SKKN: Sử dụng tình huống pháp luật trong dạy bài Thực hiện pháp luật
lượt xem 5
download
Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Từ những tình huống vi phạm pháp luật trong thực tiễn, sẽ đem lại không khí học tập mới, từ đó nâng cao hứng thú cho học sinh trong việc học. Đồng thời nâng cao kỹ năng trả lời câu hỏi trắc nghiệm, khắc phục được các lỗi thường mắc phải. Giúp học sinh vận dụng kiến thức vào việc giải quyết tốt các tình huống thực tiễn, góp phần nâng cao kết quả học tập cho học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Sử dụng tình huống pháp luật trong dạy bài Thực hiện pháp luật
- MỤC LỤC Nội dung Trang Phần 1: Lời giới thiệu 2 Phần 2: Tên sáng kiến kinh nghiệm 3 Phần 3: Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh ngiệm 3 Phần 4: Ngày sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng lần đầu 3 Phần 5: Mô tả bản chất của sáng kiến kinh nghiệm 4 – 52 5.1. Cơ sở lí luận, cơ sở 4 thực tiễn 5.2. Thực trạng vấn đề 4 5.3. Nội dung sáng kiến 4 Phần 6: Thông tin bảo mật 55 Phần 7: Các điều kiện cần thết để áp dụng sáng kiến 55 Phần 8: Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp 55 dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có). Phần 9: Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp 55 dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả Phần 10: Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do 57 áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân Phần 11: Danh sách các tổ chức, cá nhân tham gia áp dụng sáng kiến 58 lần đầu 1
- Phần 1: LỜI GIỚI THIỆU Môn Giáo dục công dân là một môn khoa học xã hội, nhằm trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản về pháp luật, kinh tế chính trị xã hội và các phạm trù đạo đức. Có vai trò quan trọng trong việc hình thành các giá trị cơ bản, các kỹ năng, phẩm chất và năng lực mà mỗi công dân cần phải có. Trên thực tế do sức ép của thi cử và khối lượng lớn kiến thức của các môn học và tư tường còn coi đây là môn phụ trong nhà trường. Do vậy môn học ít được quan tâm, chú trọng. Năm 2017 là năm đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa môn Giáo dục công dân vào thi trung học phổ thông Quốc gia với hình thức thi trắc nghiệm khách quan. Nội dung thi năm đầu tiên nằm ở toàn bộ ở chương trình lớp 12, hai năm tiếp theo nội dung thi kiến thức lớp 12 (90%), lớp 11 tập trung ở 5 bài đầu (10%). Tuy nhiên, vì bộ môn mới đưa vào thi nên ngân hàng câu hỏi còn ít, kinh nghiệm ôn thi của giáo viên còn hạn chế. Việc trao đổi phương pháp ôn thi và xây dựng các chuyên đề ôn thi chưa được triển khai sâu rộng. Các câu hỏi và tình huống đưa vào trong học và ôn thi chỉ là các tình huống giả thiết, mô phỏng một hoàn cảnh thực tiễn cụ thể, do đó không thu hút được sự húng thú của người học và độ ghi nhớ kiến thức một cách tốt nhất. Bản thân là giáo viên dạy môn Giáo dục công dân nhiều năm dạy ôn thi, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm về quá trình dạy học, đặc biệt là đối với dạy học về kiến thức pháp luật. Đối với kiến thức pháp luật vốn dĩ khô khan, một số nội dung dài và khó hiểu, mà bản thân giáo viên lại chỉ thuyết trình hay truyền đạt kiến thức một chiều sẽ làm học sinh chán, gây mệt mỏi trong học. Do đó để phát huy sự tích cực của học sinh, năng lực pháp luật cũng như khả năng hiểu và vận dụng được kiến thức pháp luật vào thực tiễn, tôi đã mạnh dạn làm đề tài dạy học và ôn thi trung học phổ thông Quốc gia: “Sử dụng các tình huống pháp luật trong dạy bài Thực hiện pháp luật”. Trong đề thi trung học phổ thông Quốc gia của ba năm vừa qua, phần lớn câu hỏi được đưa ra ở bài 2. Thực hiện pháp luật trong chương trình Giáo dục công dân lớp 12. Bởi đây là phần nội dung quan trọng gắn liền với đời sống thực tiễn pháp luật mà mỗi giáo viên và cả học sinh cần nắm được. Hơn nữa việc sử dụng phương pháp truyền thụ kiến thức theo phương pháp truyền thống, khó nhấn mạnh được nội dung trọng tâm, không mở rộng kiến thức khó liên quan đến bài học. Đặc biệt là học sinh không hứng thú với bài dạy. Xu hướng đề của Bộ ra là gộp nhiều vi phạm pháp luật trong một tình huống buộc học sinh phải hiểu và nắm chắc kiến thức mới làm được bài. Để giúp học sinh hiểu biết đầy đủ về pháp luật và vận dụng kiến thức đã học vào giải bài tập trong đề thi đạt kết quả cao, tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu và đã áp dụng nội dung đề tài “Sử dụng tình huống pháp luật trong dạy bài Thực hiện pháp luật”. 2
- Phần 2: TÊN ĐỀ TÀI “SỬ DỤNG TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT TRONG DẠY BÀI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT” Bản thân tác giả Phần 3: LĨNH VỰC ÁP DỤNG Dạy học (môn Giáo dục công dân cho học sinh THPT) Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Từ những tình huống vi phạm pháp luật trong thực tiễn, sẽ đem lại không khí học tập mới, từ đó nâng cao hứng thú cho học sinh trong việc học. Đồng thời nâng cao kỹ năng trả lời câu hỏi trắc nghiệm, khắc phục được các lỗi thường mắc phải. Giúp học sinh vận dụng kiến thức vào việc giải quyết tốt các tình huống thực tiễn, góp phần nâng cao kết quả học tập cho học sinh. Phầ 4: NGÀY ÁP DỤNG LẦN ĐẦU Ngày: 10 / 9 / 2017 3
