Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU<br />
<br />
<br />
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:<br />
Dạy văn nói chung, dạy phân môn giảng văn (phần truyện) nói riêng ở trường <br />
THPT là dạy cho các em học sinh biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn chương nghệ <br />
thuật. Làm thế nào để giáo viên giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng <br />
nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của GV dạy Ngữ <br />
Văn. Lep TônxTôi nói : “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà là làm thế nào <br />
để biết được quả đất tròn?”. Chân lí là quý báu! Nhưng cách tìm ra chân lí còn quý <br />
hơn nhiều. Vì thế, cái khó trong việc dạy văn, nhất là dạy tác phẩm truyện là làm <br />
sao hướng cho học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm. Thực trạng trong <br />
những năm gần đây, học sinh khi cảm thụ về tác phẩm truyện thường khô cứng, sáo <br />
rỗng, lúng túng và máy móc. Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý <br />
riêng, ý sâu sắc, ý hay do chính bản thân các em cảm nhận. <br />
Trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông, tác phẩm truyện ngắn <br />
chiếm một số lượng khá lớn. Điều này phản ánh đúng mối tương quan của thành <br />
tựu truyện ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời sống văn học của <br />
chúng ta.<br />
Kiến thức tác phẩm truyện trong chương trình Ngữ văn THPT. được đưa vào <br />
giảng dạy một cách có hệ thống. Những tác phẩm truyện đặc sắc, có giá trị được <br />
chọn lọc đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn THPT đem lại hứng thú <br />
cho giáo viên và học sinh, có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao nhận thức thực tiễn, <br />
giúp học sinh có thêm kiến thức, hiểu biết thêm về đời sống xã hội và con người. <br />
Một trong những vấn đề gây khó khăn không nhỏ cho thầy và trò của chương <br />
trình Ngữ văn ở trường phổ thông là tiếp nhận, cảm thụ các tác phẩm truyện. Do <br />
đặc trưng của thể loại truyện khác với các văn bản thơ trữ tình nên khi cảm thụ, đọc <br />
– hiểu văn bản truyện học sinh thường tỏ ra lúng túng. Tiếp nhận tác phẩm truyện <br />
đòi hỏi không chỉ có khả năng tư duy lo gich mà cả khả năng tư duy trừu tượng. Vì <br />
vậy cảm thụ các tác phẩm truyện quả là khó khăn và đầy thách thức đối với cả giáo <br />
viên lẫn học sinh. Về phía học sinh, các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu <br />
khám phá tác phẩm, trong khi một số tác phẩm truyện trong SGK Ngữ văn THPT chỉ <br />
là đoạn trích mà muốn đọc – hiểu và cảm thụ hiệu quả buộc phải đặt trong hệ <br />
thống toàn văn bản.<br />
Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, ngành giáo dục <br />
đã từng bước tiến hành cải cách giáo dục, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy <br />
ở các cấp học phù hợp với mục tiêu giáo dục, đào tạo. Trong xu hướng chung ấy, tại <br />
hội nghị chuyên môn Ngữ văn được tổ chức hàng năm, chúng ta đã trao đổi, bàn luận, <br />
rút kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học, nhằm nâng cao hứng thú học tập <br />
cho học sinh. <br />
Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu ra một số ý kiến cùng trao đổi với quý <br />
đồng nghiệp về vấn đề hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm truyện trong chương <br />
trình Ngữ văn THPT. Vấn đề là cần có những phương pháp đọc – hiểu phù hợp khắc <br />
phục được những khó khăn, hạn chế trước mắt để tiết học đạt hiệu quả giáo dục <br />
cao. Trên cơ sở đó, xin đưa ra một số ý kiến để chúng ta cùng bàn bạc, trao đổi tìm <br />
ra phương hướng giải quyết vấn đề. <br />
1<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU<br />
Qua việc nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm cảm thụ tác phẩm truyện <br />
trong chương trình Ngữ văn THPT., chúng tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp về <br />
phương pháp tạo hứng thú cho HS trong mỗi giờ Đọc văn (phần truyện), từng bước <br />
khắc phục tình trạng HS coi giờ học Đọc văn là giờ "ru ngủ", HS chỉ việc ngồi nghe <br />
thầy "thôi miên", tay ghi chép, về nhà học thuộc, đi thi chép y nguyên lại lời thầy, <br />
nhiều khi có không đồng ý với một số nhận định của thầy đã "áp đặt" cũng không <br />
dám nói. Hi vọng đề tài này sẽ được đồng nghiệp đón nhận để góp phần cải thiện <br />
tình trạng dạy học Ngữ văn hiện nay.<br />
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU<br />
Có nhiều biện pháp góp phần tạo hứng thú cho HS THPT trong việc cảm thụ <br />
tác phẩm truyện, nhưng trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ tập trung vào các biện <br />
pháp thông dụng nhất: dẫn nhập, đọc diễn cảm – tóm tắt tác phẩm, phân tích tình <br />
huống truyện và các chi tiết tiêu biểu, phân tích nhân vật, sử dụng lời bình hay hợp <br />
lí, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, gắn bài giảng với thực tế <br />
đời sống. Dù vấn đề này cũng đã có người nghiên cứu, song đây là kinh nghiệm mà <br />
chúng tôi rút ra từ thực tiễn dạy học. Điều quan trọng là góp phần tạo hứng thú cho <br />
học sinh trong việc cảm thụ tác phẩm truyện.<br />
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã thu thập thông tin, đúc kết kinh nghiệm <br />
từ thực tế giảng dạy Ngữ Văn từ các đồng nghiệp trên nhiều đối tượng HS qua các <br />
năm học và thực nghiệm đối chứng trong năm học 20132014. <br />
<br />
Phần thứ hai: NỘI DUNG<br />
<br />
I.Cơ sở lý luận:<br />
Luật Giáo dục, Điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát <br />
huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm từng <br />
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn <br />
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, <br />
hứng thú học tập cho HS”.<br />
Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên về biên soạn đề kiểm tra, xây <br />
dựng thư viện câu hỏi và bài tập cũng đã viết: "Hoạt động giáo dục chỉ đạt hiệu quả <br />
cao khi tạo lập được môi trường sư phạm lành mạnh, bầu không khí thân thiện, phát <br />
huy ngày càng cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của HS".<br />
Rõ ràng khi có được sự say mê hứng thú, con người sẽ làm việc tự nguyện có <br />
hiệu quả hơn, thành công hơn. Hứng thú còn có tác dụng chống lại sự mệt mỏi. HS <br />
cũng vậy, Khi có hứng thú, các em sẽ kiên trì làm bài tập, không nản chí trước câu <br />
hỏi khó, không những thế còn hăng hái trả lời, nhận xét bổ sung câu trả lời của bạn, <br />
chủ động nêu câu hỏi, đưa ra những thắc mắc để các bạn cùng trả lời, thầy cô giải <br />
thích thấu đáo.<br />
<br />
Điều kiện đầu tiên của mọi sự phân tích, đánh giá, thẩm định giá trị của tác <br />
phẩm truyện là người đọc có cảm thấy văn bản đó hay, hấp dẫn và xúc động thực <br />
sự hay không. Nghĩa là trong đọc hiểu tác phẩm truyện, người đọc, dù ít hay nhiều <br />
<br />
2<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
phải huy động tri giác và sau đó là liên tưởng, tưởng tượng để thâm nhập vào thế <br />
giới nghệ thuật của tác phẩm. Nếu quá trình này không xảy ra thì người học, dù <br />
bằng cách nào đi nữa, cũng khó có thể hiểu được sâu sắc tác phẩm. Quá trình tâm lí <br />
nói trên chính là cảm thụ tác phẩm truyện. <br />
Cảm thụ văn học nói chung, tác phẩm truyện nói riêng là hoạt động mang tính <br />
đặc thù trong tiếp nhận văn học. Mục đích của cảm thụ là cảm nhận, phát hiện, <br />
khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương nhằm bồi dưỡng mỹ cảm <br />
phong phú, tinh tế cho học sinh. Với quan niệm như trên về cảm thụ, chúng tôi nhận <br />
thấy việc xác lập các biện pháp rèn luyện cách cảm thụ cho học sinh khi dạy tác <br />
phẩm truyện ở trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng. Theo chúng tôi, cảm thụ tác <br />
phẩm truyện là cơ sở để xác lập các biện pháp bộc lộ và thúc đẩy sự đồng sáng tạo <br />
của người đọc. Do đó, phần đề xuất các biện pháp của chúng tôi khác về nội dung <br />
của từng biện pháp. Cũng không là tiến trình của một tiết dạy trên lớp<br />
<br />
2. Cơ sở thực tiễn:<br />
Luận ngữ viết: “ Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không <br />
bằng say mà học”. Vậy niềm yêu thích say mê chính là động lực thúc đẩy, nuôi <br />
dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi người. Vì thế với vai trò tổ <br />
chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của HS, hơn ai hết việc phải tìm ra <br />
nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của người học, gây <br />
niềm hứng thú say mê học tập ở các em chính là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi <br />
GV.<br />
Nhưng phải thừa nhận một thực tế rằng trong thời kì đất nước đang chuyển <br />
mình hội nhập, bên cạnh rất nhiều mặt tích cực thì cũng nảy sinh không ít những <br />
khó khăn thách thức. Theo đó, hiện nay đa số phụ huynh chỉ định hướng cho con em <br />
mình lựa chọn các môn học tự nhiên. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tâm <br />
lí HS, làm giảm niềm yêu thích hứng thú của các em với môn Ngữ văn. Càng học lên <br />
lớp trên, các em càng chán học môn Ngữ văn. Đứng trước bối cảnh đó, bên cạnh <br />
việc trau dồi nâng cao năng lực chuyên môn vững vàng, Người GV dạy Ngữ văn cần <br />
thiết phải có nghệ thuật đứng lớp cao hơn, linh hoạt hơn mới có thể tạo được niềm <br />
hứng thú cho HS.<br />
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS THPT không hứng thú trong giờ <br />
học Đọc văn (phần truyện), theo tôi có những nguyên nhân cơ bản sau:<br />
Về chương trình có một số điều bất cập. Thiết kế chương trình chưa thật <br />
hợp lý. Có nhiều tác phẩm lượng kiến thức cần khai thác rất lớn như Hạnh phúc <br />
một tang gia Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo Nam Cao, hay các tác phẩm văn xuôi <br />
(phần truyện) trong chương trình Ngữ văn lớp 12 thời lượng phân phối lại rất ít (2 <br />
tiết/bài), GV chỉ lo dạy không kịp bài thì làm sao tạo được hứng thú cho HS.<br />
Về phía GV: Trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới <br />
phương pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở các GV dạy Ngữ văn còn gặp <br />
khá nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng chưa <br />
đạt được kết quả mong muốn. Do vậy, ngoài các tiết dự thi, thao giảng, dạy tốt, <br />
thanh tra, đa phần tiết dạy Ngữ văn là tiết "dạy chay", thầy vẫn giữ phương pháp cũ <br />
là thuyết giảng. Chính điều đó đã làm giảm rất nhiều sự hào hứng, sáng tạo của HS. <br />
Một nguyên nhân nữa xuất phát từ trình độ chuyên môn của GV, nhất là đa số những <br />
GV mới ra trường, mỗi khi lên lớp chưa thật làm chủ kiên thức, chỉ lo làm sao truyền <br />
3<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
thụ hết những gì đã soạn từ giáo án đã thấy khó, nói chi đến việc mở rộng, nâng cao, <br />
kích thích sự hứng thú của HS.<br />
Về phía HS: Môn Ngữ văn là một môn học khó, mang tính đặc thù. Trong <br />
mỗi giờ học Đọc văn (phần truyện), HS phải phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, <br />
năng lực cảm thụ thì mới có thể hiểu được những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm <br />
