <br /> tôi luôn nhắc nhở  các em hằng ngày, hàng giờ: đi học phải chú ý quan sát khi  <br /> sang đường, khi đi nhớ đi vào phía bên phải, đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao  <br /> thông…. Ngoài các các bài học đã nêu  ở  trên thì tùy vào tình hình thực tế   ở  địa <br /> phương, tôi còn lồng ghép một số  kỹ  năng phòng đuối nước, hỏa hoạn, biết tự <br /> bảo vệ mình và an toàn giao thông... cho học sinh ở mọi lúc, mọi nơi.  <br /> 3. Biện pháp 3: Phối kết hợp với gia đình trong việc giáo dục kĩ năng <br /> sống cho học sinh<br />          Trong thực tế, trong môi trường mà trẻ  sống, học tập và phát triển; bên  <br /> cạnh các mặt tác động tốt, các ảnh hưởng tích cực luôn luôn tồn tại, hàm chứa  <br /> các yếu tố  có thể  gây nguy hại đến sự  phát triển nhân cách của trẻ  và với đặc <br /> điểm hiếu động và ít vốn sống trẻ  dễ  bắt chước theo, dần dần trở  thành thói <br /> quen xấu, tác động tiêu cực đến sự  phát triển nhân cách của trẻ. Nhất là khi <br /> thiếu sự  phối hợp đúng đắn, thiếu sự  thống nhất giáo dục giữa nhà trường và <br /> gia đình thì hậu quả  xấu trong giáo dục sẽ  xuất hiện, nếu không kịp thời khắc  <br /> phục hậu quả sẽ rất tai hại. Ngay từ khi trẻ bắt đầu nhận thức về  hành vi đạo <br /> đức của mình thì gia đình đã góp phần vào nhận thức giáo dục và hình thành  <br /> những kĩ năng ban đầu cho trẻ. Vì vậy, cha mẹ học sinh cần biết những kĩ năng <br /> nào được giáo dục  ở  gia đình, những kĩ năng được hình thành và phát triển  ở <br /> trường học để kết hợp với nhà trường và xã hội.<br />         Tuy nhiên, trong thực tế tiếp xúc với cha mẹ học sinh, tôi nhận thấy rõ một  <br /> điều là: Không phải quý vị  phụ  huynh nào cũng   nhiệt tình, tận tâm với công <br /> việc phối hợp này, họ  có đủ  muôn vàn lí do để  “xin lỗi” hoặc “phó thác” thậm <br /> chí một số phụ huynh còn không quan tâm tới việc học của con em mình, có em  <br /> không có nổi một bộ quần áo mới để đi học, sách vở đồ dùng học tập chưa đầy <br /> đủ, có em thì nghỉ học không lí do nhất là vào ngày mùa. Vì vậy mà đa phần học <br /> sinh có sai phạm đều do giáo viên chủ nhiệm phát hiện rồi tìm cách tháo gỡ chứ <br /> không phải do gia đình nhận biết để nhờ nhà trường quan tâm giúp đỡ cùng giáo  <br /> dục con em mình. Đây cũng là một khó khăn lớn mà tôi phải luôn trăn trở để tìm <br /> giải pháp khắc phục tốt nhất nhằm nâng cao không ngừng chất lượng toàn diện <br /> cho các em học sinh.<br />         Thông qua những buổi họp phụ huynh hay những lần trao đổi với cha mẹ <br /> các em cần đặc biệt quan tâm tôi luôn gợi ý phụ  huynh học sinh xây dựng và <br /> kiểm tra việc thực hiện thời gian biểu ở nhà. Tôi sẽ chịu trách nhiệm hướng dẫn  <br /> các em thực hiện thời gian biểu phù hợp. Ngay từ đầu năm học tôi đã hướng dẫn <br /> cho phụ  huynh và các em chọn sách vở, đồ  dùng học tập theo đúng quy định, <br /> hướng dẫn, nhắc nhở các em giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập, tôi quy định cách <br /> sắp xếp sách vở ở lớp cũng như ở nhà. Ở lớp các em được treo cặp rõ ràng, sách <br /> vở đồ dùng học tập sử dụng chúng đúng mục đích, dùng xong sắp xếp đúng nơi  <br /> quy định, luôn giữ  sạch sẽ, không được bôi bẩn, vẽ bậy, viết bậy vào sách vở, <br /> 10<br /> không làm rách nát hỏng đồ  dùng học tập,  ở nhà các em treo đúng nới quy định,  <br /> soạn sách vở  đầy đủ  theo từng ngày học trách mang hết sách vở, đồ  dùng học  <br /> tập gây nhàu nát, hư hỏng. Ngày đầu đi học tôi cùng các em phân loại sách vở, <br /> ghi nhãn tên, bao bọc gọn gàng, kiểm tra và tuyên dương những em thực hiện tốt <br /> trước lớp, động viên giúp đỡ các em còn khó khăn hoàn thành tốt kĩ năng tự phục <br /> vụ cho học tập. Nhà trường chỉ quản lí học sinh trong thời gian ở trường còn khi  <br /> ra đường về nhà thì