- Phần 5: MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 5.1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn a. Cơ sở lí luận. Để quản lí xã hội, mỗi nhà nước cần phải xây dựng hệ thống quy tắc xử sự chung áp dụng cho mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội, làm cho mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức diễn ra trong vòng một trật tự ổn định. Hệ thống quy tắc xử sự đó là pháp luật. Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của nhà nước. Toàn bộ chương trình giáo dục công dân lớp 12 là kiến thức về pháp luật cơ bản mà mỗi công dân cần phải biết, hiểu và vận dụng được. Học về pháp luật vốn dĩ khô khan, khó hiểu, do vậy phương pháp đưa tình huống pháp luật thực tiễn vào giảng dạy là một trong những cách dạy nhằm tăng hứng thú và hiệu quả cần đạt được. Tình huống trong dạy và ôn tập cho học sinh thi trung học phổ thông thường là các tình huống giả, mô phỏng thực tiễn chứ chưa áp dụng tình huống thực tiễn (vụ việc pháp luật) vào trong dạy và ôn tập. Vậy tình huống là gì? Tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một nơi, trong một thời gian, trên thực tế buộc người ta phải suy nghĩ, hành động, đối phó, giải quyết. Vậy tình huống được đưa vào trong giảng dạy là các tình huống xảy ra trên thực tế, được sử dụng làm tư liệu trong giảng dạy, nhằm giải thích nội dung kiến thức, ghi nhớ kiến thức và giải bài tập. b. Cơ sở thực tiễn *. Thuận lợi: Học sinh ngoan có ý thức học, trường có chất lượng đầu vào cao nên khả năng học và nắm bắt nội dung nhanh. Được nhà trường quan tâm tạo điều kiện để có thời gian ôn tập và giảng dạy cho học sinh. Nhiều năm thi Trung học phổ thông Quốc gia, môn GDCD của trường đạt điển cao, cụ thể: + Năm học 2016 – 2017 và năm học 2018 – 2019 đạt điểm cao đứng thư hai của tỉnh. + Năm học 2018 – 2019 , đạt điểm cao nhất tỉnh. Đội ngũ giáo viên phụ trách môn có trình độ và kinh nghiệm nhiều năm trong giảng dạy. *. Khó khăn: Trong phạm vi nhà trường THPT, kiến thức pháp luật truyền dạy cho học sinh chỉ dừng lại ở những nội dung kiến thức cơ bản nhất, thiết thực nhất nên không có nhiều các tài liệu hay các phương tiện hỗ trợ học tập khác. 4
- Nhiều học sinh chưa thực sự đầu tư, chú tâm trong việc học vì còn nghĩ đây chỉ là môn học “điều kiện” để qua tốt nghiệp. Trình độ chuyên môn của giáo viên không phải là những giáo viên chuyên pháp luật, do vậy còn khó khăn trong việc giải thích một số kiến thức pháp luật thực tiễn. Thời gian ôn tập cho thi Trung học phổ thông Quốc gia còn ít, do vậy khó khăn trong việc hệ thống các kiến thức trong tâm. 5.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến Khảo sát học sinh ở lớp 12D1; 12D2; 12D3; 12D4 ở trường THPT Yên Lạc cho thấy % số học sinh xử lý chưa làm tốt các các câu hỏi trắc nghiệm, các câu hỏi tình huống và các lỗi còn mắc phải như sau: Lớp 12D1 12D2 12D3 12D4 % 33,5% 41,6% 52,9% 57,1% Giáo viên ở các trường THPT nói chung và trường THPT Yên Lạc nói riêng chưa có nhiều tài liệu tham khảo về pháp luật và tình huống pháp luật. 5.3. Nội dung sáng kiến Đề tài: Sử dụng tình huống pháp luật trong dạy bài Thực hiện pháp luật a. Thực hiện pháp luật *. Kiến thức cơ bản Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được tiến hành phù hợp với quy định của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định. Thực hiện pháp luật có thể là việc thực hiện một thao tác nào đó nhưng đó cũng có thể là việc không thực hiện thao tác bị pháp luật cấm. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Sơ đồ hóa khái niệm: 5
- Nhà nước ban hành pháp luật để hướng dẫn hành vi, điều chỉnh cách xử sự của mỗi cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, cách thức hoạt động phù hợp với yêu cầu của nhà nước. Các ví dụ VD1: Khi tham gia giao thông, mọi người đi xe máy, xe đạp, ô tô đều tự giác dừng lại đúng nơi quy định khi có đèn đỏ, đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, các phương tiện tham gia giao thông đi đúng làn đường theo quy định. VD2: Cảnh sát giao thông lập biên bản xử phạt người tham gia giao thông vi phạm. Việc áp dụng pháp luật của cảnh sát giao đối với người vi phạm luật giao thông là thực hiện pháp luật. VD3: Người tham gia kinh doanh sản xuất, không kinh doanh, sản xuất hàng giả, hàng cấm Từ những việc làm trên thể hiện công dân tuân theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho những quy định đó được thực thi trong đời sống thực tiễn xã hội. Điều đó có nghĩa là pháp luật chỉ thực sự đi vào đời sống nếu mỗi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội cụ thể, trong hoàn cảnh, điều kiện cụ thể đều lựa chọn cách xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. *. Kiến thức mở rộng của thực hiện pháp luật Quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trong đó thực hiện pháp luật là giai đoạn tiếp theo sau khi văn bản pháp luật được ban hành và có hiệu lực. Nếu như việc xây dựng và ban hành pháp luật là quá trình đưa đời sống thực tiễn xã hội vào pháp luật, thì việc thực hiện pháp luật là quá trình ngược lại: Đưa pháp luật trở lại đời sống thực tiễn xã hội. b. Các hình thức thực hiện pháp luật Thực hiện pháp luật là quá trình thường xuyên trong cuộc sống, với sự tham gia của cá nhân, tổ chức, cơ quan được thể hiện dưới 4 hình thức sau: *. Sử dụng pháp luật 6