Yêu cầu này, đâu phải HS nào cũng có đủ khả năng. Hơn nữa, đa phần HS hiện nay <br />
đã quen với lối học thụ động, đi thi thì cũng chỉ chép lại lời thầy, bởi các em có tâm <br />
lí nếu làm khác đi chưa chắc gì thầy đã cho điểm cao, do vậy cũng chẳng muốn bộc <br />
lộ suy nghĩ cảm thụ riêng của bản thân làm gì.<br />
Có rất nhiều nguyên nhân để lý giải hiện tượng nêu trên, nhưng theo chúng <br />
tôi, làm th ế nào đ ể nâng cao c ả m th ụ tác ph ẩ m truy ệ n cho h ọ c sinh trong <br />
gi ờ đ ọ c hi ể u môn văn ? làm sao để HS yêu thích môn Ngữ văn hơn, làm sao để kết <br />
quả học tập của HS được cải thiện hơn. Đó là vấn đề luôn băn khoăn trăn trở của <br />
nhiều GV giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THPT<br />
III. CÁC BIỆN PHÁP GÓP PHẦN TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG VIỆC <br />
CẢM THỤ TÁC PHẨM TRUYỆN<br />
I. Phương pháp dẫn nhập: <br />
1. Khái niệm dẫn nhập<br />
Dẫn nhập còn gọi là “lời mở đầu”, là một phương thức dẫn dắt học sinh một <br />
cách có ý thức, có mục đích đi vào tri thức mới, là khâu mở đường, bắt đầu của dạy <br />
học trên lớp.<br />
Dẫn nhập (theo nghĩa chữ): “nhập” (vào) và “dẫn” (hướng dẫn, dẫn dắt). <br />
Vậy nhập có nghĩa là đưa vào, tiến vào để cho học sinh từ từ đi vào tinh thần tâm <br />
thái, sự chú ý đều được đưa vào trong quá trình giảng dạy bài mới, càng nhập càng <br />
tốt.<br />
2. Yêu cầu đối với phương pháp dẫn nhập<br />
Thời gian lên lớp chỉ gói gọn trong vòng 45 phút, nên khi soạn giảng cũng như <br />
tiến trình lên lớp người dạy không được “rộng rãi”, và công phu ở bước này. Thông <br />
thường, người dạy chỉ giành khoảng 23 phút để dẫn vào bài mới (bằng nhiều cách). <br />
Vậy nên, yêu cầu đầu tiên của lời dẫn cần ngắn gọn, súc tích, khái quát cao, lời gọn <br />
ý sâu, lấy ít dẫn nhiều chứ không dài dòng, tùy tiện. Nội dung dẫn nhập cần khái <br />
quát, cô động nhưng phải phong phú. Ngôn ngữ cần trong sáng, tinh tế, súc tích. Sự <br />
tinh luyện của nội dung, sự tinh tế của hình thức ngôn ngữ sẽ làm cho lời dẫn tự <br />
nhiên, lôi cuốn.<br />
3. Các biện pháp cụ thể<br />
Dẫn nhập chỉ là khâu nhỏ, không nằm trong trọng tâm bài dạy, nhưng lại ở <br />
vào vị trí mở đầu, có tác dụng đặt nền móng và gắn bó với các hoạt động còn lại. <br />
Vậy nên, người dạy không thể bỏ qua. Xuất phát từ những lí do trên, trong phạm vi <br />
cho phép, chúng tôi xin đề cập đến một số biện pháp dẫn nhập trong giảng dạy tác <br />
phẩm truyện như sau:<br />
3.1 Trích dẫn danh ngôn<br />
Danh ngôn là những lời răn dạy và những câu triết lí hàm nghĩa sâu sắc, có tác <br />
dụng răn dạy, được mọi người sử dụng hằng ngày trong cuộc sống như: “Học, học <br />
nữa, học mãi” (Lê – nin); “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn <br />
khó chữa” (M. đơ Mông – te – nhơ); “Tình yêu là niềm say mê đem lại hạnh phúc cho <br />
<br />
4<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
người khác” (F.Sile); “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng <br />
người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học)…Cũng có danh ngôn là thành ngữ, tục ngữ <br />
như “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Ở hiền gặp lành”, <br />
“Uống nước nhớ nguồn”,…. <br />
Trích dẫn danh ngôn để vận dụng vào dẫn nhập khi dạy học trên lớp có thể <br />
thu hút được sự chú ý của học sinh, tạo sự mới mẻ, khác lạ, kích thích và nâng cao <br />
hứng thú học tập ở học sinh.<br />
Ví dụ:<br />
Bài Tấm Cám (truyện cổ tích) [trang 65, Ngữ Văn 10 tập 1]<br />
GV: Trong quan niệm của dân gian, chúng ta thường nghe “ác giả ác báo – gieo gió <br />
gặp bão”, hoặc “ở hiền gặp lành”,… những triết lí đó chúng ta vẫn gặp trong cuộc <br />
sống thường nhật, đã trở thành triết lí nhân sinh được ông cha ta đúc kết mà nên. <br />
Những triết lí sống đó, được đúc kết trong nhiều tác phẩm, tiêu biểu là truyện “Tấm <br />
Cám”. Truyện Tấm Cám cho thấy sự chiến thắng trọn vẹn của cái thiện đã chứng <br />
minh cho quy luật “ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành” của dân gian. Muốn hiểu tình <br />
tiết của câu chuyện như thế nào – chúng ta cùng đi vào bài học.<br />
Khi dẫn nhập trong dạy học, nếu giáo viên vận dụng đúng mức phương pháp <br />
trích dẫn danh ngôn, sẽ khiến ngôn ngữ có sức mạnh hơn hẳn những lời nói tản <br />
mản, vụn vặt. Có một số tục ngữ, thành ngữ có thể phát huy được những khả năng <br />
không ngờ, kích thích trí tưởng tượng của học sinh – và như thế người dạy vừa <br />
truyền đạt được kiến thức, vừa rèn luyện khả năng tiếp thu ở các em. Dẫn nhập <br />
như thế sẽ thu hút sự chú ý của các em ngay từ đầu tiết học, hứa hẹn một tiết dạy <br />
hấp dẫn, sôi nổi.<br />
3.2 Kết hợp thực tế<br />
Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp giữa thực tế học tập – cuộc sống – xã <br />
hội. Kết hợp thực tế sẽ giúp cho hoạt động dạy học thiết thực hơn, gần gũi hơn. <br />
Vừa làm phong phú nội dung dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và tính <br />
chỉ dẫn của người dạy.<br />
Ví dụ:<br />
Bài Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu [trang 69, Ngữ Văn 12 tập 2]<br />
GV: Nền kinh tế càng phát triển sẽ kéo theo nhiều sự đổi thay trong cuộc sống. Và <br />
một trong những vấn đề đó là sự suy đồi về đạo đức, xuống cấp trầm trọng của các <br />
mối quan hệ vợ chồng, cha – con, anh – em,… Vậy, trong đời thường, đã bao giờ <br />
các em chứng kiến cảnh một người chống vũ phu đánh vợ? Một đứa con bất chấp <br />
đạo lí đánh lại cha không? Đúng vậy. Thực trạng đau lòng đó đã được Nguyễn Minh <br />