cha mẹ mới là người thầy, người cô thực sự, việc phối hợp <br /> với phụ huynh là cực kỳ quan trọng. Nhà trường và gia đình cùng chung tay chỉ <br /> bảo các em đồng thời phụ  huynh học sinh cũng phải là tấm gương cho các em <br /> noi theo. Phối hợp trong việc tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt động <br /> ngoại khóa, tham gia Hội khỏe Phù Đổng, biểu diễn văn nghệ mà nhà trường tổ <br /> chức, hỗ trợ kinh phí cho việc khen thưởng  động viên các phong  trào, phối hợp  <br /> tổ  chức lao động định kì. Việc phối kết hợp giữa giáo viên chủ  nhiệm và phụ <br /> huynh học sinh nhằm mục đích cùng chăm lo giáo dục học sinh chưa ngoan về <br /> đạo đức, chưa ngoan về  học tập. Đặc biệt đối với diện học sinh chưa ngoan, <br /> mối quan hệ này lại cần thiết hơn bao giờ hết.<br />        Trong nhà trường học sinh thường mắc những sai lệch mà chúng ta cùng với  <br /> phụ  huynh phải lo toan cần giáo dục. Theo tôi các em thường có những biểu <br /> hiện sai lệch sau:<br /> ­ Ý thức tự giác học tập chưa cao.<br /> ­ Không học bài, làm bài trước khi đến lớp.<br />             ­ Nói chuyện trong giờ học.<br /> ­ Gây gổ đánh nhau, nói tục, nói dối.<br /> ­ Gian dối trong học tập (kiểm tra thi cử...)<br /> ­ HS chưa mạnh dạn còn rụt rè, nhút nhát.<br />         Vì vậy, ngay từ đầu năm học tôi phải tìm hiểu kỹ  học sinh lớp của mình,  <br /> tìm hiểu qua học sinh để  báo phụ  huynh biết ngay buổi họp phụ  huynh tất cả <br /> những sai lệch, những biểu hiện tiêu cực mà học sinh dễ  mắc phải để  họ  soi  <br /> vào con em mình mà có giải pháp kịp thời ngăn chặn, sửa chữa.<br />        Ví dụ: Trong lớp tôi chủ nhiệm có em Y Pham Niê những buổi đầu tiên đến <br /> lớp em thường xuyên khóc mà phải có bố  mẹ  ngồi bên thì mới chịu ngồi học,  <br /> ảnh hưởng không nhỏ  đến việc  ổn định nề  nếp cũng như  chất lượng dạy học <br /> chính vì vậy tôi đã trực tiếp gặp bố của em trao đổi về việc em còn sợ sệt, nhút  <br /> nhát, chưa quen với môi trường có bạn mới, thầy cô mới và nêu ra hướng khắc  <br /> phục. Còn có trường hợp em H Xuân Mai Adrơng hoàn cảnh gia đình khó khăn,  <br /> nhà đông anh chị  em nên đến lớp em chỉ  có mỗi bộ  quần áo cũ mặc đi mặc lại  <br /> nhiều lần, thường thiếu đồ dùng học tập rất ngại giao tiếp với các bạn và thầy  <br /> cô nên tôi đã đến trực tiếp gặp mẹ của em trao đổi về  việc học cũng như  mua <br /> cho em bộ quần áo mới dù món quà không lớn nhưng cũng góp một phần nào đó <br /> giúp em tự tin hơn, cởi mở hơn trong giao tiếp. Chính bởi vậy cha mẹ hãy cùng <br /> 11<br /> giáo viên quan tâm chăm sóc, nhắc nhở các em các kĩ năng trong cuộc sống như:  <br /> biết sắp xếp ngăn nắp góc học tập, đi học đúng giờ  không la cà dọc đường,  <br /> soạn sách vở đồ dùng học tập, vệ sinh thân thể ăn mặc gọn gàng trước khi đến  <br /> lớp. Mỗi ngày một ít sẽ tập được cho các em thói quen tự phục vụ cho bản thân, <br /> phục vụ cho học tập, mạnh dạn hơn trong giao tiếp…. <br />         Tóm lại bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho các  <br /> em những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh  <br /> trong nhận thức. Trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử <br /> lí trong mọi tình huống. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập  <br /> sinh hoạt  ở  nhà trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để  đạt  <br /> được điều đó, bản thân tôi cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên <br /> tục trong suốt quá trình giảng dạy, nâng dần kĩ năng giao tiếp – tự nhận thức cho <br /> các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép, cảm ơn, xin lỗi, <br /> … Biết cảm thông cảm chia sẻ buồn vui với mọi người . Giáo dục kĩ năng sống  <br /> cho học sinh dân tộc thiểu số  lại càng cần thiết bởi hầu hết các em chưa có khả <br /> năng: Tự  phục vụ, tự  quản; Giao tiếp, hợp tác; Tự  học và giải quyết vấn đề <br /> hiệu quả; Chăm học, chăm làm, tích Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung <br /> thực, kỷ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn bè và những người khác. Bên cạnh đó <br /> cần trang bị  cho học sịnh các kỹ  năng cần thiết cho cuộc sống hiện nay: đề <br /> phòng hỏa hoạn, phòng đuối nước, tự bảo vệ bản thân, phòng tránh bị xâm hại, <br /> phòng tránh tai nạn giao thông, tai nạn thương tích.....Giúp những em có thói <br /> quen xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho  <br /> xã hội sau này.<br /> 4. Biện pháp 4: Thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp, hoạt  <br /> động Đội, trong và ngoài nhà trường để quản lý và giáo dục học sinh.<br /> Hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp (HĐGD NGLL) là một bộ  phận của <br /> quá trình giáo dục  ở  nhà trường phổ  thông nói chung và trường Tiểu học nói <br /> riêng. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn học văn hoá ở <br /> trên lớp. HĐGD NGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là cầu nối gắn <br /> lí thuyết với thực tiễn và đời sống xã hội, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức <br /> với hành động, góp phần hình thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở học sinh. <br />          Các nghiên cứu về tâm lí ­ giáo dục cũng cho thấy, nhiều nét tính cách cơ <br /> bản của con người được hình thành trước và trong tuổi học đường. Việc tham <br /> gia vào nhiều hoạt động GDNGLL phong phú, đa dạng sẽ  tạo cơ  hội cho HS  <br /> được thể hiện, bộc lộ, tự khẳng định bản thân; tạo cơ hội cho các em được giao <br /> lưu, học hỏi bạn bè và mọi người xung quanh; tạo cơ hội thuận lợi cho HS được <br /> tham gia một cách tích cực vào đời sống cộng đồng … Từ  đó sẽ  tác động tích  <br /> cực đến nhận thức, tình cảm, niềm tin và hành vi của HS, giúp các em phát triển  <br /> nhiều phẩm chất tích cực như: tinh thần đồng đội, tinh thần trách nhiệm, lòng  <br /> nhân ái, khoan dung, sự cảm thông, tính kỉ luật, trung thực, mạnh dạn, tự tin,…<br /> 12<br /> và giúp các em phát triển những kĩ năng hoạt động tập thể  và kĩ năng sống cơ <br /> bản như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng  <br /> ra quyết định và giải quyết vấn đề, kĩ năng kiên định, kĩ năng tư duy phê phán, tư <br /> duy sáng tạo, kĩ năng  ứng phó với căng thẳng, kĩ năng thương lượng, kĩ năng <br /> hợp tác, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng quản <br /> lí thời gian, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin...<br />          Thông qua các tiết HĐGD NGLL tôi luôn vạch ra kế  hoạch cho tiết dạy  <br /> bằng những hình thức phong phú như: hát, múa, đọc thơ, thi kể chuyện, trò chơi <br /> theo từng chủ điểm, các hoạt động này góp phần hình thành cho các em kĩ năng  <br /> mạnh dạn, tự  tin trước đám đông. Trong giờ  học, tôi luôn tạo cho cho các em <br /> bầu không khí thân thiện, cởi mở, tạo cơ  hội cho các em được nói, được trình <br /> bày trước nhóm bạn, trước tập thể nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao  <br /> tiếp kém, động viên, khuyến khích các em bày tỏ  quan điểm cá nhân, độc lập  <br /> trong tư duy.<br /> Hoạt động lao động công ích đây là một hoạt động đặc trưng của HĐNG <br /> LL Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội, biết <br /> yêu lao động từ đó trở thành người có ích cho xã hội  chính vì vậy tôi luôn cùng <br /> các em quét lớp, nhặt rác, nhổ cỏ, rửa tay, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh, chỉ các em  <br /> cách đi vệ sinh và giữ gìn vệ sinh, … Khi có giáo viên cùng làm, các em làm việc  <br /> nghiêm túc hơn, tự giác hơn và rất có hiệu quả. Tôi luôn lắng nghe những tâm tư <br /> tình cảm của các em để từ đó có hướng giáo dục tốt nhất.  