- KN: Là các cá nhân, tổ chức sử dụng đúng đắn các quyền của mình làm những gì mà pháp luật cho phép làm. Việc công dân sử dụng đúng đắn các quyền của mình làm những gì mà pháp luật cho phép là đã cụ thể hóa các quyền của mình trong thực tiễn. Đối với hình thức sử dụng pháp luật khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác ở chỗ: Chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền pháp luật cho phép theo ý chí của mình. Các ví dụ. VD1: Công dân đủ 18 tuổi được phép điều khiển xe máy 50cm3 trở lên. VD2: Công dân nam đủ 20 tuổi, nữ đủ 18 tuổi có quyền được kết hôn. VD3: Công dân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được tham gia kinh doanh. + Đối với các quyền đó công dân có thể thực hiện hoặc không thực hiện tùy theo theo mong muốn và ý trí của bản thân. *. Thi hành pháp luật KN: Là các cá nhân, tổ chức thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chủ động làm những gì mà pháp luật quy định phải làm. Thi hành pháp luật là cá nhân, tổ chức chủ động, tích cực thực hiện nghĩa vụ dưới hình thức “hành vi hành động” và cũng là những quy phạm mang tính bắt buộc đối với chủ thể phải làm. Các ví dụ. VD1: Trong đợt tuyển nghĩa vụ quân sự năm 2019 của huyện Yên Lạc, tại xã Bình Định những thanh niên nhận được lệnh gọi đã tự giác thực hiện khám sức khỏe sơ tuyển nghĩa vụ quân sự. VD2: Người tham gia giao thông tự giác đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe máy, xe mô tô trên đường. VD3: Người tham gia kinh doanh nộp thuế đúng kỳ hạn theo quy định của pháp luật. Trong các trường hợp trên chủ thể đã thực hiện hình thức thi hành pháp luật . Ngược lại chủ thể không thực hiện nghĩa vụ pháp luật phải làm theo quy định là không thi hành pháp luật. *. Tuân thủ pháp luật KN: Các cá nhân, tổ chức không làm những điều pháp luật cấm. + Thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động, được thể hiện dưới dạng “hành vi không hành động” dưới dạng các quy phạm cấm đoán. Tức là những quy định buộc chủ thể không được thực hiện những hành vi, việc làm nhất định. Các ví dụ VD1: Những người sản xuất, kinh doanh không sản xuất, kinh doanh hàng giả. VD2: Người tham gia giao thông không lái xe đi ngược đường một chiều, không lái xe khi đã uống rượu bia. Gọi là tuân thủ pháp luật. + Các chủ thể làm những điều mà pháp luật cấm là không tuân thủ pháp luật. 7
- *. Áp dụng pháp luật KN: Các cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, chấm dứt hoặc thay đổi việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức. + Là một hình thức vừa là thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước vừa là một hình thức thực hiện pháp luật và cũng là một giai đoạn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy định của pháp luật. + Là một hình thức mà chỉ các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật mới thực hiện. Các ví dụ VD1: Cán bộ tư pháp xã tiến hành làm thủ tục đăng kí kết hôn cho các cặp đôi nam, nữ đủ điều kiện kết hôn. Khi thủ tục kết hôn có hiệu lực thì khi đó quyền và nghĩa vụ pháp lí giữa vợ và chồng chính thức được bắt đầu (làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng). Khi vợ chồng không còn khả năng chung sống với nhau tòa án tiến hành thủ tục li hôn cho hai vợ chồng, khi đó quyền và nghĩa vụ vợ, chồng giữa hai người sẽ chấm dứt. + Trong trường hợp đó cá nhân, tổ chức chỉ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình thông qua hình thức áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước. VD2: Cảnh sát giao thông lập biên bản xử phạt người vi phạm luật giao thông VD3: Công an tỉnh ký quyết định cấp giấy phép lái xe cho công dân. + Các quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức không tự phát sinh, chấm dứt hoặc thay đổi nếu không có các văn bản, quyết định áp dụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tình huống 1: Ngày 21 / 2 / 2019, phát hiện nhóm thanh niên nam, nữ điều khiển xe mô tô trên đường phố, không đội mũ bảo hiểm, dàn hàng ngang, lạng lách, đánh võng. Hai đồng chí cảnh sát Nguyễn Quốc Đạt và Thiếu úy Lê Ngọc Tiến, thuộc Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Hoa Lư, yêu cầu dừng phương tiện, nhưng nhóm thanh niên không chấp hành và có hành động bấm còi inh ỏi, rú ga thách thức lực lượng làm nhiệm vụ. Nhóm thanh niên này sau đó kéo ga phóng vù vù trên đường. Trung úy Đạt và Thiếu úy Tiến xác định, nếu không ngăn chặn kịp thời hành vi của các đối thượng sẽ gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông nên đã quyết định truy bắt bằng được các đối tượng. Truy đuổi khoảng 2km, xe của hai chiến sĩ CSGT đã đuổi kịp và dừng 1 mô tô vi phạm, trên xe có 2 thanh niên. Lúc này, hai thanh niên trên xe xuống chống đối người làm nhiệm vụ, đồng thời hô hoán, vu vạ “công an đánh người”. Chiến sĩ Đạt và Tiến đã giữ bình tĩnh, đúng tư thế, lễ tiết, tác phong người Công an nhân dân trong khi thi hành nhiệm vụ. Hai thanh niên này sau đó đã kêu nhóm bạn đến, có hành vi chống đối, thách thức các chiến sĩ CSGT để giải cứu bạn. Trước thái độ thách thức chửi bới, vu khống của 2 đối tượng vi phạm cùng nhóm bạn đi cùng, hai chiến sĩ CSGT vẫn cương quyết lập biên bản, tạm giữ phương tiện để xử lý theo quy định của pháp luật. Ngày 24 /2/ 2019, Đại tá Đinh Ngọc Khoa, Phó Giám đốc Công an tỉnh Ninh Bình biểu dương, đánh giá cao tinh thần, thái độ ý thức, kiên quyết đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật vì sự bình yên, an toàn của người dân của cán bộ chiến sỹ lực lượng CSGT Hoa Lư. Thay mặt Giám đốc Công an tỉnh, Đại tá Khoa đã trao giấy khen cho Trung úy Đạt và Thiếu úy Tiến 8