Châu khám phá trong bình diện của nền văn học mới – bình diện đạo đức thế sự <br />
thông qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.<br />
Do yêu cầu về mặt thời gian của phương pháp dẫn nhập phải ngắn gọn, giản <br />
dị dễ hiểu nhưng phải đầy đủ mang tính thuyết phục cao, tránh dài dòng làm phân <br />
tán sự chú ý của học sinh. Mẫu dạy này hết sức hiệu quả. Chỉ trong thời gian ngắn, <br />
giáo viên đã đặt học sinh vào tình thế “phán – xử”, vừa là người thách thức, vừa lấy <br />
chính mình để đi tìm câu trả lời. <br />
3.3 Nêu câu hỏi (Nêu ra nghi vấn)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
5<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
Nội dung câu hỏi có thể nêu ra từ những mặt khác nhau, góc độ khác nhau <br />
nhưng chỉ cần phù hợp với nội dung bài học là được. Đây là phương pháp dẫn nhập <br />
đơn giản được sử dụng rất phổ biến trong quá trình giảng dạy.<br />
Tuy nhiên, khi giáo viên nêu câu hỏi cần lưu ý đó là những kiến thức quen <br />
thuộc với học sinh, đáp án đưa ra là duy nhất. Có như thế khi giải đáp thắc mắc sẽ <br />
có tính nhất quán và mục đích dẫn tới bài học sẽ hoàn hảo.<br />
3.4 Sử dụng tranh ảnh minh họa<br />
Sử dụng tranh ảnh minh họa học sinh sẽ có được những cảm nhận mới mẻ <br />
khi tiếp cận văn bản. Đây là một biện pháp hỗ trợ dạy học không thể thiếu trong <br />
giảng dạy nói chung. Biện pháp này có thể thay cho lời dẫn để tạo cảm giác chân <br />
thực, tăng thêm tính rõ ràng, tính sinh động khi thuyết giảng.<br />
Ví dụ:<br />
Bài tùy bút: Người lái đò sông Đà Nguyễn Tuân [trang 185, Ngữ Văn 12 <br />
tập 1]<br />
GV: (cho học sinh xem hình ảnh của con sông Đà – chú ý chọn hình ảnh con <br />
sông vừa hung bạo vừa trữ tình). Sau đó, để học sinh tự phát hiện vẻ đẹp của con <br />
sông rồi giáo viên dẫn vào bài mới.<br />
GV: Nếu như sông Hương được ví như người con gái của Huế, đẹp cổ kính <br />
trầm mặc thì sông Đà lại mang một vẻ đẹp “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang <br />
độc Bắc lưu”. Chúng ta cùng đi vào tìm hiểu nội dung bài học để thấy được vẻ đẹp <br />
của con sông vừa hung bạo vừa trữ tình.<br />
Bài ký: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường [trang 197, <br />
Ngữ Văn 12 tập 1]<br />
GV: (cho học sinh xem hình ảnh con sông Hương – chú ý chọn được hình <br />
ảnh sông Hương ở thượng nguồn, ở ngoại vi thành phố và ở giữa lòng thành phố). <br />
Không phải lấy hình ảnh sông Hương để dạy học mà chỉ minh họa để học sinh phát <br />
hiện vẻ đẹp sông Hương tinh tế, trầm mặc cổ kính như thế nào? <br />
GV: Chúng ta đã từng biết đến con sông Đà hung bạo qua ngòi bút tài hoa <br />
của Nguyễn Tuân, và chúng ta cũng đã tựng nghe “Con sông dùng dằng sông không <br />
chay – Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”, bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu bài mới để <br />
có cái nhìn so sánh đối chiếu về vẻ đẹp của hai con sông này. <br />
Khi tranh ảnh treo lên, học sinh quan sát có thể tăng thêm tính trực quan rõ <br />
ràng. Sự giảng giải sau dẫn nhập vẫn có thể kết hợp với nó, dùng tranh ảnh dẫn dắt <br />
học sinh tiếp cận nội dung văn bản là một hướng tiếp cận mới, quán xuyến cả quá <br />
trình dạy học.<br />
3.5 Sử dụng máy chiếu, video<br />
Sử dụng máy chiếu là một loại dạy học trực quan so với sử sụng tranh ảnh <br />
minh họa, băng ghi hình,… Dù hình thức có khác nhau nhưng đều đem lại hiệu quả <br />
tích cực trong dạy học. Sử dụng máy chiếu có phạm vi tương đối rộng. Tiêu đề, các <br />
mục đề, tóm tắt nội dung, từ vựng, hình tượng trong bài, hiệu ứng,… đều có thể <br />
chiếu. Sử dụng máy chiếu so với việc dạy học truyền thống sẽ tiết kiệm thời gian, <br />
sức lực và học tập có phần hiệu quả nhanh gọn, khoa học hơn.<br />
Ví dụ:<br />
Bài Chữ người tử tù Nguyễn Tuân [trang 107, Ngữ Văn 11tập 1]<br />
<br />
<br />
6<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
GV: Sử dụng 3 bức ảnh chiếu: 1. Chữ thư pháp, 2. Hình ông đồ ngồi viết <br />
thư pháp, 3. Hình Huấn Cao cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang cho chữ. Chiếu <br />
bức ảnh thứ nhất: Các em có biết đây là loại chữ gì không?<br />
HS: trả lời.<br />
GV: Chiếu bức ảnh thứ 2. Các em biết, trước đây viết thư pháp là một nét <br />
đẹp truyền thống, thể hiện văn hóa của dân tộc. Nay nó chỉ còn “vang bóng” – “ông <br />
đồ vẫn ngồi đó; qua đường không ai hay”. Chiếu bức ảnh thứ 3. Hình người tù cổ <br />
đeo gông, chân vướng xiềng đang cho chữ trong bức tranh, các em có biết ai không?<br />
HS: trả lời<br />
GV: Nhìn hình ảnh chúng ta sẽ thấy một cảnh tượng xưa nay chưa từng có <br />
như thế. Vậy vì sao lại gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có, chúng ta cùng tìm hiểu <br />
để có câu trả lời.<br />
Hoặc:<br />
Bài Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành [trang 37, Ngữ Văn 12 tập 2]<br />
GV: (Sử dụng 2 bức ảnh chiếu: 1. Cây xà nu, 2. Rừng xà nu). Chiếu bức ảnh <br />
thứ nhất. Các em đã bao giờ trông thấy loại cây này chưa?<br />
HS: trả lời<br />
GV: Chiếu bức ảnh thứ 2. Thiết vấn: Đây là hình ảnh rừng xà nu, một loại <br />
cây phổ biến của núi rừng Tây Nguyên. Các em có nhận xét gì về đặc điểm chung <br />
của loại cây này? <br />
HS trả lời: Cây thẳng, ngọn, lá và cành đều vươn lên thẳng tắp,...<br />
GV: Các em trả lời đều có ý. Chúng ta sẽ mang những câu trả lời này vào bài <br />
học để chiếu ứng tới con người Tây Nguyên xem họ có những đặc điểm gì nhé!<br />
Dẫn nhập bằng máy chiếu khi giảng dạy môn Ngữ Văn sẽ làm cho bài giảng <br />