Qua đó tôi đã rèn cho <br /> học sinh các kỹ năng như  vệ  sinh cá nhân, kỹ  năng giao tiếp. Đây là hoạt động <br /> cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh, sau này dù có rơi vào <br /> hoàn cảnh khắc nghiệt nào các em vẫn có thể tồn tại được đó là nhờ các em biết  <br /> lao động.<br />         Tổ chức Đội trong nhà trường là một tổ chức quần chúng rộng rãi tập hợp  <br /> tất cả các em học sinh ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng. Vì thế, nhu cầu mở rộng  <br /> phạm vi, môi trường hoạt động tập thể  đa dạng hơn, phong phú hơn và sinh  <br /> động lý thú hơn là rất cần thiết. Tổ  chức Đội với những hoạt động bổ  ích đã <br /> thực sự  đáp  ứng được nhu cầu chính đáng đó của các em. Với các chủ  đề, chủ <br /> điểm thi đua phù hợp với lứa tuổi, sinh động và hấp dẫn cho các em, phong trào <br /> hoạt động Đội trong và ngoài nhà trường đã thu hút và lôi cuốn các em một cách  <br /> lành mạnh, có tác dụng tích cực cho việc hình thành nhân cách của các em. Chính <br /> vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải “trẻ hoá” để  cùng am hiểu tường tận về <br /> tổ  chức Đội, cùng tham gia hoạt động vui chơi với các em, cùng hoà nhập để <br /> hiểu hơn tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của các em để  từ  đó mà thông cảm <br /> hơn, yêu thương hơn, hiểu hơn và có trách nhiệm nhiều với các em học sinh lớp  <br /> mình phụ  trách, mới thực sự  trở  thành người mẹ, người cha, người chị, người <br /> anh gần gũi thân thiết của các em  để  công tác giáo dục đạo đức học sinh đạt <br /> hiệu quả hơn.<br /> 13<br />        Thành lập đội sao đỏ theo dõi chấm điểm thi đua và báo cáo kịp thời các bạn  <br /> vi phạm nội quy của nhà trường để thầy cô giáo chủ nhiệm cùng với thầy Tổng <br /> phụ trách kịp thời chấn chỉnh.<br />        Hàng tháng liên đội phải tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống đạo  <br /> đức, các hoạt động vui chơi nhằm thu hút các em tham gia và tạo luồng sinh khí <br /> mới trong học tập như: Hội thi văn nghệ, tổ chức đố vui để học, tổ chức các trò <br /> chơi dân gian, các hoạt động thể thao, các hoạt động ngoại khoá khác ...<br />              Như  chúng ta đã biết, Đội là nơi giúp trẻ  phát triển một cách toàn diện. <br /> Nhiều khi học sinh thích được tham gia hoạt động Đội hơn là các hoạt động học  <br /> tập, bởi  ở đó các em được tham gia các trò chơi, được chạy nhảy, và rất nhiều <br /> hoạt động khác nữa.<br />        Cũng chính bởi lý do trên, hằng tuần, tôi luôn trao đổi với cô tổng phụ trách <br /> về  nội dung, phương pháp và kết quả  các hoạt động giáo dục học sinh. Đồng <br /> thời, tôi còn nhờ  thầy kiểm tra, nhắc nhở  các mặt giáo dục học sinh của bản  <br /> thân.<br />        Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi luôn cố gắng rèn cho học sinh  <br /> những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét sự tiến bộ của học sinh trong  <br /> nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong  <br /> mọi trường hợp.<br />  IV. Tính mới của giải pháp<br />         Trong năm học vừa qua, nhiều trường cũng chú trọng rèn KNS cho học sinh,  <br /> nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay. Kỹ năng <br /> sống sẽ  hình thành một cách tự  nhiên và hiệu quả  trong môi trường hoạt động  <br /> cụ  thể, chứ  không từ  các bài giảng trên lớp, chỉ  từ  các bài giảng các em không <br /> thể tự hình thành kỹ năng sống cho mình mà chỉ có thể hình dung chung về nó.<br />         Hơn nữa, việc giáo dục kỹ  năng sống không phải là sự  áp đặt. Giáo viên  <br /> giảng dạy phải có kiến thức tâm lí, kỹ  năng sống, chứ  không nên kiêm nhiệm <br /> hay dạy theo ngẫu hứng và quan trọng hơn hết là cần có sự  phối hợp giữa gia  <br /> đình, nhà trường và xã hội.