- Câu hỏi: 1. Hành vi vi phạm của nhóm thanh niên đã vi phạm các hình thức pháp luật nào? 2. Việc Cảnh sát giao thông lập biên bản, thu giữ phương tiện đã thực hiện hình thức pháp luật nào? 3. Với mỗi hành vi vi phạm nhóm thanh niên sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lí như thế nào? Trả lời 1. Trước hết hành vi vi phạm của nhóm đối tượng được xét ở các lỗi vi phạm như sau: Hành vi không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển mô tô và khi cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe còn phóng vù ga bỏ chạy là không thi hành pháp luật ( không thực hiện nghĩa vụ mà công dân phải làm). Các hành vi lạng lách, đánh võng, rú ga thách thức, chửu bới, vu khống lực lượng chức năng là không tuân thủ pháp luật (làm những điều pháp luật cấm). 2. Phía cảnh sát giao thông: Sau khi nhóm thanh niên rú ga bỏ chạy, hai đồng chí đã đuổi theo và kịp thời ngăn chặn. Về góc độ cá nhân hai đồng chí đã thực hiện nghĩa vụ chủ động làm những gì mà pháp luật quy định phải làm (Thi hành pháp luật). Trước thái độ thách thức chửi bới, vu khống của 2 đối tượng vi phạm cùng nhóm bạn đi cùng, hai chiến sĩ CSGT vẫn cương quyết lập biên bản, tạm giữ phương tiện để xử lý theo quy định của pháp luật. Việc cảnh sát giao thông căn cứ quy định của pháp luật tiến hành lập biên bản người vi phạm phạm là thực hiện hình thức áp dụng pháp luật. 3. Căn cứ theo Nghị định 46/2016/NĐCP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt với hành vi điều khiển xe lạng lách, đánh võng. Theo quy định tại Khoản 10 của Điều 6 của Nghị định 46, người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy nếu gây tai nạn giao thông hoặc không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành công vụ khi lạng lách, đánh võng thì có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 14 triệu đồng. Ngoài việc xử phạt tiền, lái xe còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 3 tháng đến 5 tháng nếu tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần (Theo Điểm c, Khoản 12, Điều 6) Đối với hành vi chửu bới, chống đối, hô hoán vu khống cảnh sát đánh người. Căn cứ theo Điều 20, Nghị định 167/2013/NĐCP, ngày 12/1/2013 của Chính phủ. Điều luật này xác định: “Hành vi cản trở hoặc không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ; có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ; xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ bị phạt tiền từ 23 triệu đồng”. *. So sánh 4 hình thức thực hiện pháp luật Giống nhau: Đều là những hoạt động có mục đích nhằm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của người thực hiện. 9
- Khác nhau: Các hình thức Tuân thủ pháp Thi hành pháp Áp dụng pháp Sử dụng pháp Nội dung luật luật luật luật Các cá nhân, tổ Cá nhân, tổ Các cơ quan, là các cá nhân, chức không chức thực hiện công chức nhà tổ chức sử dụng làm những đầy đủ nghĩa nước có thẩm đúng đắn các điều pháp luật vụ, chủ động quyền căn cứ quyền của mình cấm làm những gì mà vào pháp luật để làm những gì mà pháp luật quy ra các quyết pháp luật cho định phải làm định làm phát phép làm Khái niệm sinh, chấm dứt hoặc thay đổi việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức. Là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, Các chủ thể lựa là nghĩa vụ mà chọn xử sự Thực hiện pháp các cơ quan, tổ những điều luật có tính Chủ động, tích chức nhà nước pháp luật cho chất thụ có thẩm quyền cực thực hiện phép. Đó có thể động và thể Bản chất pháp luật dưới tiến hành tổ là “hành vi hành hiện dưới hình thức “hành chức cho các động” hoặc dạng “hành vi chủ thể pháp vi hành động”. “hành vi không không hành luật khác thực hành động” tùy động”. hiện các quy quy định pháp định pháp luật. luật cho phép. Mang tính quyền lực nhà nước. Ví dụ Pháp luật cấm Pháp luật quy Khi A khởi kiện Ông Y viết bài lái xe sau khi định về nghĩa B ra tòa, tòa án tuyên truyền uống rượu, bia. vụ đóng thuế đó có trách kinh nghiệm Cấm sản xuất, thu nhập cá nhiệm xem xét phòng chống tàng trữ pháo nổ nhân/ thuế thu và thụ lý đơn cháy nổ cho bà trái phép. Do đó nhập doanh khởi kiện của con. Anh T đủ không làm nghiệp. A. 18 tuổi được những điều cấm Do đó, nếu Theo đó, tòa án điều khiển nói trên là tuân không thuộc được xem là cơ phương tiện xe 10
- trường hợp máy, xe mô tô có miễn thuế thì dung tích 50cm3 chủ thể đóng trở lên. Trong thủ pháp luật. thuế được xem quan “áp dụng những trường là “thi hành pháp pháp luật” hợp trên công luật”. dân sử dụng pháp luật. Chỉ cá nhân, cán Chủ thể thực bộ, cơ quan nhà Mọi chủ thể Mọi chủ thể hiện nước có thẩm quyền Tất cả các loại quy phạm vì nhà Thường được Thường được Thường được nước có nghĩa thể hiện dưới thể hiện dưới thể hiện dưới vụ cũng như những quy Hình thức thể dạng những quy dạng những quy quyền hạn tổ phạm trao hiện phạm cấm đoán. phạm bắt buộc. chức cho các quyền. chủ thể khác các quyền của thực hiện pháp công dân. luật. Các chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và áp dụng pháp hiện quyền Bắt buộc luật là những hình thức mà mọi chủ thể đều bắt buộc được pháp luật thực hiện phải thực hiện theo quy định pháp luật mà không có sự cho phép tùy lựa chọn. theo ý chí của mình, phụ thuộc vào sự lựa chọn của mình. Sơ đồ tư duy các hình thức thực hiện pháp luật: 11