thêm sinh động hơn. Khi dẫn nhập lại chèn thêm những bức ảnh chân thực làm tăng <br />
thêm sự thu hút mạnh mẽ ở học sinh. Có thể tạo cho học sinh một ấn tượng tổng <br />
thể, khắc sâu hơn nhận thức của học sinh.<br />
3.6 Thảo luận có chủ đề<br />
Phương pháp dẫn nhập thảo luận có chủ đề là lúc giáo viên vừa bước vào <br />
lớp, đúng lúc học sinh đang chờ đợi giáo viên giảng bài; hoặc khi lớp chưa ổn định, <br />
chưa chú ý thì lúc này giáo viên có thể áp dụng.<br />
Ví dụ:<br />
Bài Vợ nhặt Kim Lân [trang 23, Ngữ Văn 12 tập 2]<br />
GV: Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân sau CM.T.Tám. Vậy nhan <br />
đề Vợ nhặt cho chúng ta liên tưởng đến những ý nghĩa nào? Chúng ta có thể hiểu <br />
như thế nào?<br />
HS trả lời: Vợ nhặt có nghĩa là người ta nhặt được ở ngoài đường hơặc ở đâu đó <br />
như một vật vô chủ... có nghĩa là bất kì ai cũng có thể nhặt được. Người vợ mất hết <br />
cả giá trị đáng quí = người theo không....giá trị con người bị rẻ rúng như rơm rác, có <br />
thể nhặt được ở bất kì đâu,....<br />
GV: Đó đều là những ý kiến làm cơ sở để chúng ta xây dựng nội dung bài học này. <br />
Vợ nhặt có ý nghĩa gì – chúng ta cùng phân tích bài học. <br />
Cách dẫn nhập ở trên, học sinh thông qua thảo luận bước đầu vạch ra được <br />
tư tưởng của tác giả muốn truyền đạt, giúp học sinh nhìn thấy được “đốt sống” của <br />
tác phẩm văn học. Điều này cung cấp tiền đề và trải đệm cho việc giảng dạy được <br />
thuận lợi hơn. <br />
7<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
4. Hiệu quả mang lại<br />
Khi xác định được trọng tâm dạy – học như vậy, kết hợp với việc áp dụng 6 <br />
biện pháp dẫn nhập như trên. Bước đầu, cả người dạy và người học khi bắt đầu <br />
một tiết học đã phá bỏ được sự nhàm chán, uể oải khi tiếp cận văn bản. Giáo viên <br />
truyền được niềm đam mê và hứng thú học tập cho HS. Đây được xem như một <br />
bước khởi sắc của việc dạy học Ngữ Văn.<br />
II. Đ ọ c di ễ n c ả m và tóm t ắ t tác ph ẩ m:<br />
1. Đ ọ c di ễ n c ả m:<br />
Cùng quan đi ể m v ớ i GS Tr ầ n Đình S ử , c ố GS Hoàng Ng ọ c Hi ế n <br />
nh ấ n m ạ nh yêu c ầ u c ầ n đ ạ t đ ượ c c ủ a vi ệ c đ ọ c văn b ả n là ph ả i n ắ m b ắ t <br />
trúng gi ọ ng đi ệ u c ủ a tác ph ẩ m . Theo ông, “S ự phong phú, tính đa nghĩa, ý <br />
v ị đ ậ m đà c ủ a bài văn tr ướ c h ế t là ở gi ọ ng. Năng khi ế u văn là năng l ự c <br />
b ắ t đ ượ c trúng cái gi ọ ng c ủ a văn b ả n mình. B ắ t đ ượ c gi ọ ng đã khó, làm <br />
cho h ọ c sinh c ả m nh ậ n đ ượ c cái gi ọ ng càng khó, công vi ệ c này đòi h ỏ i <br />
sáng ki ế n và tài tình c ủ a giáo viên …”<br />
Năng l ự c văn nh ấ t thi ế t ph ả i bao hàm năng l ự c đ ọ c di ễ n c ả m, <br />
không tìm đ ượ c ng ữ đi ệ u thích đáng trong gi ả ng bài, đó là s ự b ấ t l ự c c ủ a <br />
ng ườ i d ạ y văn. Có nhi ề u giáo viên có ki ế n th ứ c, nh ư ng khi gi ả ng bài, h ọ c <br />
sinh th ấ y chán, bu ồ n ng ủ , b ở i vì giáo viên đó thi ế u kh ẩ u khí, thi ế u h ơ i <br />
văn, ch ư a tìm đ ượ c ng ữ đi ệ u, gi ọ ng đi ệ u thích đáng cho mình. Nh ư v ậ y, <br />
ng ườ i d ạ y văn gi ỏ i, ngoài ki ế n th ứ c c ầ n ph ả i có ng ữ đi ệ u, gi ọ ng đi ệ u phù <br />
h ợ p, đa d ạ ng. Có nh ư v ậ y tác ph ẩ m m ớ i tác đ ộ ng sâu vào c ả m nh ậ n c ủ a <br />
h ọ c sinh. Và đây là m ộ t ph ầ n quan tr ọ ng đ ể phát huy ti ề m l ự c, kích thích <br />
h ứ ng thú h ọ c văn c ủ a h ọ c sinh. <br />
Ng ữ đi ệ u và gi ọ ng đi ệ u trong d ạ y h ọ c môn văn tr ướ c h ế t đ ượ c th ể <br />
hi ệ n ở kh ả năng đ ọ c di ễ n c ả m và ng ữ đi ệ u gi ả ng bài c ủ a giáo viên. V ậ y <br />
đ ọ c di ễ n c ả m là gì? Ngoài vi ệ c đ ọ c đúng quy t ắ c ng ữ pháp, đúng đ ặ c <br />
tr ư ng th ể lo ạ i. M ỗ i tác ph ẩ m có m ộ t gi ọ ng đi ệ u riêng. N ắ m b ắ t đúng <br />
gi ọ ng đi ệ u c ủ a tác ph ẩ m chính là n ắ m b ắ t đúng t ư t ưở ng và tình c ả m c ủ a <br />
tác gi ả . Tác ph ẩ m t ự s ự c ầ n đ ọ c khác v ớ i tác ph ẩ m tr ữ tình; đ ọ c đo ạ n đ ố i <br />
tho ạ i khác đo ạ n đ ộ c tho ạ i n ộ i tâm; đ ọ c văn t ả khác đ ọ c văn k ể , văn t ườ ng <br />
thu ậ t; đ ọ c văn chính lu ậ n khác v ớ i đ ọ c bài tùy bút… Tu ỳ t ừ ng văn b ả n c ụ <br />
th ể mà giáo viên và h ọ c sinh có th ể ch ọ n cho mình m ộ t “tông gi ọ ng” phù <br />
h ợ p.<br />
1.1. Đọc là cơ sở thâm nhập tác phẩm:<br />
Muốn cảm thụ được nội dung tác phẩm truyện nhất thiết phải đọc. Đọc sẽ <br />
kích thích quá trình tâm lí cảm thụ, tri giác tưởng tượng, xúc cảm, đưa người đọc <br />
vào thế giới tác phẩm.<br />
Đọc tác phẩm truyện là đọc cho sáng rõ ý nghĩ, tình cảm, thái độ của nhà <br />
văn, giáo viên dẫn dắt học sinh vào thế giới của tác phẩm truyện một cách dễ dàng. <br />
Hướng dẫn học sinh đọc đúng giọng điệu là thể hiện được cung bậc cảm xúc của <br />
tác giả.<br />
1.2. Đọc diễn cảm là một phương pháp đọc sáng tạo:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
8<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
a) Phương pháp đọc sáng tạo: là phương pháp tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật <br />
ngôn từ một cách sáng tạo chủ yếu bằng sự cảm thụ trực tiếp tác phẩm. Bản chất <br />
của đọc sáng tạo trước hết là đọc lời văn, đọc văn bản ngôn từ của tác phẩm<br />
b) Nội dung của phương pháp đọc sáng tạo: có 3 mức độ đọc đó là đọc đúng, <br />
đọc hay, đọc diễn cảm.<br />
Đọc đúng: là trả lại hoàn toàn đúng nội dung văn bản. Đọc đúng là giải <br />
quyết kĩ năng, năng lực ngôn ngữ cho học sinh, là không được đọc sai văn bản, là quá <br />
trình tri giác chính xác văn bản.<br />
Đọc hay: là bước đầu chuyển tiếp từ lĩnh vực ngôn ngữ sang lĩnh vực văn <br />
