intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt môn tiếng Việt

Chia sẻ: Phan Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

84
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực hiện đề tài này với mục đích nâng cao khả năng đọc đúng và tìm ra biện pháp hữu hiệu khắc phục, giải quyết triệt để lỗi phát âm sai tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Từ đó góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân, nâng cao chất lượng đọc của học sinh nhất là đọc hiểu tiếng Việt, dần dần nâng cao chất lượng môn học tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, góp phần đưa chất lượng giáo dục ngày một tốt hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt môn tiếng Việt

Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> <br /> <br /> MỤC LỤC  <br /> <br /> TT Nội dung Trang<br />  I PHẦN MỞ ĐẦU 2<br /> 1 Lý do chọn đề tài 2<br /> 2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2<br /> 3 Đối tượng nghiên cứu 2<br /> 4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2<br /> 5 Phương pháp nghiên cứu 3<br />  II PHẦN NỘI DUNG 3<br /> 1 Cơ sở lý luận 3 <br /> 2 Thực trạng 4<br /> 2.1 Thuận lợi, khó khăn 4 <br /> 2.2 Thành công, hạn chế 5<br /> 2.3 Mặt mạnh, mặt yếu 5<br /> 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 5 <br /> 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt  6 <br /> 3 Giải pháp, biện pháp 7<br /> 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 7<br /> 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 8­ 16<br /> 3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp 16<br /> 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp 16<br /> 3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên  16<br /> cứu<br /> 4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn  17<br /> đề nghiên cứu<br /> III PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 18<br /> 1 Kết luận 18 <br /> 2 Kiến nghị 18<br /> Tài liệu tham khảo 20<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                                                                                 <br /> 1<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> <br /> <br /> <br /> <br />  I. PHẦN MỞ ĐẦU <br />            1.  Lý do chọn đề đề tài<br /> Xuất phát từ mục tiêu giáo dục Tiểu học: Hình thành cho học sinh những <br /> cơ sở ban đầu và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ  năng  <br /> cơ bản để các em tiếp tục học lên Trung học cơ sở, các cấp học khác và áp dụng <br /> những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống lao động. Trong đó môn tiếng  <br /> Việt là môn học đóng vai trò quan trọng trong góp phần hình thành và phát triển <br /> ở  học sinh các kỹ năng sử  dụng tiếng Việt để  học tập và giao tiếp trong các <br /> môi trường hoạt động của trẻ. Nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt là công cụ để học <br /> tập các môn học. Nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tạo ra hứng thú và động cơ học  <br /> tập, nó là khả  năng không thể thiếu. Vả lại tiếng Việt là ngôn ngữ  thứ  hai của  <br /> các em học sinh dân tộc thiểu số. Căn cứ  vào thực tế  của việc học môn tiếng  <br /> Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy  <br /> làm thế  nào để  giúp các em học sinh lớp 1 học tốt môn tiếng Việt nhất là học  <br /> sinh dân tộc thiểu số quả là một việc hết sức cần thiết. Đây là vấn đề mà được  <br /> nhiều người quan tâm và trăn trở. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên địa  <br /> bàn với 98% học sinh là người dân tộc thiểu số, với mong muốn tìm ra các biện <br /> pháp khắc phục để đạt được mục đích giáo dục ở bậc Tiểu học nói chung và ở <br /> môn  tiếng  Việt   nói   riêng,   đó  chính  là   lí  do  tôi  chọn   đề  tài  “   Một  vài  kinh <br /> nghiệm giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số  học tốt môn tiếng Việt”. <br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br /> Thực hiện đề  tài này với mục đích nâng cao khả  năng đọc đúng và tìm ra  <br /> biện pháp hữu hiệu khắc phục, giải quyết triệt để lỗi phát âm sai tiếng Việt của <br /> học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Từ đó góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ <br /> cho bản thân, nâng cao chất lượng đọc của học sinh nhất là đọc hiểu tiếng Việt, <br /> dần dần nâng cao chất lượng môn học tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc  <br /> thiểu số, góp phần đưa chất lượng giáo dục ngày một tốt hơn. <br />           Tìm ra được biện pháp sửa sai trong quá trình phát âm tiếng Việt cho học  <br /> sinh lớp 1 dân tộc thiểu số để  giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt. Khắc <br /> phục được những lỗi mà học sinh thường mắc phải để  mỗi giáo viên có <br /> hướng rèn luyện, bồi dưỡng hiệu quả việc phát âm tiếng Việt của học sinh <br /> dân tộc thiểu số khi bắt đầu bước vào lớp đầu cấp.<br /> 3. Đối tượng nghiên cúu<br /> <br />                                                                                 <br /> 2<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> Một số  kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số  học tốt môn <br /> tiếng Việt.<br /> 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu<br /> Học sinh lớp 1A, Trường Tiểu học Võ Thị Sáu năm học 2013 – 2014, <br /> 2014 – 2015.