- c. Vi phạm pháp luật *. Kiến thức cơ bản Vi phạm pháp luật có 3 dấu hiệu cơ bản Thứ nhất: là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật tức là cá nhân, tổ chức xử sự trái với quy định của pháp luật. Hành vi trái pháp luật đó được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động Ví dụ về hành vi vi phạm thể hiện bằng hành động là “Lái xe đi ngược đường một chiều”. Ví dụ về hành vi vi phạm thể hiện bằng không hành động là “Tôi không t ̣ ố giác tội phạm”. Thứ hai: Do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện Người có năng lực pháp lý Thứ ba: Người vi phạm pháp luật phải có lỗi. Lỗi thể hiện thái độ của người biết hành vi của mình là sai, trái pháp luật có thể gây hậu quả không tốt nhưng vẫn cố ý làm hoặc vô tình để mặc cho nó xảy ra. Ví dụ về lỗi cố ý: cố ý vượt đèn đỏ. Ví dụ về lỗi vô ý: y tá tiêm nhầm thuốc cho bệnh nhân. *. Kiến thức mở rộng Hành vi vi phạm pháp luật thể hiện bằng không hành động Điêu 390 ̀ ̣ ̣ ̀ ự 2015 quy đinh về hành vi không tố giác tội phạm như sau: Bô luât hinh s “1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.” 12
- Như vậy một hành vi phạm pháp luật phải được thể hiện ra bằng hành động cụ thể hoặc không hành động không làm điều pháp luật quy định phải làm. Trong trường hợp chủ thể mới có ý định nhưng chưa thực hiện ra bằng hành động thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện + Đối với cá nhân năng lực trách nhiệm pháp lý được hiểu là khả năng của người đạt một độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật, có thể nhận thức và điều chỉnh được hành vi của mình, tự quyết định cách cư xử của mình, do đó phải độc lập chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện. + Năng lực trách nhiệm hình sự của cá nhân bao gồm năng lực nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình, khả năng điều khiển hành vi đó và khả năng gánh lấy hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự từ hành vi nguy hiểm gây ra. Như vậy, năng lực trách nhiệm hình sự được hợp thành từ hai yếu tố: Khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, tuổi chịu trách nhiệm hình sự. + Năng lực trách nhiệm hình sự được hình thành trên hai cơ sở: sự phát triển sinh học của cơ thể và đời sống xã hội. Bộ luật Hình sự không quy định một người như thế nào là thoả mãn điều kiện về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi mà chỉ đề cập đến trường hợp người mất khả năng nhận thức và mất khả năng điều khiển hành vi. Dấu hiệu để nhận biết một người không có năng lực trách nhiệm hình sự ở góc độ này là: dấu hiệu y học (bệnh lý) và dấu hiệu tâm lý. Điều 13 Bộ luật Hình sự quy định: “Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự 1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. 2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.” + Độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí nhà nước ta quy định như sau: + Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. + Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, phải chịu trách nhiệm hành chính do cố ý thực hiện vi phạm hành chính. Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Người vi phạm có lỗi Lỗi thể hiện dưới các hình thức sau: + Thứ nhất: Lỗi cố ý trực tiếp; lỗi cố ý trực tiếp được quy định tại Khoản 1 Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. “Theo đó người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nếu người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.” Ví dụ: Ngày 15/10, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội đã hoàn tất kết luận điều tra vụ anh trai thảm sát gia đình em trai khiến 4 người chết, 1 người bị thương tại huyện Đan Phượng, đồng thời đề nghị truy tố bị can Nguyễn Văn Đông (Sinh năm 1966, trú tại xã Hồng Hà, 13
- huyện Đan Phượng, Hà Nội) tội danh giết người. Bị can Đông đã trực tiếp cầm dao chém vào những người nhà ông Hải (em trai ông Đông) làm hai vợ chồng ông Hải, con gái và cháu nội ông Hải chết. Con dâu ông Hải bị thương nặng cấp cứu kịp thời nên qua khỏi. Trong tình huống, hành vi vi phạm pháp luật của ông Đông thể hiện động cơ giết người rất rõ ràng. Hành vi vi phạm pháp luật của ông Đông thể hiện lỗi cố ý trực tiếp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. + Thứ hai: Lỗi cố ý gián tiếp Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra. Khoản 2 Điều 10 Bộ luật Hình sự: “2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.” VD: Trong vụ án nữ sinh đi giao gà bị sát hại. Đối tượng Nguyễn Thị Thu biết rõ các đối tượng Bùi Văn Công, Vì Văn Toán, Vương Văn Hùng,… bắt, giam giữ và hãm hiếp nữ sinh Cao Mỹ D. Nhưng Thu đã không ngăn cản hay làm gì đó cứu giúp Cao Mỹ D và hậu quả là D bị chết. Việc làm của Thu không trực tiếp gây hậu quả, không mong muốn hậu quả xấu sảy ra nhưng đã để mặc cho nó xảy ra. Trong tình huống này Thu có lỗi và là lỗi cố ý gián tiếp. + Thứ ba: Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự: “2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.” Về mặt lý chí: người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Về ý chí chủ quan: người phạm tội khi thực hiện hành vi đáng ra “phải thấy trước và có thể thấy trước” hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra. Ở hình thức lỗi vô ý do cẩu thả, người phạm tội không nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Người phạm tội không nhận thức được khả năng gây ra hậu quả từ hành vi của mình và cũng không nhận thức được hậu quả xảy ra. VD1: Bảo vệ ngủ quên dẫn đến tài sản của công ty bị mất trộm. Người đi ngang qua rừng vứt tàn thuốc lá làm cháy rừng. Người phạm tội có thể nhận thức khả năng gây ra hậu quả từ hành vi của mình nhưng không nhận thức được hậu quả xảy ra. VD2: Một người băng ngang đường một cách vô thức (không nhìn trước nhìn sau) làm cho hai xe chạy ngược chiều nhau vì tránh người này mà xảy ra tai nạn làm hai người lái xe tử vong. Lỗi vô ý do cẩu thả còn được xác định với điều kiện là người phạm tội “phải thấy trước” và “có thể thấy trước” hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra. “Phải thấy trước” ở đây là quy định của pháp luật buộc họ khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện đó bắt buộc phải thấy hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội. “Có thể thấy trước” có thể hiều là với độ tuổi, năng lực trách nhiệm pháp lý, trình độ văn hoá, khả năng chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, kiến thức xã hội,…của một người bình thường, thì người thực hiện hành vi có thể thấy trước hậu quả của hành vi đó. + Thứ tư: Lỗi vô ý do quá tự tin. 14