chương. Đọc đúng có nghĩa là đọc nghĩa còn đọc hay là đọc ra ý. <br />
Đọc diễn cảm: là hệ thống phương pháp đọc sáng tạo, bản chất của đọc <br />
sáng tạo là xác định mối quan hệ cảm xúc riêng tư của người đọc về giá trị nội dung <br />
và hình thức của tác phẩm. Đọc diễn cảm đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải có <br />
cảm xúc. <br />
Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức, thẩm mĩ cho <br />
các em học sinh, giúp các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn học làm cho các <br />
em yêu thích văn học từ đó có ý thức rèn luyện đọc diễn cảm.<br />
1.3. Các biện pháp rèn luyện phương pháp đọc đọc diễn cảm<br />
1.3.1 Đọc diễn cảm của thầy:<br />
Việc đọc diễn cảm của người giáo viên dạy văn có vai trò quan trọng trong <br />
việc hướng dẫn học sinh thâm nhập tác phẩm, nên người thầy cẩn phải có sự chuẩn <br />
bị kĩ, thầy phải đọc đúng, đọc hay, đọc thật diễn cảm, bộc lộ được cảm xúc của nhà <br />
văn. Người giáo viên có thể có nhiều hình thức hướng dẫn học sinh đọc: đọc mẫu, <br />
hướng dẫn học sinh đọc, vừa đọc vừa bình vừa tóm tắt tác phẩm, đọc phân vai.<br />
1.3.2 Đọc diễn cảm của học sinh:<br />
Yêu cầu học sinh phải đọc đúng, đọc diễn cảm ở nhà trước, khi đến lớp <br />
thầy hướng dẫn học sinh cách đọc, khơi gợi cảm xúc của các em, khích lệ các em <br />
đọc một cách hứng thú<br />
Có th ể xem đ ọ c di ễ n c ả m là ngh ệ thu ậ t c ủ a trình di ễ n. Đ ọ c di ễ n <br />
c ả m không ph ả i là “khoe gi ọ ng” mà là s ự th ể hi ệ n xúc đ ộ ng c ủ a trái tim . <br />
Di ễ n c ả m ở đây hoàn toàn không ph ả i là ở s ự u ố n éo đ ầ u l ưỡ i mà th ể hi ệ n <br />
nh ữ ng c ả m xúc n ộ i t ạ i c ủ a tâm h ồ n. <br />
Có th ể nói, rèn luy ệ n kĩ năng đ ọ c di ễ n c ả m là bi ệ n pháp h ữ u hi ệ u <br />
trong rèn luy ệ n c ả m th ụ tác ph ẩ m truy ệ n cho h ọ c sinh. <br />
2. Tóm tắt tác phẩm truyện:<br />
Sau khi HS đã đọc và nắm được nội dung tác phẩm, GV hướng dẫn HS tóm <br />
tắt VB đây là một khâu không thể thiếu trong việc cảm thụ tác phẩm truyện.<br />
2.1. Một số lưu ý khi tóm tắt tác phẩm truyện:<br />
Diễn đạt càng ngắn gọn, càng súc tích càng tốt, loại bỏ những thông tin <br />
không cần thiết khi tóm tắt.<br />
Văn bản tóm tắt phải luôn phản ánh trung thực nội dung văn bản gốc, <br />
không thêm thắt những nội dung không có trong văn bản gốc.<br />
Người tóm tắt cần diễn đạt theo cách riêng của mình, tránh đến mức tối đa <br />
dùng lại các câu, đoạn trong văn bản gốc. Nên dùng câu đủ thành phần. <br />
2.3. Một số kĩ năng cần áp dụng trong tóm tắt văn bản:<br />
<br />
9<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
Xác định ý chính, nội dung của mỗi đoạn văn và văn bản.<br />
Diễn đạt lại các ý chính và nội dung đó bằng một vài câu thích hợp.<br />
Dùng từ ngữ thích hợp để liên kết các câu lại với nhau thành một văn bản <br />
nhỏ.<br />
Khi tóm tắt cốt truyện, cần chú ý vị trí của các nhân vật và mối quan hệ <br />
tương tác giữa chúng. Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, có <br />
vai trò chi phối đối với các nhân vật khác và góp phần chủ yếu thể hiện nội dung, <br />
bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Bởi thế, cần quan tâm đến những bước ngoặt trên <br />
đường đời nhân vật chính. <br />
Ví dụ: Cốt truyện của truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) xoay quanh trục hai <br />
nhân vật điển hình Chí Phèo – Bá Kiến và diễn biến mối quan hệ giữa hai nhân vật <br />
này. Tóm tắt cốt truyện của Chí Phèo, phải dựa vào lai lịch, thân phận của Chí từ <br />
một đứa bé bị bỏ rơi đến đi ở, làm thuê rồi vô cớ bị cụ Bá đẩy đi ở tù, dựa vào <br />
những lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau khi ở tù về để thấy được quá trình tha hóa <br />
tất yếu của Chí khi gặp phải kẻ thống trị xảo quyệt như Bá Kiến, thấy được số <br />
phận bi thảm của kẻ trượt quá xa khỏi xã hội loài người. Mặt khác, khi tóm tắt <br />
truyện ngắn này, cần đặc biệt chú ý đến thời điểm Chí Phèo tình cờ gặp Thị Nở, <br />
được người đàn bà ấy thương yêu, chăm sóc. Người cố nông lương thiện với những <br />
ước muốn bình dị bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỉ dữ Chí Phèo sống dậy… Năm <br />
ngày đêm được làm người… Rồi Thị Nở đột ngột cự tuyệt chung sống. Sự kiện này <br />
khiến Chí Phèo vỡ lẽ, tự ý thức ra tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người ở mình <br />
để từ đó đi đến hành động trả thù quyết liệt cuối tác phẩm.<br />
Cần chú ý rằng các sự kiện, bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật không phải <br />
bao giờ cũng được bố cục theo trình tự thời gian bởi phụ thuộc vào cách tổ chức <br />
nghệ thuật của nhà văn. <br />
Ví dụ: Kim Lân mở đầu Vợ nhặt bằng miêu tả cuộc trở về lạ lùng của Tràng <br />
với người phụ nữ lạ tới căn nhà tồi tàn cuối xóm ngụ cư lúc cuối chiều. Sự xuất <br />
hiện của người phụ nữ đi sau Tràng đã khuấy động không khí tối sầm của xóm ngụ <br />
cư nghèo khổ, khiến mọi người phải chú ý, ngạc nhiên. Rồi chính Tràng cũng ngạc <br />
nhiên với việc mình đã có vợ. Tại sao có cuộc trở về ấy? Tại sao có những ngạc <br />
nhiên ấy? Đặt người đọc trước sự chờ đợi, từ đó, như để giải đáp, Kim Lân mới <br />
ngược dòng thời gian kể lại hai lần tình cờ gặp gỡ, tầm phơ tầm phào mà được vợ <br />
của Tràng. Cốt truyện được nhà văn tổ chức làm sao thể hiện có hiệu quả nghệ <br />
thuật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, làm sao lôi cuốn, hấp dẫn được người đọc. <br />
Đặc biệt, cách tổ chức cốt truyện, kết cấu tác phẩm thường gắn với sự lựa chọn <br />
