Sự ra đời của hệ Mặt Trời
Việc tìm kiếm quá khứ của hệ Mặt Trời đã xuất hiện và trthành một
vấn đề hấp dẫn tnhững thế k18,19 với nhiều cuộc tranh cãi. Việc nghiên
cứu về sra đời của hệ Mặt Trời với các hành tinh của cùng các vtinh,
các tiu hành tinh, sao chi, thiên thạch đòi hỏi phải trả lời được nhiều
câu hỏi về cấu trúc cũng như những tính chất hoá mà chúng ta đã biết như:
Tại sao các hành tinh cùng một mặt phẳng q đạo và ti sao chúng
chuyển động theo cùng một hướng, yếu tố nào y ra s liên quan giữa s
quay của Mặt Tri và các hành tinh hay nguyên nhân sự phân bố xung lượng
từ Mặt Trời tới các hành tinh quay quanh nó là gì …
Nlực trả lời các câu hỏi này đã dn đến nhiều ý tưởng và githuyết
khác nhau về sự hình thành hệ hành tinh ca chúng ta.
Các lí thuyết cổ điển
Trước hết là thuyết tinh vân do Immanuel Kant* ng lập được
hoàn thin bởi Laplace* vào cuối thế kỉ 18. Thuyết này cho rng hệ Mặt
Trời ban đầu chỉ là một đám tinh vân (nebula) bao gồm kvà bụi. Đám tinh
vân y tquay quanh trục một cách chậm chạp. Mọi vật thể đều lực hp
dẫn hướng m - tức là lực hấp dẫn hướng thẳng vào m vật thể. Lực này
làm đám tinh n quay ngày một nhanh, mật độ vật chất ng lên do thtích
gim xuống, tinh vân tlại thành một thiên thdạng cầu đó chính Mặt
Trời. Khối cầu Mặt Trời tiếp tục quay nhanh. Một bphận vật chất nhn
được lực li m đủ ln để thắng được hấp dẫn vào m tách ra khỏi Mặt Trời
khai trở thành các vành vật chất (ring). Trong mỗi vành này, hẫp dẫn lại
đóng vai trò tập hợp vật chất thành các khi cu lớn, đó là các hành tinh. S
việc diễn ra tương tự đối với việc hình thành các vtinh từ sự quay của hành
tinh. Việc tách vành vật chất thành các thiên thnhỏ n được dừng lại khi
lực li m sinh ra do sự quay của thiên thkhông đlớn để thắng được hấp
dẫn bản thân của thiên thđó. thuyết này kng gii thích được yếu tố về
sự phân bố xung lượng của các hành tinh khi chuyn động trên quĩ đạo
Với cgng giải thích yếu tố này, đầu thế kỉ 20 đã 2 thuyết được
đề ra với cùng một ý tưởng chung là do stương tác ca một ngôi sao di
chuyển gần Mặt trời gây ra sự xuất hin các hành tinh.
thuyết va chạm do Chamberlin* Moulton* đề ra vào những m
đầu tiên của thế k20 cho rằng đã một ngôi sao đi qua và thđã va
chạm với Mặt Trời. Sva chạm này y ra nhng đợt triều (như thuỷ triu
trên Trái Đất) lớn trên b mặt của Mặt Trời. Các chấn động đó làm một lớp
vật chất tách khỏi Mặt Trời và chuyển động trên các quĩ đạo elip. Khí và bi
tập hợp lại trên mỗi qđạo tạo ra những thiên thrắn, các quĩ đạo dần đi
vào ổn định, các thiên thể rắn này trở thành các hành tinh.
m 1918, James Jeans* Harold Jeffreys* đề xuất thuyết triều, là
một biến thể khác của thuyết va chạm nói trên. Githuyết này nói rng
trên b mặt Mặt Trời đã xuất hiện một đợt triều lớn do một ngôi sao đi qua
gần nó. Sức hút hấp dn của ngôi sao này cuốn kvà bụi từ Mặt Trời
khai thành các dòng chy với khối lượng kích thước khác nhau trên các
quĩ đạo elip. Các dòng vật chất này, sau khi dặc lại, tạo thành hình ng
là các hành tinh như ngày nay. thuyết này cũng vẫn chưa giải thích được
sự phân bố xung lượng của các hành tinh.
Lí thuyết hiện đại
thuyết hiện đại quay lại với giả thuyết tinh vân của Laplace để giải
thích cho spn bố xung lượng tMặt Trời đến các hành tinh.. Tinh vân
đó được xem như một hạt nhân đậm đặc bao quanh bởi một lớp khí và bi
mỏng. thuyết này giống với thuyết do Gerard Kuiper* đưa ra, trong đó
tinh vân xut hiện squay kng n định. Dưới tác dụng của các lực li m
cùng với chuyển động nhiễu loạn ca các đợt triều trên b mặt, tách ra
các đám bụi tiền hành tinh (protoplanet) chuyn động quanh m chung, các
đám bụi tiền nh tinh này co đặc lại thành c hành tinh. Hiển nhiên gi
thuyết này của Kuiper không gii thích được sự khác biệt đặc trưng về -hoá
của các hành tinh.
thuyết hin đại do một nhà khoa học khác H.C. Urey* đưa ra.
Gi thuyết này cho biết các hành tinh được hình thành nhiệt độ thấp
khoảng 1200 đến 2200 độ C (chứ kng phải nhiệt độ cao cùng với Mặt
Trời như các giả thuyết nêu trên). Urey đề xuất rằng nhiệt độ này là va đủ.
đlớn để duy trì hoạt đng của các chất knhư hydro hay heli, nhưng
cũng đnhỏ để không làm nóng chảy c kim loi như sắt, silic. Dưới c
dụng của hấp dẫn, các đám bụi trên các quĩ đạo tập hợp lại với nhau, trở
thành các tin hành tinh. Lúc này nhit đbắt đầu ng cao, các kim loại
nặng có xu hướng chìm u vào m khi vật chất và trthành nhân nóng
chảy của hành tinh, lớp ngoài gồm các nguyên t nhẹ n nguội dần tạo
thành lớp vỏ. Với các hành tinh xa, các chất kpa ngoài như metan,
ammoniac… bđẩy xuống nhiệt độ rất thấp, chúng đóng ng li ngăn cản
s tiếp cận ca các nguyên t nặng. Các hành tinh như thế trở thành các
thiên thkích thước lớn với ttrọng kthấp (như sao Mộc, sao Thiên
Vương, …)
m 1995, lần đầu tn con người nghiên cứu v một hệ hành tinh
ngoài hMặt Trời của chúng ta , hệ 51 Pegasi*. Việc nghiên cứu những hệ
hành tinh như thế đã cho thấy nhiều điểm tương đồng với những gì do
thuyết hiện đại đề ra. Tuy nhiên, nhân loại cũng cần dừng lại và suy xét kĩ
hơn về những nền tảng được nghiên cu. Tại các hệ hành tinh đó, những
hành tinh nhhơn sao Diêm Vương, những hành tinh nhiều lần lớn n
sao Mộc, cũngnhững quĩ đạo gần sao mẹ hơn q đạo của sao Thuỷ và có
cả những quĩ đạo tròn hơn nhiều quĩ đạo c hành tinh của chúng ta. Điều đó
nói lên rng có một ssai khác trong cơ cu phân bố động lượng của c hệ
đó, nghĩa là bn thân sra đời của chúng thể không hoàn toàn giống
hệ Mặt Trời của chúng ta. Tất cnhững điều này khiến lí thuyết hiện đại nêu