- Khoản 1 Điều 11 Bộ luật Hình sự. Lỗi vô ý do quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Dấu hiệu của lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin Về lí trí: Người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thể hiện ở chỗ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra. Tuy nhiên, lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin và lỗi cố ý có sự giống nhau một cách tương đối bởi người phạm tội ở trường hợp vô ý vì quá tự tin thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra nhưng đồng thời lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra. Như vậy, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở đây thực chất chỉ là sự cân nhắc đến khả năng hậu quả đó xảy ra hay không và kết quả người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Đối với người phạm tội ở trường hợp vô ý vì quá tự tin khả năng hậu quả xảy ra và khả năng hậu quả không xảy ra đều là khả năng thực tế nhưng người phạm tội tin vào khả năng hậu quả không xảy ra khi quyết định xử sự. Chính sự tin tưởng này thể hiện người phạm tội đã không nhận thức được một cách đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự không mong muốn này có điểm khác so với sự không mong muốn ở trường hợp cố ý gián tiếp. Nếu trường hợp cố ý gián tiếp người phạm tội không mong muốn nhưng đã chấp nhận khả năng hậu quả xảy ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi thì ở trường hợp lỗi vô ý vì quá tự tin, sự không mong muốn hậu quả của người phạm tội gắn liền với việc người đó đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin đã cân nhắc, tính toán và đã cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Sự cân nhắc, tính toán này có thể dựa vào những căn cứ như tin tưởng vào sự khéo léo, sự hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kĩ thuật của mình hoặc tin vào những tình tiết khách quan bên ngoài khác. VD1: Người lái xe tin rằng mình sẽ vượt qua được đường sắt trước khi tàu đến, và vội vàng cố gắng vượt nên bị mắc bánh xe vào đường ray. VD2: Người thợ săn tin rằng mình sẽ bắn trúng con thú, không để mũi tên lạc vào người nhưng cuối cùng mũi tên không trúng vào đích mà lại trúng vào người và gây thương tích… Sự tin tưởng này của người phạm tội tuy có căn cứ nhưng những căn cứ đó đều không vững chắc. Người phạm tội đã đánh giá không đúng tình hình thực tế. Sự tin tưởng của họ là sự tin tưởng quá mức so với thực tế. Từ những dấu hiệu được phân tích trên đây, có thể rút ra kết luận: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. d. Trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm pháp lý được hiểu là những nghĩa vụ pháp lý được đề cập đến trong một quan hệ pháp luật được phát sinh. VD1: Anh A vay tiền của bà B số tiền là 200.000.000 đồng, như vậy khi xác lập giao dịch vay tiền anh A đã có trách nhiệm dân sự là phải trả tiền cho bà B với thời hạn do hai bên thoả thuận. KN: Trách nhiệm pháp lí là việc chủ thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý theo nghĩa này khi họ vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Trách nhiệm pháp lý được thể hiện trong sơ đồ tư duy sau: 15
- Từ đó giáo dục ở họ ý thức tôn trọng pháp luật, củng cố niềm tin tính nghiêm minh của pháp luật, khuyến khích mọi người tích cực đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật. Mỗi hành vi vi phạm pháp luật thì bị xử phạt một lần ở tại thời điểm vi phạm (vi phạm nhiều lần thì bị phạt nhiều lần) và có thể phải chịu nhiều trách nhiệm pháp lí về một hành vi vi phạm. VD2: Hành vi vượt đèn đỏ sẽ bị xử phạt hành chính, nếu đâm vào người khác làm họ bị thương thì phạt thêm hình phạt dân sự đó là bồi thường. Ngay sau khi vi phạm đã bị lập biên bản xử phạt mà tiếp tục vi phạm mới thì sẽ áp dụng hình thức xử phạt mới cộng lại. Tình huống 2: Cảnh sát giao thông phạt hai bố con bạn A vì cả hai đều lái xe máy đi ngược đường một chiều. Bố bạn A không chịu nộp phạt vì lí do ông không nhận ra biển báo đường một chiều, bạn A mới 16 tuổi, còn nhỏ, chỉ biết đi theo ông nên không đáng bị phạt. Câu hỏi: 1. Lí do mà bố bạn A đưa ra có xác đáng không? 2. Cảnh sát giao thông phạt cả hai bố con bạn A có đúng không? 3. Bạn A có phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình không? 4. Họ chưa gây ra tai nạn gì, vậy cảnh sát căn cứ vào đâu để phạt tiền họ? Trả lời 1. Bạn A mới 16 tuổi chưa đủ tuổi được điều khiển xe máy. Hành vi lái xe máy đi ngược đường một chiều được quy định tại Điểm i khoản 4 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ – CP. 16