điểm nhìn, lựa chọn nhân vật trần thuật. Nguyễn Trung Thành không đóng vai người <br />
kể chuyện để dựng lại trang sử bi hùng của làng Xô Man mà dành cho cụ Mết – một <br />
già làng, chính người trong cuộc kể lại cho con cháu nghe (truyện ngắn Rừng xà <br />
nu).<br />
Nguyễn Thi cũng chọn tình huống người lính trẻ Việt bị thương nặng sau <br />
trận đánh ác liệt, lúc mê, lúc tỉnh trên đường tìm về đơn vị, hồi tưởng lại những câu <br />
chuyện, những người thân trong gia đình mình (truyện ngắn Những đứa con trong gia <br />
đình). Đó là biện pháp xóa nhòa khoảng cách giữa người trần thuật với nội dung câu <br />
chuyện được trần thuật, đem đến cho người đọc cảm giác gần gũi, tin cậy. Gặp <br />
những cốt truyện như thế, người tóm tắt có thể tháo dỡ, sắp xếp, tổng hợp lại theo <br />
trình tự thời gian. Mặt khác, cũng có thể bám vào bố cục tác phẩm mà tóm tắt. Dù <br />
10<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
bằng cách nào cũng cần làm nổi bật được các sự kiện quan trọng, các chặng đường <br />
phát triển của nhân vật chính để giúp HS hình dung ra chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm.<br />
Đọc diễn cảm và tóm tắt văn bản có tác dụng quan trọng trong việc cảm thụ <br />
một tác phẩm truyện, góp phần không nhỏ trong việc mang lại hiệu quả cho giờ văn.<br />
III. CẢM THỤ TRUYỆN NGẮN TỪ GÓC ĐỘ TÌNH HUỐNG TRUYỆN<br />
Trong bài viết Truyện ngắn hôm nay (đăng trên báo Văn nghệ, số 48, ngày <br />
30/11/1991), Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra <br />
một tình huống nào đấy, từ tình huống ấy bật nổi một bản chất tính cách nhân vật <br />
hoặc bộc lộ một tâm trạng”. Nhà văn Nguyễn Kiên cũng cho rằng: “Điều quan trọng <br />
đối với truyện ngắn là phải lựa chọn được tình thế” (Bùi Việt Thắng, Bình luận <br />
truyện ngắn, NXB VH, H. 1999, tr.43). Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng quan niệm truyện <br />
ngắn phải “tạo ra các tình huống để nhân vật bộc lộ tính cách” (Bùi Việt <br />
Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB VH, H. 1999, tr.42). Như vậy, từ người nghiên <br />
cứu đến người sáng tác đều thừa nhận vai trò quan trọng của tình huống đối với sự <br />
thành công của một truyện ngắn. Tuy nhiên, việc khai thác, tìm hiểu, khám phá <br />
truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện chưa được sự quan tâm đúng mức của <br />
người dạy và người học nên việc cảm thụ tác phẩm truyện ngắn của người học <br />
chưa được sâu sắc.<br />
1. Khái quát về tình huống truyện trong truyện ngắn<br />
Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, <br />
nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại <br />
đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ <br />
sắc nét nhất.<br />
Phân loại tình huống cơ bản có 3 loại: tình huống hành động, tình huống tâm <br />
trạng, tình huống nhận thức.<br />
2. Phương pháp tiếp cận tình huống<br />
2.1. Xác định tình huống truyện :<br />
Đặt câu hỏi: Sự kiện nào bao trùm và chi phối toàn bộ thiên truyện này? Hay <br />
sự kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng lên toàn bộ truyện ngắn này?...<br />
Tổng hợp các tình tiết: Lướt qua những tình tiết chính và xác định một trong <br />
các tình tiết ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện, hay chúng chỉ <br />
là những thành tố nối kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn hơn, sự kiện ấy <br />
mới trùm lên tất cả?<br />
Tìm tên gọi để định danh. Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm được tên thích <br />
hợp thì xem như tình huống vẫn còn nằm ngoài tầm tay của ta vậy.<br />
2.2. Phân tích tình huống: Phân tích trên các bình diện cơ bản sau:<br />
Diện mạo của tình huống (bình diện không gian)<br />
Diễn biến của tình huống (bình diện thời gian)<br />
Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối đến tổ <br />
chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn)<br />
2.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống: <br />
Về quan niệm: Toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ ?<br />
Về cảm xúc: Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì ?<br />
<br />
Khi giảng dạy một tác phẩm truyện ngắn, sau phần Giới thiệu chung (giới <br />
thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả; giới thiệu về hoàn cảnh ra đời <br />
11<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
tác phẩm), trong phần Đọc – hiểu văn bản, GV thường hướng dẫn học tìm hiểu về <br />
tình huống truyện. Xuất phát từ tình huống truyện, tiến hành khai thác tác phẩm về <br />
các khía cạnh: nhân vật, kết cấu, nghệ thuật trần thuật,… Từ đó, hướng dẫn học <br />
sinh rút ra chủ đề tác phẩm.<br />
Ví dụ:Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân<br />
1. Xác định tình huống<br />
Sau khi lướt qua các tình tiết chính của truyện này, ta dễ dàng thấy rằng hạt <br />
nhân của truyện ngắn Vợ nhặt là một cuộc hôn nhân oái ăm, kì lạ. Và đó chính là cái <br />
"tình thế nảy ra truyện", cái tình huống của câu chuyện: Tràng – anh nông dân nghèo <br />
thô kệch, dân ngụ cư bỗng “nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.<br />
2. Phân tích tình huống truyện<br />
Việc Tràng “nhặt vợ” tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên đối với tất cả mọi người:<br />
+ Khi Tràng dẫn vợ về thì cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Trước hết là lũ trẻ. "Lũ <br />
ranh" ấy bỗng nhiên mất hẳn đi một bạn chơi, khi có đứa chợt nhận ra quan hệ của <br />
họ là "chông vợ hài". Người lớn thì ngớ ra "không tin được dù đó là sự thật". Khi đã <br />