<br />        Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của <br /> xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện  <br /> những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, <br /> tích cực, vui vẻ .Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số <br /> qua môn đạo đức ngay từ lớp nhỏ  sẽ  rút ngắn thời gian để  trang bị  cho các em  <br /> vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị  sống để  làm hành trang bước vào đời. Chính vì <br /> vậy, các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Vì thế theo tôi  <br /> để  làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh qua môn đạo đức, mỗi thầy cô <br /> giáo cần phải: <br />         ­ Mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt chuẩn mực, phải  <br /> hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.<br /> 14<br />          ­ Nắm vững những đặc trưng về  phương pháp và hình thức tổ  chức dạy <br /> phong phú, đa dạng lồng ghép các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và <br /> các hoạt động khác.<br />          ­ Tập trung vào việc đầu tư  sọan giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các  <br /> môn học.<br />         ­ Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia  <br /> tốt các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.<br />         Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà tôi luôn cố gắng để <br /> ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của <br /> đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc, là nhân <br /> tố  để cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng <br /> trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng <br /> mà mỗi giáo viên chúng tôi phải cùng có trách nhiệm.<br /> V. Hiệu quả Sáng kiến kinh nghiệm <br /> Từ những khó khăn nhất định khi tôi nhận lớp 1C là đa số các em khá rụt rè  <br /> chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em <br /> nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và không nói lời cảm  ơn,  <br /> xin lỗi với thầy cô, ban bè. <br />          Nhờ  vận dụng các phươ ng pháp giảng dạy như  đã trình bày  ở  trên, đến <br /> giữa học kì II, tôi thấy các em có tiến bộ rõ rệt, các em đã cởi mở hơn, thích thú <br /> bày tỏ  ý kiến hơn và quan trọng nhất đó là qua giờ  đạo đức học sinh nắm bắt <br /> được những tri thức sơ đẳng, những cần thiết về các chuẩn mực đạo đức, việc  <br /> sinh hoạt  ở lớp cung nh ̃ ư  ở nha, trong viêc giao tiêp băng l<br /> ̀ ̣ ́ ̀ ời nói các em đã biết  <br /> nói lời thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi... đã trở thành <br /> thói quen, được các em vận dụng hằng ngày. Kĩ năng giao tiếp ,ứng xử của học  <br /> sinh tiến bộ rõ rệt. Một số học sinh đầu năm còn rụt rè nay đã trở nên tự tin thể <br /> hiện mình trước lớp trong việc trình bày suy nghĩ và phát biểu ý kiến .<br /> ̣<br />        Thông qua day môn Đao đ ̣ ức tôi luôn kêt h́ ợp giao duc hoc sinh ren ky năng<br /> ́ ̣ ̣ ̀ ̃  <br /> sông nh<br /> ́ ơ vây ma cac em t<br /> ̀ ̣ ̀ ́ ự tin hơn va đăc biêt cac em ch<br /> ̀ ̣ ̣ ́ ủ yếu là hoc sinh dân t<br /> ̣ ộc  <br /> thiểu số, gia đình khó khăn nên ban thân cac em đa t<br /> ̉ ́ ̃ ự minh lam lây môt sô công<br /> ̀ ̀ ́ ̣ ́  <br /> viêc ṭ ự phuc vu cho minh ma không cân nh<br /> ̣ ̣ ̀ ̀ ̀ ờ va bô me nh<br /> ̉ ́ ̣ ư: rửa ly chen, quet nha,<br /> ́ ́ ̀ <br /> ́ ơm, rửa bat, trông em,..<br /> nâu c ́<br /> Tỉ  lệ  học sinh có  các kỹ  năng tự  phục vụ, tự  quản, giao tiếp, hợp tác, tự <br /> học, ... tăng dần. Cụ thể như sau:<br /> Năm TS Trước khi áp dụng Sau khi áp dụng<br /> học HS<br /> Biết nói  Bạo  Ngại giao  Học sinh  Biết nói  Bạo  Ngại giao  Học sinh học <br /> năng lễ  dạn  tiếp, trầm  học hòa 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0