- “Phạt tiền từ 300 400 nghìn đồng với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và xe gắn máy: Nếu đi ngược chiều trên đường một chiều và đi ngược chiều trên đường có biển “Cấm đi ngược chiều". Như vậy căn cứ quy định của Nghị định 46 của Chính phủ thì hành vi lái xe máy đi ngược đường một chiều của hai bố con bạn A là hành vi vi phạm pháp luật và được thể hiện bằng hành động cụ thể. Lỗi vi phạm của hai bố con bạn A là lỗi vi phạm do cố ý. Do vậy lí do mà bố bạn A đưa ra là không xác đáng Cảnh sát giao thông phạt hai bố con bạn A là đúng theo quy định của pháp luật. 2. Người đủ từ 14 đến 16 tuổi bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm hành chính do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Do đó bạn A đủ 16 tuổi và phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi vi phạm hành chính do mình gây ra. 3. Hành vi đi ngược đường một chiều của hai bố con chưa gây ra tai nạn nhưng đó là hành vi vi phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước, phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử phạt hành chính của cảnh sát giao thông. Cụ thể là họ phải gánh chịu thiệt hại về vật chất, nộp tiền phạt. Việc cảnh sát lập biên bản xử phạt kịp thời, đã chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật ngăn chặn không để họ tiếp tục vi phạm hoặc gây tai nạn. Cảnh sát căn cứ vào quy định của pháp luật để ra quyết định xử phạt đối người có hành vi vi phạm. Tình huống 3: Ngày 20/ 5 2018, chị Th trên đường đón con đi học về, chị nhìn gương hậu thấy cảnh sát giao thông phía sau. Lúc ấy chị Th không đội mũ bảo hiểm. Do đường đông và tắc nên khi chị Th chạy xe được 1 km và đến điểm dừng chị Th xuống xe (trong thời gian trước khi xuống xe, chị Th vừa đi vừa với mũ bảo hiểm và đội lên đầu). Khi xuống xe có nhiều người dân nhìn thấy chị Th có đội mũ bình thường. Khoảng 3 phút sau, cảnh sát giao thông đuổi theo mới đến được chỗ chị Th. Khi ấy chị Th lại cởi mũ, tháo quai bỏ xuống xe rồi. Câu hỏi: 1. Trường hợp chị Th có bị coi là vi phạm pháp luật không? 2. Cảnh sát giao thông có được phép bắt và lập biên bản chị Th không? 3. Chị Th chưa gây ra tai nạn gì, cảnh sát giao thông nhân danh ai và căn cứ vào đâu để phạt tiền chị? Trả lời 1. Tại thời điểm chị Th điều khiển xe máy là không đội mũ bảo hiểm, đã bị công an giao thông phát hiện. Do vậy, dù sau đó, tại thời điểm công an dừng xe để xử lý, chị đã đội mũ bảo hiểm thì chị vẫn bị xử phạt về hành vi không đội mũ bảo hiểm trước đó. Pháp luật giao 17
- thông quy định người tham giao thông khi đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm, đây là quy định bắt buộc cho tất cả mọi người ai cũng phải thực hiện. Trong tình huống chị Th không đội mũ bảo hiểm ngay từ khi bắt đầu điều khiển xe, mà chỉ khi gặp công an giao thông mới đội mũ bảo hiểm. 2. Vì vậy, trong trường hợp này, cảnh sát giao thông hoàn toàn có quyền bắt và lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính đối với chị Th. 3. Mặc dù chị Th chưa gây ra tai nạn gì nhưng cảnh sát giao thông nhân danh pháp luật, căn cứ vào quy định của pháp luật để xử phạt hành chính đối với hành vi không đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy. Tại khoản 3 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐCP như sau: “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm hoặc đội muc không cài quai, cài quai không đúng cách.” *. Bảng tổng hợp các lỗi vi phạm Các lỗi Vô ý do quá tự Cố ý trực tiếp Cố ý gián tiếp Vô ý do cẩu thả Tiêu tin chí Căn cứ Khoản 1 Điều Khoản 2 Điều Khoản 2 Điều Khoản 1 Điều pháp lý 10 Bộ luật Hình 10 Bộ luật Hình 11 Bộ luật Hình 11 Bộ luật Hình sự 2015 sự 2015 sự 2015 sự 2015 Người phạm tội Người thực hiện Người phạm Lỗi vô ý do quá nhận thức rõ hành hành vi nguy hiểm tội không tự tin là trường vi của mình là cho xã hội nhận thấy trước hành vi hợp người nguy hiểm cho xã thức rõ hành vi của mình có thể phạm tội tuy hội, thấy trước của mình là nguy gây ra hậu quả thấy trước hành hậu quả của hành hiểm cho xã hội, nguy hại cho xã vi của mình có vi đó và mong thấy trước hậu hội, mặc dù phải thể gây ra hậu Khái muốn hậu quả quả của hành vi đó thấy trước và có quả nguy hại niệm xảy ra. có thể xẩy ra, thể thấy trước cho xã hội tuy không mong hậu quả đó. nhưng cho rằng muốn nhưng vẫn hậu quả đó sẽ có ý thức để mặc không xảy ra cho hậu quả xảy hoặc có thể ra ngăn ngừa được. Về mặt Nhận thức rõ tính Nhận thức rõ tính Phải thấy trước Người phạm tội lý trí chất nguy hiểm chất nguy hiểm hậu quả nhưng nhận thức được cho xã hội của cho xã hội của lại không tính chất nguy hành vi mà mình hành vi mà mình thấy trước được hiểm cho xã hội 18
- thực hiện, thấy thực hiện, thấy hậu quả đó của hành vi của trước hành vi đó trước hành vi đó mình, thể hiện có thể gây hậu có thể gây hậu ở chỗ thấy quả nghiêm trọng quả nghiêm trọng trước hậu quả cho xã hội cho xã hội nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra. Nhưng đồng thời lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra Sự lựa chon hanh ̣ ̀ Người phạm Người phạm tội Người phạm tội ̣ ̣ ̀ vi pham tôi la tội không mong khi thực hiện hành với lỗi vô ý vì sự lựa chon duy ̣ muốn hậu quả vi đáng ra phải quá tự tin đã cân ̉ ̉ ựa nhât, chu thê l ́ xảy ra, tuy nhiên thấy trước và có nhắc, tính toán ̣ chon hanh vi pham ̀ ̣ để thực hiện mục thể thấy và đã cho rằng Về mặt ̣ ̀ ̉ ̉ mong tôi vi chu thê đích này, người trước hậu quả hậu quả sẽ ý chí muôń hanh vi đo ̀ ́ phạm tội để mặc nguy hiểm cho xã không xảy ra hậu quả nguy hội sẽ xảy ra hoặc có thể hiểm cho xã hội ngăn ngừa mà hành vi của được. mình có thể gây