rõ, họ tò mò thì ít mà ái ngại nhiều hơn: "Giời đất này còn rước cái của nợ đời về".<br />
+ Tiếp đến là bà cụ Tứ cũng quá đỗi ngạc nhiên: hoàn toàn không tin nổi <br />
không tin vào mắt mình, không tin vào tai mình (quái, sao lại chào mình bằng "u").<br />
+ Ngay cả Tràng vẫn không hết ngạc nhiên vì mình được vợ: chẳng những cứ <br />
đứng "tây ngây" giữa nhà tối hôm trước mà đến tận hôm sau, qua một đêm có vợ rồi <br />
nhưng "hắn cứ lơ lửng như người đi ra từ trong một giấc mơ".<br />
Tình huống “nhặt vợ” là tình huống oái ăm, kì lạ:<br />
+ Tràng một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ, <br />
bỗng dưng "nhặt" được vợ, mà lại là vợ theo không.<br />
+ Tràng lấy vợ vào lúc không ai lại đi lấy vợ giữa những ngày nạn đói đang <br />
lăm le cướp đi mạng sống của mỗi người.<br />
+ Một đám cưới thiếu tất cả mà lại như đủ cả (thiếu tất cả những lễ nghi tối <br />
thiểu nhất của một đám cưới, nhưng nó lại có cái quan trọng nhất, cốt lõi nhất: sự <br />
thương yêu gắn bó thực lòng).<br />
Tâm trạng của những nhân vật trước tình huống này chứa đầy những cảm xúc <br />
ngổn ngang, mâu thuẫn và các nhân vật có sự thay đổi về tính cách:<br />
+ Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trêu <br />
của số phận: có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà <br />
mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai con “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi <br />
sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ đáy lòng của bà mẹ chất chứa <br />
nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp nghèo không lối thoát. Trong lời nghẹn nghào tâm <br />
sự có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của <br />
người mẹ đối với con.<br />
+ Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục. Lúc đầu Tràng tỏ ra lo lắng <br />
trước cảnh nghèo “… thóc gạo này mà còn đèo bòng”. Sau đó, Tràng chấp nhận đưa <br />
vợ về ra mắt với tâm trạng lâng lâng hạnh phúc, ngượng ngịu, bối rối. Sau một ngày <br />
có vợ, Tràng cảm thấy vui sướng, hạnh phúc và “nên người”. Tràng nhận ra được <br />
trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, với mẹ, với vợ và những đứa con sau này. <br />
Tràng tin tưởng sự đổi đời ở tương lai.<br />
<br />
<br />
<br />
12<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
+ Người vợ nhặt: Trước khi làm vợ Tràng, chị liều lĩnh, chao chát. Khi về làm <br />
vợ, chị tỏ ra lễ phép, đảm dang, hiền hậu, biết thu vén gia đình và có hiểu biết về <br />
thời sự.<br />
3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện<br />
Tố cáo được tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói <br />
khủng khiếp, không chỉ cướp đi sinh mệnh của mấy triệu người Việt Nam, mà còn <br />
hạ thấp giá trị con người.<br />
Phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của con người: <br />
ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình <br />
và thương yêu đùm bọc lẫn nhau.<br />
Ví dụ: Tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi<br />
1. Xác định tình huống<br />
Đây là câu chuyện về gia đình của anh Giải phóng quân tên Việt. Nhân vật <br />
này rơi vào tình huống đặc biệt: trong một trận đánh, Việt bị thương phài nằm lại <br />
giữa chiến trường. Anh nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại, tỉnh lại rồi ngất đi. Trong <br />
những lúc tỉnh lại ngất đi đó, bao nhiêu kí ức về gia đình, về đồng đội, về bản thân <br />
cứ mồn một hiện về lung linh sống động trong tâm trí Việt.<br />
2. Phân tích tình huống<br />
Nhờ tình huống truyện, tác phẩm có một lối tự sự riêng. Lối tự sự, kể <br />
chuyện không hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu theo dòng hồi tưởng miên <br />
man đứt nối của Việt lúc bị thương nằm lại giữa chiến trường mênh mông bóng tối <br />
bóng tối của màn đêm, bóng tối do đôi mắt bị thương không thể nhìn thấy gì bên <br />
ngoài. Chính nhờ cách trần thuật này mà mạch truyện đi về thoải mái giữa quá khứ <br />
và hiện tại; giữa cái đang ở trước mặt với cái đã thành kỉ niệm xa xưa.<br />
Dòng ý thức của Việt chập chờn giữa những lần tỉnh, ngất ấy đã lần lượt <br />
tái hiện những gì đã qua, đang có trong đời anh. Dòng nội tâm anh đứt nối, nối đứt đã <br />
tái hiện bao nét sinh động cụ thể về chú Năm, má, chị Chiến:<br />
+Má:<br />
* Có cuộc sống cơ cực, nhọc nhằn, khổ đau.<br />
* Rất mực yêu thương chồng con và căm thù giặc sâu sắc: đi đòi đầu chồng; <br />
thương con hết mực nhưng rất nghiêm khắc (trong hồi ức chập chờn của Việt, má <br />
hiện lên đầu tiên: ghé lại, xoa đầu, đánh thức, lấy cơm cho Việt ăn…); luôn luôn <br />
nhắc nhở con về truyền thống gia đình và mối thù dân tộc; hun đúc, nuôi dưỡng ở <br />
con ý chí chiến đấu không mệt mỏi.<br />
+ Chú Năm:<br />
* Có giọng hò: tiếng hò vừa nhắc nhớ về truyền thống, thắp lên niềm tự hào <br />
về quê hương khó nghèo nhưng bất khuất, vừa như lời hiệu triệu, một tiếng trống <br />
quân thúc giục động viên thanh niên ra trận.<br />
* Giữ cuốn sổ gia đình, ghi từng ngày thay cho Việt và Chiến > giữ lửa yêu <br />
nước truyền cho các thế hệ.<br />
* Yêu nước, gắn bó với quê hương tha thiết, căm thù giặc sâu sắc.<br />
+ Chị Chiến:<br />
* Yêu thương và luôn nhường nhịn Việt, trừ việc giành đi bộ đội với Việt.<br />
* Mang những phẩm chất của má: đảm đang, tháo vát, sắp xếp chu đáo mọi <br />
việc trước khi lên đường nhập ngũ; bộc trực, quyết liệt, gan góc, quyết không đội <br />
trời chung với kẻ thù.<br />
<br />
13<br />
Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12<br />
<br />
Qua dòng hồi ức của nhân vật Việt, n