<br /> 5. Phương pháp nghiên cứu<br /> ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu<br /> ­ Phương pháp trải nghiệm thực tế<br /> ­ Phương pháp quan sát<br /> ­ Phương pháp thống kê, tổng hợp<br />            II. PHẦN NỘI DUNG <br /> 1. Cơ sở lý luận <br />           Với đặc điểm tâm, sinh lí học sinh Tiểu học, các em đang phát triển cả về <br /> thể lực lẫn thể chất. Trong đó, cơ quan phát âm, ngôn ngữ phát triển mạnh,  <br /> phù hợp với sự tiếp nhận và thực hiện dễ dàng các hoạt động mới theo chức <br /> năng của chúng: chức năng phát âm ­ tập đọc. Khả  năng nhận thức, tư  duy,  <br /> tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân cách học sinh đang được hình thành. <br /> Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò, thích <br /> hoạt động, thích khám phá, thường độc lập, tự  lực làm việc theo hứng thú <br /> của mình. Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tôn sùng nhất, mọi  <br /> điều trẻ đều nhất nhất nghe theo, sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu <br /> học phụ thuộc phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy, cô giáo  <br /> trong nhà trường. Nghe, nói, đọc, viết là bốn kĩ năng cơ bản của môn Tiếng  <br /> Việt, để đạt các yêu cầu so với chuẩn kiến thức kĩ năng theo quyết định số <br /> 16/2006/ QĐ­ BGD& ĐT ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2006. Rèn phát âm <br /> cho học sinh Tiểu học bước đầu đem đến sự vận động khoa học cho não bộ <br /> và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ đem đến những tinh hoa văn hoá, văn học  <br /> nghệ  thuật trong tâm hồn trẻ, rèn kĩ năng đọc, hiểu, cảm thụ  văn học, rèn  <br /> luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, phát triển <br /> khả năng học tập các môn học khác là điều kiện phát triển toàn diện cho học <br /> sinh Tiểu học trong giai đoạn hiện nay. Nhân cách học sinh Tiểu học phát <br /> triển đúng đắn hay lệch lạc phụ thuộc vào quá trình giáo dục của người thầy  <br /> mà trong đó phương tiện chủ  yếu là nghe, nói, đọc, viết có được trong quá <br /> trình học tập. Dạy đọc đặc biệt là chú trọng việc rèn phát âm tiếng Việt cho  <br /> <br />                                                                                 <br /> 3<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, đòi hỏi người thầy phải phát âm chuẩn và có <br /> phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu <br /> học. Ngày nay với sự phát triển tiến bộ của khoa học, xã hội, giáo dục cần <br /> đáp  ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh Tiểu học và tăng cường giáo  <br /> dục đạo đức, nhân cách, rèn kỹ năng sống cho trẻ. <br /> Trường tiểu học Võ Thị Sáu có 97,5% học sinh dân tộc thiểu số. Các em <br /> gặp không ít khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập đó là: thiếu điều kiện  <br /> học tập,quá trình học không liên tục, kiến thức nắm không vững chắc, thiếu  <br /> động cơ  học tập. Biết đọc, biết viết là mục tiêu số  một  ở  học sinh Tiểu học.  <br /> Vốn tiếng Việt là rất cần thiết trước khi học chữ. Không biết hoặc biết ít tiếng  <br /> Việt là trở ngại lớn nhất cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Tập nói tiếng Việt <br /> là nhiệm vụ đầu tiên với các em. Học sinh dân tộc cần có vốn tiếng Việt trước  <br /> để  học chữ. Bộ  giáo dục  đã có  nhiều văn bản chỉ  đạo như  công văn 9832/  <br /> BGD&ĐT ­ GDTH ngày 1 tháng 9 năm 2006, công văn 9890/ BGD&ĐT – GDTH <br /> ngày 17 tháng 9 năm 2007 về  việc hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục <br /> cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Ngày 9 tháng 8 năm 2008, Bộ Giáo dục và  <br /> Đào tạo đã tổ  chức hội nghị  "Triển khai các phương án tăng cường tiếng Việt <br /> (lớp 1) cho học sinh dân tộc thiểu số  ". Tại hội nghị, xuất phát từ  những quan  <br /> điểm, lý luận giáo dục và cách tiếp cận gắn với đặc điểm học sinh dân tộc các  <br /> vùng miền, năm phương án về chủ đề  này đã được trình bày, và trao đổi ý kiến  <br /> rộng rãi. Đó là:   Chuẩn bị  tiếng Việt cho trẻ  mẫu giáo trước tuổi đến trường  <br /> (Vụ  GD Mầm non). Dạy tiếng Việt trên cơ  sở  tiếng mẹ  đẻ  trong chương trình <br /> song ngữ Ê­đê ­ Việt (Vụ GD Dân tộc).  Nghiên cứu thử  nghiệm giáo dục song <br /> ngữ  dựa trên tiếng mẹ  đẻ  (Trung tâm Nghiên cứu GD dân tộc). Dạy học tăng  <br /> cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số  ở lớp 1(Nhóm tăng cường năng <br /> lực dạy và học­ Dự  án PEDC).  Dạy học lớp 1 cho học sinh dân tộc chưa biết  <br /> nói tiếng Việt (Trung tâm Công nghệ GD). Công văn số 8114/ BGD&ĐT­ GDTH <br /> V/v nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số ban hành ngày 15  <br /> tháng 9 năm 2009. <br /> 2. Thực trạng <br /> 2.1 Thuận lơi, khó khăn<br /> * Thuận lợi<br /> Được sự  quan tâm, chỉ  đạo sát sao của Lãnh đạo nhà trường nên ngay từ <br /> đầu năm học các em học sinh lớp 1 đã được làm quen với môi trường học tập <br /> mới.<br /> Bản thân nhiều năm liền dạy lớp 1.<br /> <br />                                                                                 <br /> 4<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> Học sinh dân tộc thiểu số được Đảng và nhà nước quan tâm cấp phát đầy <br /> đủ sách vở và đồ dùng học tập.<br /> 100% học sinh được học 8 buổi / tuần. <br /> * Khó khăn<br /> ­ Về nhà trường: Cơ sở vật chất chưa đáp ứng với nhu cầu giảng dạy.<br />           ­ Về giáo viên: Năng lực không đồng đều, số  giáo viên là người dân tộc  <br /> thiểu số trong khối chiếm 60% năng lực còn hạn chế.<br />           ­ Về học sinh: Lớp chiếm 100% là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều  <br /> em chưa biết cách cầm bút, chưa nhớ  các chữ  cái, không có khả  năng ghi <br /> nhớ, thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Do các em không muốn đi học chỉ muốn  <br /> ở nhà vui chơi. Các em chưa có ý thức trong học tập.<br /> <br /> <br /> 2.2 Thành công, hạn chế<br /> * Thành công<br />            Đội ngũ giáo viên được trau dồi nâng cao năng lực chuyên môn, đa số giáo <br /> viên có ý thức tự học tự rèn, nắm vững phương pháp dạy học, vốn kiến thức <br /> được nâng cao. Tìm ra được cách giảng dạy mới để giúp các em dễ ghi nhớ,  <br /> nhớ lâu và phát âm đúng, đọc được bài ngay tại lớp. Học sinh hứng thú, thích <br /> đọc bài, hiểu được một số từ ngữ đơn giản. <br /> * Hạn chế<br /> Tuy nhiên, vẫn có giáo viên còn hạn chế  về  kiến thức, về  kỹ  năng sư <br /> phạm trong việc sử  dụng các hình thức tổ  chức, phương pháp dạy học, …Một <br /> số  học sinh do hay nghỉ học nên chưa tiếp thu bài học một cách liền mạch dẫn  <br /> đến khả năng đọc chưa tốt.<br /> 2.3 Mặt mạnh, mặt yếu<br /> * Mặt mạnh<br /> Học sinh thích đọc bài. Giáo viên biết khắc phục những khó khăn trong <br /> việc dạy tiếng Việt cho HSDTTS, nghiên cữu kĩ chương trình môn học.<br /> * Mặt yếu<br /> Một số em còn thụ động khi tiếp thu kiến thức, đọc còn chưa rõ ràng rụt  <br /> rè khi được gọi đọc bài, khả năng ghi nhớ chưa cao.<br /> 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động<br /> <br />                                                                                 <br /> 5<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> Trong những năm gần đây nhờ  sự  quan tâm chỉ  đạo sát sao của Phòng <br /> GD&ĐT, sự  quan tâm phối hợp của địa phương, sự  chỉ  đạo linh hoạt của Ban <br /> lãnh đạo nhà trường, sự  nỗ  lực của các anh chị  em giáo viên và sự  hợp tác của  <br /> cha mẹ học sinh đã tạo nên nguồn động lực lớn thúc đẩy việc dạy và học ngày <br /> càng đi vào khuôn khổ, nề nếp đối với thầy và trò. <br /> Bên cạnh đó việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ   ở  một số  giáo viên <br /> còn hạn chế, bởi:<br /> Một vài đồng chí giáo viên tuổi cao, một số  giáo viên là người dân tộc <br /> thiểu số khả năng ứng dụng công nghệ thông tin hạn chế.<br /> Một số giáo viên chưa biết vận dụng các nguyên tắc dạy học môn Tiếng  <br /> Việt trong thực hành giảng dạy. <br /> Việc chuẩn bị bài và lập kế hoạch bài dạy chưa cụ thể, vận dụng phương  <br /> pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa đảm bảo quy trình và đặc trưng bộ môn.<br /> Việc hướng dẫn học sinh sửa sai chưa kịp thời, chưa tỉ m ỉ, ch ưa quan tâm <br /> đến việc học tập và sử dụng tiếng phổ thông cho các em ở tại gia đình và trong  <br /> cộng đồng. <br /> Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị trong quá trình dạy của thầy và học của trò <br /> chưa hiệu quả.<br /> Một số giáo viên chưa đầu tư về chuyên môn.<br /> Một số  giáo viên chưa coi trọng việc đọc mẫu nên phát âm (đọc mẫu)  <br /> chưa đúng với chuẩn. Một số  giáo viên còn phát âm theo ngôn ngữ  địa phương <br /> các vùng miền của mình nên rất khó khăn khi rèn đọc tiếng Việt cho học sinh.<br /> Một số giáo viên chưa chú ý đến việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ <br /> chức dạy học làm thế  nào để  các đối tượng học sinh nắm được kiến thức biết <br /> đọc biết viết. <br />            Nguyên nhân là do giáo viên phải dạy nhiều môn, một số  giáo viên còn  <br /> gặp khó khăn trong cuộc sống nên thời gian dành để  nghiên cứu, tìm tòi  <br /> những phương pháp dạy học đối với học sinh còn hạn chế. Vì thế  chưa tạo  <br /> hứng thú lôi cuốn được sự  tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Bên  <br /> cạnh đó tiếng Việt lại là ngôn ngữ thứ hai của các em học sinh dân tộc thiểu <br /> số, đây là kiến thức mới mẻ đối với các em.<br /> 2.5  Phân tích đánh giá các yếu tô tác động<br /> Năm học 2013 – 2014 đến nay, tôi được phân công dạy lớp 1 và trực tiếp <br /> giảng dạy môn Tiếng Việt. Khả năng học tập của các em chưa đồng đều, cuối <br /> năm học có em đọc viết rất tốt nhưng vẫn có em chỉ biết đánh vần, có em chưa <br />                                                                                 <br /> 6<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> biết đọc. Tuy nhiên với các em học sinh lớp Một dân tộc thiểu số thì tiếng Việt <br /> là môn học mà các em gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên, khi dạy môn Tiếng Việt  <br /> nhất là trong thời gian đầu năm, các em rất lúng túng khi sử  dụng đồ  dùng học  <br /> tập và tham gia đọc, viết bài. Thực tế  cho ta thấy việc giúp học sinh lớp 1 dân  <br /> tộc thiểu số học tốt tiếng Việt là việc làm cần thiết. Rèn phát âm tiếng Việt là  <br /> nhiệm vụ rất quan trọng đối với giáo viên Tiểu học. Do đó, vấn đề dạy rèn phát  <br /> âm tiếng Việt hiện nay đang được quan tâm, chú trọng. Có nhiều chuyên đề, <br /> phương pháp đặt ra nhằm nâng cao chất lượng phát âm tiếng Việt, chất lượng  <br /> đọc cho sinh lớp 1. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, tiếng Việt không phải là <br /> ngôn ngữ  duy nhất để  các em tiếp thu kiến thức và nhận biết thế  giới xung <br /> quanh, các em đến trường với một ngôn ngữ hoàn toàn khác ngôn ngữ thường sử <br /> dụng tiếng mẹ  đẻ, bởi vậy tiếng mẹ  đẻ   ảnh hưởng nhiều đến quá trình học <br /> tiếng Việt của trẻ. Một số  giáo viên chưa chú ý đến việc rèn phát âm cho học <br /> sinh, chưa thấy được tầm quan trọng của việc đọc đúng, đọc tốt có tác dụng cao  <br /> trong quá trình dạy học và chưa hiểu hết tầm quan trọng của môn học Tiếng <br /> Việt trong hệ  thống giáo dục quốc dân. Một số  giáo viên thì đã thực hiện tuy <br /> nhiên việc thực hiện chưa đúng cách, chưa phù hợp với thực tế  dẫn đến hiệu  <br /> quả  đạt được chưa cao. Đa số  học sinh mặc dù đã được học qua trường mầm  <br /> non nhưng chưa nắm được 29 chữ  cái, chưa biết cách cầm bút, chưa nhận biết <br /> được dòng kẻ trên bảng con và vở viết. Một số em gia đình khó khăn cha mẹ đi  <br /> làm xa không quan tâm nhắc nhở  các em học tập. Một số  em bố  mẹ  mất sớm <br /> phải  ở với ông bà nên thiếu sự  giúp đỡ, an  ủi khi học tập. Một số  em hay nghỉ <br /> học theo cha mẹ đi làm nên tiếp thu kiến thức không liền mạnh dẫn đến không <br /> đọc, viết được. Một số  em do tuổi lớn, khó khăn về  học khả  năng tiếp thu bài  <br /> hạn chế. Nhận thức được sự  cần thiết của việc nghe, nói, đọc viết tiếng Việt <br /> đối với các em học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, tôi đã tìm tòi đổi mới hình thức <br /> tổ chức, đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả học môn tiếng  <br /> Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số.<br /> Việc học tiếng Việt với học sinh dân tộc thiểu số đặc biệt là học sinh lớp  <br /> 1 chủ  yếu học qua các hoạt động  ở  trường.  Ở  nhà, các em ít được giao tiếp  <br /> bằng tiếng Việt bởi lẽ vốn tiếng Việt của bố mẹ, anh, chị và những người sống  <br /> xung quanh các em còn hạn chế. Chính vì vậy các em không được tiếp cận vốn <br /> tiếng Việt do người thân mang lại cho nên việc dạy học tiếng Việt đối với học <br /> sinh lớp 1 càng khó khăn đối với các thầy, cô giáo, những người tâm huyết với <br /> nghề dạy trẻ nhất là những người đang trực tiếp tham gia giảng dạy trong vùng  <br /> dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó một số  gia đình   còn cho con em nghỉ  học đi  <br /> nương đi rẫy trong dịp mùa màng. Một số em ít được cha mẹ quan tâm nhắc nhở <br /> các em đi học, còn đổ  lỗi và đẩy trách nhiệm cho giáo viên. Việc đi học không <br /> đều cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Lớp học có nhiều đối tượng <br />                                                                                 <br /> 7<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> khác nhau, việc phân chia kiến thức trong một tiết học còn nhiều khó khăn và <br /> hạn chế.<br /> Đặc biệt  ở lớp tôi dạy với 100% là học sinh dân tộc thiểu số, hoàn cảnh <br /> gia đình nhiều em gặp không ít khó khăn do đó các em đi học còn thiếu thốn <br /> nhiều thứ cụ thể có em chưa có bộ quần áo đồng phục, có em đến lớp quên bút, <br /> quên chì, quên bảng con. Thậm chí có em còn không có cặp đựng sách mà chỉ <br /> đựng sách vở  bằng chiếc túi ni lông nên việc mất  đồ  dùng học tập xảy ra  <br /> thường xuyên,… Do ảnh hưởng của tiếng mẹ nên đa số các em tiếp thu bài chưa  <br /> tốt, khả năng ghi nhớ chậm. Do đó việc dạy học tiếng Việt cho các em lại càng <br /> khó hơn.      <br /> 3. Giải pháp, biện pháp<br /> 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br /> Việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số  là việc làm cấp bách <br /> nhằm giúp các em phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Giúp học sinh củng  <br /> cố, hệ thống hoá kiến thức được học, mở rộng vốn từ, khắc  sâu kiến thức, nắm <br /> chắc âm vần vừa học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ  thể. Từ đó nâng <br /> cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số,  <br /> biết sử  dụng tiếng phổ  thông vào trong cuộc sống hằng ngày, giúp các em hòa <br /> nhập với cộng đồng. Đó cũng là giúp các em có kĩ năng giao tiếp tốt trong cuộc <br /> sống hằng ngày.<br /> <br /> <br /> <br /> 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp<br /> Biện pháp thứ  nhất. Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp <br /> với từng đối tượng học sinh<br />          * Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng <br />          Thực hiện công văn 9832/ BGD&ĐT ­ GDTH ngày 1 tháng 9 năm 2006, CV <br /> 9890/ BGD&ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm 2007 về  việc hướng dẫn nội <br /> dung,   phương   pháp   giáo   dục   cho   học   sinh   có   hoàn   cảnh   khó   khăn,   CV <br /> 5842/BGD&ĐT –VP ngày 01 tháng 09 năm 2011 hướng dẫn điều chính nội dung <br /> dạy học, thông tư 30/ TT – BGD&ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 hướng dẫn đánh  <br /> giá xếp loại học sinh. Được lãnh đạo nhà trường giao quyền chủ động cho giáo <br /> viên nên ngay từ  đầu năm học, sau khi nhận lớp được một tuần, tôi tiến hành <br /> kiểm tra khảo sát, lập kế hoạch dạy học, xin ý kiến chỉ đạo của tổ chuyện môn <br /> <br />                                                                                 <br /> 8<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> và nhà trường và phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối tượng như <br /> sau:<br />           Nhóm 1: Gồm những học sinh khó khăn ( khó khăn về đọc viết, khó khăn <br /> về hoàn cảnh gia đính)<br /> Nhóm 2: Gồm những học sinh đạt chuẩn<br /> Nhóm 3: Gồm những học sinh năng khiếu<br /> Căn cứ  vào các đối tượng học sinh, trong các giờ  học, tôi luôn luôn gần <br /> gũi, thân thiện, quan tâm tất cả  HS nắm bắt đặc điểm tâm sinh lý từng em. <br /> Kiểm tra sĩ số hàng ngày và giành thời gian giúp đỡ HS khó khăn. Các giờ ôn của <br /> buổi chiều tôi yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ  với 4 mức khác nhau trong <br /> cùng một giờ học.<br /> Đối với nhóm 1, trong mỗi tiết học tôi hướng dẫn thật kĩ rồi phát âm mẫu  <br /> sau đó gọi các em đọc nhiều lần hơn các em ở nhóm 3. Khi viết tôi chỉ yêu cầu  <br /> các em viết 1 dòng.  Các dạng bài đọc và viết về vần, các bài luyện tập tổng đều <br /> có thể vận dụng phương pháp này. <br /> Ví dụ;  Khi dạy bài 7 âm / ê /, / v / trang 16 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 <br /> Tập 1: Tôi phát âm mẫu, hướng dẫn cách mở miệng để phát âm, tôi cho các em  <br /> ở nhóm 3 phát âm lại rồi gọi các em ở nhóm 1 phát âm, lúc này tôi quan sát xem <br /> phát hiện những  khó khăn mà các em thường gặp khi phát âm để  uốn nắn kịp <br /> thời. tôi cho các em đó phát âm lại 2 đến 3 lần rồi mới chuyển sang em khác. <br /> Trước khi chuyển sang phần viết, tôi lại cho các em ở nhóm 1 phát âm lại sau đó <br /> yêu cầu viết chữ  ghi âm ê, v mỗi chữ chỉ  một nửa dòng, trong khi đó các em ở <br /> nhóm 2 viết  thêm chữ   ứng dụng mỗi chữ  một nửa dòng còn các em  ở  nhóm 3 <br /> viết cả  chữ ghi âm lẫn chữa  ứng dụng nhiều hơn mỗi loại như trên từ  1 dòng. <br /> Sau khi học xong phần âm, tôi hướng dẫn các em ôn tập phát hiện xem âm nào  <br /> còn nhiều em chưa phát âm được đưa ra biện pháp giúp đỡ trong các tiết học sau.  <br /> Hoặc dạy bài 29 vần /ia/ trang 60 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1, lúc này <br /> chuyển sang phần vần, tôi hướng thật kĩ cách ghép âm thành vần rồi yêu cầu các  <br /> em nhóm 1 đọc đi đọc lại nhiều lần và viết vần mỗi loại một nửa dòng. Các em  <br /> nhóm 2 viết thêm từ khóa, còn các em nhóm 3 viết vần, từ khóa mỗi loại 2 dòng.  <br /> Trong lúc các nhóm thực hiện nhiệm vụ  theo yêu cầu thì tôi theo dõi quan sát,  <br /> nhắc nhở  và giúp đỡ  khi các em gặp khó khăn mà nhát là đối với các em chưa  <br /> biết cầm bút, tôi hướng dẫn tỉ mỉ cách cầm bút, điểm đặt bút và bắt tay các em <br /> đưa bút viết. Khi dạy Tập đọc bài Hoa ngọc lan, trang 64 sách giáo khoa Tiếng  <br /> Việt 1, tập 2. Tôi đọc mẫu rồi hướng dẫn các em đọc từ khó. Nếu em nào chưa  <br /> đọc được thì gợi ý phân tích tiếng sau đó đánh vần, đọc trơn từ  rồi giúp các em <br /> <br />                                                                                 <br /> 9<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> dùng bút chì chia câu. Các em khó khăn chỉ  cần đọc một câu. Còn các em khác <br /> đọc đoạn, đọc cả bài.<br /> Nắm chắc nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy môn học, vận <br /> dụng phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với học sinh lớp mình <br /> dạy. Giờ  học sinh động hấp dẫn, diễn ra thoải mái hơn khi giáo viên biết tổ <br /> chức các hoạt động dạy ­ học phong phú. Vi dụ trong một giờ học vần, tôi đã tổ <br /> chức cho các em hoạt động cá nhân khi ghép, đọc, viết; hoạt động nhóm khi đọc,  <br /> … , tổ chức xen lẫn các trò chơi học tập nhằm khắc sâu kiến thức. Như vậy em  <br /> nào cũng được hoạt động, không có em nào ngồi chơi.<br /> Thực hiện theo tài liệu hướng dẫn tăng thời lượng dạy môn Tiếng Việt <br /> lớp 1 cho học sinh dân thiểu số. Mỗi bài Học vần dạy tăng từ 2 tiết thành 3 tiết, <br /> mỗi bài Tập đọc dạy tăng từ  2 tiết thành 3 tiết. Với thời lượng như  vậy nên <br /> trong mỗi tiết dạy, tôi có thời gian giúp các em luyện tập nhiều hơn. Vì thế, <br /> trong mỗi tiết dạy, tôi theo dõi phát hiện ngay những chỗ  các em yếu kém để <br /> luyện tập ngay. Tôi đưa ra các câu hỏi ngắn gọn phù hợp đảm bảo tất cả  học <br /> sinh hiểu và làm theo được. Nếu học sinh chưa biết đọc âm vần thì tôi chưa <br /> chuyển sang dạy đọc từ ngữ ứng dụng, đọc câu ứng dụng hoặc luyện nói. Trong <br /> quá trình dạy, tôi luôn luôn theo dõi khen ngợi và có biện pháp hỗ  trợ  các em  <br /> ngay. Có như  vậy các em mới nhận thấy mình đã làm được việc gì và việc gì <br /> chua làm được từ đó các em cố gắng hơn. <br /> Ví dụ:  dạy bài 58 vần /inh/, /ênh/ trang 118 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 <br /> Tập 1, sau khi đã cho các em nhận biết vần /inh/, tôi yêu cầu tất cả các em trong <br /> lớp đều đọc vần /inh/,  theo dõi phát hiện những em chưa đọc được, lúc này tôi  <br /> tiếp tục cho các em phân tích lại vần, tiếng rồi cho các em đọc đi đọc lại nhiều <br /> lần đến khi các em đã đọc đúng thì mới chuyển sang dạy vần /ênh/, từ ngữ ứng  <br /> dụng,… Trước khi vào học tiết học sau phải kiểm tra các em học sinh khó khăn <br /> hoặc kiểm tra xen lẫn trong tiết học. <br /> Khi dạy phần luyện tập tổng hợp, đây là kết quả  của việc dạy phần âm  <br /> và vần. Nếu các em phát âm và đọc đúng các phụ âm, nguyên âm và vần thì phần <br /> luyện tập tổng hợp sẽ dễ dàng hơn. Nhưng không phải em nào cũng đọc và phát  <br /> âm tốt. Vì vậy, tôi lựa chọn phương pháp hình thức dạy học sao cho tất cả các  <br /> em đều đọc được. <br /> Ví dụ dạy bài Trường em:  Việc đầu tiên tôi đọc mẫu thật chuẩn, sau đó <br /> hướng dẫn đọc tiếng, từ  khó. Trường hợp em nào chưa đọc được, tôi lại dùng  <br /> phương pháp phân tích tổng hợp để  các em nhớ  lại phụ âm, nguyên âm, vần từ <br /> đó ghép thành tiếng và đọc. Khi đã đọc đứng các tiếng từ khó, tôi tiếp tục hướng  <br /> <br /> <br />                                                                                 <br /> 10<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> dẫn xác định câu rồi tổ chức luyện đọc cá nhân, đọc nhóm, đọc đồng thanh. Em  <br /> khó khăn đọc theo em năng khiếu, dần dần đọc đúng và tốt hơn.<br /> * Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan<br /> Như chúng ta biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp Một nói riêng <br /> và nhất là đối với học sinh dân tộc thiểu số khả năng tư duy trừu tượng còn hạn <br /> chế, các em hay bắt chước và làm theo. Đa số  các em tiếp thu kiến thức phải  <br /> dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy việc chuẩn bị và sử dụng đồ <br /> dùng dạy học giúp tôi chuyển tải thông tin và truyền thụ  kiến thức giáo dục tư <br /> cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh. Nó có tác dụng điều khiển hoạt  <br /> động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng <br /> thú cho học sinh học tập. Trong tiết học mà không sử dụng đồ dùng dạy học thì  <br /> tiết học đó diễn ra rất đơn điệu, các em không hứng thú, không tập trung, kết  <br /> quả học tập không cao. Vì thế đồ  dùng dạy học đóng vai trò rất lớn quyết định <br /> hiệu quả trong mỗi giờ học, môn học nhất là đối với các em học sinh khó khăn.<br /> Ví dụ: Khi dạy bài 55 vần /eng/, / iêng/ trang 112 Sách giáo khoa Tiếng <br /> Việt 1, Tập 1: Để giúp học sinh nhận diện được vần và từ khóa một cách chắc <br /> chắn, tôi yêu cầu các em tìm trong bộ chữ ghép vần eng. Qua việc thực hành trên  <br /> đồ  dùng các em nhận ra được ngay vần eng gồm hai âm /e/và /ng/, âm /e/ đứng <br /> trước, âm /ng/ đứng sau rồi đánh vần e – ngờ ­ eng. Sau đó nêu câu hỏi gợi mở <br /> giúp các em tìm thêm phụ âm đầu và dấu thanh tiếp tục ghép tiếng xẻng rồi phân <br /> tích tiếng. Trên cơ sở  thực tế được thao tác, các em nắm chắc cấu tạo tiếng từ <br /> đó đánh vần đúng hơn. Sau khi đã hình thành được tiếng khóa, lúc này tôi giới <br /> thiệu chiếc lưỡi xẻng thật, các em được quan sát nhận xét nêu ra từ khóa. Sẽ có  <br /> nhiều lời nhận xét đưa ra, lúc này tôi giải thích để  các em hiểu rõ lưỡi xẻng là <br /> vật dụng trong gia đình làm bằng sắt dùng để  xúc, đào. Để  khắc sâu kiến thức,  <br /> tôi tổ  chức cho các em tìm tiếng, từ có vần /eng/ bằng cách phát cho mỗi nhóm <br /> một cái hộp trong đó có các từ ngữ chứa vần vừa học và các từ ngữ đã học ở bài <br /> trước rồi gắn tranh lên bảng, yêu cầu các em nhìn tranh gắn được từ ngữ tương  <br /> ứng dưới mỗi tranh. Được thực hành, được quan sát từ những hình ảnh như thế <br /> các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em <br /> có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của bài học.<br /> Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh  <br /> nhớ vần và từ tốt hơn. Tranh, ảnh, vật thật không chỉ đóng vai trò trong quá trình  <br /> hình thành kiến thức mới mà nó còn có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các <br /> tiết Tập đọc môn Tiếng Việt  lớp 1, tập 2.<br />   Ví dụ: Bài Quà của bố  – Trang 86 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập 2. Sau  <br /> phần luyện đọc, tôi tiến hành cho các em nói câu chứa tiếng có vần /oan/, /oat/. <br />                                                                                 <br /> 11<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> Nếu cứ dạy chay không có tranh thì đối với các em sẽ rất khó nói được một câu <br /> đầy đủ. Tôi lần lượt treo tranh chụp cảnh các bạn đang quay quần bên mâm hoa <br /> quả bánh kẹo cùng một ngọn đuốc. Sau khi quan sát, với sự gợi ý của tôi, các em  <br /> khó khăn   cũng nói được câu hoàn chỉnh Chúng em vui liên hoan và phát hiện <br /> tiếng hoan chứa vần oan. Còn các em năng khiếu không những nói được câu theo <br /> tranh mà còn nói câu khác cũng có tiếng chứa vần /oan/ mà không cần dựa vào <br /> tranh. <br /> Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ  học, tôi đã vận dụng khéo léo tranh,  <br /> ảnh nên vừa phát huy được tính sáng tạo chủ  động cho học sinh năng khiếu lại  <br /> vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm, khó khăn.<br /> Thường xuyên kiểm tra việc học tập của học sinh. Hệ thống kiến thức cơ <br /> bản cho học sinh theo từng chương, từng chủ đề. Học sinh quên chỗ nào, không  <br /> rõ chỗ nào tôi bổ sung kịp thời chỗ đó. Cho học sinh thực hành nhiều lần, nhiều  <br /> bài để  khắc sâu kiến thức. Đối với những bài ôn tập, hệ  thống kiến thức cơ <br /> bản, tôi đã sử  dụng bảng phụ  ghi những nội dung cần ghi nhớ. Ví dụ  : Tôi ghi  <br /> tất cả  các âm, vần đã học vào bảng phụ  treo cạnh bảng. Yêu cầu học sinh tự <br /> nhẩm đọc và đọc đồng thanh cả lớp trước khi vào bài mới. Những lúc quên, các  <br /> em có thể nhìn vào bảng phụ để nhớ lại.<br /> * Phương pháp trò chơi<br /> Như  chúng ta đã biết học sinh lớp Một rất hiếu động hay bắt chước và <br /> học theo.  Trò chơi học tập là  một loại hoạt động không thể  thiếu được trong <br /> mọi lứa tuổi. Trò chơi giúp các em phát triển cả  về năng khiếu lẫn tư  duy.  Trò <br /> chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. ''Học mà chơi, chơi mà học <br /> '' tạo ra sự hứng thú và niềm tin trong học tập,  duy trì được khả năng chú ý của <br /> các em trong tiết học. Trò chơi học tập không chỉ nhằm giải trí mà còn góp phần <br /> củng cố  tri thức, kĩ năng học tập cho học sinh. Việc sử  dụng trò chơi học tập  <br /> trong quá trình dạy học nhằm làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn kĩ năng bớt đi <br /> khó khăn, có thêm sự sinh động, hấp dẫn, phát huy tính tự giác, tích cực, rèn cho <br /> học sinh tính mạnh dạn, tính thi đua, tính kỉ  luật... do đó hiệu quả  học tập của  <br /> các em cao hơn. Vì vậy khi tổ chức trò chơi học tập, tôi đã soạn thảo nội dung  <br /> trò chơi gắn liền với mục tiêu của bài học, luật chơi đưa ra rõ ràng, đơn giản, dễ <br /> nhớ, dễ  thực hiện, điều kiện và phương tiện tổ  chức trò chơi phong phú, hấp <br /> dẫn, sử dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ. Có như vậy mới kích thích sự thi đua <br /> giành phần thắng cho các em bên tham gia.<br />           Ví dụ : Dạy  bài 64  /im/, /um/ trang 130 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1,  <br /> tập 1. Tôi tổ chức cho các em trò chơi Tìm chữ bí ẩn. Đầu tiên, tôi giới thiệu tên <br /> trò chơi, hướng dẫn cách chơi, phổ  biến luật chơi, chia nhóm rồi phát cho mỗi  <br />                                                                                 <br /> 12<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> nhóm một hộp có đựng các tiếng, từ chứa vần /im/, /um/, quy định thời gian chơi  <br /> và tiến hành cho các em chơi. Ngoài những tiếng từ có sẵn trong hộp, tôi khuyến  <br /> khích các em học sinh năng khiếu tự tìm ghép tiếng, từ khác. Trong thời gian học  <br /> sinh chơi, tôi theo dõi nhắc nhở các em. Sau khi hết thời gian chơi, tôi tiến hành <br /> đánh giá kết quả  chơi. Tôi động viên, khen ngợi tinh thần khi tham gia trò chơi  <br /> của các em, rồi cho các em đọc lại tiếng, từ  vừa tìm được như  vậy các em sẽ <br /> nắm chắc kiến thức vừa học.       <br />         Hay khi dạy  bài 69 /ăt/, /ât/ trang 140 sách giáo Tiếng Việt lớp 1 tập 1, tôi  <br /> tổ  chức cho các em chơi trò chơi nhìn tranh, vật thật đoán chữ. Tôi lần lượt chỉ <br /> vào đôi mắt mình, bắt tay một em học sinh và đưa ra chai mật ong sau mỗi lần  <br /> như  vậy gọi các em lên bảng gắn từ  tương  ứng.  Qua trò chơi này giúp các em <br /> nhớ vần mới, phát triển tư duy sáng tạo tìm nhanh các tiếng có vần mới, đọc và <br /> viết các tiếng, từ đó . <br />         Hoặc khi dạy  bài 103: Ôn tập, tôi đã tổ  chức cho các em trò chơi hái hoa  <br /> dân chủ. Tôi chuẩn bị một số bông hoa bằng giấy trên mỗi bông hoa ghi một từ <br /> có âm hoặc vần mới học ở mặt giấy phía trong.  Các em lần lượt lên hái rồi đọc  <br /> từ ghi ở bông hoa. Đối với các em năng khiếu sau khi đọc xong học sinh phải nói <br /> một cụm từ hoặc một câu trong đó có các từ đã học. Thông qua trò chơi giúp các <br /> em luyện nhẩm đánh vần nhanh để đọc trơn cả tiếng, cả từ, dùng từ đã học để <br /> tạo từ ngữ hoặc câu ngắn.<br />           Với những trò chơi mà tôi đã tổ chức trong các giờ học đã tạo cho các em <br /> sự  chú ý, tinh thi đua, khắc sâu kiến thức. Thông qua việc tổ  chức các trò chơi <br /> này, tôi nhận thấy để trò chơi có hiệu quả, ngoài việc chuẩn bị trò chơi thì việc  <br /> lựa chọn sao cho phù hợp với nội dung bài cũng là điều quan trọng.<br /> * Phương pháp làm mẫu<br /> Làm mẫu cũng là việc làm quan trong khi dạy tiếng Việt đối với học sinh  <br /> dân tộc thiểu số. Nếu thầy phát âm chuẩn thì trò cũng phát âm chuẩn. Bởi vậy  <br /> trong mỗi giờ dạy tiếng Việt, tôi đều chú ý đến khâu phát âm mẫu, khâu rèn kỹ <br /> năng đọc (kỹ năng phát âm) cho học sinh. Chú ý lắng nghe, quan sát và kịp thời  <br /> hướng dẫn sửa sai cho các em, vì đọc mẫu và rèn kỹ  năng đọc không tốt dẫn <br /> đến học sinh bắt chước đọc sai, đọc ngọng lâu dần thành quen rất khó sửa. Học <br /> sinh các dân tộc khác nhau thì cách phát âm cũng khác nhau. Ví dụ  học sinh dân  <br /> tộc Ê­ đê khi phát âm các âm lưỡi đều uốn cong và bật mạnh dẫn đến các âm <br /> phát ra gần như  đều có thêm dấu nặng. Vì vậy khi dạy phát âm, tôi chú ý làm <br /> mẫu để học sinh quan sát được các cơ quan phát âm như môi, răng, lưỡi... Ví dụ <br /> khi dạy bài 13:  /n/, /m/ trang 28 sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 1, sau khi viết  <br /> âm /n/ lên bảng tôi phát âm mẫu và hướng dẫn cách phát âm rồi gọi từng em phát  <br />                                                                                 <br /> 13<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> âm và sửa sai ngay.  Tôi chú ý rèn học sinh bắt đầu từ phần âm tiếng Việt nhất  <br /> là các phụ âm tiếng Việt, rèn kỹ việc phát âm khi học ở phần âm như sau: <br />             Đối với các âm học sinh phát âm sai nhiều như  âm: b/v, p/ph, t/th ch/ <br /> tr...Thì tôi đã phân loại đưa về  nhóm âm có đặc điểm phát âm giống nhau,  <br /> sau đó mô tả và dùng các bộ phận cấu âm để phát âm mẫu một cách tỉ mỉ. Ví <br /> dụ phụ âm b là phụ âm tắc hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi <br /> như phụ âm v lại là phụ âm hữu thanh dây thanh rung hay (phụ âm p là phụ <br /> âm sát hơi đi qua kẽ  hở  miệng, nhưng phụ  âm ph lại là phụ  âm tắc hơi bị <br /> cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi, dây thanh rung) hoặc (phụ âm t thì <br /> luồng hơi ra đằng mũi còn phụ  âm th thì luồng hơi sẽ  ra theo miệng), học  <br /> sinh quan sát tôi phát âm và thực hành theo. Trong khi học sinh phát âm, tôi  <br /> quan sát phát hiện kết hợp sửa sai kịp thời. Phải luyện phát âm thật kỹ nhiều  <br /> lần, đúng mới thôi. Chú ý hướng dẫn các em cách lấy hơi, nhấn giọng. <br /> Đối với các vần học sinh hay phát âm sai như  vần: ui/iu, eo/oe,  ưu/ươu, <br /> eng/anh/em, ua/ươ, êch/êt, it/uyt, ăm/ ăp,…thì tôi cho học sinh phân tích kỹ  cấu <br /> tạo, đánh vần, đọc trơn thành thạo từng vần rồi mới so sánh sự  giống và khác  <br /> nhau giữa các vần đã học, so sánh rồi rút ra cách đọc. Điểm mấu chốt ta có thể <br /> cho học sinh dùng thẻ  để  tạo từ, dùng đồ  dùng trực quan để  giải nghĩa từ  kết  <br /> hợp với sự  hỗ  trợ  có hiệu quả  của tiếng mẹ  đẻ. Học sinh nắm vững cấu tạo  <br /> vần, tiếng, hiểu nghĩa từ kết hợp quan sát khẩu hình, luyện dần sẽ đọc đúng. <br /> Đa số  các em đọc còn nhầm lẫn các dấu thanh, tiếng có thanh thì đọc  <br /> không thanh, tiếng không có dấu thanh thì đọc có dấu thanh. Ví dụ: bình tĩnh/  <br /> bình tính; nương rẫy / nương rấy, nhà trường/ nhà trương, ý muốn/ ý muộn  …<br /> Thì tôi cho các em nắm vững cấu tạo, cách phát âm từng dấu, dùng thẻ  tạo từ, <br /> nắm nghĩa của từ  qua đồ  dùng trực quan hoặc bằng hành động trực tiếp để  từ <br /> đó phát âm đúng và tự sửa sai các dấu thanh. <br /> Trong khi học sinh đọc, nói (phát âm) tiếng Việt tôi theo dõi quan sát từng <br /> em, phát hiện chỗ các em đọc sai để kịp thời sửa ngay và hướng dẫn các em đọc <br /> theo tốc độ quy định, không quá chậm hoặc quá nhanh, đọc, nói đủ to cho tất cả <br /> các bạn trong lớp nghe được, rèn tư thế đứng tự tin, thỏa mái khi đọc, nói tiếng  <br /> Việt. Đối với những em đọc sai chính âm tiếng Việt, tôi đã rèn luyện để các em <br /> đọc đúng, đọc đủ, không đọc thừa, đọc sót âm, tiếng, từ,…Đọc với tốc độ  vừa <br /> phải, giọng đọc phải phù hợp với yêu cầu và nội dung từng bài.<br />   Bên cạnh đó vẫn có những em phát âm bị  khuyết âm trong tiếng tiếng  <br /> Việt, còn lẫn lộn giữa vần  ưng/  ưn, uông/ uôn, iêng/iên. Ví dụ  khi dạy đọc từ <br /> ngữ   ứng dụng bài 75: ang, anh   có em đọc "bánh chưng" thành "bánh chưn".  <br /> Nguyên nhân chính là các em chưa biết vị  trí các cơ  quan phát âm và phối hợp <br /> <br />                                                                                 <br /> 14<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> giữa các cơ  quan đó. Vì thế  tôi yêu cầu các em quan sát kĩ tôi phát âm mẫu rồi <br /> gọi các em phát âm lại. Nếu phát âm đúng "bánh chưng" hơi sẽ  bị  chặn lại  ở <br /> một vị trí trong khoang miệng, Khi các em làm sai hay chưa làm được, tôi không <br /> la mắng hoặc phê bình các em, mà nhẹ nhàng chỉ bảo cho các em. Trong giờ học, <br /> tôi đi xuống bên học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa làm <br /> được để kịp thời giúp đỡ các em, chỉ cụ thể cho các em. Nhất là với các em khó <br /> khăn về  đọc và viết, tôi đọc lại cho các em nghe rồi gợi ý để  các em phân tích  <br /> nhớ lại cấu tạo của tiếng hay bắt tay các em viết cho đúng. Hướng dẫn chi tiết <br /> cho các em tư thế ngồi học đúng, cách cầm sách khi đọc, cách cầm bút viết, cách  <br /> trình bày bài vở, cách học tập ở lớp, ở nhà. Tất cả cần làm mẫu và yêu cầu học  <br /> sinh làm theo. Dần dần các em có thói quen, có kĩ năng kĩ xảo trong việc học tập.  <br /> Từ đó tạo ra không khí thoải mái, tự tin, mạnh dạn hơn khi tham gia hoạt động  <br /> học. Qua đó, tôi nắm được một phần nào những sở thích, những niềm vui hoặc  <br /> những khó khăn của các em trong học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày.<br /> Biện pháp thứ  hai: Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ  chức dạy <br /> học<br />           Việc vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học sẽ có tác dụng rất  <br /> lớn đến hiệu quả  giảng dạy.  Học sinh được luyện tập kĩ năng đọc, viết theo <br /> nhiều hình thức, chống học vẹt. Giúp các em ghi nhớ bằng nhiều giác quan cách  <br /> đọc, cách viết mà không nhàm chán và ghi nhớ bài học tốt hơn. Là cơ hội để các  <br /> em đều được luyện đọc, luyện viết, luyện nói, được làm việc tập thể  theo  <br /> nhóm, học cách hợp tác với bạn bè trong học tập. Nó tạo môi trường thuận lợi  <br /> cho việc giao tiếp, cho việc rèn luyện bốn kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói,  <br /> đọc, viết). <br />          Khi dạy một tiết học vần, tôi đã cho các em đọc thành tiếng trên bảng lớp,  <br /> trong sách giáo khoa bằng nhiều hình thức đọc nhẩm, đọc thành tiếng . Thực <br /> hiện song song với việc luyện đọc thì luyện viết cũng không kém phần quan <br /> trọng. Các em được luyện viết vào bảng con, viết trên bảng lớp, viết trong vở <br /> tập viết. Sau khi đọc, viết  thành thạo, tôi tổ  chức cho các em tập nói câu, nói <br /> theo chủ đề. Khi tổ chức các hình thức học tập, tôi đã kết hợp sử dụng đúng lúc, <br /> đúng chỗ, tận dụng thế mạnh của mỗi hình thức học tập trong quá trình dạy học  <br /> như học cá nhân ­ theo nhóm ­ cả lớp thích hợp với các nội dung học tập. Trong <br /> quá trình thực hiện, tôi luôn luôn gần gũi, kịp thời khen ngợi, ghi nhận những  <br /> tiến bộ của học sinh, động viên các em tiếp tục phát huy, tạo sự tự tin trong học  <br /> tập cho các em. Đối với  các em năng khiếu tôi khuyến khích, gợi mở  bằng  <br /> những câu hỏi khái quát hơn. Với những em học sinh khó khăn tôi đưa ra câu hỏi  <br /> nhỏ sát với nội dung cần trả lời. <br /> <br /> <br />                                                                                 <br /> 15<br /> Người thực hiện: Trần Thị Minh – Tiểu học Võ Thị Sáu<br /> Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 DTTS học tốt môn Tiếng Việt<br /> Ví dụ  khi dạy  Tập đọc bài Tặng cháu  trang  49 sách giáo khoa Tiếng <br /> Việt 1, tập 2. Tôi hỏi <br /> + Bác Hồ tặng vở cho ai? <br /> + Bác mong các cháu làm điều gì? <br /> + Em đã làm gì để tỏ lòng kính yêu Bác? <br /> Thông qua các câu hỏi, các em hiểu nội dung bài đọc, biết liên hệ thực tế <br /> và rèn kĩ năng sống.       <br /> <br /> <br />  <br />          Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà<br />          Đến trường các em đư
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2