intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số kinh nghiệm trong chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy

Chia sẻ: Lê Thị Diễm Hương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

750
lượt xem
120
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến “Một số kinh nghiệm trong chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy” nghiên cứu lí luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở trường học. Tìm hiểu thực trạng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học trong những năm qua, đặc biệt trong năm học 2008- 2009 ở trường TH số 1 Kiến Giang. Hệ thống hoá và đề xuất các biện pháp chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số kinh nghiệm trong chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG CHỈ ĐẠO ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY HỌC GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY
  2. Phần đặt vấn đề: 1. Lí do chọn đề tài: Trong thời kì đất nước Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Công nghệ thông tin có một vai trò cực kì quan trọng: Internet và Công nghệ thông tin đang góp phần làm thay đổi cuộc sống, “ Mọi người ở bất kì lứa tuổi nào, nếu được tiếp cận với Internet và Công nghệ thông tin có thể học được cách thích ứng với hoàn cảnh thay đổi “. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Cần phải ứng dụng CNTT để nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý. Chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình,mục đích của mình. Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giaó dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”. Thực hiện tinh thần chỉ đạo trên của Bộ giáo dục, Sở giáo dục và đào tạo, nhận thức được rằng, việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất trong việc đổi mới phương pháp dạy học và chắc chắn sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhà trường phổ thông trong một vài năm tới. Trong những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT đã rất phổ biến ở Việt Nam. Cùng với sự đi lên của xã hội, ngành Giáo dục cũng mạnh dạn đưa ứng dụng CNTT vào dạy học. CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung và phương pháp dạy học. Mặt khác, ngành Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. CNTT là phương tiện để giúp chúng ta tiến tới một “ xã hội học tập”. Bởi vậy, trong năm học 2008-2009 này, Bộ Giáo dục&đào tạo đã xác định: Phải đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong trường học để tạo bước đột phá về ứng dụng CNTT trong giáo dục và tạo tiền đề phát triển CNTT trong những năm tiếp theo. Năm học 2008-2009 được xác định là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lí tài chính và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Trong năm học này, Phòng Giáo dục- Đào tạo Lệ Thuỷ đã có kế hoạch: “ Đẩy mạnh vận dụng Công nghệ thông tin giai đoạn 2008-2010,
  3. hưởng ứng Chủ đề năm học của Bộ Giáo dục-Đào tạo”. Bản kế hoạch này như luồng gió mới thúc đẩy phong trào ứng dụng Công nghệ thông tin của các trường học nói chung và trường Tiểu học số 1 Kiến Giang nói riêng. Nên việc đưa ứng dụng CNTT vào trường học là việc làm cần thiết và đúng đắn. Trong công tác giảng dạy, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp dạy và học. Nhờ đó mà học sinh hứng thú học tập hơn, kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn. Nhưng làm thế nào để chỉ đạo ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy? Đó là vấn đề mà bất cứ một nhà trường nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Với những lí do trên cùng với ham muốn học hỏi, muốn có cơ hội để tích luỹ thêm kinh nghiệm cho bản thân đã thôi thúc tôi chọn vấn đề “Một số kinh nghiệm trong chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình với mong muốn góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất luợng dạy học ở bậc tiểu học nói chung cũng như ở trường tiểu học số 1 Kiến Giang nói riêng. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu lí luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở trường học. - Tìm hiểu thực trạng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học trong những năm qua, đặc biệt trong năm học 2008- 2009 ở trường TH số 1 Kiến Giang. - Hệ thống hoá và đề xuất các biện pháp chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường. 3. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp chỉ đạo công tác biện pháp chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở trường TH số 1 Kiến Giang. 4. Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện thời gian và khuôn khổ của đề tài, tôi chỉ nghiên cứu việc chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học từ năm học 2007 -2008 cho đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu: *Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: - Nghiên cứu các tài liệu, các văn bản của Bộ GD&ĐT,của Sở GD&ĐT, của PHòng GD&ĐT, các tạp chí, các tài liệu có liên quan đến công nghệ thông tin. *Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp quan sát
  4. - Phương pháp điều tra - Phương pháp Chuyên gia - Phương pháp toạ đàm trao đổi. Phần nội dung I/ cơ sở lí luận và các vấn đề liên quan: 1. Đặc điểm tâm sinh lý của HS tiểu học: Học sinh tiểu học còn nhỏ, nên quá trình nhận thức thường gắn với những hình ảnh, hoạt động cụ thể. Bởi vậy các phương tiện trực quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy. Đặt biệt là các phương tiện trực quan sinh động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Trong những tiết học có đồ dùng trực quan đẹp, rõ nét học sinh sẽ chú ý đến bài giảng hơn và kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn. Đặc biệt đối với các môn học không có nhiều tranh ảnh như môn Toán, mô Âm nhạc,...Với những môn học này, việc ứng dụng CNTT lại càng cần thiết. Ngoài bộ đồ dùng dạy và học toán chỉ là những con số và các bài toán và những hình vẽ. Thế nhưng, những con số, những bài toán và những hình vẽ nếu đưa lên màn hình lớn với sự nhấn mạnh bằng cách đổi màu chữ hay gạch chân sẽ có hiệu quả hơn. Những nốt nhạc, những dụng cụ đan tộc khi được đưa lên màn hình sẽ có sức thuyết phục rất lớn. 2. Các yêu cầu cần thiết khi áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học: Mặc dù công nghệ thông tin chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ biến nhưng bước đầu nó đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc áp dụng công nghệ thông tin ( soạn bài, trình chiếu,..) sẽ giúp người thầy đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra, muốn click chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ công tìm hiểu, làm quen với cách giảng bài mới này. Cụ thể, người thầy cần phải: - Có một ít kiến thức về sử dụng máy tính - Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint - Biết cách truy cập Internet - Có khả năng sử dụng một phần mềm chỉnh sửa ảnh, làm các ảnh động, cắt các file âm thanh - Biết cách sử dụng projector Thoạt nghe thì có vẻ phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng CNTT vào giảng dạy có bắt buộc phải thực hiện hết những yêu cầu trên? Câu trả lời là không. Tuỳ thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho các giáo viên. Tuy nhiên nếu đáp ứng được các nhu cầu trên thì thật tuyệt vời.
  5. Tại sao lại đặt ra các yêu cầu như trên? Chúng ta thử tưởng tượng xem nếu một người không có khái niệm gì về CNTT liệu họ có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc? Liệu họ có biết được tài liệu của mình ở đâu trên máy tính? Cách copy tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay xoá một tài liệu nào đó khi không còn dùng?... Nghĩa là dù ít hay nhiều họ cũng phải sử dụng được chiếc máy tính theo ý muốn của mình. Thứ hai, từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình bày lại trên bảng đen, làm thế nào để chúng trở thành các GAĐT được trình bày trên màn chiếu? Điều này đòi hỏi người thầy phải biết sử dụng PowerPoint. Đây là một phần mềm nằm trong bộ MS Office dùng để tạo các trình diễn đa dạng trên máy tính. Nếu chỉ dừng ở mức độ gõ những nội dung cần thiết cộng thêm một ít định dạng về màu sắc, font chữ, chúng tôi thiết nghĩ giáo viên nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên nếu chỉ có thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của PowerPoint cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ngoài những nội dung trên, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao tác cơ bản nhất đòi hỏi người thầy phải nắm được là cách thiết lập các hiệu ứng để làm cho bài giảng sinh động, mang lại không khí học tập, giảng dạy mới mẻ. Các hiệu ứng này là gì? Đó chính là các hoạt ảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh...) được thiết lập có thứ tự.Có thể dòng chữ này xuất hiện trước dòng chữ kia hay khi dòng chữ này xuất hiện từ dưới lên, khi từ trên rơi xuống...Chẳng hạn, trong giờ học toán, khi tổ chức trò chơi, giáo viên cho học sinh đoán kết quả trước, sau đó mới hiển thị kết quả trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời tăng khả năng tư duy cuả học sinh. Ngoài ra, đặc điểm này giúp cho giáo viên tiết kiệm được thời gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu, giáo viên giảng đến đó, làm cho thời gian giảng bài nhiều hơn, các em học sinh hiểu bài sâu hơn. Đối với các môn học như Lịch sử, Địa lý, bài giảng thường đi kèm với nhiều hình minh họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng hay hình ảnh các vùng kinh tế, diện tích lãnh thổ của vùng văn hóa nào đó... Nếu chỉ trình bày suông, chúng tôi nghĩ cũng chẳng có vấn đề gì cả, nhưng tại sao khi chúng ta đã chấp nhận làm GAĐT chúng ta lại không làm bài tập phong phú hơn? Hiện tại những hình ảnh minh họa cho các nội dung nói trên tương đối nhiều trên Internet. Chúng tôi thiết nghĩ, nếu chỉ cần bỏ chút thời gian mà có được những nội dung, hình ảnh cần minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều này cũng đồng nghĩa với việc giáo viên cần biết cách thức truy cập Internet để lấy thông tin. Tuy nhiên, không phải hình ảnh nào chúng ta lấy từ Internet đều thỏa mãn ý muốn của chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta cần hình ảnh của một hình lập phương để minh họa trong giờ học toán nhưng hình ảnh chúng ta lấy từ internet lại quá nhỏ hay nó lại nằm chung với một hình khác. Như vậy chúng ta bó tay, không cần minh họa hay vẽ lên bảng hay tìm một hình khác cho đến khi vừa ý? Không, giải pháp đơn giản hơn là chúng ta có thể phóng to hình này lên hay xén lại hình để chỉ lấy phần hình thoi. Hay để tăng thêm
  6. tính thuyết phục, tính chất thực của các sự kiện, giáo viên dạy Lịch sử có thể thông qua các đoạn phim tư liệu... Vậy chúng ta thực hiện các công việc trên bằng cách nào? Điều này đòi hỏi giáo viên cần biết một ít kỹ thuật để xử lý màu sắc, cắt xén ảnh, các đoạn phim, đoạn nhạc một cách hợp lý. Hoặc trong giờ học Ngoại ngữ, giáo viên có thể lấy các hình ảnh minh họa và cho các em nghe các bài đọc của người bản xứ. Có như thế bài giảng sẽ sinh động hẳn, các em lại nhớ được các từ vựng và phát âm chuẩn hơn. Có thể đây là thao tác tương đối phức tạp nhưng nó mang lại tính hiệu quả cao trong công tác giảng dạy . Bài giảng sau khi thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua máy chiếu. Nghĩa là dù muốn hay không giáo viên buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên, chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với CPU của máy tính và điều chỉnh độ lớn, độ nét trên màn hình giáo viên chắc hẳn sẽ có một bài giảng chất lượng, học trò sẽ có không khí học thoải mái hơn. 3. Những trở ngại khi sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học: Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhièu thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát hiệu quả từ phía HS cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của phương pháp Nhìn - Nghe lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế, đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn. Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một GAĐT tốt, từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện dạy bằng CNTT. Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu cầu. Tức là chỉ có thao giảng mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này. ii/ cơ sở thực tiễn và thực trạng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở trường tiểu học số 1 kiến giang hiện nay : 1. Đặc điểm tình hình:
  7. Trường tiểu học số 1 Kiến Giang nằm giữa trung tâm của huyện Lệ Thuỷ với hệ thống giao thông đi lại vô cùng thuận lợi. Trường luôn được sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ của lãnh đạo Ngành, địa phương với nhiệm vụ xây dựng lá cờ đầu của cấp học. Cơ sở vật chất của trường ngày một khang trang, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu dạy và học của trường chuẩn quốc gia mức độ II. Năm học 2008 - 2009 này, trường có tất cả 10 lớp với 307 học sinh. Tất cả các học sinh nói chung đều được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, của đội ngũ giáo viên. Ban giám hiệu luôn chỉ đạo, theo dõi sâu sát tất cả các vấn đề về chương trình, về thời gian lên lớp, về chất lượng học tập, về sự tiến bộ của học sinh. Đặc biệt, nhà trường rất quan tâm đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, vấn đề rèn luyện cho các em tất cả các kĩ năng cơ bản, giúp các em phát triển toàn diện. Bên cạnh đó, phải kể đến sự hậu thuẫn rất chắc chắn của phụ huynh học sinh. Đa số phụ huynh rất quan tâm, chăm lo đến vấn đề học hành của con em họ. Học sinh đi học có đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập. Các em rất ngoan, lễ phép với thầy cô, học hành chăm chỉ, tiến bộ. Tuy vậy, bên cạnh những mặt thuận lợi cơ bản, việc dạy và học trong nhà trường vẫn còn một số khó khăn. Đội ngũ cán bộ quản lý trong năm có sự xáo động: đồng chí Hiệu trưởng về nghỉ hưu, đồng chí hiệu phó lên đảm nhận cương vị phụ trách trường. Đội ngũ giáo viên có 01 đồng chí nghỉ sinh dài ngày ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ dạy học của nhà trường, 02 đồng chí con ốm đau nhiều, phải đi bệnh viện tuyến trên. Một số gia đình hoàn cảnh khó khăn, hoặc do công việc làm ăn của mình nên rất ít quan tâm đến việc học hành của con cái, phó mặc việc học của con cho nhà trường... 2.Thực trạng vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin ở trường tiểu học số 1 Kiến Giang trước năm học 2007- 2008: * Về đội ngũ: -100% cán bộ, giáo viên đạt trình độ đào tạo trên chuẩn, có chứng chỉ Tin học văn phòng, biết sử dụng máy tính, được bồi dưỡng soạn giáo án từ năm học trước. - Tập thể sư phạm có ý thức học hỏi chuyên môn nghiệp vụ, phấn đấu vươn lên (đặc biệt là trên lĩnh vực Công nghệ thông tin ). Tồn tại về đội ngũ: - Nhận thức của một bộ phận cán bộ - giáo viên- nhân viên chưa đầy đủ, chưa sẵn sàng hưởng ứng chủ đề năm học và kế hoạch đẩy mạnh vận dụng Công nghệ thông tin của Ngành: Ngại làm việc với máy tính, thoả mãn với phương pháp dạy học cũ và những thành quả đạt được... - Nhiều giáo viên có chứng chỉ Tin học nhưng sử dụng máy tính rất hạn chế : trình bày văn bản, đánh máy còn rất chậm nhất là phần Excel, PowerPoint. - Chưa có cán bộ -giáo viên có đủ trình độ Tin học, làm ‘kỹ thuật viên” giúp giáo viên xử lí khi máy có sự cố, bồi dưỡng thêm môn Tin học. * Về cơ sở vật chất, trang thiết bị:
  8. - Trường đã có 16 máy tính (01 máy xách tay), 02 máy chiếu, 01 máy Pôtôcoppi, đã kết nối Internet (1máy) phục vụ cho công tác quản lí, dạy học và bồi dưỡng giáo viên. - Đã tổ chức dạy học môn tự chọn Tin học từ năm học 2005-2006, giáo viên có điều kiện tiếp xúc làm quen với máy tính. - Có 15/23 cán bộ, giáo viên, nhân viên có máy tính ở gia đình đạt 65.2%. Tồn tại về cơ sở vật chất: - Số máy tính ở phòng máy còn ít (10 máy) - Hệ thống điện không tải đủ cho mọi hoạt động ở trường. * Về thực trạng sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học: Từ năm học 2006-2007, công nghệ thông tin đã được nhiều giáo viên đón nhận một cách tích cực, bởi nó tạo ra một không khí học tập sôi nổi, thu hút sự chú ý của học sinh, học sinh thực sự làm chủ trong tiết học.Khi dạy bằng giáo án điện tử giáo viên đỡ vất vả hơn nhiều. Thay bằng các thao tác gắn đồ dùng lên bảng, giáo viên chỉ cần kích chuột là có. Dạy bằng giáo án điện tử còn tránh được tình trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và tháo đồ dùng dạy học. Khi sử dụng giáo án điện tử giáo viên có thể thiết kế bài học như sách giáo khoa, không cần in tranh ảnh tốn tiền, mất thơi gian mà hình ảnh lại nhỏ không rõ nét như khi đưa lên màn hình lớn. Những từ ngữ trọng tâm trong bài ta có thể đổi màu hoặc gạch chân sẽ giúp học sinh hiểu bài hơn. Ngoài ra, GV có thể lấy nhiều hình ảnh trên mạng làm bài giảng phong phú hơn. HS rất thích thú học. Tuy nhiên, một số GV đã đúng tuổi, trình độ vi tính còn hạn chế rất vất vả khi sử dụng công nghệ thông tin vào bài học. GV ngại soạn bài bàng giáo án điện tử bởi thao tác chưa thuần thục, mất quá nhiều thời gian cho phần thiết kế bài dạy. Tâm trạng chung của GV chưa thật hào hứng, chưa thật tự nguyện. iii. biện pháp chỉ đạo công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học của trường tiểu học số 1 kiến giang. Từ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng của công tác sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học trong nhà trường, tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp chỉ đạo như sau: Biện pháp 1: Làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo địa phương: Là một trường trung tâm, có nhiều điều kiện thuận lợi, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học trong nhà trường là rất cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, đây là một việc làm rất mới mẽ, đòi hỏi nhà trường phải nỗ lực rất nhiều trong công tác tham mưu với các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương. Nhà trường xem đây là một “động lực” hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất phục vụ dạy tốt-học tốt. Phương châm của nhà trường là: Tích cực tham mưu, chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy, nắm bắt thời cơ. Nội dung tham mưu là những nhu cầu cần
  9. thiết, những khó khăn vướng mắc của nhà trường về cơ sở vật chất liên quan Công nghệ thông tin. Để công tác tham mưu đạt kết quả cao, nhà trường bám sát Chỉ thị, công văn của Bộ GD-ĐT, của Sở GD-ĐT và của Phòng GD&ĐT huyện về hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Vì thế, trong kế hoạch phát triển giáo dục đã có sự ưu tiên mua sắm trang thiết bị về Công nghệ thông tin. Song song bên cạnh đó, nhà trường nâng cao công tác tuyên truyền sâu rộng trong cha mẹ học sinh, cộng đồng xã hội để tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh, thuận lợi, thống nhất về mục tiêu giáo dục, huy đọng các nguồn lực. Nhà trường đã đưa hoạt động chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học vào Nghị quyết của Nhà trường. Tăng cường làm ảnh hưởng sâu rộng của công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tới Đảng, Chính quyền và các tổ chức đoàn thể, tổ chức kinh tế và cộng đồng xã hội. Tranh thủ sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân và sử dụng các nguồn vốn ủng hộ có hiệu quả. Biện pháp 2: Nâng cao nhận thức cho tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên về tầm quan trọng của Công nghệ thông tin trong việc cập nhật, bổ sung kiến thức và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ( đặc biệt là chất lượng dạy học trên lớp): Ngay từ đầu năm học, nhà trường đã tổ chức cho đội ngũ học tập : Kế hoạch đẩy mạnh vận dụng Công nghệ thông tin, hưởng ứng chủ đề năm học của phòng Giáo dục-Đào tạo Lệ Thuỷ và góp ý xây dựng kế hoạch thực hiện của nhà trường. Sau học tập mỗi cá nhân đăng kí hướng phấn đấu của mình: về năng lực, về kỹ năng sử dụng máy tính, mua sắm máy tính và văn bằng chứng chỉ Tin học ( tạo được sự thông cảm, giúp nhau vươn lên trên lĩnh vực Công nghệ thông tin. Vì đây là lĩnh vực mới). Biện pháp 3: Chỉ đạo, quản lý chặt chẽ, thấu đáo vấn đề đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đặt rõ mục tiêu cho từng đối tượng trong nhà trường: Trong ban giám hiệu phân công rõ người rõ việc: Hiệu trưởng là người phụ trách chung. Phó hiệu trưởng thứ nhất phụ trách cơ sở vật chất, trực tiếp chỉ đạo, bảo quản, khai thác và sử dụng internet. Phó hiệu trưởng thứ hai trực tiếp chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Đối với cán bộ quản lý: Yêu cầu đặt ra: Phải sử dụng thành thạo chương trình Word, chương trình Power Point để chỉ đạo đội ngũ; thiết lập bộ hồ sơ quản lý trên máy; sử dụng mạng Lan để trao đổi thông tin, lập hộp thư điện tử cá nhân để khai thác thông tin trên mạng (đặc biệt là trang Webmail của phòng GD); tuyển chọn, hợp đồng giáo viên dạy tin học phải đạt trình độ đào tạo trở lên, có năng lực sử dụng các chương trình máy tính thành thạo, làm nòng cốt trong công tác bồi dưỡng tin học cho GV. Đối với tập thể giáo viên đứng lớp: 100% thiết kế bài dạy trên máy và sử dụng thành thạo giáo án điện tử; ngoài thời gian tự bồi dưỡng trình độ vi tính ở nhà, giáo viên tham gia bồi dưỡng thêm 1 buổi/ tháng ở trường ( do
  10. GV dạy tin học hướng dẫn) và bồi dưỡng dài hạn trong dịp hè ( tháng 8 hàng năm, có làm bài kiểm tra theo từng phần: Word, Excel, Power Point để ban giám hiệu đánh giá sự tiến bộ của GV qua hàng năm). Các tiết dự giờ có báo trước, các tiết thao giảng hàng tuần, các tiết dự thi giáo viên dạy giỏi cấp trường đều phải sử dụng công nghệ thông tin. Ngoài ra, mỗi tháng, mỗi GV phải có ít nhất 1 giáo án điện tử để cốp vào USB của nhà trường làm kho tư liệu dùng chung. Từ 16 giờ 15 phút hàng ngày, GV được phép khai thác internet ở tất cả các máy của nhà trường. Đối với Thư viện thiết bị: Cập nhất tất cả các số liệu thư viện thiết bị, các tên sách vào máy để cập nhật hằng ngày. Nhân viên thư viện phải tự bồi dưỡng về trình dộ tin học, trình độ truy cập Internet để hướng dẫn học sinh truy cập Internet vào chiều thứ tư và thứ 7 hàng tuần. Đối với học sinh: 100% học sinh từ lớp 3 trở lên được học tin học. Phấn đấu trong năm học 2008-2009 có ít nhất 50% học sinh lớp 3,4,5 được tiệm cận các hoạt động Internet. Vào thứ 4 và thứ 7 hàng tuần tổ chức cho học sinh tiếp cận khai thác Internet( Tại phòng thư viện thiết vị, theo lịch hàng tuần của trường). Cán bộ thư viện phải chịu trách nhiệm hướng dẫn học sinh khai thác đúng địa chỉ. Biện pháp 4: Tăng cường công tác chỉ đạo vấn đề bồi dưỡng, tự bồi dưỡng công nghệ thông tin của đội ngũ , đặc biệt là vấn đề soạn và trình chiếu giáo án điện tử. Hiện tại, nhiều trường đã áp dụng GAĐT trong các giờ dạy. Nhưng vấn đề là chúng ta có nghĩ đến việc áp dụng như thế đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa? Nếu chưa thì áp dụng thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT. Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang các slide trình diễn, giáo viên thường mang tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là chúng ta nghĩ chúng ta sẽ trình bày những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế học sinh sẽ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài. Chúng ta cần nhớ một điều: Slide là nơi chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng. Tuỳ theo từng môn học, chúng ta có thể bổ xung các công thức, hình ảnh minh hoạ một cách hợp lý. Đây là bước mà giáo viên cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học của mình để xây dựng bài giảng. Nếu slide cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay slide kia đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu ý đến số lượng chữ, mầu sắc, kích thước trên các slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muốn trình bày dưới dạng keyword một cách rõ ràng và dễ hiểu. Nhìn vào slide GV có nhiệm vụ giải thích kỹ càng và mở rộng nó ra chứ không phải là đọc các dòng chữ trên slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, GV có thể thấy khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Không sao, GV có thể in ra một bản handout để vừa giảng vừa nhìn vào nó để xác định vấn đề sẽ nói tiếp theo.
  11. Sử dụng GAĐT cũng có nghĩa GA truyền thống được lãng quên. Chúng ta hãy nhìn lại xem trong GA truyền thống chúng ta trình bày những gì. Phải chăng là tất cả nội dung bài giảng ? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số slide, các slide chỉ chứa hình ảnh thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng? Phải chăng GV thích nói nội dung nào trước đều được? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu một GV mới có thể nhớ hết nội dung mình đã chuẩn bị trước buổi dạy? Chính vì vậy, cần chỉ đạo GV xây dựng đề cương giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được giải quyết ngay lập tức. Đề cương này sẽ ghi rõ số tiết dạy của môn học, tên bài giảng tương ứng với các tiết học nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong mỗi tiết học là gì? Vấn đề nào trình bày trước, vấn đề nào trình bày sau? Vấn đề nào cần được trọng tâm và nhấn mạnh? Sở dĩ chúng ta phải chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy là vì nếu tiết giảng dạy đó GV chưa nói hết nội dung các slide hay đã trình bày hết nhưng thời gian còn thừa đồng nghĩa với việc “cháy giáo án” và học trò rất dễ nhận ra. Do đó, xây dựng đề cương một cách hợp lý giáo viên ắt hẳn sẽ không còn băn khoăn gì về cách dạy mới mẻ này. Ngoài ra, nhà trường rất chú ý đến việc lựa chọn GV hợp đồng dạy tin học ( phải thực sự có năng lực, phải nhiệt tình, phải là nồng cốt trong việc bồi dưỡng năng lực tin học cho đội ngũ). Nhà trường ưu tiên bồi dưỡng về Công nghệ thông tin: Soạn giáo án điện tử; chụp ảnh kết nối vào máy tính và đưa vào các slide phù hợp, lập hộp thư điện tử ( chiều thứ tư hàng tuần). Thường xuyên tổ chức cho giáo viên khai thác hộp thư điện tử (webmail) của Phòng GD-ĐT và Internet vào 16h15 hàng ngày; cho học sinh lớp 2-5 đọc báo trên Internet vào chiều thứ tư, thứ bảy. Biện pháp 5: Không ngừng tăng trưởng về cơ sở vật chất phục vụ cho việc đẩy mạng ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. - Tăng trưởng, an toàn trang thiết bị Công nghệ thông tin + Từ tháng 8 đã bổ sung máy tính theo kế hoạch được duyệt, nâng số máy tính lên 18 máy ( Phòng máy có 12 máy) + Khuyến khích cán bộ, giáo viên mua máy tính bằng cách tổ chức “Hội tiết kiệm” mỗi nhóm có 11-12 người. Mức đóng góp hàng tháng 500.000đ/ người, ưu tiên cho những đồng chí khó khăn trước. Bằng cách làm đó đến nay 100% cán bộ, giáo viên có máy tính riêng, nhiều đồng chí đã kết nối mạng Internet. + Cải tạo hệ thống điện đảm bảo an toàn lưới điện cho mọi hoạt động cùng lúc. + Nâng cao trách nhiệm trong công tác bảo vệ, tăng thêm khoá ở các phòng chức năng, tăng thêm đèn bảo vệ; điều chỉnh nội qui cho phù hợp. + Thực hiện nối mạng LAN ( Hiệu trưởng, P.Hiệu trưởng, văn phòng và Thư viện : 05 máy)
  12. Phần kết luận 1. Kết quả đạt được : Sau hai năm áp dụng các biện pháp nêu trên vào dạy học trong nhà trường, tôi tự nhận thấy hiệu quả đạt được rất cao: *Về chất lượng giảng dạy: Chất lượng giờ dạy được sử dụng Công nghệ thông tin luôn đạt cao hơn những tiết dạy học khác ( Công nghệ thông tin làm tăng khả năng tư duy của học sinh, tạo sự hứng khởi mới cho các em, đưa đến tiết học nhẹ nhàng, hiệu quả). 100% học sinh từ lớp 3 trở lên được học môn tự chọn Tin học đạt chất lượng cao; 50% học sinh toàn trường được tiếp cận Internet. Công nghệ thông tin đã lôi kéo học sinh thích đến trường, thích khám phá các điều mới mẽ mà thầy cô đem đến trong từng tiết học. Chất lượng giảng dạy của tất cả các khối lớp ngày một được củng cố vững chắc, thể hiện rõ nét nhất là qua kết quả KTĐK cuối năm học: Chất lượng KTĐK cuối kỳ II, năm học 2008 - 2009: Khối HS Tiếng Việt Toán tham TB trở lên Khá giỏi TB trở lên Khá giỏi gia SL % SL % SL % SL % 1 60 60 100 60 100 60 100 57 95,0 2 61 61 100 60 98,4 61 100 58 95,1 3 70 70 100 70 100 70 100 68 97,1 4 55 54 100 53 98,1 54 100 52 96,3 5 61 61 100 61 100 61 100 60 98,3 TT 307 306 100 304 99,3 306 100 295 96,4 Kết quả chất lượng cuối năm 2008- 2009: TT Môn Khối TSH Tham Giỏi(9 - 10) Khá(7 - 8) TB(5-6) Yếu( 1-4) S gia SL % SL % SL % S % L 1 Toán 1 36 60,0 21 35,0 2 3,3 1 1,7 60 60 TViệt 29 48,3 30 50,0 1 1,7 2 Toán 2 37 60,7 22 36,1 2 3,2 61 61 TViệt 20 32,8 38 62,3 3 4,9 3 Toán 32 45,7 36 51,4 2 2,9 70 70 TViệt 3 25 35,7 42 60,0 3 4,3 Toán 15 27,8 27 50,0 12 21,8 01 1,8 55 55 4 TViệt 4 15 27,8 33 60,0 7 13,0 Toán 17 27,9 27 44,3 17 27,8 5 TViệt 5 61 61 16 26,2 44 72,1 1 1,7
  13. Toán TOÀN 307 307 137 44,6 133 43,3 35 11,4 02 0,7 TRƯỜNG 6 TViệt 105 34,2 187 60,9 15 4,9 Kết quả chuyển giao chất lượng cuối năm lớp 5 : 100% học sinh đủ điều kiện lên lớp 6, trong đó 98,4 % đạt loại giỏi, khá. * Xếp loại chất lượng học lực cuối năm: TT Khối TSHS HỌC LỰC GHI CHÚ lớp HS GIỎI SH TTIẾN CÒN LẠI SL % SL % SL % 1 1 60 28 46,7 10 15,0 23 38,3 2 2 61 19 31,1 19 31,1 23 37,8 3 3 70 22 31,4 13 18,6 35 50,0 4 4 55 10 18,2 27 49,1 18 32,7 5 5 61 08 13,1 30 49,2 23 37,7 T. TRƯỜNG 307 87 28,3 99 31,9 122 39,7 So với chất lượng cuối năm 2007- 2008: Học sinh giỏi tăng 07 em Học sinh tiên tiến tăng 01 em. . * Về đội ngũ GV: 100% giáo viên có máy tính riêng, biết sử dụng thành thạo máy tính: lập các loại hồ sơ và lưu giữ, soạn giáo án trên máy và soạn giáo án điện tử, sử dụng giáo án điện tử vào dạy học; biết chụp ảnh kết nối vào bài soạn làm phong phú thêm giờ dạy. Riêng những tiết thao giảng, kiểm tra toàn diện, thi giáo viên dạy giỏi cấp trường thực hiện giáo án điện tử 100%). Số tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin trong năm học: 210 tiết 100% giáo viên đều biết khai thác, sử dụng Internet tìm tư liệu nâng cao hiệu quả công tác. Số tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin trong năm học tăng lên đáng kể( 210 tiết). 2. Bài học kinh nghiệm: Từ thực tiễn chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học trong những năm qua, tôi đã đúc rút lại ngắn gọn thành các biện pháp sau: + Quán triệt và nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong dạy học, đặc biệt là ở bậc tiểu học. + Xây dựng kế hoạch chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin cụ thể ngay từ đầu năm học. + Làm tốt công tác tham mưu với các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương. Bởi khi các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương thông suốt, thấu hiểu tầm quan trọng của CNTT sẽ hỗ trợ tích cực cho nhà trường trong vấn đề trưởng cơ sở vật chất, trang thiết bị.
  14. + Chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng trong đội ngũ. + Hợp đồng GV dạy tin học phải có sự lựa chọn kĩ càng.(GV dạy Tin học phải có kiến thức, năng lực, lòng nhiệt tình.....) + Tăng cường cơ sở vật chất , thiết bị dạy học phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin. + Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, huy động cộng đồng cùng tham gia tăng trưởng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. + Xây dựng quy chế thi đua khen thưởng, trách phạt rõ ràng trong vấn đề sử dụng công nghệ thông tin.. 3. Kết luận: Đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào trường học là việc làm cần thiết và đúng đắn. Công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp dạy và học, làm cho học sinh hứng thú học tập hơn, kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn. Tuy nhiên, sử dụng công nghệ thông tin cũng lắm công phu. Có lẽ vì thế mà một số trường đã thực hiện nhưng chỉ mang tính hình thức và dừng lại ở các tiết học thao giảng. Phải chăng có nhiều rào cản trong việc áp dụng phương pháp mới này? Đó là do cơ sơ vật chất hay do sự ngại ngùng của một số giáo viên khi làm quen với các kỹ thuật tin học để phục vụ cho môi trường giảng dạy mới? Trở ngại thứ nhất chúng tôi nghĩ khó giải quyết nhưng khi giải quyết được thì vấn đề thứ hai hoàn toàn có thể khắc phục được. Với đội ngũ GV hiện có trong nhà trường, chỉ cần tăng cường tổ chức bồi dưỡng cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint, cách trình chiếu cho toàn thể các giáo viên ( ít nhất 1 buổi/ tháng) thì nhất định tất cả GV có thể tự mình thiết kế một GAĐT riêng cho mình. Chúng tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm việc tăng cường bồi dưỡng, tất cả GV hoàn toàn có thể thiết kê được bài giảng thiết kế điện tử để thể hiện tốt hơn phương pháp sư phạm, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường. Tuy nhiên, cần phải có quan niệm đúng đắn rằng: Công nghệ thông tin chỉ là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp, đặc biệt đối với Bậc tiểu học. Trên đây là những suy nghĩ, những việc bản thân đã làm, đang làm và tiếp tục thực hiện trong quá trình công tác giảng dạy tại trường TH số 1 Kiến Giang . Những kết quả gặt hái được chỉ là bước đầu. Rất mong sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng hoàn thiện hơn thiện hơn, góp phần nhỏ vào phong trào chung trong sự nghiệp giáo dục hiện nay. Xin chân thành cảm ơn . Kiến Giang, ngày 20 tháng 5 năm 2009
  15. Người viết: Đánh giá của HĐKH nhà trường: Võ Thị Tường Vy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2