ra Nguyên Do cố ý Do cố ý Do cẩu thả Do quá tự tin nhân Trách nhiệm Cao nhất Cao hơn Thấp hơn Thấp hơn hình sự Ví dụ Nguyễn Viết Anh B thợ trở tôn Anh A là kế toán Chị H bán sữa Quyết, sinh năm lợp nhà, do vô tình doanh nghiệp, khi đã hết hạn sử 1994, tại thành đã để tấm tôn nhập dữ liệu, anh dụng cho người phố Vinh , tỉnh quyệt vào cháu bé A đã sơ ý bỏ sót dùng, chị nghĩ Nghệ An đã bóp T đang đi xe đạp. một số 0 trong số rằng sữa mới cổ người vợ sắp Hậu quả là cháu T tiền cần chuyển hết hạn một vài cưới của mình là bị tôn cứa vào cổ cho đối tác, hành ngày uống sẽ chị Ng. T. Ph. T. đứt mạnh máu vi của anh A đã không ảnh cho đến chết. Lý dẫn đến tử vong. khiến công ty hưởng gì. do, Quyết xem Trong trường hợp thiệt hại về tài Nhưng sự tự tin, được tin nhắn với trên lỗi cố ý gián sản. sự tính toán của lời lẽ ngọt ngào từ tiếp chị H vượt quá một thanh niên tên thực tế đã dẫn D nhắn đến điện đến người sử thoại của vợ dụng sữa bị ngộ mình. độc, ảnh hưởng 19
- sức khỏe. e. Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí Trên thực tế, các loại vi phạm pháp luật xảy ra khá đa dạng. Căn cứ vào đối tượng bị xâm phạm, mức độ và tính chất nguy hiểm do hành vi gây ra cho xã hội, vi phạm pháp luật được chia thành bốn loại vi phạm pháp luật và tương ứng với mỗi loại vi phạm là loại trách nhiệm pháp lí. *. Vi phạm hình sự Kiến thức cơ bản KN: Vi phạm hình sự là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm được quy định tại bộ luật hình sự. Tính chất: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm Hành vi phạm tội được coi là tội phạm khi có đủ các dấu hiệu vi phạm và bị truy tố trách nhiệm hình sự. Kiến thức mở rộng + Tội phạm: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong bộ luật hình sự + Phạm tội: Là một người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng có phải là tội phạm hay không thì cần phải căn cứ vào độ tuổi và năng lực trách nhiệm pháp lí. Giả sử cháu B phạm tội giết người khi mới 13 tuổi, không thể trở thành tội phạm mặc dù đó là hành vi phạm tội (tội giết người) Tội phạm chia làm 4 loại: Tội phạm ít nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội. VD1: Tội giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng, … trái pháp luật. “Quy định tại Điểm a, khoản 1 Điều 176 – Bộ luật Hình sự”. VD2: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp “Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự”. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội này là đến ba năm tù. Tội phạm nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội. VD1: Tội mua bán phụ nữ “Quy định tại khoản 1 Điều 119 Bộ luật Hình sự” VD2: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản “ Quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự”. VD3: Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em. “Quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ luật Hình sự”… Mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội này là đến bảy năm tù. Tội phạm rất nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội. VD1: Tội vô ý làm chết người. “Quy định tại khoản 2 Điều 98 Bộ luật Hình sự” VD2: Tội hiếp dâm. “Quy định tại khoản 2 Điều 111 Bộ luật Hình sự”, VD3: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một số biện pháp tạo xúc cảm lịch sử trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975
34 p | 777 | 224
-
SKKN: Truyền thụ kĩ năng sử dụng máy tính bỏ túi giúp học sinh học tốt môn Toán
20 p | 601 | 100
-
SKKN: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học và sửa chữa đồ dùng dạy học bộ môn Vật lí ở trường THCS
11 p | 683 | 73
-
SKKN: Phương pháp dạy học nêu tình huống có vấn đề khi dạy tiết 19 “Sự chuyển hoá và bảo toàn cơ năng”
12 p | 466 | 53
-
SKKN: Cách tính nhẩm nhanh bình phương các số tự nhiên từ 0 đến 100 – Trường THCS Đông Thanh
8 p | 329 | 43
-
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học khám phá nhằm lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính trong tiết 50 - bài 47 sách giáo khoa Sinh học 11 nâng cao: Điều khiển sinh sản ở động vật - mục II: Sinh đẻ có kế hoạch ở người
13 p | 209 | 30
-
SKKN: Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa Ngữ văn THPT
10 p | 211 | 16
-
SKKN: Sử dụng đồ dùng dạy học phân môn Tập đọc lớp 2
7 p | 271 | 13
-
SKKN: Sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học các lớp 1, 2, 3
16 p | 60 | 9
-
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử lớp 8, phần lịch sử thế giới cận đại (từ giữa thế kỉ XVI đến năm 1917)
13 p | 113 | 8
-
SKKN: Giảng dạy tích hợp chuyên đề cacbohiđrat theo định hướng phát triển năng lực học sinh
45 p | 72 | 6
-
SKKN: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 khắc phục lỗi sử dụng quan hệ từ
30 p | 42 | 4
-
SKKN: Rèn luyện kĩ năng và tư duy sáng tạo cho học sinh khi sử dụng tính đơn điệu của hàm số để giải hệ phương trình
22 p | 65 | 2
-
SKKN: Hướng dẫn học sinh lựa chọn hệ số thích hợp khi sử dụng phương pháp tích phân từng phần
21 p | 45 | 2
-
SKKN: Sử dụng các tính chất trong hình học phẳng để giải một số bài toán trong đề thi TN THPT quốc gia và thi HSG tỉnh Thanh Hóa
15 p | 49 | 2
-
SKKN: Sử dụng giá trị lớn nhất, nhỏ nhất để giải các bài toán Sinh học, Y học, Thể thao, Kinh tế và các môn Khoa học khác
26 p | 55 | 1
-
SKKN: Sử dụng máy tính cầm tay tìm nghiệm của phương trình vô tỉ bằng phương pháp nhân liên hợp
19 p | 48 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn