BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ NHÂN:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM TẠI VIỆT NAM
Ngành: Kinh tế quốc tế
HỒ THỊ HOÀI THƯƠNG
Hà Nội - 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ
NHÂN: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC VÙNG KINH
TẾ TRỌNG ĐIỂM TẠI VIỆT NAM
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã ngành: 9310106
Nghiên cứu sinh: Hồ Thị Hoài Thương
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Thị Thùy Vinh
Hà Nội - 2023
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong Luận án là trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ một công
trình khoa học nào khác.
Tác giả luận án
Hồ Thị Hoài Thương
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS,TS Nguyễn Thị Thùy Vinh, giáo viên hướng
dẫn đã hết lòng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện cho tôi có thể hoàn thành được Luận
án.
Đồng thời, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Ngoại
thương, Khoa Sau đại học, Ban lãnh đạo Khoa Kinh tế Quốc tế, Bộ môn Kinh tế
Vĩ mô cùng các thầy cô đồng nghiệp, bạn bè đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi rất tận tình trong
quá trình thực hiện Luận án.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình đã luôn yêu
thương, tin tưởng và động viên tôi.
Tác giả luận án
Hồ Thị Hoài Thương
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT................................................................. vi
DANH MỤC BẢNG ......................................................................................... viii
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................. ix
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................................................................... 8
1.1 Các nghiên cứu về tác động lấn át của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân .... 8
1.2 Các nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân.. 13
1.3 Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................... 18
1.3.1 Nội dung tiếp cận nghiên cứu ................................................................. 18
1.3.2 Phương pháp tiếp cận nghiên cứu ........................................................... 20
TỔNG KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................. 21
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG TỚI
ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM ......................... 22
2.1 Những vấn đề cơ bản về đầu tư công và đầu tư tư nhân ................................ 22
2.1.1 Đầu tư công ............................................................................................. 22
2.1.2 Đầu tư tư nhân ......................................................................................... 27
2.1.3 Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân .......................................... 32
2.2 Đầu tư công, đầu tư tư nhân tại vùng kinh tế trọng điểm .............................. 38
2.2.1 Những vấn đề cơ bản về vùng kinh tế trọng điểm .................................. 38
2.2.2 Vai trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân đối với vùng kinh tế trọng
điểm ......................................................................................................43
TỔNG KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................. 46
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. 47
3.1 Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu..................................................... 47
3.1.1 Khung phân tích ...................................................................................... 47
3.1.2 Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 48
3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng ............................................................. 52
3.2.1 Mô hình nghiên cứu ................................................................................ 52
3.2.2 Phương pháp ước lượng .......................................................................... 55
3.3 Phương pháp nghiên cứu định tính ................................................................ 58
3.3.1 Phương pháp thống kê mô tả .................................................................. 64
3.3.2 Phương pháp phân tích - tổng hợp ......................................................... 65
3.4 Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................... 59
iv
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG VÀ ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI
CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM CỦA VIỆT NAM ........................... 62
4.1 Tổng quan về các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam ............................. 62
4.1.1 Lịch sử hình thành các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam ............ 62
4.1.2 Tình hình phát triển kinh tế tại các vùng kinh tế trọng điểm của
Việt Nam .................................................................................................. 63
4.2 Thực trạng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của
Việt Nam .............................................................................................................. 65
4.2.1 Thực trạng đầu tư công tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam . 65
4.2.2 Thực trạng đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam
.......................................................................................................................... 69
4.2.3 Thực trạng mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng
kinh tế trọng điểm của Việt Nam ..................................................................... 71
4.2.4 Thực trạng chính sách thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân
tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam ................................................ 85
TỔNG KẾT CHƯƠNG 4 .................................................................................. 79
CHƯƠNG 5: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ
CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
CỦA VIỆT NAM ................................................................................................ 80
5.1 Mô tả thống kê................................................................................................ 80
5.2 Kết quả ước lượng tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng
kinh tế trọng điểm của Việt Nam ......................................................................... 80
5.2.1 Các kiểm định ......................................................................................... 80
5.2.2 Phân tích kết quả ..................................................................................... 81
v
TỔNG KẾT CHƯƠNG 5 ................................................................................ 103
CHƯƠNG 6: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐẦU TƯ CÔNG NHẰM THÚC
ĐẨY ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM CỦA
VIỆT NAM ........................................................................................................ 104
6.1 Bối cảnh quốc tế và trong nước ................................................................... 104
6.1.1 Bối cảnh quốc tế .................................................................................... 104
6.1.2 Bối cảnh trong nước .............................................................................. 107
6.2 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các
vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam đến năm 2030 ...................................... 112
6.2.1 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân đối
với tổng thể các vùng KTTĐ ......................................................................... 112
6.2.2 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân đối
với từng vùng KTTĐ ..................................................................................... 114
6.3 Giải pháp thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các vùng
kinh tế trọng điểm của Việt Nam ....................................................................... 115
6.3.1. Nhóm giải pháp chung cho các vùng kinh tế trọng điểm .................... 116
6.3.2. Nhóm giải pháp cụ thể đối với từng vùng kinh tế trọng điểm ............. 126
TỔNG KẾT CHƯƠNG 6 ................................................................................ 145
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt
Mô hình tự phân phối độ trễ ARDL Autoregressive Distributed Lag hồi quy
Cơ sở hạ tầng CSHT
Ước lượng ảnh hưởng cố DFE Dynamic Fixed Effect định động
Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL
CGE Computable General Equibrilium Mô hình cân bằng tổng thể
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FPI Foreign Portfolio Investment Đầu tư gián tiếp nước ngoài
GMM Generalized Method of Moments Hồi quy khoảnh khắc
GRDP Gross Regional Domestic Product Tổng sản phẩm địa phương
IMF International Money Fund Qũy tiền tệ thế giới
INF Inflation Lạm phát
IR Real interest rate Lãi suất thực tế
The Japan International Cooperation Cơ quan Hợp tác Quốc tế JICA Agency Nhật Bản
KTTĐ Kinh tế trọng điểm
MG Mean Group Ước lượng nhóm trung bình
NSNN Ngân sách Nhà nước
Organization for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển OECD Cooperation and Development Kinh tế
Phương pháp bình phương OLS Ordinary Least Square nhỏ nhất
PI Private investment Đầu tư tư nhân
PIE Private investment of Enterprises Đầu tư khu vực doanh nghiệp
PIH Private investment of Households Đầu tư khu vực hộ gia đình
Ước lượng nhóm trung bình PMG Pool Mean Group gộp
vii
Chữ viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt
PU Public investment Đầu tư công
Mô hình vectơ tự động hồi PVAR Panel Vector Autoregression quy dạng bảng
Mô hình vectơ tự động hồi SVAR Structural Vector Autoregression quy cấu trúc
TP Thành phố
UN United Nations Liên hợp quốc
United Nations Conference on Trade Hội nghị Liên Hợp Quốc về UNCTAD and Development Thương mại và Phát triển
Mô hình vectơ tự động hồi VAR Vector Autoregression quy
VECM Vector Error Correction Model Mô hình hiệu chỉnh sai số
WB World Bank Ngân hàng thế giới
viii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của các vùng KTTĐ giai đoạn
2010-2021 ........................................................................................................ 64
Bảng 2.2: Tốc độ tăng đầu tư công bình quân giai đoạn 2010-2021 .............. 66
Bảng 2.3: Tốc độ tăng đầu tư tư nhân bình quân giai đoạn 2010-2021 .......... 70
Bảng 2.4: So sánh tốc độ tăng trưởng đầu tư công, đầu tư tư nhân, FDI giai
đoạn 2010-2018 so với giai đoạn 2019-2021 tại các vùng KTTĐ ................. 74
Bảng 3.1: Các giả thuyết nghiên cứu và dấu kỳ vọng .................................... 51
Bảng 3.2: Thống kê mô tả các biến ................................................................. 80
Bảng 3.3: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị dữ liệu bảng ............................. 81
Bảng 3.4: Kết quả kiểm định đồng liên kết .................................................... 53
Bảng 3.5: Kiểm định tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại 4
vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021 ................................................................... 81
Bảng 3.6: Kiểm định phi nhân quả Granger về tác động của đầu tư công cho
CSHT tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021 ............... 83
Bảng 3.7: Kiểm định tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu
vực doanh nghiệp (PIE) tại 4 vùng KTTĐ ...................................................... 85
Bảng 3.8: Kiểm định phi nhân quả Granger về tác động của đầu tư công cho
CSHT tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp tại các vùng KTTĐ giai đoạn
2010-2021 ........................................................................................................ 87
Bảng 3.9: Kiểm định tác động dài hạn của đầu tư công đầu tư tư nhân khu vực
hộ gia đình (PIH) tại 4 vùng KTTĐ ................................................................ 88
Bảng 3.10: Kiểm định tác động ngắn hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại
các Vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021 ............................................................ 90
Bảng 3.11: Kiểm định tác động ngắn hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
của khu vực doanh nghiệp (PIE) và khu vực hộ gia đình (PIH) tại các Vùng
KTTĐ .............................................................................................................. 97
Bảng 4.1: Tình hình phát triển các khu công nghiệp theo các vùng KTTĐ đến
cuối năm 2020 ............................................................................................... 119
Bảng 4.2: Thông tin chung về kết quả xây dựng cánh đồng lớn tại vùng KTTĐ
ĐBSCL năm 2020 so với năm 2016 ............................................................. 143
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Khung nghiên cứu của Luận án ...................................................... 48
Hình 1.2: Hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân ........................................................ 33
Hình 1.3: Kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân ......................... 38
Hình 2.1: GRDP bình quân của các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021 ......... 63
Hình 2.2: Quy mô đầu tư công tại các vùng KTTĐ bình quân giai đoạn
2010-2021 ........................................................................................................ 65
Hình 2.3: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ ........ 67
Hình 2.4: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ giai đoạn
2010-2021 ........................................................................................................ 68
Hình 2.5: Quy mô đầu tư tư nhân bình quân tại các vùng KTTĐ giai đoạn
2010-2021 ........................................................................................................ 69
Hình 2.6: Cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ giai đoạn
2010-2021 ........................................................................................................ 71
Hình 2.7: Tỷ trọng đầu tư công, đầu tư tư nhân, FDI trong tổng vốn đầu tư toàn
xã hội giai đoạn 2010-2021 ............................................................................. 72
Hình 2.8: Hệ số thu hút đầu tư và tốc độ tăng trưởng FDI tại các vùng KTTĐ .. 75
Hình 4.1: Cơ sở xây dựng giải pháp ............................................................. 116
Hình 4.2: Tình hình thu chi bình quân từ NS địa phương trong giai đoạn
2010-2021 tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung .................... 133
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư công có vai trò to lớn thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, nhất là trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, tạo môi
trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh từ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh
của khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư công vào kết cấu hạ tầng kinh
tế- xã hội cũng một trong các nhân tố quan trọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), từ đó gia tăng nguồn lực phát triển đất nước. Tại Việt Nam, quy mô đầu
tư công tăng nhanh đã góp phần đóng góp cho sự tăng trưởng cao của Việt Nam trong
một thời gian dài. Đầu tư công thường được đề cập đến với vai trò là “đầu tư mồi” để
thu hút , dẫn dắt đầu tư tư nhân, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội tại các
địa phương, các vùng kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó, Việt Nam đang hội nhập
sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với việc tham gia nhiều hơn vào các hiệp định thương
mại, hiệp định thương mại thế hệ mới và thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo
các cam kết. Khi đó, muốn đảm bảo tăng trưởng, Chính phủ cần phải tăng cường đầu
tư công vào cơ sở hạ tầng kinh tế (đường sá, cầu cống, cảng..., hạ tầng cho các khu
công nghiệp, thương mại) và cơ sở hạ tầng xã hội (trường học, bệnh viện...) nhằm cải
thiện môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh. Như vậy có thể thấy, đầu tư công
đóng vai trò quan trọng đối với đầu tư tư nhân và sự phát triển kinh tế tại Việt Nam,
đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam có bốn vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ), gồm vùng KTTĐ
Bắc Bộ, vùng KTTĐ miền Trung, vùng KTTĐ phía Nam và vùng KTTĐ đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) với tổng số 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đảng
và Nhà nước xác định đây là các vùng động lực làm đầu tàu kéo theo sự phát triển
của các vùng khác trên cả nước. Đây là cũng là những khu vực trọng điểm về đầu tư
công, đầu tư tư nhân và đóng góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế đất nước. Mặc dù
đóng vai trò là yếu tố dẫn dắt tạo nền tảng cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư tư nhân nội
vùng và cả nước, tuy nhiên trong nhiều năm qua vai trò của đầu tư công tại các vùng
KTTĐ được nhận định là còn mờ nhạt (Trần Du Lịch, 2021). Trên thực tế, đầu tư
công vào cơ sở hạ tầng các công trình kinh tế trọng điểm đã có nhiều thành tựu trong
tạo đòn bầy kích thích, thu hút hoạt động đầu tư tư nhân, đặc biệt trong các khu kinh
tế, khu công nghiệp (Nguyễn Thị Chính, 2020; Nguyễn Thị Thanh Huyền & cộng sự,
2022). Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, việc thu hút chưa hiệu quả và chưa tạo
2
được động lực lôi kéo đầu tư tư nhân. Cụ thể, kết cấu cơ sở hạ tầng giao thông, cảng
biển, đường sắt, đô thị chưa đồng bộ do thiếu cơ quan chịu trách nhiệm điều tiết, quy
hoạch vùng nên chưa phát huy được lợi thế, hiệu quả và tạo lực hấp dẫn đối với khu
vực tư nhân (Trần Duy Đông, 2022). Ngoài ra, đầu tư công tạo áp lực lớn tới ngân
sách nhà nước do tại các cùng KTTĐ cần một nguồn lực lớn phụ vụ các dự án đầu tư
liên kết vùng, từ đó tạo áp lực lớn trên thị trường vốn vay và ảnh hưởng tiêu cực tới
đầu tư tư nhân (Đỗ Thị Thanh Huyền & cộng sự, 2021). Do đó, đầu tư công tạo ra tác
động lấn át hay bổ trợ tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ vẫn là vấn đề gây nhiều
tranh cãi. Vì vậy, vấn đề đặt ra là các khu vực kinh tế trọng điểm cần sử dụng vốn
đầu tư công như thế nào để có thể tăng cường hiệu ứng bổ trợ, giảm hiệu ứng lấn át
đối với đầu tư tư nhân, từ đấy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nội dung này đặc biệt
quan trọng đối với các vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung trong bối cảnh
xung đột Nga - Ukraine, thuế tối thiểu toàn cầu đang ngày càng có những ảnh hưởng
sâu sắc và toàn diện tới nền kinh tế Việt Nam cũng như dư địa của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế đang ngày càng hẹp dần1.
Bên cạnh đó, dưới góc độ nghiên cứu, tác động của đầu tư công đến đầu tư tư
nhân là chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nhưng cơ chế và kết quả của tác
động còn nhiều tranh cãi. Nhiều nghiên cứu cho thấy đầu tư công có tác động bổ trợ
(crowding in) đến đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư công đầy đủ vào cơ sở hạ tầng giúp
cải thiện khả năng tiếp cận thị trường, giảm chi phí sản xuất và tăng đầu tư tư nhân
(Aschauer,1989a; Saidjada và cộng sự , 2016; Makuyana, 2016 và Ouedraogo & cộng
sự, 2019). Ngoài ra, đầu tư của chính phủ vào vốn con người (chẳng hạn như giáo dục
và y tế), chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển góp phần hình thành vốn con người,
nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy đầu tư nhân (Lall, 2007; Daniele, 2009;
Flores-Chamba & cộng sự, 2019; Jena & Barua, 2020). Tuy nhiên, các nghiên cứu
khác cho thấy đầu tư công có thể tạo tác động lấn át (crowding out) tới đầu tư tư nhân
khi nhu cầu vốn lớn cho đầu tư phát triển của chính phủ có thể khiến lãi suất trên thị
trường vốn vay tăng lên làm giảm khả năng tiếp cận vốn của khu vực tư nhân
(Friedman, 1978; Ganelli, 2003; Kustepeli, 2005; Cavallo & Daude, 2011). Ngoài ra,
tăng thuế hoặc vay nợ để tài trợ cho chi tiêu chính phủ cũng khiến khu vực tư nhân
khó tiếp cận các nguồn tài chính khan hiếm của nền kinh tế (Pereira & Andraz, 2004;
1 Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý III và cả năm 2022, Tổng cục thống kê
Drezgić, 2011; Rodríguez-Pose & cộng sự, 2012; Solihin & cộng sự, 2021). Tác động
3
của đầu tư công tới đầu tư tư nhân còn gây nhiều tranh cãi khi xét trong ngắn hạn và
trong dài hạn, cũng như khi xét tác động của các thành phần của đầu tư công tới các
thành phần của đầu tư tư nhân (Pereira & cộng sự, 2001; Castillo & cộng sự, 2005;
Ngeendepi & cộng sự, 2021; Babu & cộng sự ,2022). Như vậy, về mặt nghiên cứu,
tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân là một trong những vấn đề gây nhiều
tranh luận và cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này một cách hệ thống và toàn diện.
Tại Việt Nam, có khá nhiều nghiên cứu về đầu tư công và hiệu quả của đầu tư
công (Nguyễn Hồng Thắng, 2009; Hoàng Thế Anh, 2014; Diệp Gia Luật, 2015; Trần
Vũ Phong, 2018; Đào Thị Hồ Hương, 2021; Phạm Thị Thanh Bình, 2023). Tuy nhiên
còn khuyết thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về tác động của giữa đầu tư công đối
với đầu tư tư nhân, đặc biệt là những nghiên cứu thực nghiệm kiểm định hiệu ứng lấn
át và hiệu ứng bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Bên cạnh đó những nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới các thành phần cụ thể
của đầu tư tư nhân hay nghiên cứu tác động của đầu tư công cho cơ sở hạ tầng tới đầu
tư tư nhân chưa được tập trung khai thác trong các nghiên cứu tại Việt Nam. Mặt
khác, theo hiểu biết của NCS, chưa có nghiên cứu nào được thực hiện dưới góc độ
định tính và định lượng đối với 24 tỉnh/thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm. Các
nghiên cứu tại Việt Nam chủ yếu tập trung ở góc độ tổng thể nền kinh tế hoặc góc độ
một địa phương cụ thể. Trong khi đó, vùng KTTĐ được Đảng và Nhà nước xác định
là đầu tàu kéo theo sự tăng trưởng chung của cả nước. Do đó nghiên cứu các kênh tác
động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân, từ đó đề xuất giải pháp để sử dụng vốn đầu
tư công hiệu quả nhằm thu hút đầu tư tư nhân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
tại các vùng KTTĐ và cả nước là vấn đề cần thiết trong bối cảnh kinh tế thế giới có
nhiều biến động.
Dựa vào khoảng trống thực tiễn và nghiên cứu được đề cập ở trên, nghiên cứu
sinh (NCS) đã lựa chọn “Tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân: Nghiên
cứu trường hợp các vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu
cho Luận án.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và câu hỏi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của Luận án là phân tích tác động của đầu tư công tới đầu
tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam. Từ đó, Luận án đề xuất các
4
giải pháp để thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế
trọng điểm của Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu cơ bản trên, Luận án sẽ thực hiện những nhiệm
vụ cụ thể về lý thuyết và thực nghiệm sau đây:
Thứ nhất, hệ thống cơ sở lý luận về đầu tư công, đầu tư tư nhân, các kênh tác
động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và lý thuyết về vùng kinh tế trọng điểm.
Thứ hai, phân tích thực trạng tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại tại
các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Bên cạnh đó, kiểm định tác động của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân tại tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam trong
khoảng thời gian nghiên cứu dựa trên các mô hình phân tích định lượng.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư
nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án hướng tới việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu chính sau đây:
Thứ nhất, đầu tư công tác động lấn át hay bổ trợ tới đầu tư tư nhân cũng như
các thành phần của đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam và
tác động này có thay đổi hay không khi xét trong ngắn hạn và dài hạn?
Thứ hai, đầu tư công cho cơ sở hạ tầng (CSHT) ảnh hưởng như thế nào tới đầu
tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam?
Thứ ba, chính sách đầu tư công tại các vùng kinh tế trọng điểm cần được xây
dựng như thế nào để có thể thúc đẩy được đầu tư tư nhân đến năm 2030 ?
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng
kinh tế trọng điểm (KTTĐ) của Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
✓ Nội dung: Luận án nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân dưới góc độ tổng đầu tư công tác động tới các thành phần của đầu tư tư nhân
trong nước (đầu tư khu vực hộ gia đình và đầu tư khu vực doanh nghiệp) tại các vùng
KTTĐ của Việt Nam. Trong bối cảnh dòng vốn FDI đang trở nên cạnh tranh hơn sau
đại dịch Covid-19, vai trò của đầu tư tư nhân trong nước lại càng trở nên quan trọng
hơn đối với sự phục hồi kinh tế của các vùng KTTĐ và của Việt Nam. Do đó, cần tập
5
trung xây dựng các chính sách thực hiện đầu tư công nhằm dẫn dắt, tạo nền tảng thu
hút đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.
✓ Thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 2010
đến năm 2021. Do vùng KTTĐ ĐBSCL được thành lập vào tháng 4/2009 nên số liệu
về 4 vùng KTTĐ được tập hợp kể từ năm 2010 để đảm bảo tính thống nhất giữa các
vùng KTTĐ. Bên cạnh đó, hiện nay theo báo cáo của Tổng cục thống kê, số liệu liên
quan tới đầu tư công, đầu tư tư nhân tại các địa phương tại Việt Nam nói chung và tại
các vùng KTTĐ nói riêng mới được cập nhật tới năm 2021. Vì các lý do nêu trên, số
liệu nghiên cứu trong bài sẽ được thu thập bắt đầu từ năm 2010 cho đến năm 2021.
✓ Không gian: Luận án nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân tại 4 vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam với 24 tỉnh/thành phố. Bao gồm:
KTTĐ Bắc bộ (TP. Hà Nội, Hưng Yên,TP.Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc
Ninh, Vĩnh Phúc); vùng KTTĐ miền Trung (Thừa Thiên-Huế, TP. Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định), vùng KTTĐ phía Nam (TP.Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang) và
vùng KTTĐ đồng bằng sông Cửu Long (TP.Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau).
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu định tính
Phương pháp thu thập dữ liệu: Dữ liệu nghiên cứu trong bài là dữ liệu thứ cấp
được NCS thu thập từ Niên giám thống kê của các Cục Thống kê, Tổng cục Thống
kê, Báo cáo quyết toán chi NSNN của Sở Tài Chính của 24 tỉnh/ thành phố thuộc 4
vùng KTTĐ. Ngoài ra, dữ liệu liên quan tới lãi suất để chạy trong mô hình được NCS
thu thập từ World Bank.
Phương pháp phân tích tổng hợp: NCS tổng hợp và phân tích có hệ thống các
cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân. Từ đó, NCS chỉ ra khoảng trống nghiên cứu và xây dựng hướng nghiên cứu
của Luận án.
Phương pháp thống kê mô tả: NCS thống kê, mô tả số liệu thông qua các sơ đồ,
biểu đồ để thấy rõ thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân và mối quan hệ giữa đầu tư
công, đầu tư tư nhân tại các tỉnh của các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam. Từ đó,
kết hợp cùng kết quả nghiên cứu của mô hình định lượng, NCS đưa ra các đề xuất
chính sách.
6
4.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Phương pháp ước lượng nhóm trung bình gộp: NCS sử dụng phương pháp ước
lượng nhóm trung bình gộp (Pool Mean Group- PMG) để đánh giá tác động của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân và các thành phần của đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ
của Việt Nam. Phương pháp này cho phép các tham số ngắn hạn khác biệt giữa các
nhóm trong khi ràng buộc các tham số dài hạn đồng nhất giữa các đơn bị bảng.
Phương pháp phân tích phi nhân quả: Bên cạnh đó, NCS sử dụng phương pháp
phân tích phi nhân quả được đề xuất bởi Juodis & cộng sự (2021) cho dữ liệu bảng
để kiểm tra tác động của đầu tư công cho cơ sở hạ tầng (CSHT) tới đầu tư tư nhân
từng vùng do số liệu của đầu tư công cho CSHT không đủ quan sát để thực hiện với
mô hình PMG. Ưu điểm của phương pháp này đó chính là sử dụng được với số liệu
có cỡ mẫu nhỏ và trong mô hình mà các hệ số hồi quy là đồng nhất lẫn không đồng
nhất (Juodis & cộng sự, 2021).
5. Những đóng góp của Luận án
5.1. Về lý luận
Thứ nhất, Luận án đã tổng hợp và làm rõ các vấn đề lý thuyết về vùng, vùng
kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm. Đồng thời, thông qua cơ sở lý thuyết và các nghiên
cứu thực nghiệm trước đây, Luận án đã chỉ rõ kênh tác động của đầu tư công tới đầu
tư tư nhân. Từ đó, nghiên cứu đã xây dựng được khung phân tích tác động của đầu tư
công tới đầu tư nhân.
Thứ hai, Luận án sử dụng các mô hình kinh tế lượng phù hợp để đánh giá tác
động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ. Đa số các nghiên cứu
tại Việt Nam khi nghiên cứu dưới góc độ các tỉnh/thành thì sử dụng chuỗi dữ liệu
bảng với các phương pháp truyền thống như POLS, FEM, REM, GMM. Tuy nhiên,
hạn chế của các phương pháp này là không phân tách được tác động ngắn hạn và dài
hạn của chuỗi số liệu. Do đó, sẽ không tạo hiệu quả cao khi phân tích tác động của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân khi kênh tác động có thể tạo kết quả khác biệt trong
ngắn hạn và dài hạn. Luận án sử dụng mô hình PMG có thể phân tác được kênh tác
động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và dài hạn. Từ đó, cung cấp
góc nhìn toàn diện hơn về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó,
Luận án, sử dụng phương pháp phân tích phi nhân quả được đề xuất bởi Juodis &
cộng sự (2021) để phân tích tác động của đầu tư công CSHT đối với đầu tư tư nhân.
Tại các vùng KTTĐ tại Việt Nam, hơn 95% vốn đầu tư công dành cho xây dựng và
7
hoàn thiện CSHT. Đây được xác định là động lực thúc dẫn dắt và thu hút đầu tư tư
nhân tại các vùng KTTĐ.
5.2. Về thực nghiệm
Thứ nhất, thông qua phân tích định lượng, Luận án đã chỉ ra tác động của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân, đầu tư tư nhân thuộc khu vực doanh nghiệp, đầu tư tư nhân
thuộc khu vực hộ gia đình tại các vùng KTTĐ. Luận án chỉ ra rằng tác động của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân và các thành phần của đầu tư tư nhân là khác nhau trong
dài hạn và ngắn hạn. Đặc biệt, Luận án cũng chỉ ra tại mỗi vùng KTTĐ, đầu tư công
sẽ có tác động tới đầu tư tư nhân và các thành phần của đầu tư tư nhân là có sự khác
biệt. Ngoài ra, Luận án cũng chỉ ra được vai trò quan trọng của đầu tư CSHT đối với
đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.
Thứ hai, từ phân tích kết quả định lượng, Luận án đưa ra chính sách sử dụng
đầu tư công để thúc đẩy đầu tư tư nhân dưới góc độ tổng thể các vùng KTTĐ. Đồng
thời, Luận án cũng đề xuất các giải pháp cho từng vùng KTTĐ, phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế, cơ cấu đầu tư công, đầu tư tư nhân và định hướng chính sách đầu
tư công trong giai đoạn 2022-2030. Đây là nội dung mang ý nghĩa thực tiễn rất quan
trọng trong bối cảnh các vùng KTTĐ luôn được định hướng là động lực tăng trưởng
của cả nước và đầu tư công được cho là yếu tố dẫn dắt quan trọng tạo nền tảng để thu
hút đầu tư tư nhân thời kỳ hậu Covid-19.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án gồm 6 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài Luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và vùng
kinh tế trọng điểm
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng
điểm của Việt Nam
Chương 5: Phân tích định lượng tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại
vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam
Chương 6: Giải pháp thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại
các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam
8
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1 Các nghiên cứu về tác động lấn át của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân
Thứ nhất, các nghiên cứu phân tích tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư
tư nhân trong phạm vi một quốc gia cụ thể, hoặc một nhóm các quốc gia.
Pradhan, Ratha và Sarma (1990) khi kiểm tra về tác động của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân tại Ấn Độ trong giai đoạn 1990-2000 với mô hình cân bằng tổng thể
(CGE) đã chỉ ra rằng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
mức độ lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân phụ thuộc vào cách thức chính phủ
tài trợ cho đầu tư công. Cụ thể, mức độ lấn át cao nhất khi chính phủ vay nợ trên thị
trường vốn vay. Trong khi đó, Bilgili (2003) sử dụng dữ liệu của Thổ Nhĩ Kỳ trong
giai đoạn 1988-2003 với phương pháp VECM đã chỉ ra tác động lấn át của đầu tư
công tới đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư công tăng lên 1%, đầu tư tư nhân sẽ giảm đi
0.68%. Tương tự Pradhan, Ratha và Sarma (1990), Bahal và cộng sự (2015) cũng
nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại Ấn Độ tuy nhiên trong giai
đoạn dài hơn (1950 – 2012) với mô hình hiệu chỉnh sai số VECM (Vector Error
Correction Model). Nhận thức được những thay đổi lớn về cấu trúc nền kinh tế Ấn
Độ đã trải qua trong ba thập kỷ qua, nhóm tác giả đã nghiên cứu xem liệu đầu tư công
trong những năm gần đây có trở nên bổ sung ít hay nhiều cho đầu tư tư nhân vào so
với giai đoạn trước năm 1980 hay không. Nghiên cứu chỉ ra rằng đầu tư công lấn át
đầu tư tư nhân từ năm 1950 đến năm 2012. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nazmi và
Ramirez (1997) xem xét tác động của đầu tư công, đầu tư tư nhân tới tăng trưởng
kinh tế tại Mexico giai đoạn 1940-1991với phương pháp bình phương nhỏ nhất hai
giai đoạn 2 SLS (Two Statge Ordinary Least Squares). Kết quả cho thấy đầu tư công
và đầu tư tư nhân đều tạo tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế tuy nhiên đầu tư
công có tác động mạnh hơn tới tăng trưởng kinh tế. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ
ra đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư công tăng 1% sẽ
làm cho đầu tư tư nhân nhân giảm 0.56%.
Tại Việt Nam, Tô Trung Thành (2012) sử dụng số liệu thu thập từ 1986-2010
tại Việt Nam với mô hình VECM nhằm mục đích nghiên cứu liệu đầu tư công tác
động tiêu cực hay tích cực đến đầu tư tư nhân. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hiện
tượng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân được thể hiện rõ nét. Theo đó, sau một thập
niên, đầu tư công tăng 1% sẽ khiến đầu tư tư nhân bị thu hẹp 0,48%. Hoàng Dương
9
Việt Anh (2013) sử dụng mô hình VAR trong nghiên cứu về tác động đầu tư công
đến tăng trưởng tại vùng Trung Bộ Việt Nam giai đoạn 1986-2011 đã chỉ ra được vai
trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân với tăng trưởng cũng như tác động của đầu tư
công tới đầu tư tư nhân. Theo đó, đầu tư công cũng có thể lấn át đầu tư tư nhân trong
việc sử dụng nguồn lực khan hiếm, do đó tác động xấu đến tăng trưởng. Phạm Thị
Linh (2016) đã sử dụng đồng thời biện pháp định tính và định lượng với mô hình
VAR để đánh giá tác động của đều tư công tới đầu tư tư nhân ở Việt Nam giai đoạn
từ qúy 3 năm 2004 đến quý 4 năm 2015. Kết quả cho thấy đầu tư tư nhân bị lấn át bởi
đầu tư công tại Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra đầu tư tư nhân bị chèn lấn ở ba
khía cạnh: hoạt động, vốn và cơ hội. Các nghiên cứu của Lê Văn Cường (2010),
Huỳnh Văn Mười Một (2017), Văn Hà & cộng sự (2022) cũng cho thấy tác động lấn
át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại Việt Nam.
Bên cạnh các nghiên cứu tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
trong phạm vi một quốc gia thì còn có các nghiên cứu phân tích đối với một nhóm
các quốc gia. Everhart và Sumlinski (2001) nghiên cứu tác động của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân với dữ liệu bảng không cân bằng tại 63 nước đang phát triển trong giai
đoạn 1970-2000. Kết quả cho thấy đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân
tại hầu hết các quốc gia mà có thể chế kém. Tương tự, Cavallo và Daude (2008) phân
tích ảnh hưởng của đầu tư công đến đầu tư tư nhân với phương pháp hồi quy khoảnh
khắc GMM (Generalized Method of Moments). Nghiên cứu sử dụng số liệu dạng
bảng của 116 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1980 đến 2006 cho thấy hiệu
ứng lấn át khá rõ rệt. Tuy nhiên mức độ lấn át của đầu tư công giảm bớt, thậm chí
còn có thể tác động khuyến khích đầu tư tư nhân, ở những quốc gia được đánh giá có
thể chế tốt hơn và có tính mở cao hơn với dòng thương mại và đầu tư quốc tế. Gilbert
Noula (2022) phân tích tác động của thâm hụt cán cân ngân sách trong trường hợp
Chính phủ tăng đầu tư công tới đầu tư tư nhân đối với các quốc gia CEMAC trong
giai đoạn 1984-2019 với phương pháp ước lượng nhóm trung bình gộp PMG (Pool
Mean Group). Theo đó, tăng đầu tư công sẽ tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân với
các quốc gia có tỷ lệ nợ công/GDP lớn. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra ngưỡng
đầu tư công có thể tạo ra tác động lấn át tới đầu tư tư nhân.
Trong khi đó, Erden và Holcom (2005) phân tích tác động đầu tư công đối với
đầu tư tư nhân không chỉ trong phạm vi nhóm nước phát triển mà còn mở rộng sang
phạm vi nhóm nước phát triển. Nghiên cứu được thực hiện với phương pháp tối thiểu
10
dạng gộp POLS (Pool OLS), phương pháp tác động cố định FE (Fixed Effect),
phương pháp tác động ngẫu nhiên RE (Random Effect) với bộ dữ liệu bảng bao gồm
12 quốc gia phát triển trong giai đoạn 1980-1996 và 19 quốc gia đang phát triển trong
giai đoạn 1980-1997. Kết quả cho thấy đối với nhóm các quốc gia phát triển, đầu tư
công tạo tác động lấn át. Tương tự, Mahmoudzadeh và cộng sự (2013) phân tích ảnh
hưởng của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong 23 phát triển và 15 nước đang
phát triển từ năm 2000 đến năm 2009 với việc sử dụng mô hình vecto tự hồi quy dạng
bảng PVAR (Panel Vector Autoregression). Nhóm tác giả phát hiện ra rằng tăng đầu
tư công lấn át đầu tư tư nhân ở các nước phát triển và bổ trợ đầu tư tư nhân ở các
nước đang phát triển. Các nghiên cứu của Altin Gjini (2012), A. Adegboye (2017),
Taner Turan và cộng sự (2021) cũng chỉ ra kết quả tương tự.
Thứ hai, các nghiên cứu còn phân tách đầu tư công thành các hạng mục đầu tư
và nghiên cứu tác động của các hạng mục đó tới đầu tư tư nhân.
Pereira (2000) đã phân tích tác động của đầu tư công lên đầu tư tư nhân của Hoa
Kỳ dựa trên mô hình vectơ tự động hồi quy VAR (Vector Autoregression) và số liệu
trong giai đoạn 1956-1997. Trong nghiên cứu này, tác giả không chỉ đánh giá tác
động của đầu tư công lên tổng đầu tư tư nhân mà còn xem xét từng loại đầu tư theo
hướng phân tích tác động của 5 loại đầu tư công lên tổng đầu tư tư nhân và từng loại
đầu tư tư nhân để xác định loại đầu tư công nào thúc đẩy đầu tư tư nhân. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng về kết quả đối với tác động của từng loại đầu tư công đối với
từng loại đầu tư tư nhân, trong khoảng 1/3 trường hợp, đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân.
Rahman và cộng sự (2015) cũng chia đầu tư công thành các hạng mục khác
nhau khi phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân cho trường hợp của
Pakistan trong giai đoạn 1974-2010. Cụ thể, nghiên cứu chỉ ra đầu tư công bao gồm
có chi tiêu của Chính phủ cho sức khỏe, giao thông, thông tin, dịch vụ cộng đồng,
quốc phòng. Kết quả cho thấy đầu tư công cho dịch vụ cộng đồng và quốc phòng có
tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Dada (2013) khi phân tích trường hợp của Nigeria
cũng cho thấy kết quả tương tự. Cụ thể, đầu tư công cho hành chính, xây dựng, nông
nghiệp, thông tin tạo hiệu ứng lấn át tới đầu tư tư nhân. Tương tự, Omitogun & cộng
sự (2018) nghiên cứu trường hợp của Nigeria trong giai đoạn 1981-2015 với mô hình
tự phân phối độ trễ hồi quy ARDL (Autoregressive Distributed Lag). Nhóm nghiên
cứu phân tách đầu tư công thành các hạng mục liên quan tới hành chính, chuyển giao,
11
dịch vụ kinh tế và dịch vụ xã hội. Kết quả cho thấy đầu tư công cho dịch vụ kinh tế
và dịch vụ xã hội có tác động lấn át tới đầu tư tư nhân tại Nigeria.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, thay vì phân tách đầu tư công thành các hạng mục đầu
tư (CSHT và các hạng mục khác) thì các nghiên cứu tập trung phân tích tác động lấn
át của đầu tư công theo nguồn vốn đầu tư tới đầu tư tư nhân. Nguyễn Thị Cành &
cộng sự (2020) nghiên cứu tác động của cho rằng đầu tư công từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước tới đầu tư tư nhân cho 16 ngành công nghiệp với mô hình FOLS tại
Việt Nam trong giai đoạn 1990-2016. Kết quả cho thấy đầu tư công từ ngân sách nhà
nước lấn át đầu tư tư nhân của 16 ngành. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Liên
(2022) cũng cho thấy kết quả lấn át của đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước tới
đầu tư tư nhân tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2020. Kết quả tương tự cũng được
phát hiện trong nghiên cứu của Ngô Doãn Vịnh (2010), Ngô Thúy Quỳnh (2019), Bùi
Minh Chuyên và Nguyễn Ngô Việt Hoàng (2022). Đây cũng là một thực trạng chung
tại Việt Nam khi mà nguồn lực chủ yếu của đầu tư công chủ yếu xuất phát từ Ngân
sách nhà nước. Mặt khác vốn đầu tư công từ NSNN cho thấy có hiệu quả chưa được
như mong muốn và thậm chí có thể nói còn tương đối thấp tại Việt Nam (Ngô Doãn
Vịnh và cộng sự, 2021).
Thứ ba, các nghiên cứu còn tập trung về tác động lấn át của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân trong các ngành, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
Saeed và cộng sự (2006) sử dụng mô hình SVAR phân tích tác động của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ tại
Pakistan trong giai đoạn 1974-2006. Kết quả cho thất đầu tư công lấn át đầu tư tư
nhân trong lĩnh vực công nghiệp. Tương tự, Fujii và cộng sự (2013) sử dụng mô hình
vecto tự động hồi quy các nhân tố dạng mở rộng FAVAR (Factor Augmented Vector
Autogression) phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân theo các ngành
khác nhau cho nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn quý 2/1983 – quý 1/2008. Kết
quả cho thấy ngoại trừ ngành nông nghiệp và ngành tiện ích, đầu tư công tạo tác động
lấn át tới đầu tư tư nhân của các ngành còn lại. Nghiên cứu của Annala và cộng sự
(2008) cho nền kinh tế Nhật trong khoảng thời gian 1970-1998 với mô hình
VAR/ECM cũng cho thấy đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân ngoại trừ
các ngành nông nghiệp, tiện ích, thương mại và dịch vụ, tài chính, bảo hiểm và bất
động sản. Nghiên cứu cho trường hợp nền kinh tế Mỹ, Pereira and Andraz (2003) với
mô hình VAR cho dữ liệu liên quan tới 12 ngành công nghiệp trong giai đoạn 1956-
12
1997 kết luận đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân trong ngành khai
khoảng, truyền thông và bán buôn. Đầu tư công tạo tác động lấn át đối với các ngành
trong nền kinh tế còn được phát hiện trong các nghiên cứu của Pereira (2000);
Hamaaki (2008); Forni & Gambetti (2010), S. Muthu (2017).
Thứ tư, các nghiên cứu cho thấy tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân còn có nhiều tranh luận khi phân tích trong ngắn hạn và dài hạn.
Castillo & cộng sự (2005) nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân trong giai đoạn 1980-2002, sử dụng phương pháp VAR để phân tích tác động
dài hạn và phương pháp VECM để phân tích tác động ngắn hạn. Kết quả cho thấy,
đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân trong ngắn hạn. Tương tự, Foncesca (2009) phân
tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại trong giai đoạn 1980-2007 tại Tây
Ban Nha với phương pháp ARDL. Kết quả cho thấy sự đồng nhất với nghiên cứu của
Castillo & cộng sự. Tuy nhiên, trong ngắn hạn hiệu ứng lấn át chỉ xảy ra một phần.
Trái ngược với các nghiên cứu trên, hạn Saeed và cộng sự (2006), Mitra (2006), Mose
& cộng sự (2020) chỉ ra rằng đầu tư công tạo ra hiệu ứng lấn át tới đầu tư tưu nhân
cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Nguyễn Thị Chinh (2017) khi nghiên cứu về tác động của đầu tư công, đầu tư
tư nhân đến tăng trưởng kinh tế với mô hình VECM đã chỉ ra rằng trong dài hạn tư
công lấn át đầu tư tư nhân. Kết luận chung là đầu tư công đang có tác động lấn át lớn
hơn tác động bổ trợ đầu tư tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu 1995-
2016. Tương tự, Hùng Thanh và cộng sự (2021) nghiên cứu tác động của đầu tư tới
tăng trưởng kinh tế tại 63 tỉnh thành Việt Nam trong giai đoạn 2000-2020 với việc sử
dụng mô hình PMG. Kết quả nghiên cứu cho thấy dài hạn, đầu tư công lấn át đầu tư
tư nhân và từ đó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế mặc dù các yếu tố khác như
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), lao động và độ mở thương mại có tác động tích
cực tới tăng trưởng kinh tế.
Trong khi đó, Nguyễn Thị Thanh Huyền & cộng sự (2022) lại cho rằng đầu tư
công có tác động lấn át tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn khi phân tích trường hợp
các vùng KTTĐ miền Trung trong giai đoạn 2000-2021. Tương tự, Phạm Thái Bình
(2020) đề cập đến tác động ngắn hạn và dài hạn của đầu tư công đối với nền kinh tế
Việt Nam. Tác giả sử dụng mô hình DSGE / RBC để phân tích những ảnh hưởng của
đầu tư công đến chu kỳ kinh doanh tại Việt Nam sau Đổi mới (1986). Nghiên cứu
cho thấy rằng đầu tư công giải thích tới 40% sự thay đổi của sản lượng của Việt Nam
13
trong cả ngắn hạn và dài hạn. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra tác động lấn át của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn.
1.2 Các nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân
Thứ nhất, các nghiên cứu phân tích tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư
tư nhân trong phạm vi một quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia.
Hatano (2010) sử dụng số liệu của Nhật Bản trong giai đoạn 1953-2004 phân
tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Nghiên cứu sử dụng hàm sản xuất
Cobb-Douglas với mô hình ECM. Theo đó, sau năm đầu tiên, đầu tư công bắt đầu tạo
tác động bổ trợ đối với đầu tư tư nhân. Tác giả đồng thời kiểm định tác động bổ trợ
của đầu tư công tới đầu tư tư nhân thông qua kiểm định nhân quả Granger. Kết quả
cho thấy đầu tư công có tác động cùng chiều tới đầu tư tư nhân. Girish Bahal & cộng
sự (2015) phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại Ấn Độ trong giai
đoạn Q2/1996-Q1/2015 với mô hình SVECM (Structural Vector Error Correction
Model). Kết quả cho thấy đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân giai đoạn
1980-2012 do các cải cách của nền kinh tế Ấn Độ trong những năm đầu thập niên 80.
Ngoài ra, hiệu ứng bổ trợ cũng được phát hiện trong nghiên cứu khi sử dụng số liệu
theo quý (Q2/1960-Q1/2015). Cụ thể, nếu đầu tư công tăng 1 rupee thì sẽ kéo theo
đầu tư tư nhân tăng lần lượt 0,3, 1,24, 1,07 rupeee sau 4, 8, 12 quý. Kết quả nghiên
cứu tương tự cũng được chỉ ra trong các nghiên cứu của K. Krishnamurty (1985),
Blejer & Khan (1984), D. Ramirez (1994), Naqvi (2003), Erden & Holcome (2005),
Mitra (2014), Abiad & cộng sự (2016).
Bên cạnh các nghiên cứu tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
dưới góc độ một quốc gia thì còn có các nghiên cứu dưới góc độ một nhóm các
quốc gia.
Nghiên cứu của Oshikoya (1994) đối với một nhóm 7 nước châu Phi
(Cameroon, Mauritius, Morocco, Tunisi, Kenya, Malawi, và Tanzani) trong giai đoạn
1970-1988 với phương pháp OLS đã chỉ ra rằng đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân ở
cả hai nhóm nước có thu nhập trung bình và nhóm thu nhập thấp. Tuy nhiên, bằng
chứng về sự bổ trợ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân rõ ràng hơn đối với các nước
có thu nhập trung bình. Rasmané Ouédraogo và cộng sự (2019) phân tích tác động
của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại 44 nước châu Phi thuộc khu vực hạ Sahara.
Nghiên cứu sử dụng mô hình nhóm trung bình truyền thống MG (Mean Group) và
mô hình AMG mở rộng (Augmented Mean Group). Kết quả cho thấy đầu tư công tạo
14
tác động bổ trợ tại 21 nước và với quốc gia nào khu vực tư nhân càng phát triển thì
tác động bổ trợ của đầu tư công càng lớn. Kamps (2004b) đã sử dụng mô hình VAR
để phân tích vai trò của vốn đầu tư công đối với nền kinh tế của 22 nước OECD. Mô
hình sử dụng dữ liệu theo năm của từng quốc gia trong giai đoạn 1960-2001 của các
biến đều dưới dạng logarit: vốn ròng của khu vực công, vốn ròng của khu vực tư
nhân, số lượng lao động và GDP (theo giá so sánh). Một trong những kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng vốn đầu tư công và vốn đầu tư tư nhân là bổ sung cho nhau trong dài
hạn. Afonso & Aubyn (2008) thông qua mô hình VAR và số liệu của một nhóm nước
phát triển (14 nước châu Âu, Canada, Mỹ và Nhật Bản) đánh giá các ảnh hưởng vĩ
mô của đầu tư tư nhân và đầu tư công. Kết quả cho thấy trong hầu hết trong các trường
hợp hiệu ứng khuyến khích đầu tư tư nhân của đầu tư công mang tính phổ biến hơn.
Altin Gjini & Agim Kukeli (2012) nghiên cứu hành vi đầu tư của khu vực tư nhân tại
các nền kinh tế chuyển đổi ở khu vực Đông Âu với mục tiêu chính là để điều tra tác
động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân. Tác giả đã sử dụng số liệu của 11 quốc
gia Đông Âu trong thời gian 19 năm từ 1991 đến 2009 với phương pháp POLS. Kết
quả nghiên cứu cho thấy mối đầu tư công tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân với mức
độ tin cậy 1%. Hiệu ứng bổ sung lẫn nhau này mạnh hơn ở nhóm các nước kém phát
triển hơn. Mahmoudzadeh & cộng sự (2013) phân tích ảnh hưởng của đầu tư công
đối với đầu tư tư nhân trong 23 phát triển và 15 nước đang phát triển từ năm 2000
đến năm 2009 với việc sử dụng mô hình PVAR. Nhóm tác giả phát hiện ra rằng tăng
đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân ở các nước đang phát triển. Phetsavong & Ichihashi
(2012) đã sử dụng mô hình tăng trưởng kinh tế của Le & Suruga (2005) và mô hình
hiệu ứng cố định thông qua phân tích dữ liệu từ 15 quốc gia đang phát triển ở châu Á
trong giai đoạn 1984-2009. Kết quả thực nghiệm cho thấy, đầu tư tư nhân đóng vai
trò quan trọng nhất trong việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Mario Alloza &
cộng sự (2022) nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Tây
Ban Nha giai đoạn quý 1/ 1995 - quý 4 / 2019 với việc sử dụng mô hình SVAR. Kết
quả cho thấy, trung bình, đầu tư công tăng có xu hướng tạo ra tác động tích cực đến
đầu tư tư nhân. Đặc biệt, khi đầu tư công tăng 1% sẽ thúc đẩy sự gia tăng tương đương
đầu tư tư nhân trong ngắn hạn.
Thứ hai, ngoài các nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân dưới góc độ tổng đầu tư công thì còn có các nghiên cứu chia đầu tư công thành
15
các thành phần theo lĩnh vực đầu tư và nghiên cứu tác động của các thành phần đó
tới đầu tư tư nhân.
Aschauer (1989a) đã xem xét tác động của đầu tư công vào cơ sở hạ tầng phi
quân sự đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế của các nước thuộc nhóm G-7
trong giai đoạn 1966 đến 1985. Sử dụng mô hình hồi quy bằng phương pháp bình
phương nhỏ nhất OLS (Ordinary Least Square) để phân tích, Aschauer nhận thấy rằng
tồn tại hiệu ứng bổ trợ giữa đầu tư tư nhân và đầu tư công, điều này cho thấy rằng
đầu tư công nâng cao sự đóng góp của đầu tư tư nhân vào tăng trưởng kinh tế. Cụ thể
nếu đầu tư công tăng 1% sẽ thúc đẩy tăng đầu tư tư nhân, qua đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế 0.4%. Sturm & cộng sự (1999) đánh giá tác động của kết cấu hạ tầng kinh tế
đầu tư công để tăng trưởng kinh tế tại Hà Lan giai đoạn 1853 đến 1953. Kiểm tra
quan hệ nhân quả Granger dựa trên mô hình ước lượng bằng phương pháp bình
phương nhỏ nhất OLS (Ordinary Least Square) được sử dụng trong nghiên cứu và
nhóm tác giả khẳng định tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng công cộng đối với đầu tư
tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Sau khi phân tích cơ sở hạ tầng công cộng là cơ bản
(như thoát nước, đường bộ, bến cảng và đường sắt) và bổ sung (như điện, khí đốt,
cấp nước), nhóm tác giả kết luận rằng cơ sở hạ tầng cốt lõi có tác động tích cực lâu
dài đến đầu tư tư nhân và kinh tế tăng trưởng trong khi cơ sở hạ tầng công cộng bổ
sung có tác động tích cực trong ngắn hạn. Cụ thể hơn, Pereira (2000) đã phân tích tác
động của đầu tư công lên đầu tư tư nhân của Hoa Kỳ dựa trên mô hình tự động hồi
quy VAR (Vector Autoregression) và số liệu trong giai đoạn 1956-1997. Trong
nghiên cứu này, tác giả không chỉ đánh giá tác động của đầu tư công lên tổng đầu tư
tư nhân mà còn phân tích tác động của 5 loại đầu tư công lên tổng đầu tư tư nhân. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng: (1) Ở mức độ tổng hợp, tổng đầu tư công thúc đẩy đầu tư
tư nhân; (2) Ở mức độ phân loại đầu tư tư nhân, đầu tư công có tác động thức đẩy
mạnh mẽ đối với đầu tư tư nhân vào thiết bị công nghiệp và giao thông. Xu và Yan
(2014) đã điều tra xem liệu chính phủ đầu tư thu hút đầu tư tư nhân vào Trung Quốc
từ năm 1980 đến năm 2011 bằng cách sử dụng mô hình SVAR. Nhóm tác giả chia
chi tiêu Chính phủ thành hai loại: (1) đầu tư phục vụ cung cấp hàng hóa công cộng
và cơ sở hạ tầng – được hiểu là đầu tư công, và (2) đầu tư trong công nghiệp tư nhân
và thương mại. Nghiên cứu chỉ ra rằng đầu tư của chính phủ vào hàng hóa công cộng
bổ trợ cho đầu tư tư nhân. Tác động tích cực của đầu tư công cho cơ sở hạ tầng cũng
16
được chỉ ra trong nghiên cứu của Daradag & cộng sự (2003), Cavallo & cộng sự
(2011), Saidjada và cộng sự (2016), Makuyana (2016) và Ouedraogo & cộng sự (2019).
Thứ ba, một số nghiên cứu còn phân tích tác động bổ trợ của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân dưới góc độ các ngành.
Saseed & cộng sự (2006) sử dụng mô hính SVAR phân tích tác động của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân ngành công nghiệp và ngành nông nghiệp tại Pakistan giai
đoạn 1974-2006. Kết quả nghiên cứu chỉ ra đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu
tư tư nhân ngành nông nghiệp do những tác động tích cực của đầu tư công vào CSHT
nông nghiệp. Tương tự, Fujii & cộng sự (2013) sử dụng mô hình vecto tự động hồi
quy các nhân tố dạng mở rộng FAVAR (Factor Augmented Vector Autogression)
phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân theo các ngành khác nhau cho
nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn quý 2/1983 – quý 1/2008. Kết quả cho thấy đầu
tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân của ngoại trừ ngành nông nghiệp và
ngành tiện ích. Nghiên cứu của Annala và cộng sự (2008) cho nền kinh tế Nhật trong
khoảng thời gian 1970-1998 với mô hình VAR/ECM cũng cho thấy đầu tư công tạo
tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân các ngành nông nghiệp, tiện ích, thương mại và
dịch vụ, tài chính, bảo hiểm và bất động sản. Nghiên cứu cho trường hợp nền kinh tế
Mỹ, Pereira & Andraz (2003) với mô hình VAR cho dữ liệu liên quan tới 12 ngành
công nghiệp trong giai đoạn 1956-1997 kết luận đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới
hầu hết các ngành trong nền kinh tế ngoại trừ nhành khai khoảng, truyền thông và
bán buôn. Đầu tư công tạo tác động bổ trợ đối với các ngành trong nền kinh tế còn
được phát hiện trong các nghiên cứu của Pereira (2000); Hamaaki (2008); Forni &
Gambetti (2010), S. Muthu (2017).
Tại Việt Nam, một số ít các nghiên cứu gần đây cũng tập trung phân tích tác
động của đầu tư công tới các ngành của đầu tư tư nhân. Nguyễn Thị Cành & cộng
sự (2018) áp dụng phương pháp đồng liên kết (Fully Modified OLS và Dynamic Panel
OLS) để đánh giá tác động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng
trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu từ 22 ngành kinh tế cấp 1 trong khoảng thời
gian 27 năm (1990-2016). Nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng nhất quán về hiệu quả
tích cực của đầu tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng GDP ngành ở Việt Nam. Kết
quả cho thấy đầu tư công không chỉ giúp thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân mà còn
làm tăng GDP trong dài hạn. Bên cạnh đó, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng được xem
như là vốn mồi để thu hút đầu tư tư nhân trong và ngoài nước vào sản xuất kinh
17
doanh. Giai đoạn đầu mới mở cửa đầu tư công thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh
và hệ số thu hút đầu tư khu vực tư nhân cao hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong
ngắn hạn đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân.
Chi tiết hơn, Nguyễn Thị Thùy Liên (2022) đánh giá tác động của đầu tư công
cho cơ sở hạ tầng tới ngành điện, xây dựng hạ tâng, vận tải-kho bãi và viễn thông
thông qua tính toán hệ số liên kết ngược (BL), liên kết xuôi (FL) trong giai đoạn
2001-2005. Kết quả cho thấy, xét từng ngành thì đầu tư công vào các ngành hạ tầng
như xây dựng, vận tải, kho bãi, viễn thông và ngành điện có tác động kích thích ngành
phát triển và kéo theo sự phát triển của các ngành khác. Vai trò của đầu tư công cho
cơ sở hạ tầng nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân còn được khẳng định trong các nghiên
cứu của Đinh Trọng Thắng (2019), Đỗ Thị Thanh Huyền & cộng sự (2021).
Thứ tư, các nghiên cứu cho thấy tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân còn gây nhiều tranh cãi khi phân tích trong ngắn hạn và dài hạn.
Castillo & cộng sự (2005) nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân trong giai đoạn 1980-2002, sử dụng phương pháp VAR để phân tích tác động
dài hạn và phương pháp VECM để phân tích tác động ngắn hạn. Kết quả cho thấy,
trong dài hạn đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân. Tương tự, Foncesca (2009) phân tích
tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại trong giai đoạn 1980-2007 tại Tây Ban
Nha với phương pháp ARDL. Kết quả cho thấy sự đồng nhất với nghiên cứu của
Castillo & cộng sự (2005). Tuy nhiên, trong dài hạn hiệu ứng bổ trợ tương đối yếu.
Nghiên cứu của Glenda Maluleke & cộng sự (2023) đối với trường hợp Nam Phi với
mô hình ARDL và ARDL phi tuyến trong giai đoạn 1980-2018 lại đưa ra kết quả
khác. Cụ thể, đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân cả trong ngắn hạn và dài hạn. Cú sốc
bất lợi của đầu tư công làm giảm đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả
này cũng được phát hiện trong các nghiên cứu của Pereira & cộng sự (2001),
Kustepeli (2005), Ngeendepi & cộng sự (2021), Babu & cộng sự (2022).
Sử Đình Thành (2011) sử dụng mô hình SVAR (Structured Vector
Autoregressor – Vecto tự động hồi quy ) để phân tích tác động của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân tại Việt Nam trong giai đoạn 1990-2010. Kết quả cho thấy đầu tư công
không gây chèn lấn đầu tư khu vực tư nhân mà trái lại tạo ra hiệu ứng thúc đẩy trong
dài hạn, đặc biệt là đầu tư tư nhân trong nước. Tương tự, Nguyễn Thế Khang (2022)
nghiên cứu sự tác động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong nước ở
các địa phương của Việt Nam. Nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu bảng của 63 tỉnh/thành
18
của Việt Nam từ năm 2000 đến 2020, bằng phương pháp FMOLS và DOLS. Kết quả
cho thấy, đầu tư công tác động thúc đẩy tích cực cho đầu tư tư nhân trên cả hai phương
pháp ước lượng. Nghiên cứu của Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư & Lê Hoàng Phong
(2014) sử dụng mô hình ARDL để kiểm tra hiệu ứng của đầu tư công tới tăng trưởng
kinh tế Việt Nam giai đoạn 1988-2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy có tác động thúc
đẩy đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Chi tiết hơn, Hoàng Dương
Việt Anh (2013) sử dụng mô hình VAR trong nghiên cứu về tác động đầu tư công
đến tăng trưởng tại vùng Trung Bộ Việt Nam giai đoạn 1986-2011 đã chỉ ra được vai
trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân với tăng trưởng cũng như tác động của đầu tư
công tới đầu tư tư nhân. Theo đó, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng và vào việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực có thể làm tăng năng suất vốn tư nhân và có lợi cho tăng
trưởng. Kết quả nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân
trong dài hạn cũng được phát hiện trong nghiên cứu gần đây của Nguyễn Văn Bôn
(2021), Lê Thanh Tùng (2022).
Ngược lại với kết luận của các nghiên cứu trên, Nguyễn Thị Chinh (2017) khi
nghiên cứu về tác động của đầu tư công, đầu tư tư nhân đến tăng trưởng kinh tế với
mô hình VECM đã chỉ ra rằng đầu tư công tác động bổ trợ đầu tư tư nhân chỉ trong
ngắn hạn. Theo tác giả, trong ngắn hạn đầu tư công tạo hiệu ứng bổ trợ do nhu cầu
hàng hóa và dịch vụ từ Chính phù làm cho cầu về sản phẩm của khu vực tư nhân gia
tăng, khuyến khích khu vực này đầu tư nhiều hơn. Tuy nhiên, trong dài hạn điều này
không xảy ra do khi đi vào thực hiện đầu tư công lại kém hiệu quả hoặc tham gia vào
các lĩnh vực mà đầu tư tư nhân hiệu quả hơn. Tuy nhiên có thể thấy, tổng hợp từ các
nghiên cứu trên, tại Việt Nam, đầu tư công tác động bổ trợ đối với đầu tư tư nhân
chủ yếu xảy ra trong dài hạn.
Tóm tắt về các nghiên cứu liên quan tới tác động của đầu tư công đối với đầu
tư tư nhân được thể hiện trong bảng ở phụ lục 1.
1.3 Khoảng trống nghiên cứu
1.3.1 Nội dung tiếp cận nghiên cứu
Thứ nhất, hiện tại có rất ít nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới đầu tư
tư nhân ở cấp độ vùng kinh tế và đặc biệt chưa có một nghiên cứu nào phân tích tác
động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam.
Chủ yếu các nghiên cứu tập trung phân tích đầu tư công và đầu tư tư nhân dưới góc
một quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia. Trong khi đó, một trong những nội dung
19
trọng tâm của sự đổi mới chính sách đầu tư của các quốc gia nói chung và Việt Nam
nói riêng đó chính là tăng cường thúc đẩy đầu tư công, đặc biệt tại các vùng Kinh tế
trọng điểm và coi đây là yếu tố dẫn dắt quan trọng, tạo nền tảng cơ sở hạ tầng để thu
hút đầu tư tư nhân vào phục hồi và phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh hậu
Covid-19. Tuy nhiên, đầu tư công tại Việt Nam luôn là điểm nghẽn của nền kinh tế.
Mặt khác, mỗi vùng kinh tế trọng điểm lại có đặc trưng và điều kiện phát triển kinh
tế riêng biệt. Chính vì vậy, nghiên cứu tác động đầu tư công tới đầu tư tư nhân, từ đó
đề xuất các giải pháp để thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho từng
vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam rất có ý nghĩa trong thực tiễn.
Thứ hai, có khá nhiều nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân. Tuy nhiên còn khuyết thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa
đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Việt Nam, đặc biệt là những nghiên cứu thực nghiệm
kiểm định đồng thời giả thuyết “hiệu ứng lấn át” và “hiệu ứng bổ trợ” trong ngắn hạn
và dài hạn. Chủ yếu các nghiên cứu tại Việt Nam tập trung phân tích tác động trong ngắn
hạn hoặc trong dài hạn và chỉ ra ảnh hưởng của một trong hai giả thuyết chứ không phân
tích đồng thời hai giả thuyết. Đồng thời cũng chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam chỉ
rõ độ lớn của hiệu ứng lấn át và hiệu ứng bổ trợ chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố nào.
Trong khi đó, đây là vấn đề rất quan trọng không những trong vấn đề xây dựng mô hình
đánh giá mà còn là cơ sở đề xuất giải pháp sử dụng đầu tư công hiệu quả nhằm thúc đẩy
đầu tư tư nhân.
Thứ ba, hiện nay có rất ít nghiên cứu phân chia đầu tư tư nhân thành các thành
phần khác nhau theo nguồn vốn và chỉ rõ tác động của đầu tư công tới các thành
phần đó. Các nghiên cứu trên thế giới và một số ít nghiên cứu tại Việt Nam mới tập
trung phân tích tổng đầu tư tư nhân hoặc phân tách đầu tư tư nhân theo các ngành
nghề và lĩnh vực. Trong khi đó, phân tách đầu tư tư nhân theo nguồn vốn là cần thiết
vì tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân bao gồm có đầu tư doanh nghiệp và
đầu tư hộ gia đình chính có thể tạo ra các kết quả khác biệt, từ đó ảnh hưởng tới việc
thực hiện chính sách sử dụng hiệu quả đầu tư tư công nhằm thu hút đầu tư tư nhân.
Nội dung này đặc biệt trong bối cảnh hậu covid-19 khi khu vực doanh nghiệp trong
nước và hộ gia đình được kỳ vọng là yếu tố phục hồi và thúc đẩy nền kinh tế tại vùng
KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung.
20
1.3.2 Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Thứ nhất, đa số các nghiên cứu tại Việt Nam khi nghiên cứu dưới góc độ các
tỉnh/thành thì sử dụng chuỗi dữ liệu dữ liệu bảng với các phương pháp như POLS,
FMOLS, DOLS. Tuy nhiên, hạn chế của các phương pháp này là không phân tác được
tác động ngắn hạn và dài hạn của chuỗi số liệu. Do đó, sẽ không tạo hiệu quả cao khi
phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khi kênh tác động có thể tạo
kết quả khác biệt trong ngắn hạn và dài hạn. Do đó, cần phải xây dựng một phương
pháp có thể phân tác được kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong
ngắn hạn và dài hạn.
Thứ hai, hiện nay có rất ít nghiên cứu chỉ rõ vai trò của đầu tư công cho CSHT
tác động như thế nào tới đầu tư tư nhân và chưa có nghiên cứu nào chỉ rõ tác động
của hạng mục đầu tư này tới đầu tư doanh nghiệp và hộ gia đình. Trong khi đó, đầu
tư công cho CSHT kinh tế-xã hội so với các dạng thức đầu tư công khác thường tạo
động lực thu hút đầu tư tư nhân. Do đó, phân tích tác động của kênh này tới đầu tư tư
nhân cũng là một trong những vấn đề quan trọng nhằm mục tiêu phân tích tác động
của đầu tư công tới đầu tư tư nhân một cách toàn diện. Tuy nhiên dưới cấp độ vùng,
các tỉnh/thành, số liệu đầu tư công cho CSHT thì số liệu sẽ không liền mạch theo năm
ở các địa phương. Trong trường hợp này, cần thiết phải xây dựng một phương pháp
có thể sử dụng với chuỗi số liệu ngắn, đơn giản mà vẫn có thể thấy được chiều hướng
tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân.
21
TỔNG KẾT CHƯƠNG 1
Chương 1 Luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về tác động của
đầu tư công và đầu tư tư nhân, tiếp cận theo hiệu ứng lấn át và hiệu ứng bổ trợ. Theo
đó, các nghiên cứu nhìn chung đưa ra các kết luận như sau: Thứ nhất, đa số các nghiên
cứu cho rằng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân thường xuyên hơn ở các nước phát
triển trong khi đó tạo ra hiệu ứng bổ trợ ở các nước đang phát triển. Sự khác biệt
trong các kết quả này là do sự khác biệt về cơ cấu giữa hai loại nền kinh tế. Thứ hai,
các thành phần của đầu tư công sẽ có tác động khác nhau tới đầu tư tư nhân và đầu
tư công sẽ tác động khác nhau tới các thành phần của đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư
công vào lĩnh vực cơ sở cơ sở hạ tầng tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân bởi vì nó sẽ
giảm chi phí sản xuất tư nhân, do đó nâng cao lợi nhuận, điều này sẽ kích thích đầu
tư tư nhân. Ngược lại đầu tư công vào lĩnh vực không phải cơ sở hạ tầng thường lấn
át đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, ảnh hưởng của đầu tư công tới các lĩnh vực của đầu tư
tư nhân là chưa rõ. Thứ ba, các nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân có sự khác biệt rõ ràng khi xét trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này có thể lý
giải là do trong ngắn hạn, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện nên chưa
tạo được tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân, trong khi đó, việc Chính phủ vay trên thị
trường vốn vay để tạo nguồn tài trợ cho đầu tư có thể gây ra hiệu ứng lấn át đối với
đầu tư tư nhân trong ngắn hạn. Trong khi đó, trong dài hạn, cơ sở hạ tầng hoàn thiện
có thể tạo ra tác động tích cực đối với đầu tư tư nhân. Thứ tư, các nghiên cứu trên thế
giới và tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân dưới góc độ 1 quốc gia hoặc 1 nhóm các quốc gia. Đặc biệt, chưa có một nghiên
cứu nào tập trung ở góc độ vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, Chương 1 Luận án đã tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan tới
đầu tư công, đầu tư tư nhân, tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân, các nhân tố
điều tiết ảnh hưởng của đầu tư công tơi đầu tư tư nhân và v ùng kinh tế trọng điểm.
Đây chính là cơ sở để Luận án có thể xây dựng được giả thuyết nghiên cứu, mô hình
nghiên cứu và nền tảng cho các nhận xét về kết quả nghiên cứu cũng như hàm ý
chính sách.
22
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU
TƯ CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀ VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM
2.1 Những vấn đề cơ bản về đầu tư công và đầu tư tư nhân
2.1.1 Đầu tư công
2.1.1.1 Khái niêm
a. Khái niệm về đầu tư công trên thế giới
Đầu tư công là một khái niệm gây tranh luận không chỉ ở Việt Nam mà cả thế
giới. Liên hợp quốc (UN, 2009) cho rằng đầu tư công có thể được hiểu là các khoản
đầu tư của Nhà nước nhằm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế trong tương lai.
Theo Ngân hàng thế giới (WB, 2010), đầu tư công là khoản chi tiêu công giúp làm
tăng thêm tích lũy vốn vật chất. Tổng đầu tư công bao gồm đầu tư vào cơ sở hạ tầng
vật chất do chính phủ trung ương, chính quyền địa phương và các công ty thuộc khu
vực công thực hiện. Theo quan điểm của Qũy tiền tệ quốc tế (IMF, 2012), đầu tư công
là toàn bộ chi tiêu của khu vực công, nhưng không bao gồm chi tiêu của các doanh
nghiệp nhà nước, để hình thành các tài sản cố định. Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác
và Phát triển (OECD, 2016) lại cho rằng đầu tư công muốn nói đến đầu tư của Chính
phủ vào cơ sở hạ tầng vật chất (đường giao thông, tòa nhà chính phủ…) và cơ sở hạ
tầng mềm (hỗ trợ đổi mới, nghiên cứu và phát triển…) với thời gian hữu ích kéo dài
trên một năm. Tương tự, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA, 2018) định nghĩa
đầu tư công là chi tiêu của chính phủ cho cơ sở hạ tầng công cộng bao gồm cơ sở hạ
tầng kinh tế như sân bay, đường bộ, đường sắt, cảng, nước và nước thải, điện, khí đốt
và viễn thông và cơ sở hạ tầng xã hội như trường học và bệnh viện. Cơ sở hạ tầng
kinh tế và xã hội đều trở thành tài sản vật chất công cộng khi chúng được hoàn thành.
Tuy nhiên, Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, 2008)
cho rằng việc giới hạn đầu tư công trong chi tiêu Chính phủ có thể đưa ra cách nhìn
hẹp về đầu tư công bởi những khoản đầu tư tư nhân vì mục đích công cũng có thể coi
là đầu tư công.
Như vậy có thể thấy, khái niệm về đầu tư công trên thế giới đang tồn tại ba quan
điểm chính. Quan điểm thứ nhất nhấn mạnh chủ sở hữu nguồn vốn của đầu tư công.
Theo đó, đầu tư công là đầu tư của Nhà nước, của Chính phủ. Chủ sở hữu nguồn vốn
của đầu tư công là cơ quan Nhà nước, cơ quan thuộc chính phủ từ trung ương đến địa
phương...Các cơ quan Nhà nước, của Chính phủ sẽ sử dụng nguồn vốn này hoặc Nhà
23
nước giao cho các chủ thể khác trong nền kinh tế sử dụng nguồn vốn đầu tư công.
Hạn chế của quan điểm này là không giải thích được các dự án đầu tư theo hình thức
hợp tác công tư (PPP) có phải là đầu tư công hay không trong khi đó đây là các hình
thức đầu tư phổ biến nhằm phát triển cơ sở hạ tầng trong các nền kinh tế hiện nay.
Bên cạnh đó, quan điểm này cho thấy một cách nhìn khá hẹp về nguồn lực đầu tư cho
phát triển kinh tế-xã hội trên thực tế. Vì nguồn lực Nhà nước luôn bị giới hạn nên chỉ
dùng nguồn lực Nhà nước để đầu tư sẽ không đáp ứng được nhu cầu xã hội. Quan
điểm thứ hai nhấn mạnh vào mục đích của đầu tư công. Quan điểm này được chia
thành 2 luồng ý kiến: (i) Đầu tư công nhằm thúc đầy năng lực sản xuất của nền kinh
tế hay chính là tăng thêm tích lũy vốn vật chất. Tuy nhiên, trên thực tế, một số chi
tiêu cho các vấn đề phúc lợi xã hội như y tế, giáo dục, môi trường…cũng cần được
xét vào danh mục của đầu tư công. (ii) Đầu tư công là đầu tư phát triển không vì mục
tiêu lợi nhuận. Theo đó, đầu tư công là đầu tư vào lĩnh vực phục vụ quan sự phát triển
kinh tế-xã hội, cung cấp hàng hóa dịch vụ công và vì mục đích công. Với quan điểm
này, đầu tư công có thể thu hút, huy động và sử dụng mọi nguồn lực kinh tế, kể cả
nguồn vốn trong nước của khu vực tư nhân và khu vực nước ngoài. Điều này có nghĩa
chủ thể đầu tư không nhất thiết phải là Nhà nước mà có thể là khu vực tư nhân hoặc
khu vực nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều hoạt động của Nhà nước rất khó
để phân tách được là có tính lợi nhuận hay phi lợi nhuận. Ví dụ doanh nghiệp nhà
nước hay các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đều có sự đan xen giữa mục
tiêu chính trị và mục tiêu lợi nhuận. Quan điểm thứ ba là sự kết hợp giữa chủ sở hữu
nguồn vốn đầu tư công và mục đích của đầu tư công. Theo quan điểm này, đầu tư
công được hiểu là việc sử dụng vốn Nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án
không vì mục tiêu lợi nhuận.
b. Khái niệm về đầu tư công tại Việt Nam
Tại Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung chưa có khái niệm
đầu tư công, trong nền kinh tế đầu tư của Nhà nước là chủ yếu, trong quản lý kinh tế
và thống kê chỉ sử dụng khái niệm “đầu tư xây dựng cơ bản nhà nước”. Đầu những
năm 1990 khi kinh tế Việt Nam bắt đầu đổi mới sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thì thuật ngữ “đầu tư công” mới bắt đầu xuất hiện bên cạnh các thuật
ngữ “đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh” và “đầu tư trực tiếp nước ngoài”.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới khái niệm đầu tư công chưa
thực sự rõ ràng. Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư công, năm 2014, Việt
24
Nam đã xây dựng và ban hành đạo luật về đầu tư công (Luật Đầu tư công năm 2014).
Đây là lần đầu tiên, chính sách về đầu tư công được ghi nhận trong một đạo luật, thể
hiện rõ tầm quan trọng của lĩnh vực này. Bên cạnh đó, hàng loạt các đạo luật khác có
liên quan cũng được cập nhật, sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính tương thích. Tuy
nhiên, sau một thời gian triển khai thi hành Luật Đầu tư công năm 2014 đã phát sinh
tồn tại hạn chế, bất cập gây cản trở đến hoạt động đầu tư công (Lê Nhật Bảo và cộng
sự, 2020).
Để tháo gỡ những hạn chế, bất cập, ngày 13/6/2019, Quốc hội đã thông qua Luật
Đầu tư công năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2020). Theo Khoản 15
điều 4 Luật Đầu tư công 2019, đầu tư công là “hoạt động đầu tư của Nhà nước vào
các chương trình, dự án và đối tượng đầu tư công khác theo quy định của Luật đầu
tư công”. Như vậy, khái niệm đầu tư công đưa ra ở Luật Đầu tư Công 2019 gồm 2
phần: thứ nhất, chủ sở hữu của vốn đầu tư chính là Nhà nước và thứ hai, mục đích
của hoạt động đầu tư là đầu tư vào các chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Vậy,
thuật ngữ Đầu tư công theo Luật Đầu tư công 2019 có thể hiểu là đầu tư của Nhà
nước tuy nhiên không bao gồm đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước. Theo khoản 11
điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020, doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp
nắm giữ trên 50% vốn điều lệ. Do đó, dựa vào quy định của Luật Doanh nghiệp 2020,
nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước không chỉ bao gồm vốn từ Nhà nước
mà còn từ khu vực tư nhân. Hay nói cách khác, trong đầu tư sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp Nhà nước không chỉ bao gồm đầu tư phát triển CSHT, đầu tư cung cấp
sản phẩm công ích mà còn nhằm mục đích sinh lời. Tuy nhiên, hiện tại, hệ thống
thống kê của Việt Nam chưa có số liệu phân tách các dạng đầu tư trên của doanh
nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, vai trò dẫn dắt, tạo động lực, thúc đẩy các thành phần
kinh tế của doanh nghiệp Nhà nước còn hạn chế tại Việt Nam (Trần Kim Chung &
cộng sự, 2021). Cụ thể, Doanh nghiệp Nhà nước còn yếu ở những ngành có ảnh
hưởng, quyết định đến hỗ trợ nầg cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và khu vực
doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều vận hành
theo phương thức khép kính, thực hiện gần như toàn bộ các khâu của quá trình sản
xuất và chưa tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tham gia. Vì vậy, đối chiếu với
định nghĩa của đầu tư công theo Luật đầu tư công 2019, và thông qua việc phân tích
hạn chế trong chức năng của doanh nghiệp Nhà nước, theo quan điểm của NCS, đầu
25
tư công không bao gồm đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước. Cách hiểu này được sử
dụng trong các nghiên cứu cùng chủ đề tại Việt Nam gần đây như nghiên cứu của
Nguyễn Thị Đoan Trang (2018), Nguyễn Thị Cành & cộng sự (2018), Phan Đình
Khôi & cộng sự (2019), Phạm Thái Bình (2020), Nguyễn Thị Thùy Liên (2022).
Có thể thấy, khái niệm về đầu tư công trong Luật đầu tư công 2019 của Việt
Nam nhìn chung nhìn nhận đầu tư công không chỉ góc độ chủ sở hữu của vốn đầu tư
mà cả ở góc độ mục đích đầu tư. Tuy nhiên, đầu tư công theo Luật đầu tư công 2019
vẫn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Thứ nhất, luật giới hạn nguồn lực đầu tư công
trong phạm vi nguồn vốn của đầu tư công bao gồm ngân sách Nhà nước và vốn từ
nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, từ đó hạn
chế việc thu hút các nguồn vốn khác cho hoạt động đầu tư công. Thứ hai, đối tượng
của đầu tư công gồm có đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo phương
thức đối tác công tư. Tuy nhiên, Luật đầu tư công quy định trong mọi trường hợp Nhà
nước không được góp quá 50% vốn dự án. Nhưng nếu Nhà nước góp dưới 50%, dự
án trên 30 năm thu hồi vốn thì không có nhà đầu tư hay ngân hàng nào tài trợ. Do đó,
hình thức đầu tư công theo phương thức công tư không hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư tư nhân.
Mặc dù vậy, Luật đầu tư công 2019 đã có sự hoàn thiện hơn so với Luật đầu tư
công 2014 về các nội dung liên quan tới nguồn vốn đầu tư công, đối tượng đầu tư
công, quản trị đầu tư công và tiệm cận hơn với quan niệm của thế giới. Do đó, trong
phạm vi nghiên cứu của Luận án, khái niệm đầu tư công được hiểu theo Luật đầu tư
công 2019.
2.1.1.2 Phân loại đầu tư công
Tùy theo mục đích nghiên cứu khác nhau, có thể phân loại đầu tư công theo các
loại khác nhau.
Theo tính chất của dự án đầu tư: có thể phân chia đầu tư công thành dự án có
cấu phần xây dựng và dự án không có cấu phần xây dựng. Trong đó, dự án có cấu
phần xây dựng là dự án đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã
đầu tư xây dựng, bao gồm cả phần mua tàu sản, mua trang thiết bị của dự án. Dự án
không có cấu phần xây dựng là dự án mua tài sản, nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, mua, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc và dự án khác.
Theo quy mô đầu tư: đầu tư công có thể chia thành các nhóm dự án sau: dự án
quan trọng quốc gia, các dự án đầu tư nhóm A, dự án đầu tư nhóm B, dự án đầu tư
26
nhóm C. Các tiêu chí cụ thể để phân loại các dự án trọng điểm quốc gia, nhóm A, B,
C được quy định trong điều 7,8,9,10 Luật Đầu tư công 2019.
Theo nguồn vốn đầu tư: đầu tư công có thể chia thành các nhóm như sau: đầu
tư công từ ngân sách nhà nước (NSNN), đầu tư công từ vốn vay và đầu tư công từ
các nguồn khác.
2.1.1.3 Vai trò của đầu tư công
Thứ nhất, đầu tư công giúp thúc đẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua
kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Cụ thể, theo quan điểm của trường phái Keynes, tổng
cầu trong nền kinh tế phụ thuộc vào chi tiêu của các nhân hộ gia đình, đầu tư tư nhân,
chi tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng. Trong đó, chi tiêu chính phủ có thể tách thành
chi đầu tư (đầu tư công) và chi thường xuyên. Do đó, nếu đầu tư công tăng lên thì sẽ
trực tiếp làm tăng tổng cầu và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, nếu xét
từ phía cung với hàm sản xuất Cobb-Douglas thì sản lượng của nền kinh tế phụ thuộc
vào các yếu tố vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp. Trong đó, yếu tố vốn có
thể chia thành vốn đầu tư công và vốn đầu tư tư nhân. Do đó, khi yếu tố vốn đầu tư
tư nhân tăng sẽ có tác động tới sản lượng đầu ra và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Bên cạnh kênh trực tiếp, đầu tư công cũng tác động tới tăng trưởng kinh tế thông
qua kênh gián tiếp là đầu tư tư nhân. Về nội dung này, Luận án sẽ tiếp tục làm rõ hơn
ở phần tiếp theo khi phân tích lý thuyết về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân.
Thứ hai, đầu tư công góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo và bất bình
đẳng thu nhập trong xã hội từ đó, nâng cao và ổn định đời sống của người dân (Hà
Thị Tuyết Minh, 2017). Đầu tư công cho cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội sẽ tạo ra việc
làm, từ đó làm tăng thu nhập cho người lao động. Khi thu nhập tăng lên thì người lao
động có thể cải thiện được chất lượng cuộc sống của mình và những người xung
quanh. Bên cạnh đó, đầu tư công vào các lĩnh vực như giáo dục, đào tạo, y tế, môi
trường cũng góp phần quan trọng trong việc giúp người nghèo, người dân khu vực
vùng sâu vùng xa có cơ hội cải thiện chất lượng sống, xóa đói giảm nghèo cũng như
giảm bất bình đẳng trong thu nhập (Gomenee, 2003; Nguyễn Minh Hóa, 2017).
Thứ ba, đầu tư công góp phần đảm bảo ổn định và tăng cường quốc phòng, an
ninh. Các công trình, dự án an ninh quốc phòng là cơ sở quan trọng của đất nước để
bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh, độc lập, chủ quyền quốc gia (Lê Đức Tiến, 2022).
Một trong những chức năng của đầu tư công đó chính là đầu tư vào những lĩnh vực mà
đầu tư tư nhân không thể, không được phép hoặc không muốn đầu tư. Trong đó có lĩnh
27
vực an ninh, quốc phòng. Đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, tình hình
chính trị khu vực và thế giới ngày càng khó lường thì xu thế tất yếu của các quốc gia là
tăng cường đầu tư công cho quốc phòng và anh ninh (Phan Thị Hoài Vân, 2019).
2.1.2 Đầu tư tư nhân
2.1.2.1 Khái niệm
Hiện nay chưa có một cách hiểu đầy đủ và chính xác về thuật ngữ đầu tư tư
nhân. Theo Kumo (2006), đầu tư tư nhân là đầu tư được tiến hành bởi các doanh
nghiệp tư nhân nhằm mục đích tạo lợi nhuận. Molapo, S., & Damane, M. (2015) cho
rằng đầu tư tư nhân được hiểu như một nguyên tắc tổ chức cơ bản cho hoạt động kinh
tế trong nền kinh tế dựa trên thị trường nơi vốn vật chất cũng như tài chính nói chung
thuộc sở hữu tư nhân và các quyết định sản xuất được thực hiện vì lợi ích tư nhân.
Thabani (2017) khẳng định đầu tư tư nhân là bộ phận thuộc sở hữu tư nhân của nền
kinh tế hay chính là bộ phận của nền kinh tế thị trường tự do bao gồm các công ty
không thuộc sở hữu cũng như không chịu sự quản lý của Nhà nước. Trong khi đó,
theo WB (2019), đầu tư tư nhân là việc khu vực tư nhân mua sắm tài sản vốn với kỳ
vọng tạo ra một khoản thu nhập, giá trị lớn hơn trong tương lai.
Trong khi đó, tại Việt Nam, theo Nguyễn Văn Ngọc (2006), đầu tư tư nhân chỉ
việc tăng tư bản tư nhân (tăng thiết bị sản xuất). Ngô Thị Thanh Tú (2020) cho rằng
đầu tư tư nhân chính là việc nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn để hình thành tài sản tiến hành
các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư và các quy đinh khác của pháp
luật liên quan. Lê Việt An (2020) lại đồng quan điểm với định nghĩa về đầu tư tư
nhân của WB và giới hạn đầu tư tư nhân thực hiện trong phạm vi trong nước (đầu tư
tư nhân trong nước).
Tổng hợp từ các quan điểm trên và dựa trên khái niệm về đầu tư theo Điều 3
Luật Đầu tư 2020, Luận án cho rằng đầu tư tư nhân chính là việc nhà đầu tư thuộc
khu vực kinh tế tư nhân (ngoài Nhà nước) bỏ vốn đầu tư để tiến hành các hoạt động
đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các quy định khác của pháp luật liên quan.
Trong đó hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao
gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý đầu tư.
Như vậy, từ các quan điểm trên về đầu tư tư nhân có thể thấy đầu tư tư nhân
khác đầu tư công ở tính chất sở hữu của nguồn vốn đầu tư và mục đích đầu tư. Đầu
tư tư nhân là các khoản đầu tư của các thành phần kinh tế tư nhân trong khi đó đầu tư
công là khoản đầu tư của Nhà nước. Mục đích của đầu tư tư nhân là sinh lợi nhuận
28
trong khi đó mục đích của đầu tư công là phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, không vì
mục đích lợi nhuận.
Hiện nay trong thống kê chính thống của Việt Nam đang phân loại đầu tư theo
3 khu vực kinh tế là khu vực kinh tế “Nhà nước”, “ngoài Nhà nước” và “khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài”. Theo đó, trong phạm vi Luận án này, đầu tư tư nhân sẽ được
hiểu là đầu tư sử dụng nguồn vốn thuộc sở hữu của khu vực ngoài Nhà nước hay
chính là đầu tư ngoài Nhà nước. Do đó, đầu tư tư nhân trong phạm vi nghiên cứu
của Luận án không bao gồm đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Đầu tư công là đầu tư sở hữu nguồn vốn thuộc khu vực Nhà nước hay chính là đầu
tư Nhà nước. Các hiểu này cũng tương đồng với đa số các nghiên cứu cùng chủ đề
tại Việt Nam, có thể kể đến như Sử Đình Thành (2011), Tô Trung Thành (2012),
Nguyễn Thị Chinh (2017), Nguyễn Thị Cành (2018), Phạm Thái Bình (2020),
Nguyễn Thế Khang (2022) và Nguyễn Thị Thùy Liên (2022).
2.1.2.2 Các thành phần của đầu tư tư nhân
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD, 2018), đầu tư tư nhân bao
gồm đầu tư của khu vực tư nhân trong nước (các doanh nghiệp không thuộc nhà nước,
các cá nhân) và đầu tư của khu vực nước ngoài (đầu tư trực tiếp của tư nhân nước
ngoài và đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngoài). Cụ thể: (i) Đầu tư của khu vực tư
nhân trong nước là việc các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt
động kinh doanh; (ii) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI ) là hình thức đầu tư sang 1
nước khác mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn vào các dự
án nhằm giành đc quyền điều hành trực tiếp đối với các dự án mà họ bỏ vốn; (ii) Đầu
tư gián tiếp nước ngoài (FPI) là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài
chính trung gian khác mà nhà đầu tư ko trực tiếp tham gia quản lý hợp đồng đầu tư.
Tại Việt Nam, dựa vào cách phân chia trong Niên giám thống kê tại các địa
phương, đầu tư tư nhân chính là đầu tư khu vực ngoài Nhà nước và bao gồm: đầu tư
doanh nghiệp (ngoài nhà nước) và đầu tư hộ gia đình.
✓ Đầu tư doanh nghiệp
Hiện nay chưa có một cách hiểu đầy đủ và chính xác về thuật ngữ đầu tư doanh
nghiệp. Tuy nhiên, kết hợp Điều 4, Luật doanh nghiệp (2020) và Điều 3 Luật Đầu tư
(2020), Luận án cho rằng đầu tư doanh nghiệp là việc khu vực doanh nghiệp bỏ vốn
đầu tư để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các quy
29
định khác của pháp luật liên quan. Trong đó, doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích kinh doanh ( Khoản 10, điều 4, Luật doanh nghiệp, 2020).
✓ Đầu tư hộ gia đình
Hiện nay chưa có một cách hiểu đầy đủ và chính xác về thuật ngữ đầu tư hộ gia.
Tuy nhiên, kết hợp Điều 212, Luật dân sự (2015), và Điều 3 Luật Đầu tư (2020), Luận
án cho rằng đầu tư hộ gia đình là việc khu vực hộ gia đình bỏ vốn đầu tư để tiến hành
các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các quy định khác của pháp
luật liên quan. Trong đó, hộ gia đình bao gồm các thành viên có tài sản chung, cùng
đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi
tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này (Điều 212 Luật dân sự 2015). Đầu tư
hộ gia đình bao gồm đầu tư của nhóm nông-lâm-ngư nghiệp và nhóm phi-nông-lâm-
ngư nghiệp bao gồm cả nhóm chính thức (là các hộ có đăng ký kinh doanh – hộ kinh
doanh) và nhóm không chính thức (là các hộ không đăng ký kinh doanh) (Tổng cục
thống kê, 2020).
Trong pham vi nghiên cứu của Luận án, do hạn chế của việc thu thập số liệu,
hộ gia đình giới hạn ở hộ gia đình thuần nông và hộ gia đình phi nông-lâm- ngư
nghiệp (nhóm chính thức).
2.1.2.3 Các yếu tố tác động tới đầu tư tư nhân
Thứ nhất là đầu tư công. Đầu tư công là một nhân tố đặc biệt khi vừa có thể hỗ
trợ vừa có thể lấn át hoạt động đầu tư của khu vực tư nhân. Đây cũng là nội dung
chính của nghiên cứu này và sẽ được trình bày cụ thể ở các phần sau.
Thứ hai là lãi suất thực tế. Lý thuyết tân cổ điển cho rằng lãi suất cao làm tăng
chi phí sử dụng vốn, làm giảm tỷ lệ đầu tư (Jorgenson, 1963). Lợi nhuận ròng của
nhiều dự án sẽ nhỏ hơn hoặc thậm chí âm với lãi suất cao hơn, ngăn cản các nhà đầu
tư tiềm năng đầu tư. Nói một cách cân xứng, với mức lãi suất thấp hơn, nhiều dự án
sẽ sinh lời hơn, cho phép các nhà đầu tư bỏ nhiều tiền hơn vào chúng. Các nghiên
cứu thực nghiệm đã thiết lập mối quan hệ ngược chiều mạnh mẽ giữa lãi suất và đầu
tư (Awad & cộng sự, 2021; Frimpong & Marbuah, 2010; Jongwanich & Kohpaiboon,
2008; Ofosu-Mensah Ababio & cộng sự, 2018). Ngược lại, McKinnon & Shaw
(1973) nói rằng đầu tư và lãi suất thực có thể có mối quan hệ tích cực. Theo đó, lãi
suất thực tế cao hơn sẽ làm tăng tiết kiệm, dẫn đến tăng khối lượng tín dụng trong
30
nước và đầu tư cân bằng cao hơn. Lý thuyết này, được gọi là giả thuyết McKinnon &
Shaw, dựa trên tiền đề rằng trở ngại lớn nhất đối với đầu tư là sự sẵn có của vốn tài
chính hơn là chi phí vốn. Lãi suất danh nghĩa cao ở hầu hết các nước đang phát triển,
nhưng lãi suất thực hầu hết là âm do tỷ lệ lạm phát cao. Tiết kiệm không được khuyến
khích bởi lãi suất thực tế thấp hoặc âm, làm giảm lượng tiền sẵn có để đầu tư (Ang,
2009; Emran & cộng sự, 2007). Lãi suất có thể tác động tiêu cực đến đầu tư qua kênh
tiết kiệm trong tình huống này. Tuy nhiên, kênh lãi suất sẽ có tác động mạnh hơn tới
đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp hơn là đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình do
khu vực hộ gia đình khó tiếp cận với vốn tín dụng hơn vì quy mô nhỏ lẻ, manh mún.
Thứ ba là tổng sản phẩm trong nước. Lý thuyết của kinh tế học vĩ mô cho rằng
đầu tư là những gì còn lại của tổng thu nhập sau khi tiêu dùng, chi tiêu chính phủ, và
xuất khẩu ròng được trừ. Đầu tư thường được mô hình hóa như một hàm của thu nhập
và lãi suất. Giả định trong mô hình trên, các yếu tố còn lại không đổi, thì tổng sản
phẩm trong nước tăng hay giảm đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư. Điều
đó cho thấy tăng trưởng kinh tế là một nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến đầu tư tư
nhân. Bên cạnh đó, Ho & cộng sự (2013) cũng phát hiện tổng sản phẩm trong nước
tăng lên giúp cho thu nhập của người dân tăng lên, từ đó kéo theo tiết kiệm nhiều hơn
và lượng tiền tiết kiệm này là một kênh tài trợ vốn cho đầu tư trong nước. Tương tự,
Greene & Villanueva (1991) nhấn mạnh các nước tăng trưởng dẫn đến thu nhập bình
quân đầu người cao, gia tăng tiết kiệm trong nước, và lượng tiết kiệm này có thể
được dùng để tài trợ cho các dự án đầu tư của khu vực tư nhân.
Thứ tư là đầu tư trực tiếp (FDI). Vốn FDI có thể tạo ra hiệu ứng bổ trợ với đầu
tư tư nhân. Theo đó, vốn FDI có thể thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài và tạo
ra sự bổ sung vốn đối với các doanh nghiệp trong nước (Markusen & Venables, 1999;
Driffield & Munday, 2000). Các doanh nghiệp trong nước có thể đáp ứng với dòng
vốn FDI bằng cách đổi mới và tăng nguồn vốn của họ để đối mặt với sự cạnh tranh
(De Mello, 1999). Dòng vốn FDI ồ ạt cũng có thể kích hoạt các khoản đầu tư trong
khu vực vào cơ sở hạ tầng làm tăng lợi nhuận của đầu tư trong nước (Cardoso &
Dornbusch, 1989). Tuy nhiên, vốn FDI cũng có thể lấn át đầu tư tư nhân. Vì các công
ty nước ngoài thường vượt trội hơn về mặt công nghệ, họ có thể tận dụng nhanh chóng
và hiệu quả hơn các cơ hội mà trước đây chỉ dễ tiếp cận với các nhà đầu tư trong nước
(Fry, 1993; Agosin & Mayer, 2000). FDI có khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong
31
nước và tăng trưởng tiêu cực do tỷ giá hối đoái có thể tăng lên, giá cả tư liệu sản xuất
cao hơn và giảm đầu tư trong nước (Cordon & Neary, 1982).
Thứ năm là lạm phát. Thông thường, tỷ lệ lạm phát cao được coi là một chỉ báo
về sự không chắc chắn của kinh tế vĩ mô và việc một quốc gia không có khả năng
quản lý chính sách kinh tế vĩ mô, cả hai đều dẫn đến môi trường đầu tư không thuận
lợi. Kết quả là tỷ lệ lạm phát lạm phát trong nước tỷ lệ nghịch với tốc độ tăng trưởng
đầu tư tư nhân (Frimpong & Marbuah, 2010). Hơn nữa, lạm phát làm tăng rủi ro của
các dự án đầu tư dài hạn, làm giảm thời gian đáo hạn trung bình của các khoản vay
thương mại và làm sai lệch nội dung kiến thức về giá tương đối, điều này có tác động
tiêu cực đến đầu tư tư nhân (Fischer, 1993).
Thứ sáu là độ mở của nền kinh tế. Trong bối cảnh hợp tác toàn cầu như hiện
nay, nhà đầu tư ở bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến tính mở của nền kinh tế.
Ngoài thị trường trong nước, các doanh nghiệp của quốc gia này có thể phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, công nghệ, vốn đầu tư, đội ngũ chuyên gia,
nhân công… đến từ các quốc gia khác trên thế giới. Việc mở cửa nền kinh tế đem lại
nhiều cơ hội cho các hoạt động xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp, giúp môi
trường kinh doanh thông thoáng hơn, có tác động nhân quả tích cực đến hoạt động
của doanh nghiệp nội địa, kể cả khu vực tư nhân. Với nhân tố này, nghiên cứu của
nhiều tác giả cho thấy sự đồng nhất cao khi khẳng định hiệu ứng tích cực của độ mở
lên đầu tư tư nhân, cho dù có sự khác nhau về thang đo biến số, phương pháp tiếp
cận, đặc điểm mẫu điều tra (Balasubramanyam & cộng sự, 1996; Combey, 2016; Su
và Bui, 2016). Tuy nhiên, mặt trái của sự mở cửa là có thể gây ra những cú sốc khi
tiếp cận đột ngột với sự cạnh tranh từ dòng vốn nước ngoài. Lúc đó, một số nhà đầu
tư tư nhân có thể không chịu nổi sức ép cạnh tranh và buộc phải tháo lui hoạt động
đầu tư (Serven, 2003).
Thứ bảy là sự ổn định chính trị. Ngoài các khía cạnh trên, sự ổn định về chính
trị xã hội cũng tác động không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu
vực tư nhân. Chính trị xã hội ổn định sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, giúp các
doanh nghiệp yên tâm tiến hành hoạt động đầu tư và mở rộng sản xuất. Sự ổn định
đó còn là dấu hiệu quan trọng đảm bảo rằng chính phủ và nền kinh tế có thể hỗ trợ
nhà đầu tư tư nhân giảm thiểu, khắc phục những rủi ro trong điều kiện khách quan.
Đặc biệt, khi nhà đầu tư tiến hành hoạt động đầu tư trong dài hạn, số vốn bỏ ra thường
lớn, nhất là các khoản chi cho hạ tầng, máy móc thiết bị. Số vốn này không dễ thu
32
hồi trong tương lai, nên các doanh nghiệp cũng khó lòng đảo chiều hoạt động đầu tư
hoặc rút vốn về (Mauro, 1998; Guillaumont & cộng sự, 1999; Everhart & Sumlinski,
2001; Everhart & cộng sự, 2009).
2.1.3 Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
Theo lý thuyết, tác động của đầu tư công (public investment) tới đầu tư tư nhân
(private investment) được giải thích thông qua 2 quan điểm chủ đạo: quan điểm ủng
hộ đầu tư công tạo ra hiệu ứng lấn át tới đầu tư tư nhân (crowding-out effect) (Blejer
và Khan, 1984; Beck, 1993; Voss, 2002; Ganelli, 2003; Kustepeli, 2005; Lütfi Erden,
2005; Ang, 2009; Cavallo & Daude, 2011), quan điểm ủng hộ đầu tư công tạo ra hiệu
ứng bổ trợ tới đầu tư tư nhân (crowding-in effect) (Aschauer, 1989a; Greene và
Villanueva, 1990; Ramirez, 1994; Reungsri, 2010; Hatano, 2010).
2.1.3.1 Kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
a. Hiệu ứng lấn át
Quan điểm thứ nhất ủng hộ hiệu ứng lấn át (crowding-out effect). Theo đó, nhu
cầu đầu tư của chính phủ tăng lên khiến cho đầu tư của khu vực tư nhân giảm xuống
(Blejer và Khan, 1984; Beck, 1993; Voss, 2002; Ganelli, 2003). Theo đó, hiệu ứng
lấn át có thể diễn ra qua 2 kênh chính: (i) tài trợ bằng nợ và (ii) sản xuất hàng hóa và
dịch vụ cạnh tranh với khu vực tư nhân.
Thứ nhất, nếu đầu tư chính phủ được tài trợ thông qua vay nợ từ hệ thống tài
chính hoặc phát hành trái phiếu trên thị trường vốn thì thị trường phải dành một lượng
vốn nhất định cho chính phủ. Một mặt, điều này dẫn đến lượng tín dụng cung cấp cho
khu vực tư nhân bị giảm xuống. Mặt khác, sự khan hiếm vốn trên thị trường đẩy lãi
suất trên thị trường tăng lên. Cả hai yếu tố này đều đưa đến chung một kết quả là đầu
tư tư nhân bị thu hẹp lại. Friedman (1978) còn phân biệt rõ hơn giữa "hiệu ứng lấn át
thực sự" và "hiệu ứng lấn át tài chính”. Hiệu ứng lấn át thực sự tập trung vào cách
việc Chính phủ tăng đầu tư có thể lấn át vốn từ khu vực tư nhân khi nền kinh tế ở
trạng thái toàn dụng. Trong khi đó, hiệu ứng lấn át tài chính xảy ra ngay cả khi nền
kinh tế không ở trong trạng thái toàn dụng. Theo đó, hiệu ứng lấn át tài chính có thể
hoạt động thông qua một cơ chế được gọi là “giao dịch lấn át”. Theo cơ chế này, khi
chính phủ tăng đầu tư, sẽ dẫn tới cầu tiền tăng, từ đó tạo áp lực làm tăng lãi suất và
giảm đầu tư tư nhân.
r
LM
2
1
0
33
IS2
Y
Y0 IS1 Y1 Y2
Hình 2.1: Hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân
Nguồn: Nguyễn Văn Công (2008)
Cụ thể, trong mô hình IS - LM, khi đầu tư chính phủ được mở rộng, đường IS0
sẽ dịch chuyển sang phải thành IS1, kéo theo thu nhập tăng từ Y0 thành Y1. Trên thị
trường tiền tệ, sự gia tăng của thu nhập Y làm tăng cầu tiền; trong điều kiện cung tiền
cố định thì cầu tiền tăng đã đẩy lãi suất lên cao (từ r0 đến r1). Do lãi suất cũng là chi
phí vay vốn để đầu tư nên khi lãi suất tăng, đầu tư giảm. Như vậy, hiệu ứng lấn át đầu
tư tư nhân (crowding out), thường gọi tắt là hiệu ứng lấn át đầu tư, được dùng để phản
ánh hiện tượng xảy ra khi chính phủ gia tăng can thiệp vào thị trường bằng những
khoản chi tiêu của mình làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động đầu tư của khu vực
tư nhân, làm cho đầu tư tư nhân giảm xuống. Theo Carlson và Spencer (1975), trong
hiện tượng lấn át đầu tư, nếu mỗi sự gia tăng trong chi tiêu công làm giảm một lượng
tương ứng vốn đầu tư tư nhân, hiện tượng này gọi là lấn át hoàn toàn. Còn nếu lượng
vốn tư nhân giảm đi ít hơn phần gia tăng của chi ngân sách thì đây là lấn át một phần.
Để tài trợ nợ, ngoài giải pháp vay nợ từ hệ thống tài chính hoặc phát hành trái
phiếu trên thị trường vốn thì Chính phủ còn có thể tăng thuế (Kustepeli, 2005). Việc
tăng đánh thuế có thể tạo động cơ cho việc trốn thuế hoặc có thể làm giảm kỳ vọng
lợi nhuận từ bất kỳ dự án đầu tư, từ đó giảm đầu tư tư nhân (Boopen và Khadaroo,
2006). Ahmed và Miller (1999) cho rằng chi tiêu của chính phủ được tài trợ bằng
thuế có xu hướng lấn át đầu tư tư nhân mức độ cao hơn so với việc tài trợ bằng nợ.
Thứ hai, đầu tư công cũng có thể làm giảm đầu tư tư nhân khi nó sản xuất hàng
hóa và dịch vụ cạnh tranh với khu vực tư nhân. Đặc biệt khi Nhà nước tích cực tham
34
gia vào các sự án khu vực thương mại mà khu vực tư nhân được biết đến là hiệu quả
hơn và có năng suất biên cao hơn. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới tăng trưởng đầu tư
tư nhân thông qua sự dịch chuyển của nó trong thị trường sản phẩm (Khan và Kumar,
1997). Đặc biệt ở các nước đang phát triển, đầu tư công do các doanh nghiệp kinh tế
nhà nước được bao cấp nhiều và hoạt động kém hiệu quả có khả năng lấn át đầu tư
tư nhân (Lütfi Erden, 2005).
b. Hiệu ứng bổ trợ
Ngược lại với hiệu ứng thay thế này, hiệu ứng bổ trợ (crowding-in effect) được
nhìn thấy khi có sự gia tăng đầu tư tư nhân do tăng đầu tư công.
Thứ nhất, thông qua việc xây dựng hoặc cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất như
đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh, cảng, sân bay và đường sắt (Aschauer
1989a và Hatano 2010) đầu tư công tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn,
thường làm tăng năng suất đầu tư tư nhân. Từ góc độ vi mô, hoạt động này giúp giảm
chi phí đầu tư ban đầu, tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn tư nhân. Ở khía cạnh
vĩ mô, chúng giúp đem lại sự tăng trưởng dài hạn của sản lượng tiềm năng, khiến các
nhà đầu tư lạc quan hơn vào triển vọng phát triển và tiếp tục đổ vốn vào (Aschauer,
1989a; Keynes, 1936). Ví dụ, sự hiện diện của một mạng lưới đường sắt có thể làm
giảm chi phí vận chuyển của thiết bị nặng cần thiết để thành lập một nhà máy mới.
Công ty tư nhân có thể tiếp tục tận dụng lợi thế này ngoài việc thiết lập nhà máy bằng
cách giảm chi phí sản xuất đơn vị biên thông quan vận chuyển bằng đường sắt các
nguyên liệu và sản phẩm cồng kềnh. Khi tích lũy tài sản công và tích lũy tài sản tư
nhân có tính bổ sung cho nhau, đầu tư công làm tăng năng suất cận biên của tích lũy
tài sản tư nhân, do đó, làm tăng tỷ suất sinh lợi của đầu tư tư nhân và kết quả là kích
thích gia tăng đầu tư tư nhân.
Thứ hai, nhu cầu hàng hóa dịch vụ từ Chính phủ khiến cầu về sản phẩm của khu
vực tư nhân tăng, khuyến khích khu vực này đầu tư nhiều hơn do kỳ vọng về doanh
thu và lợi nhuận tốt hơn (Ramirez, 1994; Greene và Villanueva, 1990).
Thứ ba, sự gia tăng thu nhập quốc dân phát sinh từ đầu tư công cũng có thể thu
hút đầu tư tư nhân. Điều này là do thu nhập quốc dân tăng sẽ kích thích tăng trưởng
kinh tế, từ đó có thể khiến khu vực tư nhân tăng cường đầu tư để khai thác bất kỳ cơ
hội sinh lời nào (Reungsri, 2010).
35
2.1.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng tới kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
Kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân (hiệu ứng lấn át và hiệu ứng
bổ trợ) sẽ chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản sau đây:
a. Hội nhập kinh tế quốc tế
Một trong những yếu tố phản ánh sự hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia
và ảnh hưởng tới kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân đó chính là đầu tư
trực tiếp nước ngoài FDI (Obstfedld, M., 1998; Harrison, A., & cộng sự, 2003, 2004).
FDI là yếu tố điều tiết, có thể vừa ảnh hưởng tới độ lớn của hiệu ứng lấn át vừa ảnh
hưởng tới độ lớn của hiệu ứng bổ trợ.
Trước hết, luồng vốn FDI chảy vào một nền kinh tế có thể tăng cung trên thị
trường vốn vay, từ đó giảm áp lực về tiếp cận vốn vay của khu vực tư nhân (Harrison,
A., & cộng sự, 2004). Hay nói cách khác, khi luồng vốn FDI chảy vào một nền kinh
tế gia tăng, có thể giảm bớt áp lực lãi suất tăng trên thị trường vốn do chính phủ vay
nợ để tài trợ cho đầu tư công, từ đó giảm độ lớn của hiệu ứng lấn át (Dehn, 2000).
Mặt khác, Obstfedld, M. (1998) chỉ ra rằng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài
vào thị trường trong nước là một trong những động lực khiến chính quyền nước nhận
đầu tư nỗ lực tạo môi trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thông qua các chính sách
thu hút, có thể kể đến chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Khi đó, đồng thời cũng sẽ
gia tăng độ lớn của hiệu ứng bổ trợ đối với khu vực tư nhân trong nước. Tuy nhiên,
dòng vốn FDI cũng có thể gia tăng độ lớn của hiệu ứng lấn át nếu như các doanh
nghiệp nước ngoài cạnh tranh vay vốn với doanh nghiệp trong nước bởi lẽ doanh
nghiệp nước ngoài như các công ty đa quốc gia thường có lợi thế hơn trong việc tiếp
cận vốn vay (Harrison, A., & cộng sự, 2003).
b. Yếu tố thời gian
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy có nhiều tranh luận về tác động của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân khi xét trong ngắn hạn và dài hạn. Trên thực tế, thời
gian thực hiện đầu tư công có ảnh hưởng tới khả năng sử dụng đầu tư công nhằm thúc
đẩy đầu tư tư nhân (Berg & cộng sự, 2019), vì vậy là một trong những yếu tố ảnh
hưởng độ lớn của hiệu ứng lấn át và hiệu ứng bổ trợ . Cụ thể, chất lượng của đầu tư
công phụ thuộc vào một số yếu tố như thể chế, khung pháp lý...Tuy nhiên, trong ngắn
hạn những yếu tố này có thể bị tác động bởi một số yếu tố như tham nhũng, thiếu
hiệu quả của chính phủ trong việc lên dự án đầu tư, phân bổ và thục hiện đầu tư.
Trong khi đó, nghiên cứu của Abiad, Furceri & cộng sự (2016), Myamoto & cộng sự
36
(2020) chỉ ra rằng tại những quốc gia chính phủ có năng lực quản lý đầu tư công tốt
thì độ lớn hiệu ứng bổ trợ càng cao .Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng bổ trợ của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân có thể nhỏ hơn trong dài hạn.
c. Độ nhạy cảm giữa đầu tư tư nhân và lãi suất
Độ nhạy cảm gữa đầu tư tư nhân và lãi suất ảnh hưởng tới hiệu ứng lấn át. Cụ
thể, kênh truyền dẫn ảnh hưởng của việc chính phủ tăng đầu tư làm ảnh hưởng tới
đầu tư tư nhân đó chính là kênh lãi suất. Đầu tư tư nhân càng nhạy cảm với lãi suất
thì khi lãi suất tăng lên, đầu tư tư nhân giảm càng nhiều. Do đó, độ lớn của hiệu ứng
lấn át càng lớn.
Theo Keith Carlson & cộng sự (1975), độ nhay cảm của đầu tư với lãi suất phụ
thuộc vào yếu tố kỳ vọng của khu vực tư nhân.
Cụ thể, việc chính phủ tăng đầu tư có thể dẫn tới lo ngại cho khu vực tư nhân
về việc sẽ vay nợ hoặc tăng thuế trong tương lai để tài trợ đầu tư , do đó ảnh hưởng
tiêu cực tới tâm lý đầu tư của khu vực tư nhân. Khi đó, khi chính phủ tăng đầu tư,
đường IS1 sẽ dịch chuyển tới IS2 (hình 1.1). Điều này sẽ dẫn tới sự gia tăng về “sự
ưa thích thanh khoản” (giảm đầu tư, tăng nắm giữ tiền mặt) của khu vực tư nhân và
từ đó làm cho đường LM dịch chuyển sang trái. Điều này làm cho đường IS tiếp tục
dịch chuyển sang trái. Cuối cùng, sau sự dịch chuyển của đường LM và IS, sản lượng
không thay đổi (Carlson, Spencer, 1975).
Trong trường hợp thứ 2, khi khu vực hộ gia đình được giả định có kỳ vọng hợp
lý. Khi đó, khu vực hộ gia đình cho rằng đầu tư của chính phủ sẽ hoàn toàn thay thế
đầu tư và tiêu dùng của khu vực hộ gia đình trong tương lai. Do đó, khi đường IS dịch
phải từ IS1 tới IS2 (hình 2.1) do chính phủ tăng đầu tư , hộ gia đình sẽ phản ứng lại
bằng cách chủ động giảm đầu tư hoặc tiêu dùng, khi đó đường IS sẽ dịch chuyển
lại bị trí ban đầu (IS1). Phản ứng của hộ gia đình không phụ thuộc vào cách thức
chính phủ tài trợ nợ là vay nợ trên thị trường vốn vay hay là đánh thuế (Carlson,
Spencer, 1975).
Bên cạnh đó, độ nhạy cảm giữa đầu tư tư nhân và lãi suất còn phụ thuộc vào sự
phát triển của thị trường tài chính. Đối với các quốc gia đang phát triển, khu vực tư
nhân chủ yếu phụ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng để vay vốn. Thị trường vốn bao
gồm thị trường chứng khoàn, thị trường trái phiếu quy mô còn nhỏ và còn có nhiều
bất cập trong quá trình phát triển liên quan tới năng lực doanh nghiệp, quản lý nhà
nước, khung pháp lý...(Vương Duy Lâm, 2019). Do đó, khu vực tư nhân phụ thuộc
37
tương đối lớn vào kênh tín dụng ngân hàng để tài trợ nguồn vốn đầu tư. Do đó, khi
Chính phủ tăng đầu tư và tài trợ bằng cách vay vốn qua kênh tính dụng ngân hàng,
điều này gây áp lực lớn tới lãi suất và ảnh hưởng mạnh tới khu vực tư nhân. Bên cạnh
đó, do thị trường vốn còn kém phát triển, khu vực hộ gia đình thông thường sẽ khó
tiếp cận thị trường vốn hơn so với khu vực doanh nghiệp. Từ đó, sự gia tăng của yếu
tố thường sẽ ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực hộ gia đình ít hơn so với khu vực
doanh nghiệp.
d. Ngoại ứng tích cực của danh mục đầu tư công
Danh mục đầu tư công là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới độ lớn của hiệu
ứng bổ trợ. Hiệu ứng bổ trợ sẽ lớn hơn khi các danh mục đầu tư tạo ra ngoại ứng tích
cực lớn hơn (Romer, 1986; Moretti & cộng sự, 2019). Cụ thể, đầu tư công vào lĩnh
vực cơ sở hạ tầng sẽ gia tăng độ lớn của hiệu ứng bổ trợ ( Aschauer, 1989, Fernald,
1999, Lanua, 2017). Bên cạnh đó, đầu tư công vào các dự án thân thiện với môi
trường cũng tạo ra hiệu ứng thúc đẩy tư nhân lớn hơn. Batini & cộng sự (2021) chỉ
ra rằng đầu tư công cho các dự án thân thiện với môi trường như các dự án năng lượng
tái tạo, năng lượng hạt nhân lần lượt làm cho độ lớn của hiệu ứng bổ trợ tăng 1,2 lần,
4,1 lần trong khi đó những dự án cho đầu tư năng lượng “nâu” chỉ làm cho độ lớn
của hiệu ứng bổ trợ tăng 0.65 lần.
e. Tính bất ổn của kinh tế vĩ mô
Trong thời kỳ nền kinh tế có nhiều bất ổn, đầu tư công có thể tạo tác động bổ
trợ tới đầu tư tư nhân nếu như nó có thể tác động tới lòng tin của khu vực tư nhân.
Do đó đây là yếu tố có thể ảnh hưởng tới hiệu ứng bổ trợ. Nghiên cứu của Berg &
cộng sự (2019), Bloom (2018) chỉ ra rằng trong thời kỳ nền kinh tế có nhiều bất ổn,
đầu tư tư nhân có xu hướng giảm xuống và mức độ ảnh hưởng bởi chính sách khuyến
khích từ đầu tư công cũng giảm xuống. Hay nói cách khác, độ lớn của hiệu ứng bổ
trợ sẽ nhỏ hơn khi nền kinh tế ổn định. Tuy nhiên, Bachmann & cộng sự (2012) chỉ
ra rằng, sự bất ổn của kinh tế vĩ mô có thể làm tăng độ lớn của hiệu ứng bổ trợ nếu
như chính sách đầu tư công của chính phủ có thể làm tăng được kỳ vọng của khu vực
tư nhân về triển vọng kinh tế.
Tóm lại, có thể thấy đầu tư công tác động tới đầu tư tư nhân thông qua kênh bổ
trợ và kênh lấn át. Mức độ tác động thông qua hai kênh này lại chịu sự điều tiết của
một số yếu tố như NCS đã phân tích ở trên. Trong đó, đáng chú ý là vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI (hội nhập kinh tế quốc tế) và thời gian (ngắn hạn và dài
38
hạn) là hai yếu tố có ảnh hưởng đồng thời tới độ lớn của cả hiệu ứng lấn át là
hiệu ứng bổ trợ. Đây cũng làm hàm ý quan trọng để Luận án tiếp tục thực hiện phân
tích thực trạng đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ ở chương 2, xây
dựng mô hình đánh giá tác động ở chương 3 cũng như là cơ sở để đề xuất giải pháp
ở chương 4.
Nội dung các kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và các yếu tố
ảnh hưởng tới các kênh được Luận án tóm tắt ở sơ đồ sau:
Hình 2.2: Kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
2.2 Đầu tư công, đầu tư tư nhân tại vùng kinh tế trọng điểm
2.2.1 Những vấn đề cơ bản về vùng kinh tế trọng điểm
2.2.1.1 Vùng kinh tế trọng điểm và các khái niệm liên quan
• Khái niệm vùng
39
Vùng là một hệ thống các thành phố hoặc các địa điểm có tính thứ bậc, trong đó
mỗi vùng bao gồm một vài thành phố có thứ hạng cao hơn và nhiều thành phố nhỏ ở
cấp thấp hơn (Harmaakorpi, Vesa & Pekkarinen, Satu, 2002). Vùng cũng có thể được
hiểu là các giới hạn địa lý hoặc tài nguyên thiên nhiên hoặc hệ sinh thái (Dunford,
Micheal, 2015). Trong khi đó, Gregory & cộng sự (2009) cho rằng vùng phải thỏa
mãn 3 đặc trưng cơ bản sau đây: thứ nhất, một miền hoặc một khu vực không rõ ràng
về quy mô trên bề mặt trái đất, thứ hai, là một phần của một hệ thống các vùng che
phủ trái đất và thứ ba, một bộ phận của một đặc trái đất như là một vùng khí hậu đặc
biệt hoặc vùng kinh tế đặc biệt.
Tại Việt Nam, theo khoản 6, điều 3 Luật Quy hoạch 2017, Vùng là một bộ phận
quốc gia bao gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lân cận gắn với một
số lưu vực sông hoặc có sự tương đồng về điều kiện kinh tế- xã hội, lịch sử, dân cư,
kết cấu hạ tầng và có mối quan hệ tương tác tạo nên sự bền vững với nhau.
Như vậy, tại Việt Nam, vùng được xem là vùng địa lý gắn liền với các đặc điểm
về dân cư và mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2015).
• Khái niệm vùng kinh tế
Một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên đưa ra định nghĩa về vùng kinh tế trên
thế giới đó chính là nhà địa lý học người Nga - Alaev. Theo đó, Alaev (1983) cho
rằng vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân,
chuyên môn hóa những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản, có mối quan hệ qua lại
giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ
của vùng. Cụ thể hơn, Fligstein & cộng sự (2002) cho rằng vùng kinh tế là một lĩnh
vực xã hội tổng thể được tạo bởi các thể chế cũng như các bản sắc và các tác nhân
trong vùng. Theo Crone (2003), vùng kinh tế được định nghĩa dựa trên quan điểm
của Văn phòng phân tích Kinh tế Liên bang. Theo đó, vùng kinh tế được xem là tập
hợp từ các bang dựa trên các tiêu chí kinh tế và phi kinh tế. Trong đó, tiêu chí kinh tế
chính là thu nhập và phi kinh tế dựa trên mật độ dân số, tăng trưởng, cấu trúc tộc
người, chủng tộc.
Tại Việt Nam, theo Trần Văn Thông (1998), vùng kinh tế được định nghĩa là
những bộ phận lãnh thổ của nền kinh tế quốc dân, được tổ chức chuyên môn hóa sản
xuất theo lãnh thổ, có quan hệ qua lại với nhau bởi khối lượng hàng hóa thương xuyên
sản xuất ra ở đó và bởi những quan hệ KTXH khác. Nguyễn Quốc Toàn (2020) lại
cho rằng vùng kinh tế là một thực thể không gian lãnh thổ nhất định của quốc gia,
40
được hình thành bởi tập hợp các địa phương có các điều kiện tự nhiên, xã hôi, kinh
tế đặc trưng cùng hoạt động trong một hệ thống thứ bậc các quá trình trao đổi, liên hệ
trong và ngoài nhằm tận dụng lợi thế so sánh để đi đến mục tiêu phát triển vùng có
hiệu quả.
Như vậy có thể thấy vùng kinh tế theo quan điểm tại Việt Nam chủ yếu dựa trên
điều kiện tiềm năng tự nhiên và quan điểm "phân công lao động theo lãnh thổ". Các
nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ theo một kế hoạch căn bản mang tính pháp lệnh do
Nhà nước đề ra để các vùng và các địa phương thực hiện. Yếu tố thị trường đóng
vai trò rất thứ yếu, trong nhiều trường hợp hầu như không được chú ý (Viện Kinh
tế TP. Hồ Chí Minh, 2023).
• Khái niệm vùng kinh tế trọng điểm
Theo Ron Martin và Peter Sunley (2008), một quốc gia muốn trở nên phồn thịnh
thì phải có một số vùng phát triển hơn những vùng khác. Đây là khía cạnh ủng hộ cho
quan điểm cần phải có các vùng kinh tế tạo động lực cho tăng trưởng nhanh, tích tụ
các yếu tố vật chất cho quá trình thực hiện phát triển kinh tế chung của cả nước.
Theo Nguyễn Hà Phương và Nguyễn Tiến Huy (2009), vùng kinh tế trọng điểm
là vùng hội tụ đầy đủ nhất các điều kiện phát triển, có khả năng tạo lợi thế cạnh tranh,
làm đầu tàu tăng trưởng nhanh để đẩy mạnh quá trình phát triển cho chính mình và
tiến tới đóng vai trò chi phối quyết định đối với nền kinh tế cả nước. Bên cạnh đó,
vùng kinh tế trọng điểm còn là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, hội tụ các điều
kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, giữ vai trò động lực – đầu
tàu lôi kéo sự phát triển chung của cả nước (Viện Chiến lược phát triển, 2004). Theo
Nguyễn Văn Nam và Ngô Thắng Lợi (2010), vùng KTTĐ là vùng hội tụ tốt nhất các
điều kiện để phát triển, có khả năng tạo lợi thế cạnh tranh, làm đầu tàu tăng trưởng
để đẩy mạnh quá trình phát triển cho các vùng đó và tiến tới đảm nhận vai trò chi
phối tăng trưởng đối với nền kinh tế cả nước. Vùng KTTĐ của quốc gia là một phạm
trù lịch sử, có thể thay đổi theo thời gian. Số lượng và phạm vi lãnh thổ của mỗi vùng
KTTĐ sẽ thay đổi theo yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tóm lại, cách định nghĩa vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam có khuynh hướng
thiên về lượng, kế hoạch hóa và mục đích quản lý (Viện chiến lược phát triển, 2004).
41
2.2.1.2 Cơ sở hình thành vùng KTTĐ
• Cơ sở lý thuyết
Theo nghiên cứu của tác giả, cơ sở xây dựng vùng KTTĐ được dựa trên các lý
thuyết về phát triển vùng, chủ yếu dựa trên lý thuyết cực tăng trưởng (Growth Pole
theory), lý thuyết vùng trung tâm (Central Places theory) và Lý thuyết vùng lõi –
ngoại vi (Core - Periphery theory).
Lý thuyết cực tăng trưởng (Growth Pole theory)
Lý thuyết này được đề xuất bởi nhà kinh tế học người Pháp Francois Perroux
(1950, 1955). Ý tưởng trung tâm của lý thuyết cực tăng trưởng là sự phát triển kinh
tế hay tăng trưởng không đồng đều trên toàn bộ khu vực, mà thay vào đó diễn ra xung
quanh một cực (hoặc cụm) cụ thể. Cực này thường được đặc trưng bởi ngành công
nghiệp cốt lõi (chính). Đây là ngành công nghiệp tạo sự liên kết phát triển với các
ngành công nghiệp khác, chủ yếu thông qua các tác động trực tiếp và gián tiếp. Các
ngành công nghiệp cốt lõi có thể liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như ô tô,
hàng không, điện tử, thép, hóa dầu… Các tác động trực tiếp ngụ ý rằng ngành cốt lõi
mua hàng hóa và dịch vụ từ các nhà cung cấp của nó (các ngành liên kết ngược) hoặc
cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho khách hàng của mình (các ngành liên kết xuôi).
Các tác động gián tiếp có thể liên quan đến việc tăng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ
của những người làm việc trong các ngành cốt lõi, từ đó tạo ra sự liên kết hỗ trợ phát
triển và mở rộng các hoạt động kinh tế. Việc mở rộng ngành công nghiệp cốt lõi ngụ
ý mở rộng sản lượng, việc làm, đầu tư, cũng như các ngành công nghiệp mới.
Như vậy, từ lý thuyết cực tăng trưởng, có ba vấn đề chính được đặt ra. Thứ nhất,
lý thuyết xác định ngành công nghiệp chính là động lực của tăng trưởng. Cực tăng
trưởng sẽ tập trung ở nơi mà có các ngành công nghiệp “lõi”, có khả năng thúc đẩy
sự tăng trưởng của các ngành khác. Thứ hai, lý thuyết dựa trên ý tưởng về không gian
kinh tế (economic space). Trong đó, không gian kinh tế có nghĩa là nơi các yếu tố sản
xuất có thể được tập trung sao cho tăng trưởng kinh tế có thể được thúc đẩy dựa trên
cơ sở của một ngành công nghiệp dẫn đầu. Cực tăng trưởng có thể là bất kỳ vị trí nào
mà tài nguyên, đất đai, lao động, doanh nghiệp có thể kết hợp cùng nhau và tạo ra kết
quả tối ưu.
42
Lý thuyết vùng trung tâm (Central Places theory)
Một trong những hạn chế của Lý thuyết cực tăng trưởng chính là không đề cập
tới vấn đề không gian địa lý (Geography space). Lý thuyết vùng trung tâm từ đó ra
đời nhằm khắc phục hạn chế trên của lý thuyết cực tăng trưởng. Lý thuyết vùng trung
tâm được đề xuất bởi nhà kinh tế học Boudeville (1966) và được phát triển bởi
Friedman (1973, 1980). Theo quan điểm của Boudeville, có ba loại vùng trong nền
kinh tế: đồng nhất, phân cực và kế hoạch. Vùng đồng nhất được hiểu là tại đó các địa
phương gần nhau và đồng nhất về đặc điểm kinh tế - xã hội. Vùng phân cực được
hiểu là vùng mà tại đó các địa phương có sự phụ thuộc lẫn nhau về các yếu tố và vùng
kế hoạch là vùng được lập ra theo kế hoạch của Chính phủ. “Cực” theo quan điểm
của Boudeville đó chính là nơi tập hợp các ngành công nghiệp có khả năng thúc đẩy
các ngành khác và được thiết lập tại các vùng đô thị và có khả năng khuyến khích sự
phát triển của các địa phương lân cận. Tuy nhiên, Boudeville (1966) vẫn chủ yếu dựa
trên quan điểm lý thuyết cực tăng trưởng khi mà vẫn dựa trên lĩnh vực công nghiệp
như là động lực của tăng trưởng (Misra và cộng sự, 1974).
Lý thuyết vùng lõi - ngoại vi (Core - Periphery theory)
Friedman (1966) đã có những bổ sung quan trọng đối với những hạn chế mà
Boudeville đang vướng mắc với lý thuyết vùng lõi – ngoại vi. Friedman cho rằng tăng
trưởng kinh tế sẽ diễn ra ở vùng “lõi” mà xung quanh đó là các “ngoại vi” (periphery).
Các ngoại vi sẽ có mức độ phát triển về kinh tế kém hơn so với vùng “lõi” và phụ
thuộc vào sự phát triển của vùng “lõi”. Vùng “lõi” với sự tiến bộ về khoa học công
nghệ sẽ kéo theo sự phát triển của các “ngoại vi”. Như vậy với sự phát triển mới so
với lý thuyết ban đầu được đưa ra bởi Boudeville, Friedman bước đầu đã đưa ra một
mô hình tổng quát về các thuộc tính không gian của tăng trưởng kinh tế vùng (Hà
Hữu Nga, 2008).
Tóm lại, ba lý thuyết phát triển vùng đã nhận diện được nhiều vấn đề trong phát
triển vùng. Tuy nhiên tựu trung lại, ba lý thuyết đều nhấn mạnh tính tất yếu tồn tại
một điểm cực phát triển trong vùng và từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa tới các địa phương
lân cận. Có thể thấy, đây cũng chính là cơ sở lý luận cho sự ra đời của vùng Kinh tế
trọng điểm.
• Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, trên thực tế, quá trình phát triển vùng sẽ tạo ra sự chênh lệch giữa các
vùng. Hay nói cách khác khoảng cách giữa địa phương phát triển và địa phương kém
43
phát triển hơn sẽ ngày càng bị nới rộng (Nguyễn Văn Khánh & cộng sự, 2015). Bên
cạnh đó, mỗi vùng sẽ chỉ tập trung vào phát triển thế mạnh của mình dẫn đến mục
tiêu phát triển chung về kinh tế- xã hôi sẽ khó thực hiện. Việc xây dựng vùng KTTĐ
được xem là “đầu tàu” lôi kéo sự phát triển chung của cả nước, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước với tốc độ cao và bền vững, tạo điều kiện nâng cao mức
sống của người dân và giảm thiểu chênh lệch về thu nhập trên phạm vi toàn quốc gia.
Thứ hai, quá trình phát triển vùng đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn cho các mục
tiêu phát triển kinh tế- xã hội (Viện Nghiên cứu phát triển TP.Hồ Chí Minh, 2023).
Việc hình thành vùng KTTĐ có thể thu hút lượng lớn vốn đầu tư đặc biệt là đầu tư
công cho cơ sở hạ tầng, tạo động lực phát triển không chỉ trong các địa phương thuộc
vùng KTTĐ mà còn các địa phương lân cận và nền kinh tế quốc gia. Vùng KTTĐ do
có lợi thế về đầu tư công cho cơ sở hạ tầng nên có thể thu hút lượng lớn vốn đầu tư
tư nhân trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó gia tăng nguồn lực để phát
triển đất nước.
Thứ ba, trên thực tế trong quá trình phát triển, mỗi vùng sẽ có một số đặc điểm
nổi trội hơn so với các vùng khác. Hay nói cách khác, mỗi vùng đều có lợi thế bên
cạnh các hạn chế đặc thù (Nguyễn Văn Khánh & cộng sự, 2015). Hình thành vùng
KTTĐ vừa nâng cao lợi thế cạnh tranh của các vùng, vừa bổ sung các hạn chế do điều
kiện tư nhiên đặc thù, từ đó có thể gia tăng hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Dựa vào cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn, quá trình hình thành vùng KTTĐ
được Luận án trình bày ở phụ lục 2.
2.2.2 Vai trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân đối với vùng kinh tế trọng điểm
2.2.2.1 Vai trò của đầu tư công
Thứ nhất, đầu tư công tạo nguồn lực thúc đẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại
các địa phương nội Vùng và từ đó tạo tác động lan tỏa tới các địa phương khác trong
cả nước. Về mặt lý thuyết, tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế thông qua
kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Cụ thể, theo quan điểm của trường phái Keynes, tổng
cầu trong nền kinh tế phụ thuộc vào chi tiêu của các nhân hộ gia đình, đầu tư tư nhân,
chi tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng. Trong đó, chi tiêu chính phủ có thể tách thành
chi đầu tư (đầu tư công) và chi thường xuyên. Do đó, nếu đầu tư công tăng lên thì sẽ
trực tiếp làm tăng tổng cầu và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, nếu xét
từ phía cung với hàm sản xuất Cobb-Douglas thì sản lượng của nền kinh tế phụ thuộc
vào các yếu tố vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp. Do đó, khi yếu tố vốn
44
đầu tư công tăng sẽ có tác động tới sản lượng đầu ra và từ đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Bên cạnh kênh trực tiếp, đầu tư công cũng tác động tới tăng trưởng kinh tế
thông qua kênh gián tiếp là đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư công nhằm xây dựng hoặc
cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất như đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh, cảng,
sân bay và đường sắt (Aschauer 1989a và Hatano 2010) tạo ra môi trường kinh doanh
thuận lợi hơn, làm tăng năng suất đầu tư tư nhân từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Về mặt thực tiễn, vùng KTTĐ được xem là “đầu tàu” lôi kéo sự phát triển chung của
cả nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Tỷ trọng đầu tư công chiếm
trên 50% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tại các vùng KTTĐ. Điều này cho
thấy Chính phủ rất ưu tiên nguồn lực đầu tư công vào các vùng KTTĐ nhằm thúc đẩy
sự phát triển kinh tế toàn vùng và lan tỏa khắp cả nước. Bên cạnh đó, trong bối cảnh
hậu Covid-19, dòng vốn FDI trở nên cạnh tranh hơn, tăng trưởng các địa phương
vùng KTTĐ, đặc biệt là các thành phố đầu tàu có xu hướng chậm lại (Nguyễn Thế
Khang, 2022). Trước tình hình đó, vai trò của đầu tư công lại càng được nhấn mạnh
hơn nữa. Đây chính là nguồn lực cũng như là nguồn lực cũng như là động lực thúc
đẩy tăng trưởng tại vùng KTTĐ, từ đó tạo động lực lan tỏa tăng trưởng tới các địa
phương khác trong cả nước.
Thứ hai, đầu tư công góp phần thúc đẩy liên kết các địa phương nội vùng, các
vùng từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như sự kết nối các địa
phương. Cụ thể, tại các vùng KTTĐ, Chính phủ ưu tiên đầu tư công cho cơ sở hạ tầng
kinh tế-xã hội, đặc biệt là phát triển hạ tầng giao thông. Đây chính là nền tảng đẩy
nhanh tiến độ thực hiện một số dự án lớn mang tính kết nối vùng và liên vùng KTTĐ.
Thông qua sự kết nối này, vừa nâng cao lợi thế cạnh tranh của các vùng, vừa bổ sung
các hạn chế do điều kiện tư nhiên đặc thù, từ đó có thể gia tăng hiệu quả kinh tế theo
quy mô (Nguyễn Văn Khánh & cộng sự, 2015). Trên thực tế trong quá trình phát triển
vùng, xuất hiện sự phát triển dàn trải, trùng lặp, cạnh tranh không lành mạnh giữa các
địa phương trong vùng cũng như sự phụ thuộc vào một số ngành, lĩnh vực phát triển
không bền vững và đã hết dư địa tăng trưởng. Đặc biệt, trước tác động của đại dịch
Covid-19, tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các địa phương trong nội vùng KTTĐ và
các địa phương lân cận bắt đầu có sự chênh lệch đáng kể. Do đó, vấn đề liên kết vùng
càng trở nên cấp bách (Tô Hà, 2021). Tuy nhiên, để có thể thực hiện được các dự án
liên kết vùng, đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn cũng như khả năng quy hoạch, bố trí
thực hiện và giám sát các dự án. Trong bối cảnh đó, đầu tư công tiếp tục giữ vai trò
45
là động lực dẫn dắt tăng trưởng và tập trung cho các dự án trọng điểm, liên kết vùng
và từ đó, tạo sự lan tỏa, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như các vùng KTTĐ.
Thứ ba, đầu tư công tạo cơ sở làm giảm khoảng cách giàu nghèo và bất bình
đẳng thu nhập trong xã hội từ đó, nâng cao và ổn định đời sống của người dân tại
vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung. Có thể nói, khi Chính phủ ưu tiên nguồn
vốn đầu tư công vào xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tăng kết nối cho các địa phương
nội vùng, lao động trong địa phương có cơ hội tiếp cận với nhiều công việc hơn, từ
đó có thể gia tăng thu nhập. Khi thu nhập tăng lên thì người lao động có thể cải thiện
được chất lượng cuộc sống của mình và những người xung quanh. Bên cạnh đó, ngoài
cơ sở hạ tầng kinh tế, đầu tư công vào các lĩnh vực như giáo dục, đào tạo, y tế, môi
trường cũng góp phần quan trọng trong việc giúp người nghèo, người dân khu vực
vùng sâu vùng xa có cơ hội cải thiện chất lượng sống, xóa đói giảm nghèo cũng như
giảm bất bình đẳng trong thu nhập.
2.2.2.2 Vai trò của đầu tư tư nhân
Thứ nhất, tương tự như đầu tư công, đầu tư tư nhân góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, đặc biệt tại các vùng KTTĐ. Trên thực tế, nguồn vốn đầu tư phát triển
kinh tế tại các vùng KTTĐ đòi hỏi một lượng rất lớn trong khi đó vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước không đủ để đáp ứng nhu cầu này. Tại cả 4 vùng KTTĐ, vốn đầu tư
tư nhân đóng vai trò chủ đạo trọng tổng đầu tư xã hội (chiếm trên 60%). Về mặt lý
thuyết, theo trường phái Keynes (1936), sự gia tăng đầu tư tư nhân có tác động thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác động tích cực tới tổng cầu. Bên cạnh đó, đầu
tư tư nhân (khu vực doanh nghiệp) thường hiệu quả cao hơn so với đầu tư của khu
vực cộng (hệ số ICOR thấp hơn) đặc biệt tại các vùng KTTĐ - nơi tập trung gần 75%
khu công nghiệp của cả nước nên hiệu quả tác động của đầu tư tư nhân tới tăng trưởng
thường cao hơn so với khu vực công (Nguyễn Thị Chinh, 2018; Nguyễn Thị Cành và
cộng sự, 2018; Nguyễn Thị Thùy Liên, 2021). Ngoài ra, tại vùng KTTĐ nói riêng và
cả nước nói chung, với đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình còn đóng vai trò quan
trọng đối với tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm, dịch vụ cho xã hội, đồng thời đóng
vai trò vệ tinh cho khu vực doanh nghiệp của nền kinh tế trong quá trình phân phối,
luân chuyển hàng hóa, dịch vụ (Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020).
Thứ hai, đầu tư tư nhân tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần
giải quyết tình trạng thất nghiệp vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung. Đầu tư
tư nhân trải đều trên tất cả các lĩnh vực, trên tất cả các vùng miền, ở tất cả mọi tầng
46
lớn, dân cư cho nên có thể thu hút một lực lượng lai động đa dạng, phong phú cả về
mặt số lượng và chất lượng trong khi đó đầu tư khu vực công chỉ có thể giải quyết
được một lượng nhỏ số lượng việc làm cho người lao động do bị giới hạn bởi lĩnh
vực đầu tư, nguồn vốn đầu tư và năng lực đầu tư (Nguyễn Đình Luận, 2015). Đặc
biệt, với đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình, các lao động không đủ trình độ, tiêu
chuẩn làm việc trong khu vực doanh nghiệp, khu vực hành chính sự nghiệp có thể
chuyển đến. Từ đó, hộ gia đình đã góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp cho xã hội
(Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020).
Thứ ba, đầu tư tư nhân góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc tế tại
vùng KTTĐ nói riêng và Việt Nam nói chung. Cụ thể, vùng KTTĐ Bắc bộ và phía
Nam tập trung các tỉnh, thành phố là trung tâm thương mai và giao dịch quốc tế của
cả nước (TP. Hồ Chí Minh, TP.Hà Nội, TP.Đà Nẵng, TP. Cần Thơ). Các địa phương
này có vai trò rất quan trọng trong tiến trình hội nhập, phát triển ngày càng sâu, rộng
hơn vào kinh tế khu vực và toàn cầu. Đặc biệt tại các vùng KTTĐ, đầu tư tư nhân
chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trong đó, đầu tư tư nhân từ khu vực
doanh nghiệp với đặc tính là da dạng, phong phú trên mọi lĩnh vực, ngành nghề có
thể góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực và
kinh nghiệm quản lý. Từ đó, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập vào nền kinh tế
thế giới không chỉ của các địa phương thuộc vùng KTTĐ mà còn tạo động lực kéo
theo sự hội nhập của cả nước (Nguyễn Đình Luận, 2015).
TỔNG KẾT CHƯƠNG 2
Chương 2 Luận án đã tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan tới đầu tư công, đầu
tư tư nhân, tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và các nhân tố điều tiết ảnh
hưởng của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Đồng thời, Luận án cũng tổng hợp lý thuyết
liên quan tới vùng kinh tế trọng điểm và vai trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân tại
vùng kinh tế trọng điểm. Đây chính là cơ sở để Luận án có thể xây dựng được giả
thuyết nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và nền tảng cho các nhận xét về kết quả
nghiên cứu cũng như hàm ý chính sách ở các chương sau.
47
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu
3.1.1 Khung phân tích
Luận án đề xuất khung phân tích đánh giá tác động của đầu tư công tới đầu tư
tư nhân tại các vùng KTTĐ như hình 3.1. Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan tình
hình nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới các thành phần của đầu tư tư nhân
cũng như đặc điểm của đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ của Việt Nam, Luận án
phân tách đầu tư tư nhân thành đầu tư khu vực doanh nghiệp và khu vực hộ gia đình.
Tiếp đó, Luận án đánh giá tác động của đầu tư công lần lượt tới đầu tư khu vực doanh
nghiệp và hộ gia đình. Đánh giá được thực hiện trong ngắn hạn và dài hạn dựa trên
các tổng hợp về cơ sở lý thuyết và tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy có sự
khác biệt về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khi xét theo thời gian. Bên
cạnh đó, nhận thức được vai trò của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân, đặc
biệt tại các vùng KTTĐ, Luận án tiến hành đánh giá tác động của đầu tư công cho
CSHT tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ. Trên cơ sở kết quả mô hình hồi quy về
tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân, thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân,
định hướng chính sách đầu tư công cũng như bối cảnh trong nước và bối cảnh nước
ngoài, Luận án tiến hành xây dựng chính sách sử dụng đầu tư công nhằm thúc đẩy
đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra trong khung phân tích, Luận án sử dụng kết
hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. Nội
dung các phương pháp được NCS trình bày chi tiết ở mục 3.3 Phương pháp nghiên cứu.
48
Hình 3.1: Khung phân tích của Luận án
Nguồn: Tác giả thực hiện, 2022
3.1.2 Giả thuyết nghiên cứu
Từ các mối quan hệ của khung phân tích và dựa trên tổng quan tình hình nghiên
cứu, lý thuyết chung về tác động của đầu tư công tới đầu tư nhân, các giả thuyết
nghiên cứu đưa ra để kiểm định thực nghiệm như sau:
Giả thuyết H1: Đầu tư công tác động bổ trợ (cùng chiều) tới tổng đầu tư tư nhân
trong dài hạn
Trong dài hạn, đầu tư công tạo tác động tới đầu tư tư nhân và tác động ở đây là
bổ trợ. Cụ thể, trong dài hạn khi Chính phủ tăng đầu tư công thông qua việc xây dựng
hoặc cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất như đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh,
cảng, sân bay và đường sắt (Aschauer 1989a và Hatano 2010), đồng thời tăng nhu
cầu hàng hóa dịch vụ từ Chính phủ (Ramirez, 1994; Greene và Villanueva, 1990).
Chính những yếu tố này sẽ thúc đẩy khu vực đầu tư tư nhân đầu tư nhiều hơn. Ngoài
ra, sự gia tăng thu nhập quốc dân phát sinh từ đầu tư công cũng có thể thu hút đầu tư
tư nhân. Điều này là do khi Chính phủ tăng đầu tư, nhập quốc dân tăng sẽ kích thích
49
tăng trưởng kinh tế, từ đó có thể khiến khu vực tư nhân tăng cường đầu tư để khai
thác bất kỳ cơ hội sinh lời nào (Reungsri, 2010).
Giả thuyết H2: Đầu tư công tác động bổ trợ (cùng chiều) tới đầu tư tư nhân khu
vực doanh nghiệp trong dài hạn
Trong dài hạn, khu vực doanh nghiệp và khu vực hộ gia đình có thể được hưởng
lợi từ đầu tư công cho CSHT như đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh, cảng,
sân bay và đường sắt (Aschauer, 1989a; Hatano, 2010; Mitra, 2014, Abiad & cộng
sự, 2016). Đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp, các dự án, công trình CSHT giao
thông trọng điểm phát huy tác dụng rõ rệt thông qua việc giảm chi phí logistics, giúp
doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được khách hàng hơn (Phan Thị Minh Lý, 2013; Trần
Đình Khôi Nguyên & cộng sự, 2021). Do đó, trong dài hạn, đầu tư công sẽ tạo tác
động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp.
Giả thuyết H3: Đầu tư công tác động bổ trợ (cùng chiều) tới đầu tư tư nhân khu
vực hộ gia đình trong dài hạn
Trong dài hạn, tương tự khu vực doanh nghiệp, khu vực hộ gia đình có thể được
hưởng lợi từ đầu tư công cho CSHT như đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh,
cảng, sân bay và đường sắt (Aschauer 1989a, Hatano 2010). Tuy nhiên, tác động bổ
trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình có thể không rõ ràng như
đối với khu vực doanh nghiệp do hình thức kinh doanh của hộ gia đình tại các quốc
gia đang phát triển như Việt Nam thường manh mún, nhỏ lẻ (VERP, 2021). Do đó,
trong dài hạn, đầu tư công sẽ tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình.
Giả thuyết H4: Đầu tư công tác động lấn át (ngược chiều) tới tổng đầu tư tư
nhân trong ngắn hạn
Theo cơ sở lý thuyết ở chương 1 về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân,
đầu tư công có thể tạo ra hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân (Blejer và Khan, 1984; Beck,
1993; Voss, 2002; Ganelli, 2003) thông qua 2 kênh chính: (i) tài trợ bằng nợ và (ii)
sản xuất hàng hóa và dịch vụ cạnh tranh với khu vực tư nhân. Hiệu ứng thông thường
xảy ra trong ngắn hạn với các quốc gia đang phát triển (Ang, 2009; Cavallo và
Daude, 2011). Do đó, trong ngắn hạn, đầu tư công sẽ tạo tác động lấn át tới tổng đầu
tư tư nhân.
Giả thuyết H5: Đầu tư công tác động bổ trợ (cùng chiều) tới đầu tư tư nhân khu
vực hộ gia đình trong ngắn hạn
50
Trong ngắn hạn, khu vực hộ gia đình có thể được hưởng lợi từ sự gia tăng thu
nhập quốc dân phát sinh từ đầu tư công. Cụ thể, các hộ gia đình kinh doanh phụ thuộc
nhiều vào nhu cầu tiêu dùng cuối cùng vì chủ yếu sản xuất và bán cho người tiêu
dùng cuối cùng. Do đó, khi đầu tư công tăng lên, nhu cầu mua hàng hóa dịch vụ tăng
lên thì dễ tác động tới khu vực đầu tư tư nhân từ hộ gia đình trong ngắn hạn (Đỗ Thị
Thanh Sơn, 2020). Bên cạnh đó, do khu vực tư nhân hộ gia đình khả năng tiếp cận
vốn vay khó khăn hơn (VERP, 2021) do ít tài sản đảm bảo nên khả năng chịu ảnh
hưởng lấn át do vay nợ trên thị trường vốn vay là thấp hơn so với doanh nghiệp. Do
đó, trong ngắn hạn, đầu tư công sẽ tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực hộ
gia đình.
Giả thuyết H6: Đầu tư công tạo tác động lấn át (ngược chiều) tới đầu tư tư nhân
khu vực doanh nghiệp trong ngắn hạn
Tại Việt Nam nói chung và các quốc gia đang phát triển nói riêng, do những
hạn chế về vốn đầu tư, cơ chế quản lý, ảnh hưởng của các biến động kinh tế, thời gian
thi công các công trình cơ sở hạ tầng có thể kéo dài và do đó trong ngắn hạn chưa thể
ngay lập tức tạo ra hiệu ứng bổ trợ cho khu vực doanh nghiệp (Phan Thị Minh Lý,
2013; Trần Đình Khôi Nguyên & cộng sự, 2021; Vũ Phương Nhi, 2023). Mặt khác,
việc gia tăng đầu tư công làm tăng nhu cầu hàng hóa dịch vụ trong nước khó tác động
tới khu vực đầu tư tư nhân từ doanh nghiệp hơn so với khu vực hộ gia đình do hàng
hóa từ doanh nghiệp phải trải qua nhiều mắt xích mới có thể đến được tay người tiêu
dùng cuối cùng (Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020). Do đó, trong ngắn hạn, đầu tư công có thể
tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp. Mặt khác, khu vực doanh
nghiệp dễ tiếp cận vốn vay hơn so với hộ gia đình nên khả năng chịu ảnh hưởng lấn át
do vay nợ trên thị trường vốn vay là cao hơn. Do đó, trong ngắn hạn, đầu tư công sẽ
tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp.
Như vậy, có thể tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu và dấu kỳ vọng của các giả
thuyết được trình bày ở Bảng 3.1.
51
Bảng 3.1: Các giả thuyết nghiên cứu và dấu kỳ vọng
Ký hiệu Dấu kỳ giả Nội dung giả thuyết Nguồn tham khảo vọng thuyết
Aschauer, 1989a; Hatano Đầu tư công tác động bổ trợ 2010; Reungsri, 2010; H1 (cùng chiều) tới tổng đầu tư tư + Nguyen Thi Canh, 2018; nhân trong dài hạn Nguyen The Khang, 2022
Aschauer, 1989a; Hatano, Đầu tư công tác động bổ trợ 2010; Mitra, 2014, Abiad (cùng chiều) tới đầu tư tư nhân + & cộng sự, 2016; Trần H2 khu vực doanh nghiệp trong dài Đình Khôi Nguyên & hạn cộng sự, 2021
Đầu tư công tác động bổ trợ
(cùng chiều) tới đầu tư tư nhân Hatano, 2010; Hashmat H3 + khu vực hộ gia đình trong dài Khan & cộng sự, 2020
hạn
Blejer và Khan, 1984; Đầu tư công tác động lấn át Beck, 1993; Voss, 2002; H4 (ngược chiều) tới tổng đầu tư tư - Ganelli, 2003; Ang, 2009; nhân trong ngắn hạn Cavallo và Daude, 2011
Đầu tư công tác động bổ trợ
(cùng chiều) tới đầu tư tư nhân Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020; H5 + khu vực hộ gia đình trong ngắn VERP, 2021
hạn
Saeed và cộng sự, 2006;
Đầu tư công tác động lấn át Mitra, 2006; Mose &
(ngược chiều) tới đầu tư tư nhân cộng sự, 2020; Trần Đình H6 - khu vực doanh nghiệp trong Khôi Nguyên & cộng sự,
ngắn hạn 2021; Vũ Phương Nhi,
2023
Nguồn: Tác giả thực hiện, 2022
52
3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng
3.2.1 Mô hình nghiên cứu
3.2.1.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Mô hình trong bài nghiên cứu xây dựng dựa trên lý thuyết tân cổ điển về đầu
tư được đề xuất bởi Jogenson (1963, 1967 và 1971). Mô hình này gần đây được
nghiên cứu bằng dữ liệu bảng bởi Omitogun,O. (2018),Omojolaibi và cộng sự (2016),
Gérard Tchouass và cộng sự (2014), AltinGjini và cộng sự (2012). Theo các nghiên
cứu trên, lượng vốn tối ưu hóa (K*) được xác định như sau:
𝑷𝜶𝒀 (1) 𝑲∗= 𝑪
Trong đó, K* là lượng vốn tối ưu, 𝜶 là hệ số co giãn của vốn theo sản lượng, P
là giá của sản lượng và C là chi phí sử dụng vốn.
Omojolaibi và cộng sự (2016) đã chuyển đổi mô hình (1) cho mô hình dữ liệu
−𝝈 (2)
bảng như sau:
∗ =𝝋𝑷𝒊𝒕 𝒀𝒊𝒕 𝑪𝒊𝒕 Tập trung vào yếu tố đầu tư, các nhà nghiên cứu (Omojolaibi và cộng sự (2016)
𝑲𝒊𝒕
∗, do đó mô hình (2) được viết lại là:
và Omitogun (2018)) đã chỉ ra rằng đầu tư bằng sự thay đổi trong lượng vốn kỳ vọng
𝑰𝒊𝒕 = ∆𝑲𝒕
𝑰𝒊𝒕 = 𝝋𝟏 ∆𝒀𝒊𝒕 + 𝝋𝟐 ∆𝑷𝒊𝒕 − 𝝋𝟑∆𝑪𝒊𝒕 + 𝒖𝒊𝒕 (3) Omojolaibi và cộng sự (2016) mở rộng mô hình (3) với sự tham gia của biến
chính sách tài khóa. Dựa vào mô hình của Malik (2013), Omojolaibi và cộng sự
(2016) đã bổ sung thêm biến chính sách tài khóa (𝐹𝑃) bao gồm có chi đầu tư của
chính phủ, chi thường xuyên của chính phủ, thuế và nợ nước ngoài. Theo đó, mô hình
(3) được biến đổi như sau:
𝑰𝒊𝒕 = 𝝋𝟏 ∆𝒀𝒊𝒕 + 𝝋𝟐 ∆𝑷𝒊𝒕 + 𝝋𝟑𝑪𝒊𝒕 + ∑ 𝒌𝜹𝒌 𝑭𝑷𝒊𝒕𝒌+ 𝝁𝒊𝒕 (4) Tuy nhiên, để phù hợp với mục đích của bài nghiên cứu này, mô hình (4) được
biến đổi lại để chỉ rõ được tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Theo đó, dựa
𝑷𝑰𝒊𝒕 = 𝜶 + 𝝋𝟏 ∆𝒀𝒊𝒕 + 𝝋𝟐 ∆𝑷𝒊𝒕 + 𝝋𝟑𝑪𝒊𝒕 + 𝜹𝑷𝑼𝒊𝒕 + 𝝁𝒊𝒕
𝑷𝑰𝒊𝒕 = 𝜶 + 𝜹𝑷𝑼𝒊𝒕 + ∑ 𝝋𝒋 𝑿𝒊𝒕𝒋 + 𝝁𝒊𝒕 (5)
Trong đó: i=24 tỉnh/ thành phố thuộc Vùng KTTĐ, t=12 là thời gian từ 2010-2021; PI là tổng
đầu tư tư nhân (theo giá so sánh 2010), PU là tổng đầu tư công (theo giá so sánh 2010); X bao gồm
các biến P, C, Y; 𝜇 là sai số.
vào nghiên cứu của Omitogun,O. (2018) thì mô hình (4) được biến đổi như sau:
53
3.2.1.2 Cơ sở lựa chọn biến nghiên cứu
Bên cạnh đầu tư công (PU), nghiên cứu sử dụng các biến số tổng sản phẩm địa
phương (GRDP), lạm phát (INF), lãi suất thực tế (IR) và đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) là các biến tác động tới đầu tư tư nhân tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ.
Lý do dẫn đến sự lựa chọn các biến số này như sau:
Thứ nhất, đây là các biến số phản ánh các yếu tố chủ đạo tác động tới đầu tư
tư nhân dựa trên lý thuyết về đầu tư và các nghiên cứu thực nghiệm. Cụ thể, trong
mô hình nghiên cứu đề xuất (phương trình 5, mục 3.2.1.1) dựa trên lý thuyết tân cổ
điển về đầu tư được đề xuất bởi Jogenson (1963, 1967 và 1971), ngoài đầu tư công
(PU), các yếu tố tác động đến đầu tư tư nhân bao gồm có các biến số C (chi phí sử
dụng vốn), P (giá của sản lượng) và Y (sản lượng). Cụ thể, chi phí sử dụng vốn có tác
động ngược chiều tới đầu tư tư nhân nguyên nhân vì lợi nhuận ròng của nhiều dự án
sẽ nhỏ hơn hoặc thậm chí âm với chi phí sử dụng vốn cao hơn, ngăn cản các nhà đầu
tư tiềm năng đầu tư. Bên cạnh đó, khi giá của sản lượng càng cao, về lâu dài sẽ tạo
áp lực lạm phát tới nền kinh tế và dẫn đến môi trường đầu tư không thuận lợi, từ đó
tác động tiêu cực tới đầu tư khu vực tư nhân. Trong khi đó, sản lượng tăng, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự gia tăng của tiết kiệm trong nước và đây là một kênh
tài trợ tạo động lực tăng đầu tư tư nhân. Trong khi đó, dựa trên các nghiên cứu thực
nghiệm của Peltonen và cộng sự (2012), Demilie Basha Hailu và cộng sự (2015),
Carrasco, M. (1998), Cavallo, E., and C. Daude (2010), Omojolaibi và cộng sự
(2016), Sofia Vilela São Marcos (2019), Nguyễn Thị Cành & cộng sự (2018),
Omitogun,O. (2018), Nguyễn Thị Thùy Liên (2022), biến chi phí sử dụng vốn C được
đo lường thông qua lãi suất thực tế (IR), giá của sản lượng P được đo lường thông
qua yếu tố chỉ số giá tiêu dùng (CPI), sản lượng Y có thể được đo lường lần lượt thông
qua tổng sản phẩm địa phương (GRDP). Và theo các nghiên cứu trên, các biến số
tổng sản phẩm địa phương (GRDP), lạm phát (INF), lãi suất thực tế (IR) đều có tác
động đáng kể tới đầu tư tư nhân trong nước. Do đó, dựa trên mô hình nghiên cứu đề
xuất cũng như kết luận từ các nghiên cứu thực nghiệm, tổng sản phẩm địa phương
(GRDP), lạm phát (INF), lãi suất thực tế (IR) là những yếu tố quan trọng tác động tới
đầu tư tư nhân, bên cạnh đầu tư công.
Thứ hai, bên cạnh các yếu tố tổng sản phẩm địa phương (GRDP), lạm phát
(INF), lãi suất thực tế (IR), sở dĩ mô hình đưa vào thêm biến đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) cũng là dựa trên cơ sở về mặt lý thuyết về đầu tư, các nghiên cứu thực
54
nghiệm và tình hình thực tế tại các vùng KTTĐ. Về mặt lý thuyết, FDI chính là yếu tố
trực tiếp tác động tới đầu tư tư nhân và cũng là yếu tố ảnh hưởng tới độ lớn của hiệu
ứng lấn át/ bổ trợ mà đầu tư công có thể tạo ra đối với đầu tư tư nhân mà Luận án đã
đề cập ở phần cơ sở lý luận. Đồng thời, dựa trên nghiên cứu thực nghiệm của
Omitogun,O. (2018),Omojolaibi và cộng sự (2016), Gérard Tchouass và cộng sự
(2014), AltinGjini và cộng sự (2012), Đặng Thu Thủy & cộng sự (2020), Nguyễn Văn
Bôn (2021), Nguyễn Thị Liên (2022) thì đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một
trong những nhân tố phản ánh hội nhập kinh tế quốc tế và tác động mạnh mẽ tới đầu
tư tư nhân cùng với biến số đầu tư công. Trong các nghiên cứu này, FDI và đầu tư
công được cho là các biến số độc lập tác động tới đầu tư tư nhân. Về mặt thực tiễn, tại vùng KTTĐ, FDI chiếm tới hơn ¾ tổng vốn FDI cả nước2 thì rõ ràng vai trò của
FDI càng quan trọng hơn khi đánh giá tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, theo báo cáo PCI (2020, 2021,
2022), các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp tại các địa phương thuộc
các vùng KTTĐ ngày càng có vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng của các doanh
nghiệp FDI. Đây là kết quả quan trọng của Hiệp định thương mại tự lo Liên minh
châu Âu-Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực tháng 8 năm 2020 và sự dịch chuyển đầu tư
khỏi Trung Quốc sang nước láng giềng (Nguyễn Hà Anh, 2022). Như vậy có thể thấy,
mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước và do
đó, biến FDI nên được đưa vào mô hình như là một trong những nhân tố quan trọng
tác động tới đầu tư tư nhân trong nước. Mặt khác, báo cáo PCI (2020, 2021, 2022)
trong khi các nhà đầu tư nước ngoài vẫn xem chất lượng cung cấp dịch vụ công là
điểm yếu của Việt Nam thì dịch vụ công thông qua việc cung cấp cơ sở hạ tầng là
một trong những yếu tố quan trọng hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp trong nước
trong bối cảnh hậu Covid-19 và nền kinh tế thế giới có nhiều biến động. Như vậy có
thể thấy, tác động của FDI và đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ là
tương đối rõ ràng. Do đó, có thể xem đầu tư công và FDI là hai biến độc lập trong
mô hình và cùng tác động tới đầu tư tư nhân trong nước.
Thứ ba, Luận án tiến hành sử dụng Phương pháp hồi quy từng bước (Stepwwise
Regression) để chứng minh sự phù hợp của các biến trong mô hình thông qua sự thay
đổi của chỉ số R bình phương và các chỉ số thông tin AIC và BIC (Hair và cộng sự,
2 Niên giám thống kê Việt Nam, Niên giám thống kê các địa phương thuộc các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021
2014). Kết quả kiểm định cho thấy, khi thêm lần lượt các biến vào mô hình, đặc biệt
55
là biến FDI, độ tin cậy và phù hợp của mô hình ngày càng cao (R bình phương tăng
dần lên và giá trị AIC, BIC là nhỏ nhất). Kết quả kiểm định được trình bày ở phụ lục 3.
Ngoài ra, sự phù hợp của mô hình và các biến đưa vào mô hình sẽ được NCS
kiểm định thông qua thực hiện các mô hình hồi quy tương tự mô hình hồi quy đề xuất
để kiểm tra tính vững của mô hình. Các nội dung này sẽ được Luận án thực hiện ở
chương 5 và trình bày ở phụ lục 39.
Do đó, Luận án đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
𝑷𝑰𝒊𝒕 = 𝜶 + 𝜹𝑷𝑼𝒊𝒕 + 𝝋𝟏𝑰𝑹𝒊𝒕 +𝝋𝟐𝑮𝑹𝑫𝑷𝒊𝒕 + 𝝋𝟑𝑰𝑵𝑭𝒊𝒕 + 𝝋𝟒𝑭𝑫𝑰𝒊𝒕 + 𝝁𝒊𝒕 (6)
3.2.2 Phương pháp ước lượng
Mục đích của phương pháp này là tính toán các tác động của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân thuộc khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình trong ngắn hạn và dài hạn.
Đồng thời, chỉ rõ vai trò của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân tại các vùng
KTTĐ. Nghiên cứu định lượng được thực hiện với các phương pháp sau:
3.2.2.1 Phương pháp ước lượng nhóm trung bình gộp
Luận án sử dụng dữ liệu bảng, là sự kết hợp thành phần dữ liệu chéo và thành
phần sữ liệu chuỗi thời gian. Phân tích hồi quy dữ liệu bảng thường có một số phương
pháp ước lượng chính như Pooled OLS, FEM, REM, GMM, GFLS. Tuy nhiên, để
phù hợp với dữ liệu nghiên cứu, Luận án sử dụng mô hình kinh tế lượng với phương
pháp ước lượng nhóm trung bình gộp (Pool Mean Group- PMG). Phương pháp này
có các ưu điểm như sau: (1) ước lượng cho một phương trình duy nhất thay vì ước
lượng hệ phương trình; (2) Có thể thực hiện với các biến có độ trễ khác nhau, không
phân biệt thứ tự sai phân I (0) hay I (1); (3) phân biệt được tác động ngắn hạn (khác
nhau giữa các nhóm) và dài hạn hạn (đồng nhất giữa các nhóm) trong mô hình
(Pesaran và cộng sự (1999), Samargandi, Fidrmuc, and Ghosh (2015). Đây là những
ưu điểm mà các phương ước lượng dữ liệu bảng truyền thống (Pooled OLS, FEM,
REM, GMM, FGLS) không thực hiện được.
Cụ thể, PMG được sử dụng để ước lượng các hệ số co giãn và tốc độ điều chỉnh
như sau:
𝒏 𝒋=𝟎
𝒎 𝒋=𝟎
∆𝒀𝒊𝒕=𝜽𝒊(𝒀𝒊𝒕−𝟏 − 𝜸𝒊𝑿𝒊𝒕) + ∑ 𝝆𝒊𝒋∆𝒀𝒊𝒕−𝒋 + ∑ 𝜷𝒊𝒋∆𝑿𝒊𝒕−𝒋 + 𝝉𝒊 +𝜺𝒊𝒕
Trong đó: (𝒀𝒊𝒕−𝟏 − 𝜸𝒊𝑿𝒊𝒕) = 𝑬𝑪hệ số điều chỉnh sai số phản ánh tốc độ điều chỉnh 𝜸𝒊và𝝆𝒊𝒋 ,𝜷𝒊𝒋lần lượt là hệ số hồi quy dài hạn và ngắn hạn
𝝉𝒊,𝜺𝒊𝒕 lần lượt là sai số không quan sát được và quan sát được.
56
Mô hình PMG được viết lại cho dữ liệu của Luận án có dạng như sau:
𝒎 𝒋=𝟎
𝒏 𝒋=𝟎
+ ∑ 𝜷𝟏𝒊𝒋∆𝑮𝑹𝑫𝑷𝒊𝒕−𝒋 + ∑ 𝜷𝟐𝒊𝒋∆𝑭𝑫𝑰𝒊𝒕−𝒋 ∑ 𝝆𝒊𝒋∆𝑷𝑰𝒊𝒕−𝒋 + 𝜸𝟓𝒊𝑰𝑵𝑭 𝒊𝒕 )+ ∆𝑷𝑰𝒊𝒕=𝜽𝒊(𝑷𝑰 𝒊𝒕−𝟏 − 𝜸𝟏𝒊𝑷𝑼 𝒊𝒕 − 𝜸𝟐𝒊𝑮𝑹𝑫𝑷 𝒊𝒕 − 𝜸𝟑𝒊𝑭𝑫𝑰 𝒊𝒕 − 𝜸𝟒𝒊𝑰𝑹 𝒊𝒕 − 𝒎 𝒋=𝟎
𝒎 𝒋=𝟎
𝒎 𝒋=𝟎
∑ 𝜷𝟑𝒊𝒋∆𝑰𝑹𝒊𝒕−𝒋 + ∑ 𝜷𝟒𝒊𝒋∆𝑰𝑵𝑭𝒊𝒕−𝒋 + 𝝉𝒊 + 𝜺𝒊𝒕 (1)
Trong đó: PI, PU, GRDP, FDI, IR, INF lần lượt là đầu tư tư nhân (theo giá so
sánh 2010), PU là đầu tư công (theo giá so sánh 2010), tổng sản phẩm địa phương
(theo giá so sánh 2010), đầu tư trực tiếp nước ngoài (theo giá so sánh 2010), lãi suất
thực tế, lạm phát tại các địa phương nội vùng thuộc 4 vùng KTTĐ
Tác giả sẽ xác định hệ số điều chỉnh sai số EC có ý nghĩa thống kê và nhỏ hơn
0 hay không. Nếu thỏa mãn có nghĩa là tồn tại tác động dài hạn của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân tại các địa phương thuộc các Vùng kinh tế trọng điểm. Tiếp theo, Luận
án sẽ xác định gía trị của các hệ số hồi quy ngắn hạn và dài hạn 𝜸𝒊và𝝆𝒊𝒋 ,𝜷𝒊𝒋 để xác
định chiều tác động của đầu tư tư nhân và các biến số độc lập khác tới đầu tư công
tại các vùng kinh tế trọng điểm trong ngắn hạn và dài hạn. Các kiểm định cần thiết
đối với mô hình PMG chính là kiểm định bậc dừng, kiểm định đồng liên kết. Sau khi
các kiểm định trên thỏa mãn điều kiện, Luận án sẽ tiến hành hồi quy dựa trên mô hình
PMG để đánh giá tác động của đầu tư công và đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và dài
hạn tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Kiểm định nghiệm đơn vị
Bên cạnh đó, mô hình sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị bằng kiểm định
Breitung (2000) dựa trên phương pháp CADF được đề xuất bởi Pesaran (2007). Ưu
điểm của kiểm định này là được sử dụng với dữ liệu tồn tại hoặc không tồn tại quan
hệ chéo. Cụ thể:
𝑝 𝑗=0
𝑝 𝑗=0
∆𝑦𝑖𝑡 = 𝛼𝑖 + 𝛽𝑖 𝑦𝑖𝑡−1 + 𝜃𝑖𝑦̅𝑡−1 +∑ 𝛿𝑖𝑗 ∆𝑦̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑ 𝛾𝑖𝑗 ∆𝑦𝑖𝑡−𝑗 + 𝜀𝑖𝑡
𝑁 𝑖=1
Pesaran đề xuất một thống kê như sau: CIPS =𝑁−1 ∑ 𝜃𝑖
∆𝑃𝑈̅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑
𝛿𝑖1𝑗
𝛾𝑖1𝑗 ∆𝑃𝑈𝑖1𝑡−𝑗
+ 𝜀𝑖1𝑡
𝑝 𝑗=0
𝑝 𝑗=0
∆𝑃𝐼̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑
𝛾𝑖2𝑗 ∆𝑃𝐼𝑖2𝑡−𝑗
+ 𝜀𝑖2𝑡
Với các dữ liệu trong mô hình, Luận án lần lượt kiểm định nghiệm đơn vị cho
𝑝 𝑗=0
∆𝐹𝐷𝐼𝑖𝑡 = 𝛼𝑖3 + 𝛽𝑖3 𝐹𝐷𝐼𝑖3𝑡−1 + 𝜃𝑖3𝐹𝐷𝐼
̅̅̅̅̅𝑡−1 +∑
𝛿𝑖𝑗
̅̅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑ ∆𝐹𝐷𝐼
𝛾𝑖3𝑗 ∆𝐹𝐷𝐼𝑖𝑡−𝑗
+ 𝜀𝑖3𝑡
𝑝 𝑗=0
𝛿𝑖2𝑗 𝑝 𝑗=0
các biến số trong mô hình và tính toán thống kê CIPS cho từng biến số. ∆𝑃𝑈𝑖𝑡 = 𝛼𝑖1 + 𝛽𝑖1 𝑃𝑈𝑖1𝑡−1 + 𝜃𝑖1𝑃𝑈̅̅̅̅𝑡−1 +∑ 𝑝 ∆𝑃𝐼𝑖𝑡 = 𝛼𝑖2 + 𝛽𝑖2 𝑃𝐼𝑖2𝑡−1 + 𝜃𝑖2𝑃𝐼̅̅̅𝑡−1 +∑ 𝑗=0
∆𝐺𝑅𝐷𝑃𝑖𝑡 = 𝛼𝑖4 + 𝛽𝑖4 𝐺𝑅𝐷𝑃𝑖4𝑡−1 + 𝜃𝑖4𝐺𝑅𝐷𝑃
̅̅̅̅̅̅̅̅𝑡−1 +∑
𝛿𝑖4𝑗
̅̅̅̅̅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∆𝐺𝑅𝐷𝑃
𝑝 𝑗=0
∑
𝛾𝑖4𝑗 ∆𝐺𝑅𝐷𝑃𝑖𝑡−𝑗
+ 𝜀𝑖4𝑡
𝑝 𝑗=0
∆𝐼𝑅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑
𝛾𝑖5𝑗 ∆𝐼𝑅𝑖𝑡−𝑗
+ 𝜀𝑖5𝑡
𝑝 𝑗=0
𝑝 ∆𝐼𝑅𝑖𝑡 = 𝛼𝑖5 + 𝛽𝑖5 𝐼𝑅𝑖𝑡−1 + 𝜃𝑖5𝐼𝑅̅̅̅𝑡−1 +∑ 𝑗=0 ∆𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡 = 𝛼𝑖6 + 𝛽𝑖6 𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡−1 + 𝜃𝑖6𝐼𝑁𝐹̅̅̅̅̅𝑡−1 +∑
𝛿𝑖6𝑗
̅̅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑ ∆𝐼𝑁𝐹
𝛾𝑖6𝑗 ∆𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡−𝑗
+ 𝜀𝑖6𝑡
𝛿𝑖5𝑗 𝑝 𝑗=0
𝑝 𝑗=0
Kiểm định tính đồng liên kết
57
Để kiểm định tính đồng liên kết bảng cho các biến đưa vào mô hình thì tác giả
sử dụng kiểm định Westerlund (2007). Lợi thế của phương pháp này là sự phụ thuộc
giữa các quan sát chéo trong dữ liệu bảng được tính đến. Westerlund đề xuất mô hình
nghiên cứu như sau:
𝑝 𝑚=1
𝑝 𝑘=1
∆𝑦𝑖𝑡 = 𝑐𝑖 + 𝛼𝑖(𝑦𝑖𝑡−1 − 𝛽𝑖𝑥𝑖𝑡−1) + ∑ 𝛼1𝑖∆𝑦𝑖𝑡−𝑘 + ∑ 𝛽1𝑖∆𝑥𝑖𝑡−𝑚 + 𝜀𝑖𝑡 (1)
Trong đó αi tố𝑐 độ đ𝑖ề𝑢 𝑐ℎỉ𝑛ℎ 𝑣ề 𝑣ị 𝑡𝑟í 𝑐â𝑛 𝑏ằ𝑛𝑔. Giả thuyết H0 là 𝛼𝑖 = 0 cho tất cả các bảng. Nếu giả thuyết H0 bị lại bỏ và αi < 0 thì mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến tồn tại.
Với các dữ liệu trong mô hình, Luận án lần lượt kiểm định tính đồng liên kết
𝑝
𝑝
theo đề xuất của Westerlund (20007) như sau:
𝑘=1
𝑚=1
Trong đó biến số x lần lượt là PU, FDI, GRDP, INF và IR.
∆𝑃𝐼𝑖𝑡 = 𝑐𝑖 + 𝛼𝑖(𝑃𝐼𝑖𝑡−1 − 𝛽𝑖𝑥𝑖𝑡−1) + ∑ 𝛼1𝑖∆𝑃𝐼𝑖𝑡−𝑘 + ∑ 𝛽1𝑖∆𝑥𝑖𝑡−𝑚 + 𝜀𝑖𝑡
3.2.2.2 Phương pháp phân tích phi nhân quả
Ngoài ra, Luận án sử dụng phương pháp phân tích phi nhân quả được đề xuất
bởi Juodis và cộng sự (2021) cho dữ liệu bảng với giả thuyết H0 là 𝑿𝒊𝒕 không tác động tới 𝒀𝒊𝒕 để kiểm tra tác động của đầu tư công cho cơ sở hạ tầng (CSHT) tới đầu tư tư nhân từng vùng.
Giả sử mô hình hồi quy dạng bảng có dạng như sau:
𝒏 𝒀𝒊𝒕=𝜽𝟎,𝒊 + ∑ 𝝆𝒊𝒋𝒀𝒊𝒕−𝒋 + 𝒋=𝟏
𝒎 𝒋=𝟏
∑ 𝜷𝒊𝒋𝑿𝒊𝒕−𝒋 +𝜺𝒊𝒕
Giả thuyết H0 là 𝑿𝒊𝒕 không tác động tới 𝒀𝒊𝒕 có thể được biểu diễn như sau:
H0: 𝜷𝒊𝒋 = 𝟎
H1: 𝜷𝒊𝒋 ≠ 𝟎
Nếu bác bỏ H0 có nghĩa là 𝑿𝒊𝒕 tác động tới 𝒀𝒊𝒕. Với các dữ liệu trong mô hình, Luận án sử dụng phương pháp phân tích phi
nhân quả để kiểm định tác động của đầu tư công cho CSHT tới tổng đầu tư tư nhân
58
(1); đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp (2); đầu tư công
cho CSHT tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình (3).
𝒏 𝑷𝑰 𝒊𝒕=𝜽𝟎,𝒊 + ∑ 𝝆𝒊𝒋𝑷𝑰𝒊𝒕−𝒋 + 𝒋=𝟏
𝒎 𝒋=𝟏
Trong đó: PUCSHT là đầu tư công cho CSHT, PI là tổng đầu tư tư nhân
∑ 𝜷𝒊𝒋𝑷𝑼𝑪𝑺𝑯𝑻𝒊𝒕−𝒋 +𝜺𝒊𝒕 (1)
𝒏 𝑷𝑰𝑬 𝒊𝒕=𝜽𝟏,𝒊 + ∑ 𝝆𝒊𝟏𝒋𝑷𝑰𝑬𝒊𝒕−𝒋 + 𝒋=𝟏
𝒎 𝒋=𝟏
Trong đó: PUCSHT là đầu tư công cho CSHT, PIE là đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp
∑ 𝜷𝒊𝟏𝒋𝑷𝑼𝑪𝑺𝑯𝑻𝒊𝒕−𝒋 +𝜺𝒊𝟏𝒕 (2)
𝒏 𝑷𝑰𝑯𝒊𝒕=𝜽𝟐,𝒊 + ∑ 𝝆𝒊𝟐𝒋𝑷𝑰𝑯𝒊𝒕−𝒋 + 𝒋=𝟏
𝒎 𝒋=𝟏
Trong đó: PUCSHT là đầu tư công cho CSHT, PI là đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình
∑ 𝜷𝒊𝟐𝒋𝑷𝑼𝑪𝑺𝑯𝑻𝒊𝒕−𝒋 +𝜺𝒊𝟐𝒕 (3)
3.3 Phương pháp nghiên cứu định tính
Mục đích của nghiên cứu định tính là để (i) tổng hợp tình hình nghiên cứu về
các vấn đề có liên quan tới Luận án (chương 1), (ii) hoàn thiện khung lý thuyết của
đề tài (chương 2); (iii) phân tích và đánh giá thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân
tại các vùng KTTĐ (chương 4) và (iv) tạo cơ sở cho các luận giải về kết quả nghiên
cứu (chương 5); (v) nêu giải pháp (chương 6). Cụ thể, nghiên cứu định tính tiêu biểu
được thực hiện trong Luận án như sau:
3.3.1 Phương pháp thống kê mô tả
Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2011), phương pháp này sử
dụng để tóm tắt hoặc mô tả một tập dữ liệu, một mẫu nghiên cứu dưới dạng số hay
biểu đồ trực quan. Các công cụ số thường dùng để mô tả là trung bình cộng và độ
lệch chuẩn. Các công cụ trực quan thường dùng là các biểu đồ.
Trong Luận án, NCS sử dụng phương pháp này để phân tích thực trạng đầu tư
công, đầu tư tư nhân và đánh giá mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân ở
chương 4. Cụ thể, dựa trên số liệu thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như Tổng cục
thống kê, Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ, Bộ Tài Chính,
Sở tài chính các địa phương thuộc vùng KTTĐ, Ngân hàng thế giới (World Bank),
NCS đã sử dụng các biểu đồ trực quan để phân tích biến động và xu hướng của đầu
tư công, đầu tư tư nhân và mối quan hệ giữa đầu tư công, đầu tư tư nhân tại các vùng
KTTĐ. Bên cạnh đó, phương pháp này cũng được sử dụng ở chương 5 khi Luận án
mô tả số liệu thống kê. Luận án đã mô tả về công cụ số về độ lệch chuẩn, giá trị lớn
nhất, nhỏ nhất của các dữ liệu liên quan tới đầu tư công, đầu tư tư nhân và các dữ liệu
khác có trong mô hình hồi quy. Ở chương 5, dựa trên số liệu thống kê mô tả thông
qua biểu đồ ở chương 4, Luận án đã đưa ra các đánh giá về tình hình thực hiện đầu tư
công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân ở vùng KTTĐ, từ đó làm cơ sở xây dựng giải pháp.
59
3.3.2 Phương pháp phân tích - tổng hợp
Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2011), phương pháp này được
sử dụng để giải quyết những vấn đề còn gây tranh cãi, chưa có sự thống nhất giữa các
nhà khoa học. Phương pháp phân tích – tổng hợp giúp nhận ra khoảng trống nghiên
cứu, xâu chuối dữ liệu để rút ra nhận xét, đánh giá và đưa ra kết luận.
Trong Luận án, NCS đã sử dụng phương pháp này ở chương 1, chương 2 nhằm
phân tích, tổng hợp các nghiên cứu đi trước, từ đó nhận biết được khoảng trống nghiên
cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận về đầu tư công, đầu tư tư nhân và tác động của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân. Đối với chương 4, dựa tên khung phân tích ở chương 2,
Luận án phân tích thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân và mối quan hệ giữa đầu tư
công và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ. Ở chương 5, phương pháp này được sử
dụng để xây dựng mô hình về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân dựa trên
các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân và các nhân tố điều tiết tác động cửa đầu tư
công tới đầu tư tư nhân được tổng hợp và phân tích ở chương 2. Ở chương 6, Luận
án sử dụng phương pháp này để tổng hợp và phân tích định hướng xây dựng chính
sách đầu tư công tại các vùng KTTĐ, từ đó tạo căn cứ để đề xuất giải pháp sử dụng
đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân.
3.4 Dữ liệu nghiên cứu
Để thực hiện các phương pháp ước lượng của mô hình, bài nghiên cứu đã tiến
hành thu thâp dữ liệu từ các địa phương thuộc 4 Vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021.
Mặc dù đã rất nỗ lực song số các đơn vị chéo còn khiêm tốn là một hạn chế của nghiên
cứu do việc thu thập dữ liệu Vùng KTTĐ ở cấp độ chi tiết hơn như cấp quận, huyện
là rất khó khăn do sự thiếu hụt thống kê ở cấp độ này.
Dữ liệu của các biến trong mô hình được thu thập theo năm chủ yếu từ nguồn
tổng hợp các niên giám thống kê các tỉnh Vùng KTTĐ gồm tổng vốn đầu tư công PU,
tổng vốn đầu tư tư nhân trong nước (PI), tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
Tổng sản phẩm địa phương (GRDP), Lãi suất thực tế (IR), Lạm phát (INF). Tổng sản
phẩm địa phương (GRDP), Lãi suất thực tế (IR) được xem là biến số thể hiện nhu cầu
và chi phí của hoạt động đầu tư (Altin Gjini & Albania Agim Kukeli, 2012; Christian
Dreger & Hans-Eggert Reimers, 2015). Các dữ liệu nghiên cứu liên quan tới vốn dầu
tư, tổng sản phẩm địa phương được tính toán theo giá so sánh năm 2010 để loại bỏ
các ảnh hưởng của yếu tố lạm phát.
60
Ngoại trừ lãi suất thực tế (IR), các biến được thể hiện ở dạng logarit cơ số tự
nhiên. Ngoài ra, các biến PI, PU, GRDP, FDI được tính toán ở dạng bình quân đầu
người. Cụ thể, các biến sẽ được tính bằng logarit của giá trị của biến chia cho dân số
tại các địa phương. Với cách tính này thì các giá trị sẽ được điều chỉnh theo phù hợp
với đặc điểm (quy mô dân số) của địa phương.
Chi tiết các biến trong mô hình và dấu kỳ vọng được trình bày ở Bảng 3.2
Bảng 3.2: Giới thiệu các biến trong mô hình
Cách đo lường và đơn
Dấu
kỳ
Nguồn tham
Ký hiệu
Tên gọi
Nguồn thu thập
vị tính
vọng
khảo
Biến phụ thuộc
Vốn đầu tư khu vực
Nguyễn Thị Cành & cộng sự
ngoài nhà nước theo giá
(2018), Nguyễn Thị Thùy Liên
so sánh 2010, bao gồm
(2021), Phan Đình Khôi (2020),
Niên giám thống
Vốn đầu tư tư
Vốn đầu tư từ doanh
Nguyễn Thị Kim Thuyền & cộng
PI
kê các tỉnh thuộc
nhân
nghiệp (PIE) và vốn
sự (2020)
các vùng KTTĐ
đầu tư từ hộ gia đình
(PIH)
(triệu đồng)
Biến độc lập
Sử Đình Thành
(2010), Nguyễn
Vốn đầu tư của khu vực
Niên giám thống
Dài hạn: +
Thị Cành & cộng
Vốn đầu tư
nhà nước tính theo giá
PU
kê các tỉnh thuộc
sự
(2018),
công
so sánh 2010
các vùng KTTĐ
Ngắn hạn: -
Nguyễn Thị Thùy
(triệu đồng)
Liên (2021), Phan
Đình Khôi (2020).
Sử Đình Thành
Dài hạn: +
(2010), Nguyễn
Vốn đầu tư thực hiện
Thị Cành & cộng
của các tổ chức, cá nhân
sự
(2018),
Niên giám thống
Vốn đầu tư trực
nước ngoài trên địa bản
Ngắn hạn: -
Nguyễn Thị Thùy
FDI
kê các tỉnh thuộc
tiếp nước ngoài
tỉnh, thành phố tính
Liên (2021), Phan
các vùng KTTĐ
theo giá so sánh 2010
Đình Khôi (2020),
(triệu đồng)
Nguyễn Thị Kim
Thuyền & cộng sự
(2020)
Pereira
(2000),
Tổng sản phẩm địa
Niên giám thống
+
Phetsavong &
Tổng sản phẩm
phương theo giá so sánh
61
GRDP
kê các tỉnh thuộc
Ishachi
(2012),
địa phương
2010
các vùng KTTĐ
Phan Đình Khôi
(triệu đồng)
(2020)
Cavallo, E., & C.
Daude
(2010),
Sofia Vilela São
Niên giám thống
Chỉ số giá tiêu dùng
-
Marcos
(2019),
kê
các
địa
INF
Lạm phát
(CPI) bình quân năm tại
Đặng Thu Thủy &
phương
thuộc
các địa phương
cộng sự (2020),
vùng KTTĐ
Nguyễn Văn Bôn
(2021)
Demilie Basha
Hailu & cộng sự
World Bank,
(2015), Nguyễn
Niên giám thống
Lãi suất cho
Lãi suất cho vay - tỷ lệ
-
Thị Cành & cộng
IR
kê
các
địa
lạm phát địa phương
vay thực tế
sự
(2018),
phương
thuộc
(%)
Nguyễn Thị Thùy
vùng KTTĐ
Liên (2021)
Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Chương 3 Luận án đã chỉ rõ các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong
quá trình phân tích. Theo đó, để đánh giá tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
trong ngắn hạn, dài hạn, Luận án sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính
và phân tích định lượng. Phân tích định tính được sử dụng với hai phương pháp chủ
đạo là phương pháp thống kê mô tả và phương pháp phân tích tổng hợp. Phương pháp
định lượng được sử dụng để kiểm định lại các nhận định của nghiên cứu định tính và
khẳng định chiều tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn và dài hạn.
Cụ thể, Luận án thực hiện phương pháp ước lượng nhóm trung bình gộp nhằm chỉ
rõ tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp, khu vực hộ gia
đình trong ngắn và dài hạn. Ngoài ra, Luận án cũng sử dụng phương pháp phân tích
phi nhân quả để đánh giá tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân.
62
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG VÀ ĐẦU TƯ
TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
CỦA VIỆT NAM
4.1. Tổng quan về các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam của Việt Nam
4.1.1 Lịch sử hình thành các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia trong quá trình phát triển (Nguyễn Thế Bính,
2015). Bên cạnh những lợi ích mà toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mang lại
thì các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với nhiều thử
thách liên quan tới năng lực cạnh tranh quốc gia còn yếu kém, cơ chế chính sách còn
chậm đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong khi đó, bên cạnh những thành tựu đạt được sau quá trình Đổi mới, nền kinh tế
Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu điểm liên quan tới sự chênh lệch về phát triển kinh tế,
mức sống dân cư giữa các địa phương, chậm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thiếu đầu
tàu dẫn dắt, tạo động lực thúc đẩy phát triển chung của cả nước (Chính phủ, 2021).
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã xác định đổi mới cơ cấu kinh tế của
đất nước là một yêu cầu khách quan cấp thiết trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế cũng như tình hình thực tại của đất nước. Cụ thể, cần phải lựa chọn một số
tỉnh/thành phố để hình thành các vùng trọng điểm quốc gia có khả năng đột phá, tạo
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc
gia từ đó thích nghi được với bối cảnh mới cũng như thực tiễn nói chung. Theo đó,
Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt các quyết định số Quyết định số 747/TTg
ngày 11/9/1997, Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg ngày 29/11/1997, Quyết định số
44/1998/QĐ-TTg ngày 23/2/1998, Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 16/04/2009
thành lập vùng KTTĐ Bắc bộ, vùng KTTĐ miền Trung, vùng KTTĐ phía Nam và
vùng KTTĐ ĐBSCL. Trong quá trình xây dựng các vùng KTTĐ, dựa trên tình hình
kinh tế xã hội, vai trò và mục tiêu phát triển của các vùng, Chính phủ đã có sự bổ
sung thêm một số tỉnh thành đối với các vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng KTTĐ phía
Nam theo quyết định số 145/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 và quyết định số
146/2004/QĐ-TTg.
Như vậy, hiện nay cả nước có 4 vùng KTTĐ với 24 tỉnh/ thành phố trực thuộc
mỗi vùng. Mỗi vùng KTTĐ có vai trò cụ thể trong quá trình hỗ trợ và thúc đẩy sự
63
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước (Phụ lục 4). Có thể nói, việc hình thành các
vùng KTTĐ vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cả nước vừa đáp ứng bối cảnh toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
4.1.2 Tình hình phát triển kinh tế tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam
4.1.2.1 Quy mô GRDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021
Vùng KTTĐ Bắc bộ
Vùng KTTĐ miền Trung
Vùng KTTĐ phía Nam
Vùng KTTĐ ĐBSCL
Đơn vi: Tỷ đồng
Hình 4.1: GRDP bình quân của các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021
Nguồn: Niêm giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ
Về quy mô GRDP, có thể thấy rõ sự chênh lệch đáng kể về giữa vùng KTTĐ
phía Nam và vùng KTTĐ Bắc bộ so với hai vùng KTTĐ còn lại. Cụ thể, trong giai
đoạn 2010-2021, quy mô GRDP bình quân của vùng KTTĐ phía Nam đạt khoảng
188.750,5 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010) trong khi đó vùng KTTĐ Bắc bộ đạt
134.605,4 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010). Quy mô GRDP hai vùng KTTĐ này gấp
3-4 lần GRDP vùng KTTĐ miền Trung và ĐBSCL.
Bên cạnh đó, tại Vùng KTTĐ Bắc bộ và phía Nam, tồn tại sự chênh lệch rõ rệt
về quy mô GRDP giữa các cực tăng trưởng là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh so với các
địa phương còn lại (Phụ lục 5,7). Đặc biệt, so với địa phương có quy mô GRDP thấp
nhất vùng, GRDP của TP.Hà Nội gấp khoảng 10-11 lần; GRDP của TP. Hồ Chí Minh
gấp khoảng 17-18 lần. Tuy nhiên, không có sự chênh lệch đáng kể về quy mô GRDP
giữa địa phương Đà Nẵng (cực tăng trưởng của vùng KTTĐ miền Trung), Cần Thơ
(cực tăng trưởng của vùng KTTĐ ĐBSCL) với các địa phương nội vùng (Phụ lục 6,
8).
Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, ngoại trừ vùng KTTĐ Bắc bộ, các vùng KTTĐ
còn lại đều cho thấy xu hướng tăng trưởng chậm lại trong giai đoạn 2018-2021 so với
giai đoạn 2010-2017. Đặc biệt tại vùng trọng điểm của các vùng KTTĐ - vùng KTTĐ
64
phía Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn 2010-2021 thấp nhất
so với các vùng còn lại.
Bên cạnh đó, tại các cực tăng trưởng của các vùng KTTĐ ( TP.Hà Nội, TP.Hồ
Chí Minh, TP. Đà Nẵng, TP. Cần Thơ) cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại
đáng kể trong giai đoạn 2018-2021 so với các địa phương còn lại trong nội vùng. Mặc
dù vậy, nhìn chung các cực tăng trưởng vẫn là động lực tăng trưởng quan trọng của
các vùng KTTĐ.
Bảng 4.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của các vùng KTTĐ
giai đoạn 2010-2021
STT Vùng KTTĐ
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2010-2018 Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2010-2021
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2019-2021 6,75% -2,03% 1,90% 2,15% 1 Vùng KTTĐ Bắc bộ 2 Vùng KTTĐ miền Trung 3 Vùng KTTĐ phía Nam 4 Vùng KTTĐ ĐBSCL
10,12% 11,39% 6,88% 10,33% 5,38% 6,69% 6,36% 7,94% Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương nội
vùng KTTĐ
4.1.2.2 Cơ cấu ngành
Nhìn chung, cơ cấu ngành của các vùng kinh tế trọng điểm đã có sự chuyển dịch
theo hướng tích cực, trong đó ngành công nghiệp - xây dựng đóng vai trò quan trọng
trong tăng trưởng kinh tế vùng (Phụ lục 9,10,11,12). Tuy nhiên, có thể thấy tốc độ
dịch chuyển cơ cấu ngành tại các vùng KTTĐ còn tương đối chậm.
Bên cạnh đó, so với các vùng KTTĐ khác, tỷ trọng ngành công nghiệp ở vùng
KTTĐ Bắc bộ lớn hơn nhiều so với tỷ trọng ngành dịch vụ. 6/7 địa phương đều có
xu hướng tăng mạnh tỷ trọng của ngành công nghiệp với mức bình quân khoảng 60%.
Điều này hoàn toàn hợp lý khi ngành công nghiệp - xây dựng đang phát huy vai trò là trụ cột tăng trưởng của Vùng (Nguyễn Thị Thọ, 2019)3. Trong khi đó, tại vùng
KTTĐ phía Nam, mặc tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp – xây dựng tăng lên liên tục
và đứng đầu trong 3 khu vực kinh tế, cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp và nông
3 Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021 – 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ Bắc bộ.
nghiệp của các địa phương có sự khác biệt đáng kể. Nhóm có tỷ trọng nhóm ngành
65
công nghiệp (62,15%) và tỷ trọng ngành nông nghiệp thấp (5,66%) bao gồm TP. Hồ
Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai. Trong khi đó nhóm cho tỷ
trọng ngành nông nghiệp cao (32,61%), tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp (33,80 %)
thấp bao gồm Tây Ninh, Bình Phước, Long An và Tiền Giang. Tương tự vùng KTTĐ
phía Nam, cơ cấu kinh tế ngành của từng địa phương nội vùng KTTĐ miền Trung có
sự khác biệt đáng kể. TP. Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế có cơ cấu kinh tế ngành tiến
bộ với đóng góp phần lớn của ngành dịch vụ. Ngược lại, tỷ trọng đóng góp của ngành
nông nghiệp trong GRDP của các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định còn khá cao. Trái
ngược với các vùng KTTĐ còn lại, tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng của
Vùng KTTĐ chưa tương xứng với cơ cấu kinh tế của Vùng, bình quân trong giai đoạn
2010-2021, chỉ đạt 24,85%. Trong khi đó, tỷ trọng ngành nông nghiệp cao hơn mức
bình quân của cả nước trong cùng giai đoạn.
4.2. Thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của
Việt Nam
4.2.1 Thực trạng đầu tư công tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam
4.2.1.1 Quy mô và tốc độ tăng trưởng đầu tư công
150000
100000
50000
0
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021
Vùng KTTĐ Bắc bộ
Vùng KTTĐ miền Trung
Vùng KTTĐ phía Nam
Vùng KTTĐ ĐBSCL
Đơn vi: Tỷ đồng
Hình 4.2: Quy mô đầu tư công tại các vùng KTTĐ bình quân
giai đoạn 2010-2021
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ
Về quy mô đầu tư công, có thể thấy quy mô đầu tư công tại vùng KTTĐ Bắc
bộ và phía Nam gấp 4-5 lần so với hai vùng KTTĐ còn lại. Cụ thể, quy mô đầu tư
công tại vùng KTTĐ Bắc bộ lớn nhất trong các vùng và có xu hướng tăng tương đối
ổn định trong giai đoạn 2010-2021. Trong khi đó, quy mô đầu tư công tại các vùng
KTTĐ còn lại có xu hướng tăng trong giai đoạn 2010-2019 và giảm trong giai đoạn
66
2020-2021, đặc biệt tại vùng KTTĐ phía Nam. Mặc dù, nhìn chung, vốn đầu tư công
vẫn là nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế tại các vùng KTTĐ, đặc biệt
tại các vùng trọng điểm của các vùng KTTĐ- nơi cần nguồn lực rất lớn để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và tạo sự lan tỏa tới các địa phương lân cận.
Đối với các địa phương nội vùng tại các vùng KTTĐ, tại vùng KTTĐ Bắc bộ,
và vùng KTTĐ phía Nam, các thành phố hạt nhân là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh cho
thấy quy mô đầu tư công lớn gấp 6-7 lần các địa phương còn lại. Trong khi đó, tại
cùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ ĐBSCL không cho thấy sự khác biệt đáng
kể về quy mô đầu tư công tại các địa phương nội vùng so với các thành phố hạt nhân
(Phụ lục 13,14,15,16).
Về tốc độ tăng trưởng đầu tư công, nhìn chung tốc độ tăng trưởng đầu tư công
tại vùng KTTĐ Bắc bộ là lớn nhất trong khi đó, mặc dù có quy mô đầu tư công chỉ
xếp sau vùng KTTĐ Bắc bộ nhưng vùng KTTĐ phía Nam có tốc độ tăng trưởng đầu
tư công xếp thứ ¾ các vùng KTTĐ. Điều này cho thấy đầu tư công không phải là
nguồn lực chủ đạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại vùng KTTĐ phía Nam- nơi thu
hút được lượng vốn FDI và đầu tư tư nhân lớn nhất cả nước. Trong khi đó, vùng
KTTĐ miền Trung có tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư công xếp sau vùng KTTĐ Bắc
bộ và vùng KTTĐ ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng thấp nhất. Bên cạnh đó, tốc độ tăng
trưởng đầu tư công có xu hướng sụt giảm trong giai đoạn 2018-2021 so với giai đoạn
2010-2017 tại các vùng KTTĐ.
Bảng 4.2: Tốc độ tăng đầu tư công bình quân giai đoạn 2010-2021
STT Vùng KTTĐ
Tốc độ tăng trưởng đầu tư công bình quân giai đoạn 2010-2018 Tốc độ tăng trưởng đầu tư công bình quân giai đoạn 2019-2021
6,51% 4,80% 2,52%
Tốc độ tăng trưởng đầu tư công bình quân giai đoạn 2010-2021 6,08% 4,53% 2,38% -1,18% 1 Vùng KTTĐ Bắc bộ 2 Vùng KTTĐ miền Trung 3 Vùng KTTĐ phía Nam 4 Vùng KTTĐ ĐBSCL 2% 4,94% 3,83% 2,02% - 9,67%
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương nội
vùng KTTĐ
67
Về cơ cấu đầu tư công theo nguồn vốn, đầu tư công chủ yếu phụ thuộc vào
ngân sách Nhà nước. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng bình quân 68,78% của vốn đầu
tư công trong giai đoạn 2010-2021 tại các vùng KTTĐ. Vốn đầu tư công từ ngân sách
nhà nước chủ yếu tập trung cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Nguồn vốn
vay từ vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, xếp thứ hai sau nguồn vốn từ NSNN.
100%
6,98
8,9
11,37
12,85
90%
24,75
80%
22,74
15,85
21,41
70%
60%
50%
40%
71,30
68,36
68,27
67,22
30%
20%
10%
0%
Vùng KTTĐ Bắc bộ
Vùng KTTĐ phía Nam Vùng KTTĐ ĐBSCL
Vùng KTTĐ miền Trung
Vốn NSNN
Vốn vay
Vốn khác
Đơn vị: %
Hình 4.3: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ
giai đoạn 2010-2021
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương
vùng KTTĐ
Về cơ cấu đầu tư công theo lĩnh vực đầu tư, do sự hạn chế về mặt thu thập số
liệu đầu tư công cấp Tỉnh/ Thành phố, Luận án chỉ trình bày cơ cấu đầu tư công theo
lĩnh vực trong giai đoạn 2015-2021. Theo đó, đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội
luôn là một trong những hạng mục đầu tư nhận được sự quan tâm lớn của các địa phương nội Vùng 4. Trong đó, đầu tư công cho CSHT chiếm tỷ trọng bình quân
94.33% (Phụ lục 17, 19, 21, 23). Như vậy, tỷ lệ đầu tư CSHT tại các vùng KTTĐ nhìn chung cao hơn so với mức có tỷ lệ đầu tư CSHT cả nước (87,30%5) trong cùng
4 Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng giai đoạn 2011-2015, 2016-2020 5 Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực của Việt Nam giai đoạn 2010-2021
giai đoạn.
68
Mặc dù định hướng là Trung tâm điện tử-tin học hàng đầu của đất nước, phát
triển công nghiệp chế biến, chế tạo; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tuy nhiên
CSHT Khoa học công nghệ tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ chỉ chiếm
tỷ trọng 1,93% trong cơ cấu đầu tư CSHT. Tương tự vùng KTTĐ Bắc bộ, mặc dù
định hướng là trung tâm dịch vụ tài chính, ngân hàng và logistics trong giai đoạn
2021-2030, định hướng 2050, tuy nhiên đầu tư công cho CSHT khoa học công nghệ
tại vùng KTTĐ phía Nam chiếm tỷ trọng thấp hơn so với vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng
KTTĐ miền Trung (Phụ lục 18,20,22,24). Nguyên nhân xuất phát từ vấn đề trong số
8 địa phương nội vùng thì có đến 4 địa phương (Tiền Giang, Long An, Tây Ninh) có
tỷ trọng ngành nông nghiệp lên tới 32,61% . Đây là nhóm ngành mà có sự trang bị
CSHT Khoa học công nghệ thấp hơn hẳn so với nhóm ngành công nghiệp và dịch
vụ. Trong khi đó tại vùng KTTĐ ĐBSCL, mục tiêu của toàn Vùng là hướng tới nền
nông nghiệp công nghệ cao, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Do vậy, các địa
phương nội vùng đã dành tỷ trọng vốn đầu tư công từ NSNN cho xây dựng CSHT
giáo dục tương đối lớn (12,88%).
100%
99%
98%
4,34
5,31
5,69
5,89
97%
96%
95%
94%
95,66
93%
93,26
94,31
94,11
92%
91%
Vùng KTTĐ Bắc bộ
Vùng KTTĐ miền Trung Vùng KTTĐ phía Nam
Vùng KTTĐ ĐBSCL
CSHT
Các hạng mục khác
Đơn vị: %
Hình 4.4: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ
giai đoạn 2010-2021
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương
vùng KTTĐ
69
4.2.2 Thực trạng đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam
4.2.2.1 Quy mô và tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân
400000
300000
200000
100000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Vùng KTTĐ Bắc bộ
Vùng KTTĐ miền Trung
Vùng KTTĐ phía Nam
Vùng KTTĐ ĐBSCL
Đơn vi: Tỷ đồng
Hình 4.5: Quy mô đầu tư tư nhân bình quân tại các vùng KTTĐ
giai đoạn 2010-2021
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương nội vùng KTTĐ
Về quy mô vốn đầu tư tư nhân, vùng KTTĐ phía Nam và Bắc bộ là hai vùng
KTTĐ dẫn đầu với sự chênh lệch đáng kể so với hai vùng KTTĐ còn lại. Cụ thể,
vùng KTTĐ phía Nam và Bắc bộ có quy mô vốn đầu tư tư nhân gấp khoảng 5 lần
vùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ ĐBSCL. Điều này cho thấy vai trò động lực
của vùng KTTĐ phía Nam cũng như Bắc bộ đối với việc thu hút đầu tư tư nhân.
Bên cạnh đó, tại vùng KTTĐ phía Nam và vùng KTTĐ Bắc bộ, có sự chênh
lệch đáng kể về quy mô vốn đầu tư tư nhân tại các thành phố hạt nhân (TP. Hồ Chí
Minh và TP.Hà Nội) so với các địa phương nội vùng. Cụ thể, so với các địa phương
nội vùng, quy mô đầu tư tư nhân tại TP.Hồ Chí Minh và TP.Hà Nội gấp 12-13 lần.
Vì vậy, sự biến động đầu tư tư nhân tại hai thành phố hạt nhân này ảnh hưởng mạnh
mẽ tới biến động đầu tư tư nhân toàn vùng. Trong khi đó, các thành phố hạt nhân của
vùng KTTĐ miền Trung và KTTĐ ĐBSCL, quy mô đầu tư tư nhân không có sự
chênh lệch đáng kể so với các địa phương nội vùng. Tại vùng KTTĐ ĐBSCL, đầu tư
tư nhân tại thành phố hạt nhân Cần Thơ còn thấp hơn đáng kể so với tỉnh Kiên Giang.
Điều này cho thấy vai trò dẫn dắt thu hút đầu tư tư nhân của các thành phố hạt nhân
còn tương đối mờ nhạt tại vùng KTTĐ miền Trung và KTTĐ ĐBSCL (Phụ lục
26,27,28,29).
Về tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân, đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ có
xu hướng sụt giảm trong giai đoạn 2019-2021 so với giai đoạn 2010-2018 do ảnh
70
hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. Có ¾ vùng KTTĐ, đầu tư tư nhân tăng trưởng
âm trong giai đoạn 2019-2021. Tất cả các thành phố hạt nhân tại các vùng KTTĐ đều
cho thấy sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân. Đặc biệt, tại TP.Hồ Chí Minh
tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân sụt giảm mạnh kéo theo sự sụt giảm tốc độ tăng
trưởng đầu tư nhân toàn vùng.
Bảng 4.3: Tốc độ tăng đầu tư tư nhân bình quân giai đoạn 2010-2021
Tốc độ tăng Tốc độ tăng Tốc độ tăng
trưởng đầu tư trưởng đầu tư trưởng đầu tư
STT Vùng KTTĐ công bình quân công bình quân công bình quân
giai đoạn giai đoạn giai đoạn
2010-2018 2019-2021 2010-2021
1 Vùng KTTĐ Bắc bộ 8,78% 8,71% 8,76%
2 Vùng KTTĐ miền Trung 14,51% -4,72% 9,26%
3 Vùng KTTĐ phía Nam 13,82% -8,33% 7,78%
4 Vùng KTTĐ ĐBSCL 7,14% -0,67% 5,01%
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương
vùng KTTĐ
Về cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn, nhìn chung đầu tư của khu vực
doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chủ đạo (55,64%) so với đầu tư của khu vực hộ gia đình
(44,36%). Có thể nhận thấy khu vực doanh nghiệp là nguồn lực đóng góp vốn đầu tư
chủ đạo trong khu vực kinh tế tư nhân tại các vùng KTTĐ trong giai đoạn 2010-2021.
Tuy nhiên có sự khác biệt về tỷ trọng đầu tư khu vực hộ gia đình so với khu vực
doanh nghiệp tại các vùng KTTĐ. Cụ thể, tại vùng KTTĐ miền Trung, đầu tư khu
vực doanh nghiệp có tỷ trọng lớn hơn đáng kể so với đầu tư khu vực hộ gia đình
(Phụ lục 30). Trong khi đó, tại vùng KTTĐ ĐBSCL, đầu tư khu vực doanh nghiệp có
tỷ trọng tương đương đầu tư hộ gia đình (Phụ lục 32). Tại vùng KTTĐ phía Nam và
Bắc bộ, đầu tư khu vực doanh nghiệp lớn hơn hộ gia đình nhưng không đáng kể (Phụ
lục 31). Điều này cho thấy kinh tế hộ gia đình khu vực hộ gia đình cũng đóng vai trò
rất quan trọng đối với sự phát triển của các vùng KTTĐ. Hiện nay, tại các địa phương
thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ tập trung 613 làng nghề, chiếm hơn 1/3 số lượng làng
nghề trên cả nước (Bạch Thị Lan Anh, 2010). Ngoài ra, tại vùng KTTĐ ĐBSCL, tính
đến thời điểm tháng 12/2021, nhóm ngành có nhiều cơ sở nhất là nhóm ngành bán
buôn và bán lẻ, sữa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ với 31.817 cơ sở; nhóm
71
ngành hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ có ít cơ sở nhất, chỉ với 199 cơ
sở. Mặc dù đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế hộ gia đình nhưng mô hình kinh
doanh phi nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản ở vùng KTTĐ ĐBSCL còn nhỏ lẻ và
manh mún. Đồng thời, lao động thiếu kỹ năng nghề nghiệp và ngành nghề có hàm
lượng khoa học kỹ thuật cao còn hạn chế.
100%
90%
80%
50,75
53,19
53,45
70%
65,19
60%
50%
40%
30%
49,25
46,86
46,55
20%
34,81
10%
0%
Vùng KTTĐ Bắc bộ
Vùng KTTĐ miền Trung
Vùng KTTĐ phía Nam
Vùng KTTĐ ĐBSCL
Vốn hộ gia đình
Vốn Doanh nghiệp
Đơn vị: %
Hình 4.6: Cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ giai đoạn
2010-2021
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ
4.2.3 Thực trạng mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng
kinh tế trọng điểm của Việt Nam
4.2.3.1 Tỷ trọng đầu tư công, đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, trong vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội
tại các vùng KTTĐ, ngoài vốn đầu tư công, vốn đầu tư tư nhân thì còn có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài FDI. Đặc biệt, các vùng KTTĐ lại là nơi thu hút nguồn vốn FDI
lớn nhất cả nước nên nguồn vốn FDI cũng là một trong những nhân tố quan trong khi
xét mối quan hệ của đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.
Cả nước
29.60%
51.70%
18.70%
Vùng KTTĐ ĐBSCL
37.63%
60.32%
2.05%
Vùng KTTĐ phía Nam
17.21%
55.24%
27.55%
Vùng KTTĐ miền Trung
35.17%
54.97%
9.85%
Vùng KTTĐ Bắc bộ
25.59%
53.63%
20.78%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90% 100%
Đầu tư công
Đầu tư tư nhân
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
72
Hình 4.7: Tỷ trọng đầu tư công, đầu tư tư nhân, FDI trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội giai đoạn 2010-2021
Nguồn: Tác giả tính toán từ Niên giám thống kê Việt Nam, Niên giám thống kê
các địa phương vùng KTTĐ
Tại các vùng KTTĐ, đầu tư tư nhân chiếm tỷ trọng chủ đạo so với đầu tư công
và đầu tư trực tiếp nước ngoài với tỷ trọng bình quân 56,04%, cao hơn mức bình quân
của cả nước 51,7%. Trong khi đó, tỷ trọng vốn đầu tư công bình quân tại các vùng
kinh tế trọng điểm là 28.9%, thấp hơn mức bình quân của cả nước và có sự khác biệt
rõ rệt giữa các vùng KTTĐ. Cụ thể, tại các vùng KTTĐ ĐBSCL và miền Trung tỷ
trọng vốn đầu tư công lên tới 36,4%, cao hơn so với mức bình quân của cả nước là
29,6%. Tuy nhiên tại vùng KTTĐ Bắc bộ và phía Nam vốn đầu tư công chiếm tỷ
trọng nhỏ hơn với mức 21,4%. Nguyên nhân là do tại hai vùng KTTĐ này tỷ trọng
vốn đầu tư nước ngoài FDI tương đối lớn so với vùng KTTĐ ĐBSCL và miền Trung.
Hay nói cách khác, vốn FDI đang dần trở thành một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy phát triển kinh tế tại vùng KTTĐ Bắc bộ và phía Nam, từ đó giảm bớt áp
lực đối với vốn đầu tư công. Trong khi đó, vùng KTTĐ ĐBSCL và miền Trung vẫn
cho thấy sự phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư công để phát triển kinh tế (Phụ lục 33,
34,35,36).
Như vậy, từ cơ cấu vốn đầu tư thực hiện, có thể thấy, tỷ trọng đầu tư tư nhân tại
các vùng KTTĐ đều lớn hơn mức bình quân của cả nước và tại các vùng có tỷ trọng
đầu tư công lớn thì đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng có tỷ trọng thấp và ngược
lại. Điều này hàm ý đầu tư tư nhân chính là nguồn lực quan trọng đối với quá trình
phát triển kinh tế tại các vùng KTTĐ. Bên cạnh đó, một số vùng KTTĐ đang giảm
dần sự phụ thuộc vào vốn đầu tư công do thu hút được nguồn vốn FDI lớn. Do đó,
73
FDI chính là yếu tố quan trọng cần xét tới khi xem xét mối quan hệ giữa đầu tư công
và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.
4.2.3.2 Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ
Để mô tả mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân, Luận án tiến hành
so sánh tốc độ tăng của đầu tư công, đầu tư tư nhân trong hai giai đoạn 2010-2018
và 2019-2021. Dựa trên cơ sở lý luận ở chương 1 và tỷ trọng đầu tư công, đầu tư tư
nhân trong vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội, FDI chính là yếu tố điều tiết mối quan
hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân. Do đó, Luận án sẽ xét mối quan hệ giữa đầu
tư công và đầu tư tư nhân trong mối quan hệ với tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài FDI. Sở dĩ Luận án lựa chọn mốc trước và sau năm 2019 là do đây là năm
2019 nền kinh tế toàn cầu giảm tốc xuống mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008-2009 bởi xảy ra nhiều cú sốc trong đó có thể kể đến cuộc chiến
thương mại giữa Mỹ-Trung Quốc, biến động của thị trường dầu mỏ (IMF, 2020). Bên
cạnh đó, sự xuất hiện của đại dịch Covid-19 năm 2020 cũng ảnh hưởng nghiêm trọng
tới nền kinh tế toàn cầu, trong đó có nền kinh tế Việt Nam và các vùng KTTĐ. Quan
sát số liệu về quy mô đầu tư công, đầu tư nhân tại các vùng KTTĐ cũng chỉ ra xu
hướng sụt giảm trong giai đoạn 2019-2021 so với giai đoạn 2010-2018. Điều này một
lần nữa khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới
đầu tư công và đầu tư tư nhân cũng như là yếu tố ảnh hưởng tới tác động của đầu tư
công tới đầu tư tư nhân.
74
Bảng 4.4: So sánh tốc độ tăng trưởng đầu tư công, đầu tư tư nhân, FDI giai
đoạn 2010-2018 so với giai đoạn 2019-2021 tại các vùng KTTĐ
2010-2018
2019-2021
Chênh lệch giai đoạn 2019- 2021 so với giai đoạn 2010- 2018
Vùng KTTĐ
FDI
FDI
Δ PU
Δ PI
Δ FDI
Đầu tư công (PU)
Đầu tư công (PU)
Đầu tư tư nhân (PI)
Đầu tư tư nhân (PI)
6.51%
8.78% 14.10%
4.94%
8.71%
-0.23%
-1.57%
-0.07%
-14.33%
4.80% 14.51% 10.38%
3.83%
-4.72%
-0.37%
-0.97%
-19.23%
-10.75%
2.52% 13.82%
9.00%
2.02%
-8.33%
-3.66%
-0.50%
-22.15%
-12.66%
2.00%
7.14%
8.39%
-9.67%
-0.67%
-23.74%
-11.67%
-7.81%
-32.13%
Vùng KTTĐ Bắc bộ Vùng KTTĐ miền Trung Vùng KTTĐ phía Nam Vùng KTTĐ ĐBSCL
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên niên giám thống kê các địa phương thuộc
các vùng KTTĐ
Có thể thấy, tại tất cả các vùng KTTĐ sự sụt giảm tốc độ đầu tư công giai đoạn
2019-2021 kèm theo sụt giảm tốc độ tăng trưởng của đầu tư tư nhân. Như vậy có thể
thấy tồn tại mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ. Bên
cạnh đó, sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng vốn FDI giai đoạn 2019-2021 so với giai
đoạn 2010-2018 cũng được thể rõ ở bảng 2.3. Như vậy có thể thấy, dựa vào phân tích
định tính số liệu có thể thấy, hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện thông qua biến số FDI
có mối quan hệ với cùng chiều với tốc độ tăng trưởng của đầu tư công và đầu tư tư
nhân. Trong giai đoạn 2010-2018, dòng vốn FDI chảy vào các cùng KTTĐ với tốc
độ gia tăng, tốc độ tăng trưởng của đầu tư công và đầu tư tư nhân cùng tăng trưởng.
Tuy nhiên, sang giai đoạn 2019-2021, dưới tác động của đại dịch Covid-19, tốc độ
tăng trưởng dòng vốn FDI sụt giảm, tốc độ tăng trưởng đầu tư công và đầu tư tư nhân
cùng giảm. Đặc biệt với các địa phương có sự sụt giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng
FDI thì đầu tư công và đầu tư tư nhân cũng có xu hướng sụt giảm đáng kể tốc độ tăng
trưởng, thậm chí tăng trưởng âm. Điều đó cho thấy xét về mặt định tính, tác động của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân có mối quan hệ với hội nhập kinh tế quốc tế.
75
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong bối cảnh
hội nhập có một số điểm khác biệt giữa các vùng KTTĐ. Cụ thể, tại vùng KTTĐ Bắc
bộ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sụt giảm mạnh trong giai đoạn 2019-2021 nhưng
đầu tư công và đầu tư tư nhân chỉ bị sụt giảm nhẹ. Trong khi đó, tại các vùng KTTĐ
khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng âm lại đi kèm với sự sụt giảm đáng kể
của đầu tư tư nhân hoặc cả đầu tư tư nhân và đầu tư công.
Để củng cố thêm về mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các
vùng KTTĐ, Luận án tiến hành tính toán hệ số thu hút đầu tư. Hệ số này cho biết khi
đầu tư công tăng lên 1 đồng thì sẽ thu hút bao nhiêu đồng vốn đầu tư từ khu vực tư
nhân (Nguyễn Thị Cành, 2018; Nguyễn Thị Tuyết Minh, 2019). Luận án tiến hành
tính toán và so sánh tại 4 vùng KTTĐ và đặt hệ số thu hút đầu tư trong mối quan hệ
với tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI để thấy được ảnh hưởng
1.0
60%
40%
3.0
0.8
40%
30%
0.6
20%
20%
2.0
10%
0.4
0%
0%
1.0
0.2
-20%
5 1 0 2
0 2 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
6 1 0 2
7 1 0 2
8 1 0 2
9 1 0 2
1 2 0 2
-10%
0 2 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
7 1 0 2
8 1 0 2
9 1 0 2
1 2 0 2
0.0
-40%
-20%
0.0
Hệ số thu hút đầu tư
Hệ số thu hút đầu tư
Tốc độ tăng trưởng FDI
Tốc độ tăng trưởng FDI
của hội nhập kinh tế quốc tế tới mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân.
5.0
25%
60%
3.0
20%
4.0
40%
2.5
15%
3.0
20%
2.0
10%
5%
0%
1.5
2.0
0%
-20%
1.0
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
7 1 0 2
8 1 0 2
9 1 0 2
0 2 0 2
1 2 0 2
1.0
-5%
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
7 1 0 2
8 1 0 2
9 1 0 2
0 2 0 2
1 2 0 2
-40%
0.5
0.0
-10%
-60%
0.0
Hệ số thu hút đầu tư
Hệ số thu hút đầu tư
Tốc độ tăng trưởng FDI
Tốc độ tăng trưởng FDI
Vùng KTTĐ miền Trung Vùng KTTĐ Bắc bộ
Vùng KTTĐ miền Nam Vùng KTTĐ ĐBSCL
Hình 4.8: Hệ số thu hút đầu tư và tốc độ tăng trưởng FDI tại các vùng KTTĐ
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của niên giám thống kê các địa phương
thuộc các vùng KTTĐ
76
Nhìn chung từ hình 2.8, Luận án rút ra một số kết luận như sau về mối quan hệ
giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân trong giai đoạn 2010-2021 như sau:
Thứ nhất, hệ số thu hút đầu tư bình quân tại vùng KTTĐ miền Nam lớn nhất
trong số các vùng KTTĐ còn lại tuy nhiên có xu hướng sụt giảm. Điều này cho thấy
có thể đây là khu vực đầu tư công tạo được sự thu hút đối với đầu tư tư nhân nhưng
mức độ thu hút có xu hướng giảm. Trong khi đó, hệ số thu hút đầu tư tư nhân tại vùng
KTTĐ miền Trung là nhỏ nhất và nhỏ hơn mức bình quân của cả nước (Nguyễn Thị
Cành, 2018). Điều này cho thấy có thể đây là khu vực đầu tư công chưa thể hiện được
vai trò vốn mồi để thu hút đầu tư tư nhân với vai trò là một vùng KTTĐ.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của đầu tư công và đầu tư tư nhân có xu hướng giảm
tại các vùng KTTĐ trong giai đoạn 2019-2021 như Luận án đã chỉ ra ở trên, hệ số thu
hút đầu tư tư nhân trong giai đoạn 2019-2021 lại lớn hơn so với giai đoạn trước đó.
Điều này có thể hàm ý rằng trong bối cảnh đại dịch Covid-19 xảy ra thì vai trò thu
hút đầu tư tư nhân của đầu tư công tại các vùng KTTĐ lại càng rõ rệt hơn. Mặc dù
vậy, xu hướng sụt giảm của hệ số thu hút đầu tư trong giai đoạn 2019-2021 cho thấy
trước tác động của đại dịch Covid-19, đầu tư công đang đối mặt với nhiều khó khăn
trong quá trình thu hút đầu tư tư nhân nhằm phục hồi phát triển kinh tế tại các vùng
KTTĐ.
Thứ ba, mối quan hệ giữa hệ số thu hút đầu tư và tốc độ tăng trưởng FDI nhìn
chung cùng chiều và tương đối rõ rệt tại vùng KTTĐ phía Nam. Như đã đề cập ở
chương 3, dựa vào khảo sát PCI (2020, 2021, 2022), các doanh nghiệp tư nhân tại
Việt Nam, đặc biệt tại các tỉnh thành thuộc vùng KTTĐ phía Nam đang trở thành một
mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị của các doanh nghiệp FDI. Do đó, mối quan
hệ giữa FDI và đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ phía Nam là rất chặt chẽ. Hơn nữa,
dựa vào cơ sở lý thuyết ở chương 1, vốn FDI là một trong những nhân tố điều tiết tác
động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân, ảnh hưởng tới độ lớn của hiệu ứng lấn át và
hiệu ứng bổ trợ. Do đó, FDI là một trong những nhân tố quan trọng khi xét tác động
đầu tư công tạo ra đối với đầu tư tư nhân mà nghiên cứu cần quan tâm xem xét.
Mặc dù những nhận định trên phần nào cho thấy mối quan hệ giữa đầu tư công
và đầu tư tư nhân với sự ảnh hưởng của vốn FDI. Tuy nhiên trên thực tế như Luận án
đã chỉ ra có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư
tư nhân. Và để chỉ rõ tác động cụ thể của đầu tư công tới đầu tư tư nhân cần thiết thực
hiện phân tích định lượng tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân cả trong ngắn
77
hạn và dài hạn để có thể khẳng định chắc chắn tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân là bổ trợ hay lấn át, và yếu tố hội nhập có phải là yếu tố điều tiết tác động này
như lý thuyết đã đề cập và như phân tích định tính trên hay không. Để thực hiện mục
tiêu trên, Luận án sẽ sử dụng mô hình phân tích định lượng ở chương 5 để kiểm định
tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và các thành phần của đầu tư tư nhân xét
trong ngắn hạn và dài hạn.
4.2.4 Thực trạng chính sách thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư
nhân tại các vùng KTTĐ của Việt Nam
Trong giai đoạn 2010-2021, các chính sách của Chính phủ (Nghị quyết số
145, 146, 148/2004/QĐ-TTg, 492/2009/QĐ-TTg, 210/2006/QĐ-TTg, chỉ thị
19/CT-TTg…) đều nhấn mạnh vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển của các
vùng KTTĐ, từ đó tạo động lực thúc đẩy đầu tư tư nhân. Để khuyến khích đầu tư tư
nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm, trước hết, Chính phủ đã ưu tiên thực hiện chính
sách ưu tiên phân bổ vốn đầu tư công nhằm hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng.
Chính phủ luôn đề cập đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và
không thể thiếu trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân tạo động lực phát triển vùng kinh
tế trọng điểm. Cụ thể, các quyết định số 198, 242, 252, 1874-QD-TTg về phê duyệt
quy hoạch tổng thể cho 4 vùng KTTĐ cho đến năm 2020, định hướng 2030 đề ra các
giải pháp nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó ưu tiên hạ tầng giao thông (đường
bộ, đường thủy, đường sắt, và đường hàng không), cung cấp điện và bưu chính viễn
thông, hạ tầng thủy sản và công nghệ thông tin-truyền thông. Đồng thời, Chính phủ
cũng đưa ra chính sách phát triển cơ sở hạ tầng của các thành phố hạt nhân kinh tế
thuộc các vùng KTTĐ (Quyết định số 40/2015/QĐ-TTg). Mặt khác, Chính phủ đã
đưa ra chính sách ưu tiên phân bổ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng ở các vùng KTTĐ thông qua nguồn vốn từ NSNN (Quyết định số 60/2010/QD-
TTg). Theo đó, Chính phủ đưa ra các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ đầu
tư phát triển bằng nguồn vốn NSNN, trong đó các thành phố trực thuộc trung ương,
các thành phố loại I, các tình thành, phố trực thuộc vùng KTTĐ được hưởng hệ số ưu
tiên phân bổ ngân sách. Bên cạnh chính sách về phân bổ nguồn vốn đầu tư công cho
xây dựng cơ sở hạ tầng, Chính phủ cũng xây dựng các chính sách nhằm huy động
nguồn vốn xã hội. Một trong những hình thức được Chính phủ thực hiện nhằm kêu
gọi nguồn vốn xã hội cho xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng kinh tế trọng điểm đó
chính là hình thức hợp tác công tư PPP (Quyết định số 63/QĐ-TTg, Nghị định
78
5/2021/NĐ-CP). Chính phủ ưu tiên thu hút nguồn vốn này cho các dự án cơ sở hạ
tầng quan trọng, có sức lan tỏa rộng và tác động lớn tới kinh tế tại vùng KTTĐ.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được mà Luận án đã chỉ rõ về sự tăng trưởng
trong quy mô đầu tư tư nhân cũng như tỷ trọng đầu tư tư nhân so với vốn đầu tư thực
hiện toàn xã hội tại các vùng KTTĐ so với cả nước, các chính sách trên vẫn tồn tại
một số hạn chế. Cụ thể, thứ nhất, chưa có chính sách phân bổ nguồn lực đầu tư công
hợp lý cho các vùng KTTĐ. Nhìn chung, chính sách phân bổ đầu tư công nhìn chung
vẫn còn dàn trải và chưa thực sự gắn kết với chiến lược phát triển dài hạn có định
hướng phát triển vùng. Thứ hai, chưa xây dựng được chính sách hiệu quả nhằm thu
hút nguồn vốn xã hội nhằm gia tăng nguồn lực thực hiện các dự án đầu tư tư công.
Thứ ba, một trong những thành phần quan trọng của khu vực tư nhân đó chính là hộ
gia đình, tuy nhiên chính sách đầu tư công dành cho đối tượng này tại các vùng KTTĐ
còn tương đối mờ nhạt.
79
TỔNG KẾT CHƯƠNG 4
Chương 4 Luận án đi sâu vào phân tích tình hình kinh tế và thực trạng đầu tư
công, đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ cũng như có sự mô tả mối quan hệ giữa đầu
tư công và đầu tư tư nhân đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nhìn chung, trái ngược với vùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ ĐBSL, quy
mô GRDP có sự phân hóa rõ rệt tại địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ và phía
Nam. Cụ thể, Vùng KTTĐ phía Nam có thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò đầu tàu
của cả Vùng với GRDP chiếm tới 44,5%-49,5% GRDP bình quân vủa Vùng KTTĐ
phía Nam hay Vùng KTTTD Bắc bộ có Hà Nội luôn đóng vai trò đầu tàu với mức
đóng góp GRPD chiếm tới 48,7% GDRP toàn Vùng. Tuy nhiên, các địa phương có
quy mô GRDP cao tại hai vùng KTTĐ này đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại,
đặc biệt trong giai đoạn 2016-2021. Bên cạnh đó, tại các vùng KTTĐ, cơ cấu ngành
dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ va giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, tại vùng KTTĐ ĐBSCL, tỷ trọng ngành nông nghiệp
vẫn cao hơn mặt bằng chung của cả nước.
Đối với đầu tư công, quy mô đầu tư công tại các địa phương thuộc các vùng
KTTĐ có xu hướng tăng trưởng chậm lại và giảm tỷ trọng trong vốn đầu tư toàn xã
hôi. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chuyển dịch từ khu vực Nhà nước
sang khu vực ngoài Nhà nước. Tại cả 4 vùng KTTĐ, đầu tư công chủ yếu từ NSNN.
Đây cũng là một thực trạng chung tại Việt Nam khi mà nguồn lực chủ yếu của đầu tư
công chủ yếu xuất phát từ Ngân sách nhà nước. Mặt khác vốn đầu tư công từ NSNN
cho thấy có hiệu quả chưa được như mong muốn và thậm chí có thể nói còn tương
đối thấp tại Việt Nam. Đầu tư công cho CSHT chủ yếu tập trung vào hạng mục đầu
tư CSHT kinh tế. Tuy nhiên, CSHT cho các hạng mục khác như giáo dục hay khoa
học công nghệ vẫn còn thấp. Trong khi đó, đầu tư tư nhân mặc dù có xu hướng giảm
mạnh trong giai đoạn 2019-2021 do ảnh hưởng bởi ảnh hưởng Covid-19 tại các vùng
KTTĐ nhưng tỷ trọng trong vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng tăng. Trong cơ
cấu vốn đầu tư tư nhân, vốn đầu tư từ doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chủ đạo (trên
60%) so với vốn đầu tư từ hộ gia đình tại các vùng KTTĐ.
80
CHƯƠNG 5: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA
ĐẦU TƯ CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM CỦA VIỆT NAM
5.1 Mô tả thống kê các biến số
Luận án sử dụng 9 biến trong nghiên cứu định lượng, gồm có: đầu tư tư nhân
(PI), đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp (PIE), đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình
(PIH), đầu tư công (PU), đầu tư công cho cơ sở hạ tầng (PUCSHT), đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), tổng sản phẩm địa phương (GRDP), tỷ lệ lạm phát (INF) và lãi
suất thực tế (IR). Các số liệu này được thu thập từ 24 tỉnh/thành phố trực thuộc 4
vùng KTTĐ tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2021. Đặc điểm cơ bản của từng
chuỗi số liệu được thể hiện ở bảng 5.1 dưới đây.
Bảng 5.1: Thống kê mô tả các biến
Giá trị Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn Biến Số quan sát trung bình chuẩn nhất nhất
PI 288 2,64 0,83 -4,35 4,19
PIE 288 2,18 0,90 0,22 5,54
PIH 288 1,93 0,71 -0,47 4,01
PU 288 1,90 0,65 0,29 3,58
PUCSHT 288 1,44 0,83 -1,28 3,13
FDI 288 1,11 2,06 -9,72 4,66
GRDP 288 4,29 1,04 -2,80 6,16
INF 288 4,65 0,05 4,59 4,83
IR 288 4,87 3,10 -2,27 12,34
Nguồn: Tác giả thực hiện trên phần mềm Stata-15
5.2 Kết quả ước lượng tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các
vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam
5.2.1 Các kiểm định
5.2.1.1 Kiểm định nghiệm đơn vị
Trong trường hợp chuỗi dữ liệu có tồn tại sự phụ thuộc chéo, cỡ mẫu nhỏ, theo
đề xuất của Pesaran (2007), Luận án sử dụng kiểm định CIPS.
Kết quả nghiên cứu ở bảng trên cho thấy các giá trị ban đầu của các biến PU,
PUCSHT, GRDP đều không dừng. Tuy nhiên, khi sử dụng sai phân bậc nhất, giải
81
thuyết về nghiệm đơn vị bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 1%. Trong khi đó, các biến còn lại
đều dừng. Như vậy có nghĩa là dừng I(0) bao gồm PI, PIE, PIH, INF, IR, FDI và dừng
I(1) bao gồm PU, PUCSHT, GRDP. Như vậy, các chuỗi dừng hỗn hợp I(0) và I(1).
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị được thể hiện ở Phụ lục 37.
5.2.1.2 Kiểm định đồng liên kết
Để kiểm định mối quan hệ đồng tích hợp giữa các chuỗi dừng hỗn hợp theo
Westerlund (2005) và sử dụng thêm kiểm định Kao (1999), kiểm định Pedroni (1996)
để khẳng định kết quả kiểm định.
Kết quả nghiên khẳng định giả thuyết H0 không có đồng liên kết bị loại bỏ ở
mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% hay tồn tại cân bằng dài hạn giữa các biến số trong mô
hình. Khi có bằng chứng về mối quan hệ đồng tích hợp giữa các chuỗi dừng hỗn hợp
I(0) và I(1) thì Luận án sẽ sử dụng phương pháp PMG để ước lượng nhằm phân tích
tác động dài hạn và ngắn hạn trong dữ liệu bảng.
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị được thể hiện ở Phụ lục 38.
5.2.2 Phân tích kết quả
5.2.2.1. Tác động dài hạn
Trường hợp 1: Xét tác động dài hạn của đầu tư công tới tổng đầu tư tư nhân
Bảng 5.2: Tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại 4 vùng
KTTĐ giai đoạn 2010-2021
Biến phụ thuộc PMG
Hệ số Độ lệch chuẩn PI
0,368*** 0,032 PU
0,248** 0,020 GRDP
0,099*** 0,029 FDI
-0,308** 0,463 INF
-0,044*** 0,005 IR
-0,316*** 0,089 EC
Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%. Độ
trễ của mô hình được lựa chọn dựa trên tiêu chí SIC ( Schwarz Information Criterion, Pesaran and Shin, 1999,
Norman Gemmell et al, 2015). Bên cạnh đó, trên thực tế do chuỗi thời gian tương đối ngắn nên dựa vào các
nghiên cứu đi trước của Loayza và Ranciere (2006), Demetriades và Siong (2006), Nguyễn Khắc Quốc Bảo
và cộng sự (2020), tác giả chọn độ trễ tối ưu cho tất cả các biến trong mô hình là 1.
288 Số quan sát
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15
82
Xét mô hình PMG, vector điều chỉnh sai số (EC) âm và có ý nghĩa thống kê (tại
mức 1%) mức cho thấy có sự tồn tại của mối quan hệ đồng tích hợp giữa các biến
trong các địa phương thuộc vùng KTTĐ tại Việt Nam. Hệ số của EC bằng -0,316 có
nghĩa là tốc độ điều chỉnh về trạng thái cân bằng trong dài hạn của mô hình là 31,6%
trước tác động của cú sốc.
Trong dài hạn, tất cả các yếu tố bao gồm đầu tư công (PU), đầu tư nước ngoài
(FDI), tổng sản phẩm quốc nội (GRDP), lãi suất thực tế (IR) và tỷ lệ lạm phát (INF)
đều có tác động đến đầu tư tư nhân. Trong đó, PU, GRDP và FDI có tác động tích
cực trong khi đó IR và INF có tác động ngược chiều tới đầu tư tư nhân. Cụ thể hơn,
về lâu dài, khi đầu tư công tăng 1% thì đầu tư tư nhân tăng 0,368%.. Kết quả trùng
khớp với kết quả nghiên cứu của Kamps (2004b), António Afonso & Miguel
St.Aubyn (2008), Sử Đình Thành (2011), Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư và cộng sự
(2014), Nguyễn Thị Cành (2018). Đinh Thế Cường (2020), Nguyễn Thế Khang
(2022), Đỗ Đình Thu và cộng sự (2022). Kết quả này cũng cho thấy sự phù hợp với
lý thuyết chung về tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong dài hạn chủ
yếu xuất phát từ việc đầu tư công hỗ trợ xây dựng và cải thiện CSHT từ đó thúc đẩy
đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó, trên thực tế, như phân tích của NCS ở chương 2, trong
cơ cấu vốn đầu tư công, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất
(70%) và trong vốn đầu tư công từ ngân sách Nhà nước, phần dành cho xây dựng kết
cấu hạ tầng chiếm tỷ trọng cao nhất tại các vùng KTTĐ (95,5%). Để minh chứng cho
tác động bổ trợ của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân, NCS sử dụng phương
pháp kiểm định phi nhân quả Granger được đề xuất bởi Juodis và cộng sự (2021) cho
chuỗi số liệu trong giai đoạn 2010-2021. Kết quả ước lượng được thể hiện ở bảng sau:
83
Bảng 5.3: Tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân tại các vùng
KTTĐ giai đoạn 2010-2021
Giả thuyết H0
Hệ số
z-statistics
P-value
Kết luận
Đầu tư công cho CSHT
0,184***
4,03
0,000 Bác bỏ H0
không tác động tới đầu
tư tư nhân tại vùng
KTTĐ Bắc bộ
Đầu tư công cho CSHT
0,199***
3,28
0,001 Bác bỏ H0
không tác động tới đầu
tư tư nhân tại vùng
KTTĐ miền Trung
Đầu tư công cho CSHT
0,034***
0,77
0,002 Bác bỏ H0
không tác động tới đầu
tư tư nhân tại vùng
KTTĐ phía Nam
Đầu tư công cho CSHT
0,480**
3,64
0,028 Bác bỏ H0
không tác động tới đầu
tư tư nhân tại vùng
KTTĐ ĐBSCL
Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%. Độ
trễ của mô hình được lựa chọn dựa trên tiêu chí SIC ( Schwarz Information Criterion, Pesaran and Shin, 1999,
Norman Gemmell et al, 2015). Bên cạnh đó, trên thực tế do chuỗi thời gian tương đối ngắn nên dựa vào các
nghiên cứu đi trước của Loayza và Ranciere (2006), Demetriades và Siong (2006), Nguyễn Khắc Quốc Bảo
và cộng sự (2020), tác giả chọn độ trễ tối ưu cho tất cả các biến trong mô hình là 1.
Nguồn: Tác giả thực hiện trên Stata 15
Kết quả kiểm định phi nhân quả cho thấy đầu tư công cho CSHT có tác động
cùng chiều tới đầu tư tư nhân tại cả 4 vùng KTTĐ. Điều này hoàn toàn phù hợp với
lý thuyết về tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Đồng thời, kết quả
cũng phù hợp với kết quả hồi quy về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
trong dài hạn tại các vùng KTTĐ. Do đó, theo kết quả phân tích, về dài hạn, đầu tư
công có tác động bổ sung cho đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ là phù hợp với cơ sở
lý thuyết và phân tích thực tiễn.
Trong khi đó, vốn FDI tăng 1%, còn đầu tư tư nhân tăng 0,099%. Kết quả này
cũng trùng hợp với một số nghiên cứu như Cardoso và Dornbusch, 1989, Markusen
và Venables, 1999, De Mello, 1999, Driffield và Munday, 2000. Theo đó, vốn FDI
84
có thể thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài và tạo ra sự bổ sung vốn đối với các
doanh nghiệp trong nước (Markusen và Venables, 1999; Driffield và Munday;2000).
Các doanh nghiệp trong nước có thể đáp ứng với dòng vốn FDI bằng cách đổi mới
và tăng nguồn vốn của họđể đối mặt với sự cạnh tranh (De Mello, 1999). Dòng vốn
FDI ồ ạt cũng có thể kích hoạt các khoản đầu tư trong khu vực vào cơ sở hạ tầng làm
tăng lợi nhuận của đầu tư trong nước (Cardoso và Dornbusch, 1989). Tổng sản phẩm
trong vùng (GRDP) có tác động tích cực đến đầu tư tư nhân. Cụ thể, GRDP tăng 1%
sẽ kéo theo đầu tư tư nhân tăng 0,098%. Kết quả này cũng trùng khớp với các nghiên
cứu của Green & cộng sự (1991), Ho & cộng sự (2013), Nguyễn Thị Cành (2018),
Nguyễn Thị Liên (2021) and Nguyễn Thế Khang (2022). Theo đó, khi có tăng trưởng
kinh tế, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, từ đó thúc đẩy đầu tư tư nhân.
Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế cũng kiến các nhà đầu tư có niềm tin về nền kinh tế vĩ
mô, tăng kỳ vọng lợi nhuận trong tương lai và từ đó tăng đầu tư.
Trong khi đó, lãi suất thực tế (IR) tăng 1% thì đầu tư tư nhân giảm 0,044%.
Điều này đúng với kỳ vọng của tác giả và một số nghiên cứu của Jongwanich &
Kohpaipboon (2008), Frimpong & cộng sự (2010), Nguyễn Thị Cành (2018), Nguyễn
Thị Liên (2021), Nguyễn Thế Khang (2022). Đồng thời kết quả phù hợp với lý thuyết
về tác động của lãi suất thực tới đầu tư tư nhân. Cụ thể, theo Jorgenson (1963), lãi
suất là chi phí vay vốn để đầu tư, khi lãi suất tăng thì chi phí tăng và do đó đầu tư tư
nhân giảm. Tuy nhiên, tác động của lãi suất thực tới đầu tư tư nhân vào các vùng kinh
tế trọng điểm trong dài hạn là tương đối nhỏ. Trên thực tế, theo phân tích của NCS ở
chương 2, trong, các doanh nghiệp chủ yếu tại các vùng KTTĐ là các doanh nghiệp
có quy mô nhỏ và rất nhỏ (91,5%). Bên cạnh đó, với khu vực hộ gia đình, chỉ khoảng
3% đối tượng này tiếp cận được nguồn vốn chính thức từ ngân hàng do không có tài
sản đảm bảo. Họ phải tiếp cận nguồn vốn phi chính thức, nhiều trong số đó đến từ tín
dụng đen (Anh, 2019). Do đó, có thể là lý do mà lãi suất cho vay thực tế của ngân
hàng không ảnh hưởng đáng kể đến đầu tư tư nhân vào vùng KTTĐ.
Kết quả kiểm định cũng chỉ ra tác động dài hạn của tỷ lệ lạm phát INF tới đầu
tư tư nhân tại các vùng KTTĐ là ngược chiều. Cụ thể, INF tăng 1% sẽ kéo theo đầu
tư tư nhân giảm 0,308%. Kết quả này phù hợp với lý thuyết và các kết quả nghiên
cứu thực nghiệm đi trước. Theo đó, lạm phát thường được coi là một biến số làm tăng
chi phí sử dụng vốn, do đó làm giảm đầu tư tư nhân. Mặc dù Hall and Hitch (1989)
lập luận rằng lạm phát có thể làm tăng đầu tư tư nhân. Khi lạm phát cao hơn dẫn tới
85
nguồn thu của chính phủ tăng do chính phủ có nguồn thu thuế cao hơn. Do đó, chi
tiêu vào cơ sở hạ tầng sẽ được cải thiện và có ảnh hưởng tích cực đến đầu tư tư nhân.
Nhưng theo Demilie Basha Hailu và cộng sự (2015) tại những quốc gia đang phát
triển, tác động bất lợi của lạm phát lớn hơn tác động tích cực do tỷ trọng đầu tư tư
nhân lớn hơn so với đầu tư công.
Tính vững của mô hình: Để kiểm tra tính vững của mô hình và chứng minh
các biến đưa vào là hợp lý, theo đề xuất của Lu và White (2014), Paul-Francois, M.,
(2020), Chien, N., & cộng sự (2021), Luận án so sánh mô hình với các mô hình tương
tự PMG thường sử dụng phân tích với dữ liệu bảng là mô hình nhóm trung bình
(Mean Group- MG) và mô hình tác động cố định động (Dynamic Fixed Effect-DFE).
Kết quả kiểm định tính vững cho thấy mô hình nghiên cứu PMG là phù hợp nhất (Phụ
lục 39).
Trường hợp 2: Xét tác động dài hạn của đầu tư công lần lượt tới đầu tư tư
nhân khu vực doanh nghiệp (PIE), đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình (PIH)
a. Tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư khu vực doanh nghiệp (PIE)
Bảng 5.4: Tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh
nghiệp (PIE) tại 4 vùng KTTĐ
Biến phụ thuộc PMG
PIE Hệ số Độ lệch chuẩn
PU 0,415*** 0,062
GRDP 0,136*** 0,032
FDI 0,037*** 0,030
INF -0,013*** 0,392
IR -0,075* 0,012
Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%. Độ
trễ của 3 mô hình được lựa chọn dựa trên tiêu chí SIC ( Schwarz Information Criterion, Pesaran and Shin,
1999, Norman Gemmell et al, 2015). Bên cạnh đó, trên thực tế do chuỗi thời gian tương đối ngắn nên dựa vào
các nghiên cứu đi trước của Loayza và Ranciere (2006), Demetriades và Siong (2006), Nguyễn Khắc Quốc
Bảo và cộng sự (2020), tác giả chọn độ trễ tối ưu cho tất cả các biến trong mô hình là 1.
EC -0,151** 0,048
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15
Kết quả cho thấy trong dài hạn đầu tư công cũng có tác động bổ trợ tới đầu tư
tư nhân khu vực doanh nghiệp (EC<0 và hệ số của PU>0). Cụ thể đầu tư công tăng
86
1% sẽ khuyến khích đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp tăng 0,415%. Theo NCS,
nguyên nhân xuất phát từ các yếu tố sau:
Thứ nhất, kết quả cũng phù hợp với tình hình đầu tư công, đầu tư tư nhân thực
tế tại các vùng KTTĐ khi trong cơ cấu đầu tư tư nhân tại cả 4 vùng KTTĐ, đầu tư tư
nhân từ khu vực doanh nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn so với đầu tư tư nhân từ
khu vực hộ gia đình (vùng KTTĐ Bắc bộ: 53,45%, vùng KTTĐ miền Trung: 65,19%,
vùng KTTĐ phía Nam: 53,14%, vùng KTTĐ ĐBSCL 50,75%). Có thể nói, doanh
nghiệp chính là động lực tăng trưởng tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung6. Do đó, Chính sách đầu tư công của Chính phủ chủ yếu hướng
tới đối tượng khu vực tư nhân là doanh nghiệp. Hay nói cách khác, doanh nghiệp
chính là đối tượng được hưởng lợi nhiều hơn từ các chính sách đầu tư công tại các
vùng KTTĐ tại Việt Nam. Cụ thể, tính đến thời điểm hiện tại (tháng 4/2023), chưa
có một văn bản pháp lý chính thức nào quy định về vai trò của đầu tư công đối với
đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình tuy nhiên đối với đầu tư tư nhân từ khu vực
doanh nghiệp lại được thể hiện trong khá nhiều văn bản pháp lý như Luật Đầu tư
công năm 2019, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh
tại doanh nghiệp năm 2014, Nghị quyết số 35 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp
đến năm 2020. Các văn bản pháp lý trên đã tạo hành lang pháp lý để siết chặt kỷ luật
đầu tư công, tăng tính chủ động cho các chủ đầu tư và từng bước điều chỉnh hợp lý
phạm vi, lĩnh vực ưu tiên đầu tư công đối với đầu tư tư nhân từ doanh nghiệp.
Thứ hai, như NCS đã chỉ ra vai trò của đầu tư công cho CSHT đối với việc
khuyến khích đầu tư tư nhân, khu vực doanh nghiệp chính là đối tượng được hưởng
lợi nhiều nhất từ việc xây dựng và hoàn thiện CSHT. Như phân tích của NCS ở
chương 2, đầu tư công tại vùng KTTĐ chủ yếu tập trung vào xây dưng cơ sở hạ tầng
giao thông cho các các dự án, công trình trọng điểm (đường cao tốc, đường vành đai,
hầm...). Các dự án, công trình CSHT giao thông trọng điểm phát huy tác dụng rõ rệt
đối với đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp rõ rệt thông qua việc giảm chi phí
logistics, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được khách hàng hơn (Phan Thị Minh
Lý, 2013; Trần Đình Khôi Nguyên & cộng sự, 2021; Vũ Phương Nhi, 2023). Để minh
chứng cho tác động bổ trợ của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tu nhân khu vực
6 Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP và Nghị quyết 35/NQ-CP
doanh nghiệp, NCS sử dụng phương pháp kiểm định phi nhân quả được đề xuất bởi
87
Juodis và cộng sự (2021) cho chuỗi số liệu trông giai đoạn 2010-2021. Kết quả ước
lượng được thể hiện ở bảng 3.8.
Kết quả kiểm định phi nhân quả cho thấy đầu tư công cho CSHT có tác động
cùng chiều tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp tại 4 vùng KTTĐ. Điều này cho
thấy, đối với khu vực doanh nghiệp, đầu tư công cho CSHT có vai trò rất quan trọng
đối với việc khuyến khích đầu tư tư nhân.
Bảng 5.5: Tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân khu vực
doanh nghiệp tại các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021
Giả thuyết H0 Hệ số z-statistics P-value Kết luận
Đầu tư công cho CSHT 0,287*** 0,089 0,001 Bác bỏ H0
không tác động tới đầu tư
tư nhân khu vực doanh
nghiệp tại vùng KTTĐ
Bắc bộ
Đầu tư công cho CSHT 0,291* 1,75 0,080 Bác bỏ H0
không tác động tới đầu tư
tư nhân khu vực doanh
nghiệp tại vùng KTTĐ
miền Trung
Đầu tư công cho CSHT 0,411** 2,48 0,013 Bác bỏ H0
không tác động tới đầu tư
tư nhân khu vực doanh
nghiệp tại vùng KTTĐ
phía Nam
Đầu tư công cho CSHT 0,090** 1,42 0,042 Bác bỏ H0
không tác động tới đầu tư
tư nhân khu vực doanh
nghiệp tại vùng KTTĐ
Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.
ĐBSCL
Nguồn: Tác giả thực hiện trên Stata 15
Kết quả cũng cho thấy sự phù hợp với kết quả hồi quy với mô hình PMG về tác
động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp trong dài hạn khi tại
88
các địa phương thuộc các vùng KTTĐ, đầu tư công đều cho thấy tác động tích cực
tới đầu tư tư nhân thuộc khu vực doanh nghiệp.
b. Tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư khu vực hộ gia đình (PIH)
Bảng 5.6: Tác động dài hạn của đầu tư công đầu tư tư nhân khu vực hộ gia
đình (PIH) tại 4 vùng KTTĐ
Độ lệch chuẩn Hệ số PIH
-0,036 0,038 PU
0,893*** 0,066 GRDP
0,088*** 0,020 FDI
-0,422 0,311 INF
-0,089*** 0,008 IR
Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.
-0,340*** 0,085 EC
Nguồn: Tác giả thực hiện trên Stata
Tuy nhiên, kết quả cho thấy trong dài hạn đầu tư công không có tác động bổ trợ
tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình trong dài hạn (p-value >5%). Theo NCS,
nguyên nhân có thể xuất phát từ các yếu tố sau:
Thứ nhất, đối với hộ gia đình kinh doanh phi nông nghiệp (hộ kinh doanh), kể
từ khi chính thức được đề cập trong văn bản pháp lý năm 2006 đến nay, vấn đề kinh
doanh của hộ gia đình vẫn chưa có một khung pháp lý đầy đủ, chỉ được điều chỉnh
một số nội dung của Luật Doanh nghiệp (1999, 2005, 2014, 2020), Luật thương mại
và một số văn bản liên quan khác. Ngoài ra, trong quá trình xây dựng các chính sách
quản lý, cũng có thể nhận thấy định hướng của Nhà nước chủ yếu là khuyến khích,
thúc đẩy hộ gia đình kinh doanh phát triển thành doanh nghiệp chứ chưa chú trọng
đến hỗ trợ hộ gia đình hoạt động lành mạnh và minh bạch hóa (VEPR, 2021). Đối
với hộ gia đình kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản,
Khoản 30 điều 3 Luật Đất đai năm 2013 và điều 3 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT
của Bộ Tài nguyên và Môi trường có đề cập tới khái niệm hộ gia đình kinh doanh
nông nghiệp tuy nhiên không đề cập tới quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với đối tượng
này. Trong khi đó, điều 116 Bộ luật Dân sự (BLDS) khi đưa ra khái niệm về hộ gia
đình có đề cập hộ gia đình tham gia hoạt động nông, lâm ngư nghiệp tuy nhiên có
những điều khoản hạn chế quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự của hộ gia đình.
(Đinh Cao Khuê & cộng sự, 2020). Như vậy, so với khu vực doanh nghiệp, hộ gia
89
đình có những hạn chế nhất định về tư cách pháp lý. Do đó, việc tiếp cận vốn đầu tư
nói chung và vốn đầu tư công của khu vực hộ gia đình là tương đối khó khăn so với
khu vực doanh nghiệp. Hơn nữa, trái ngược với đầu tư tư nhân từ doanh nghiệp, hiện
nay chưa có một văn văn bản pháp lý chính thức nào quy định hay hướng dẫn liên
quan tới đầu tư công dành cho khu vực tư nhân là hộ gia đình kể cả tại các vùng
KTTĐ (VEPR, 2021).
Thứ hai, có thể thấy, khu vực hộ gia đình không phải là đối tượng được hưởng
lợi đáng kể từ việc xây dựng và hoàn thiện CSHT như khu vực doanh nghiệp. Cụ thể,
đối với hộ gia đình kinh doanh phi nông nghiệp (hộ kinh doanh), đây là đối tượng
hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún (chủ yếu kinh doanh tại nhà, đi thuê, chợ
tạm, chợ cóc...). Bên cạnh đó, tại các vùng KTTĐ, đa số hộ gia đình hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh ở lĩnh vực dịch vụ (bình quân 86%), với ngành nghề chủ yếu là bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy (bình quân 52,1%)7. Đây là những ngành khó
có thể cạnh tranh và tận dụng được lợi thế từ việc hoàn thiện các các dự án, công trình
trọng điểm như khu vực doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với hộ gia đình trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp, mặc dù Chính phủ đã có một số chính sách liên quan tới việc
thúc đẩy đầu tư công từ vốn NSNN nhằm hỗ trợ ngành nông, lâm, ngư nghiệp nhưng
các dự án liên quan đến thủy lợi, đê điều, có tính đặc thù cao, công tác thi công có
tính thời vụ, vừa thi công vừa phải bảo đảm phục vụ sản xuất nông nghiệp... Nhiều
dự án khi triển khai thực hiện công tác giải phóng mặt bằng cũng gặp những vướng
mắc về thủ tục và trình tự quy định, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ triển khai dự
án. Do đó, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công cho các dự án lĩnh vực nông,lâm, ngư
nghiệp tương đối chậm trễ, từ ảnh hưởng tới tác động tích cực mà CSHT có thể tạo
ra đối với hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Ngoài ra, vốn
đầu tư công từ NSNN cho lĩnh vực nông nghiệp còn tương đối thấp, chỉ đáp ứng được
khoảng 30% nhu cầu. Trong khi đó, khu vực nông nghiệp các hoạt động đều cần phải
cải thiện, đầu tư. Từ cơ sở hạ tầng, hỗ trợ vốn sản xuất, kiến thức sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm. Các hình thức vốn tư khác (FDI, tài chính vi mô, tín dụng...) so với các
lĩnh vực khác thấp do lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp thường xuyên đối mặt với khó
khăn, rủi ro, dịch bệnh, thị trường bấp bênh (Đoàn Thị Hân, 2019). Do đó, vấn đề
7 Niên giám thống kê các địa phương thuộc các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021, Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2021, Tổng cục thống kê
đầu tư CSHT cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp đối mặt với khó khăn về vốn đầu tư
90
và quá trình triển khai dự án. Từ đó, ảnh hưởng tới tác động tích cực mà đầu tư công
cho CSHT có thể lan tỏa tới các hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp. Hay nói cách khác, trái ngược với doanh nghiệp, trong dài hạn, không rõ bằng
chứng đầu tư công tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình như kết quả
ước lượng với mô hình PMG.
5.2.2.2. Tác động ngắn hạn
Trường hợp 1: Xét tác động ngắn hạn của đầu tư công tới tổng đầu tư tư nhân
Bảng 5.7: Tác động ngắn hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các Vùng
KTTĐ giai đoạn 2010-2021
Vùng Địa phương
ΔPU
ΔFDI
ΔGRDP
ΔIR
ΔINF
Hà Nội
0,393
0,028
0,564***
-0,014
-0,067***
Hải Phòng
0,105
0,152
0,989**
-0,002
0,538
Hải Dương
-0,222**
0,004
0,665
-0,008
0,423
KTTĐ
Bắc bộ
Hưng Yên
0,281***
-0,331*** 0,053***
-0,074***
-0,610***
Quảng Ninh
0,282**
0,321***
0,163 *** 0,001
0,047
Vĩnh Phúc
-0,185
-0,046
0,460
0,035**
-1,221
Bắc Ninh
-0,185**
-0,080*** 0,511**
-0,089***
1.268
Đà Nẵng
-0,165*
0,474***
0,635***
-0,025
0,424
Vùng
Quảng Nam
-0,692**
-0,291**
1,826***
-0,032*
-0,684*
KTTĐ
Quảng Ngãi
- 0,286
0,960***
0,289
0,077
-0,905
miền
Bình Định
-0,161
-0,074**
-0,209
-0,003
-1,308
Trung
Thừa Thiên Huế
1,317
0,279
0,372
-0,311
-0,305*
TP.Hồ Chí Minh
0,199 *
0,173**
0,508**
- 0,074
-1,745***
Bà Rịa-Vũng Tàu
0,361*
0,511***
0,485**
0,002
-1,678 ***
Vùng
Tiền Giang
-0,236***
-0,228*** 0,185
-0,032***
-0,813***
KTTĐ
Bình Phước
-0,450***
-0,451*** 0,142**
0,031**
-0,067***
phía
-0,510***
0,558**
0,937
-0,002
-0,336*
Đồng Nai
Nam
0,429***
0,626***
0,790
0,014
0,050
Long An
0,198
0,245***
0,032
-0,647
Tây Ninh
-0,101
-0,282*
0,093
0,006
0,098
Bình Dương
0,239
0,117
0,092
0,007
-0,199
Cần Thơ
0,770
Vùng
Kiên Giang
-0,616***
0,035**
0,033**
-0,062***
0,593
KTTĐ
Cà Mau
-0,153
-0,016
1,510
-0,013**
-0,872
ĐBSCL
An Giang
-0,249
-0.124
0,483*
0,051
-0,305*
Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15
91
Nhìn chung, trong ngắn hạn tác động của đầu tư công (bổ trợ và lấn át) tới đầu
tư tư nhân tồn tại tương đối rõ tại các địa phương hầu hết thuộc vùng KTTĐ phía
Nam và vùng KTTĐ phía Bắc. Cụ thể, có 6/8 địa phương thuộc vùng KTTĐ phía
Nam và 4/7 địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ, đầu tư công có tác động tới đầu
tư tư nhân trong ngắn hạn. Đối với hai vùng KTTĐ còn lại, đầu tư công chủ yếu
không tác động tới đầu tư tư nhân hoặc tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Từ đó có
thể khẳng định, trong ngắn hạn, tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các
vùng KTTĐ là có sự phân hóa rõ rệt tại các vùng KTTĐ và không tạo tác động bổ trợ
rõ ràng như trong dài hạn. Kết quả này tương ứng với nội dung lý thuyết mà tác giả
đã trình bày tại tổng quan tình hình nghiên cứu và mô hình lý thuyết ở chương 1. Cụ
thể, tại các quốc gia đang phát triển, chủ yếu trong ngắn hạn, đầu tư công tác động
lấn át tới đầu tư tư nhân. Theo đó, xuất phát từ thực tế là trong ngắn hạn, đầu tư công
vào cơ sở hạ tầng không thể tạo ra tác dụng bổ sung ngay lập tức cho đầu tư tư nhân.
Ngay cả sự gia tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng không hiệu quả được tài trợ bằng cách
đánh thuế thu nhập cũng làm giảm đầu tư tư nhân (P. Agénor, B. Moreno-Dodson,
2006). Mặt khác, khi chính phủ tăng cường đầu tư sẽ dẫn đến tăng cầu tiền tệ, từ đó
tạo áp lực tăng lãi suất và giảm đầu tư tư nhân. Trong khi đó, trong dài hạn, cơ sở hạ
tầng hoàn thiện có thể tạo ra tác động tích cực đối với đầu tư tư nhân (P. Agénor, B.
Moreno-Dodson, 2006; Kollamparaosystem, U. và Nicolaou M. (2011); Nguyễn
(2012); Phetsavong và Ichihashi (2012), Trần Ngọc Anh Thư & cộng sự (2014),
Dreger & Reimers (2016)). Tuy nhiên, bên cạnh hiệu ứng lấn át, tồn tại một số địa
phương ở các vùng KTTĐ, đầu tư công có tác động bổ trợ đầu tư tư nhân trong ngắn
hạn. Nguyên nhân có thể xuất phát từ tại các địa phương này có tỷ trọng đầu tư tư
nhân từ hộ gia đình lớn hơn so với khu vực doanh nghiệp trong cơ cấu vốn đầu tư tư
nhân. Trong khi đó, khi đầu tư công tăng lên, nhu cầu mua hàng hóa dịch vụ tăng lên
thì dễ tác động tới khu vực đầu tư tư nhân từ hộ gia đình hơn (Nguyễn Thị Thu
Phương, 2020). Hay nói cách khác, từ sự tăng lên của cầu hàng hóa và dịch vụ, trong
ngắn hạn, đầu tư khu vực hộ gia đình tăng lên, qua đó tạo ra hiệu ứng bổ trợ.
Ngoài ra, tại các địa phương đầu tư công tạo tác động tới đầu tư tư nhân, có thể
thấy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng tác động tới đầu tư tư nhân. Nhìn
chung, FDI tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân thì đầu tư công cũng tạo tác động
lấn át tới đầu tư tư nhân. Điều này đúng với nội dung lý thuyết Luận án đã đề cập ở
chương 1. Đó chính là FDI điều tiết tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Mặc
92
dù vậy, ở một số địa phương, tác động của FDI tới đầu tư tư nhân có thể ngược chiều
với tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Nguyên nhân có thể xuất phát từ ảnh
hưởng của đầu tư công tới các thành phần của đầu tư tư nhân ở các địa phương đó.
Bên cạnh đó, có thể thấy, đầu tư công có tác động lấn át hoặc không có tác động
tới thành phố hạt nhân thuộc các vùng KTTĐ ngoài trừ TP.Hồ Chí Minh. Các địa
phương này trong cơ cấu đầu tư công như NCS đã phân tích ở chương 2 phụ thuộc
rất lớn vào nguồn vốn từ NSNN. Trong khi đó, thực tế cho thấy, các thành phố hạt nhân thuộc vùng KTTĐ luôn có tỷ trọng chi thường xuyên8 từ NSNN lớn (bình quân 60,39%) trong giai đoạn 2010-20219. Do đó, NSNN dành cho đầu tư công thấp, từ đó
gây ra vòng xoáy để vay nợ tài trợ và từ đó gây áp lực tới khu vực tư nhân (Đỗ Thị
Thanh Huyền, 2021). Bên cạnh đó, các thành phố hạt nhân lại thực hiện vốn đầu tư
công chưa hiệu quả do thường có tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công thuộc nhóm thấp
nhất trên cả nước (Bộ Tài Chính, 2022). Chính những yếu tố này là nguyên nhân đầu
tư công tạo tác động lấn át hoặc không có tác động tới đầu tư tư nhân tại các thành
phố hạt nhân thuộc các vùng KTTĐ.
Đối với vùng KTTĐ Bắc bộ, đầu tư công có tác động bổ trợ tại 2/7 địa phương
trong ngắn hạn. Kết quả này trái ngược với giả thuyết nghiên cứu về tác động của đầu
tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn. Tuy nhiên, kết quả này có được giải thích
như sau. Hưng Yên và Quảng Ninh là hai tỉnh có tỷ lệ đầu tư công cho CSHT thuộc
nhóm cao trong các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ. Đây cũng là các địa
phương được đánh giá cao về môi trường đầu tư hấp dẫn trong các tỉnh thành Việt
Nam. Đặc biệt với tỉnh Quảng Ninh, trong giai đoạn 2016-2021, luôn xếp thứ 1 trên
63 tỉnh thành về môi trường đầu tư hấp dẫn (VCCI, 2022). Điều này cho thấy sự hấp
dẫn trong thu hút vốn đầu tư tư nhân của các địa phương này. Mặc dù, Bắc Ninh cũng
thuộc nhóm có môi trường đầu tư hấp dẫn và đầu tư nhiều cho CSHT tuy nhiên đầu
tư công tại địa phương này lại tạo tác động lấn át trong ngắn hạn. Nguyên nhân là do
trong ngắn hạn vốn FDI tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Trong khi đó, so với
các địa phương còn lại, tỷ trọng vốn FDI trong vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội cao
nhất trong các địa phương nội vùng và cao nhất cả nước khi đạt tới tỷ lệ 60,02% bình
quân trong giai đoạn 2010-2021. Do đó, tác động lấn át của vốn FDI đối với đầu tư
8 Chi thường xuyên là nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức khác và thực hiện các nhiệm 9 Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021
tư nhân đã ảnh hưởng tới tác động của đầu công tới đầu tư tư nhân tại địa phương này.
93
Bênh cạnh đó, tại vùng KTTĐ Bắc bộ, kết quả cho thấy chưa rõ tác động của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại hạt nhân của vùng - thành phố Hà Nội. Nguyên
nhân dẫn tới đầu tư công không tạo tác động tõ rệt tới đầu tư tư nhân tại Hà Nội trong
giai đoạn 2010-2021 có thể giải thích do so với các hạt nhân khác tại các vùng KTTĐ
thì tại TP. Hà Nội, tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm tỷ lệ
37,44%, thấp hơn nhiều so với đầu tư tư nhân (52,74%). Hơn thế nữa, tốc độ tăng
trưởng đầu tư công ngày càng giảm và trong giai đoạn 2019-2021 tốc độ tăng trưởng
đầu tư công tại TP. Hà Nội đạt giá trị âm. Bên cạnh đó, tỷ trọng vốn đầu tư công dành
cho CSHT của thành phố không thuộc nhóm cao trong các địa phương nội Vùng và
môi trường đầu tư ngày càng giảm tính cạnh tranh (VCCI, 2022). Điều này cho thấy
vai trò dẫn dắt, thu hút đầu tư tư nhân của đầu tư công đang dần mờ nhạt tại thành
phố Hà Nội.
Đối với vùng KTTĐ miền Trung, nhìn chung đầu tư công tạo hiệu ứng lấn át
hoặc không rõ tác động tới đầu tư tư nhân. Đối với các địa phương còn lại, nguyên
nhân có thể xuất phát từ kết cấu cơ sở hạ tầng của vùng KTTĐ miền Trung tương đối
bất lợi do ảnh hưởng của địa hình hình hẹp, dàn trải ảnh hưởng tới việc thực hiện các
dự án cơ sở hạ tầng đặc biệt là cảng biển còn chậm. Từ đó, hạn chế đầu tư tư nhân
vào nội Vùng. Bên cạnh đó, các địa phương xuất hiện hiện tượng lấn át đầu tư tư nhân
(Đà Nẵng, Quảng Nam) đều có tỷ lệ chi thường xuyên lớn trong nội Vùng (bình quân 55,26%)10. Do đó, phần vốn NSNN dành cho đầu tư công thấp từ đó gây ra vòng xoáy
để vay nợ tài trợ và từ đó gây áp lực tới đầu tư khu vực tư nhân tại các địa phương này.
Bên cạnh đó, tại thành phố hạt nhân của Vùng – TP.Đà Nẵng, đầu tư công tạo
tác động lấn át tới đầu tư tư nhân mặc dù vốn FDI tạo tác động bổ trợ tới đầu tư nhân.
Nguyên nhân có thể liên quan tới tỷ trọng vốn FDI tại Đà Nẵng (10,82%), nhỏ hơn
nhiều so với đầu tư tư nhân (51,52%) và đầu tư công (37,66%). Trong khi đó, Đà
Nẵng là một trong những địa phương có tỷ lệ chi thường xuyên lớn và ngân sách địa phương thường xuyên rơi vào tình trạng thâm hụt trong giai đoạn 2010-202111. Do
đó, tác động bổ trợ từ vốn FDI đối với đầu tư tư nhân nhỏ hơn so với tác động lấn át
của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân tại TP. Đà Nẵng.
Đối với vùng KTTĐ phía Nam, tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
10 Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực Quảng Ngãi, Bình Định giai đoạn 2010-2021 11 Báo cáo công khai số liệu NSNN giai đoạn 2010-2021 (Sở Tài chính, thành phố Đà Nẵng), Niên giám thống kê giai đoạn 2010-2021 (Cục Thống kê, thành phố Đà Nẵng)
trong ngắn hạn là rõ rệt (tại 6/8 địa phương) hơn so với các vùng KTTĐ còn lại tuy
94
nhiên tác động có sự khác giữa các địa phương. Với vai trò là vùng kinh tế động lực,
“trọng điểm” của các vùng KTTĐ của cả nước, trong những năm qua, vùng KTTĐ
phía Nam luôn được Chính phủ ưu tiên nguồn vốn đầu tư công để đầu tư hạ tầng kỹ
thuật nhằm tạo ra các bước đột phá trong phát triển kinh tế, bởi khu vực này phát triển
sẽ kéo theo các vùng lân cận. Nhờ chính sách này, vùng KTTĐ phía Nam từng bước
hoàn thành cơ sở hạ tầng và giao thông, từ đó thu hút lượng vốn đầu tư tư nhân đáng
kể vào các địa phương nội Vùng. Tuy nhiên, trên thực tế, tình hình phát triển kinh tế
các địa phương nội Vùng chưa đồng đều. Đây có thể là một trọng những nguyên nhân
dẫn đến sự chênh lệch trong sự thu hút đầu tư tư nhận tại các địa phương tại vùng
KTTĐ phía Nam. Cụ thể, tại các địa phương thuộc nhóm dẫn đầu về GRDP của Vùng
(TP.Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu ), đầu tư công vào cơ sở hạ tầng có sự ưu tiên
hơn nhằm tạo động lực phát triển toàn Vùng, do đó đầu tư công trong ngắn hạn có
tác động bổ trợ đầu tư tư nhân. Tại nhóm có GRDP thấp hơn trong Vùng (Tiền Giang,
Bình Phước), đầu tư công cho thấy tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Nguyên nhân
có thể xuất phát từ cơ cấu ngành của các địa phương này chủ yếu tập trung ở nông
nghiệp. Đây là lĩnh vực kém thu hút doanh nghiệp hoạt động và do đó ít được hưởng
lợi từ việc xây dựng và hoàn thiện CSHT, đặc biệt là CSHT giao thông từ các công
trình trọng điểm. Hơn nữa, Bình Phước (31,42%) và Tiền Giang (28,37%) là hai địa
phương có tỷ trọng vốn vay lớn nhất trong cơ cấu đầu tư công so với các địa phương
nội vùng khác. Điều này có nghĩa là các địa phương này dựa vào vốn vay để tài trợ
đầu tư công và do đó, đây có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến tác động
lấn át đầu tư tư nhân.
Đối với vùng KTTĐ ĐBSCL, chưa rõ tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân. Cụ thể, ngoại trừ Kiên Giang, tại TP. Cần Thơ, An Giang và Cà Mau, đầu tư
công chưa rõ tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân. Nguyên nhân có thể xuất phát như
phân tích của NCS ở chương 2, vùng KTTĐ ĐBSCL so với các vùng KTTĐ còn lại
dành phần vốn NSNN cho đầu tư công mục CSHT, đặc biệt là CSHT giao thông là
tương đối thấp. Trong khi đó, CSHT chính là yếu tố thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các
vùng KTTĐ trong dài hạn. Mặt khác, trong cơ cấu đầu tư tư nhân, tại vùng KTTĐ
ĐBSCL, khu vực hộ gia đình chiếm tỷ trọng tương đối lớn (bình quân 49,25%). Tuy
nhiên, đây là khu vực ít được hưởng lợi từ chính sách đầu tư công và cũng ít bị ảnh
hưởng bởi kênh lãi suất. Do đó, khi chính phủ tăng chi tiêu làm tăng lãi suất thì khả
năng tác động của lãi suất tăng tới đầu tư của hộ gia đình là thấp hơn so với khu vực
doanh nghiệp. Hay nói cách khác, hiệu ứng lấn át sẽ không xuất hiện rõ rệt tại các địa
phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL. Theo phân tích của NCS ở chương 2, cơ cấu đầu
95
tư công cho CSHT từ NSNN tại vùng KTTĐ ĐBSCL chỉ xếp sau vùng KTTĐ miền
Nam. Tuy nhiên, hiệu quả của đầu tư CSHT tại các địa phương nội Vùng trong ngắn
hạn lại chưa được thể hiện rõ. Nguyên nhân có thể xuất phát từ vị trí địa lý của Vùng
nằm ở khu vực có nền đất yếu hay sụt lún cộng với điều kiện vận tải và nguyên vật
liệu không có tại chỗ nên chi phí đầu tư cho một công trình xây dựng CSHT tại vùng
thường cao hơn rất nhiều cũng như thời gian hoàn thiện kéo dài hơn so với các địa
phương khác.
Tuy nhiên, tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân được phát hiện
tại tỉnh Kiên Giang. Đối với tỉnh Kiên Giang, tỷ trọng vốn vay trong vốn đầu tư công
la 32,45%, cao hơn mức bình quân của toàn Vùng. Do đó, Kiên Giang phụ thuộc
nhiều vào vốn vay, tăng áp lực vay vốn trên thị trường để đầu tư công và từ đó, tăng
khả năng lấn át tới đầu tư tư nhân. Mặc dù trên thực tế, vốn FDI tạo tác động bổ trợ
đối với đầu tư tư nhân, tuy nhiên, do tỷ trọng vốn FDI (2,11%) tại Kiên Giang thấp
hơn đáng kể so với vốn đầu tư (31,02%) nên ảnh hưởng của hiệu ứng lấn át sẽ lớn
hơn so với bổ trợ và từ đó làm giảm đầu tư tư nhân trong ngắn hạn.
Ngoài đầu tư công thì các yếu tố còn lại FDI, GRDP, INF và IR có những tác
động khác nhau tới các vùng KTTĐ.
Đối với yếu tố đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, trong ngắn hạn, FDI chủ yếu
tác động tới các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung, vùng KTTĐ phía Nam
và vùng KTTĐ Bắc bộ. Bên cạnh đó, trái ngược với dài hạn, tác động chủ yếu của
FDI tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ trong ngắn hạn chính là tác động lấn át.
Kết quả nghiên cứu của Luận án có sự trùng lặp với các nghiên cứu khác tại Việt
Nam cùng chủ đề như Nguyễn Thị Cành (2018), Nguyễn Thị Liên (2021), Nguyễn
Thế Khang (2022). Kết quả trên cũng phù hợp với cơ sở lý thuyết về mối quan hệ
ngược chiều giữa FDI và đầu tư tư nhân. Theo đó, vì các công ty nước ngoài thường
vượt trội hơn về mặt công nghệ, họ có thể tận dụng nhanh chóng và hiệu quả hơn các
cơ hội mà trước đây chỉ dễ tiếp cận với các nhà đầu tư trong nước (Fry, 1993; Agosin
và Mayer, 2000). FDI có khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong nước và tăng trưởng
tiêu cực do tỷ giá hối đoái có thể tăng lên, giá cả tư liệu sản xuất cao hơn và giảm đầu
tư trong nước (Cordon và Neary, 1982).
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu trong ngắn hạn cho thấy nhìn chung tác động của
FDI tới đầu tư tư nhân cùng chiều với tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân,
đặc biệt rõ rệt tại vùng KTTĐ phía Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với những phân
tích của NCS ở phần cơ sở lý thuyết và phần thực trạng về vai trò điều tiết của FDI
(hội nhập kinh tế quốc tế) đối với tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các
96
vùng KTTĐ. Cụ thể, tại các địa phương nội vùng, về cơ bản, địa phương nào FDI tạo
tác động lấn át tới đầu tư tư nhân thì đầu tư công cũng tạo tác động lấn át và ngược lại.
Tuy nhiên, có một số địa phương FDI tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân
nhưng đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân và ngược lại thì nguyên
nhân như NCS đã đề cập ở phần trên. Đó là do tỷ trọng vốn FDI tại địa phương đó
nhỏ hơn rất nhiều so với đầu tư công hoặc có những nhân tố tác động làm tác động
lấn át của đầu tư công lớn hơn như thâm hụt ngân sách, tỷ trọng vốn vay trong đầu tư
công lớn hoặc tỷ lệ đầu tư công cho CSHT nhỏ.
Đối với yếu tố lãi suất thực tế IR, IR tạo ra tác động tiêu cực đến đầu tư tư
nhân tại hầu hết các địa phương thuộc các vùng KTTĐ trong ngắn hạn. Bằng chứng
này phù hợp với lý thuyết tân cổ điển tiêu chuẩn, lãi suất thực có tác động ngược
chiều đến đầu tư tư nhân. Kết quả này cũng trùng khớp với các nghiên cứu của
Demilie Basha Hailu (2015), Nguyễn Thị Cành (2018), Nguyễn Thế Khang (2022).
Bên cạnh đó, IR tác động rõ rệt tới đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng
KTTĐ ĐBSCL. Điểm đặc biệt là bằng chứng về tác động của yếu tố IR tới đầu tư tư
nhân tại vùng KTTĐ phía Nam là tương đối mờ nhạt khi chỉ có 2/8 địa phương nội
vùng chịu tác động của IR. Nguyên nhân có thể xuất phát từ sự đa dạng trong tiếp
cận các công cụ tài chính đối với khu vực tư nhân tại vùng KTTĐ phía Nam. Đặc biệt
khi TP. Hồ Chí Minh là được xem là trung tâm tài chính kinh tế của khu vực và quốc
tế. Do đó, việc tiếp cận các công cụ tài chính đối với TP. Hồ Chí Minh nói riêng và
các địa phương nội Vùng nói chung tương đối linh hoạt và đa dạng chứ không chỉ
dừng lại là vốn vay từ hệ thống NHTM. Đối với các vùng KTTĐ khác, sự tồn tại của
thị trường vốn phi chính thức như các hợp tác xã tín dụng, các tổ chức tín dụng vi mô
ở nông thôn...cũng là nguyên nhân dẫn tới yếu tố lãi suất thực tế IR tác động tương
đối mờ nhạt tới đầu tư tư nhân (Huỳnh Thế Du & cộng sự, 2013).
Đối với yếu tố tổng sản phẩm địa phương GRDP, GRDP chủ yếu tạo tác
động bổ trợ tới đầu tư tư nhân tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, tác động của GRDP tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn tại các địa phương
thuộc vùng KTTĐ là không thực sự rõ ràng. Cụ thể, GRDP chỉ tác động tới 2/5 địa
phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung, 4/8 địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam
và 2/4 địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL. Kết quả nghiên cứu có sự trùng lắp
với các nghiên cứu của Blejer and Khan (1984), Ahmed and Qayyum (2007) and
Khan and Khan (2007) về tác động cùng chiều của GRDP tới đầu tư tư nhân.
Đối với yếu tố lạm phát INF, INF tạo ra tác động tiêu cực đến đầu tư tư nhân
tại hầu hết các địa phương thuộc các vùng KTTĐ trong ngắn hạn. Lạm phát thường
97
được coi là một biến số làm tăng chi phí sử dụng vốn, do đó làm giảm đầu tư tư nhân.
Theo Demilie Basha Hailu và cộng sự (2015) tại những quốc gia đang phát triển, tác
động bất lợi của lạm phát lớn hơn tác động tích cực do tỷ trọng đầu tư tư nhân lớn
hơn sơ với đầu tư công. Tuy nhiên, cũng như yếu tố IR và GRDP, ảnh hưởng của lạm
phát tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ là không thực sự rõ rệt.
Trường hợp 2: Xét tác động ngắn hạn của đầu tư công lần lượt tới đầu tư tư
nhân khu vực doanh nghiệp (PIE), đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình (PIH)
Bảng 5.8: Tác động ngắn hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân của khu vực
doanh nghiệp (PIE) và khu vực hộ gia đình (PIH) tại các Vùng KTTĐ
ΔPU
ΔPU
Vùng
Địa phương
(ΔPU tác động tới ΔPIE)
(ΔPU tác động tới ΔPIH)
-0,388
Hà Nội
0,833*
-0,492
Hải Phòng
-0,782***
0,601***
Hải Dương
-0,025
0,353*
Hưng Yên
0,038
KTTĐ Bắc bộ
0,329**
Quảng Ninh
0,503***
-0,156
Vĩnh Phúc
-0,195
-0,273**
Bắc Ninh
0,492***
-0,383*
Đà Nẵng
0,189
-1,106***
Quảng Nam
0,493
-0,340
Quảng Ngãi
-0,669
Vùng KTTĐ miền Trung
-0,481***
Bình Định
-0,273
Thừa Thiên Huế
-0,442*
0,062
TP.Hồ Chí Minh
0,140*
0,418**
Bà Rịa-Vũng Tàu
0,322*
0,551
-0,606***
Tiền Giang
0,042
Vùng KTTĐ
-0,526***
Bình Phước
-0,316***
phía Nam
-0,233***
Đồng Nai
0,974***
0,596**
Long An
0,174***
0,068
Tây Ninh
0,165***
0,253**
Bình Dương
0,156
0,719
Cần Thơ
0,246
-0,833***
Kiên Giang
-0,005
Vùng KTTĐ ĐBSCL
0,340
Cà Mau
0,058**
-0,527
An Giang
0,413***
Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15
98
✓ Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp
Thứ nhất, vùng KTTĐ phía Nam, Bắc bộ và miền Trung cho thấy ảnh hưởng rõ
rệt hơn so với vùng KTTĐ ĐBSCL. Điều này xuất phát từ thực tế trong cơ cấu đầu tư
tư nhân thì trong khi tại các vùng KTTĐ khác, đầu tư tư nhân từ khu vực doanh
nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu thì tại vùng KTTĐ ĐBSCL tỷ trọng giữa đầu tư tư
nhân từ khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình là tương đương nhau. Bên cạnh đó, xét
cơ cấu kinh tế của các vùng KTTĐ thì tại vùng KTTĐ ĐBSCL, tỷ trọng ngành nông
nghiệp so với công nghiệp và dịch vụ lớn hơn so với các tại vùng KTTĐ còn lại.
Trong khi đó lĩnh vực nông nghiệp không phải là lĩnh vực có lợi thu thu hút các doanh
nghiệp như công nghiệp và dịch vụ.
Thứ hai, xu thế chủ yếu của tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu
vực doanh nghiệp là lấn át. Xu thế này giống xu thế chung của đầu tư công tác động
tới tổng đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ trong ngắn hạn. Nguyên nhân tác động
lấn át có thể xuất phát từ việc các địa phương tăng chi thường xuyên, rơi vào tình
trạng bội chi và từ đó gây áp lực lên thị trường vốn, từ đó tác động tiêu cực tới đầu
tư tư nhân. Ví dụ trường hợp của Đà Nẵng bội chi ngân sách 2.359 tỷ đồng; Quảng
Nam bội chi ngân sách 14.798 tỷ đồng bình quân trong giai đoạn 2010-2021. Tuy
nhiên tại các địa phương còn lại không rơi vào tình trạng bội chi nhưng trong vẫn xảy
ra hiện tượng lấn át. Nguyên nhân có thể xuất phát từ việc Nhà nước tham gia vào
đầu tư cùng khu vực tư nhân những lĩnh vực mà tư nhân có thể hoạt động hiệu quả
hơn. Điều này thể hiện ở các địa phương còn lại của vùng KTTĐ miền Trung đều có
tỷ trọng vốn đầu tư công (khu vực Nhà nước) trong tổng vốn đầu tư thực hiện toàn
xã hội bình quân lớn hơn 40% và tỷ trọng gần tương đương hoặc lớn hơn tỷ trọng
vốn đầu tư tư nhân. Tại Việt Nam nói chung và các vùng KTTĐ nói riêng, do những
hạn chế về vốn đầu tư, cơ chế quản lý, ảnh hưởng của các biến động kinh tế, thời gian
thi công các công trình cơ sở hạ tầng có thể kéo dài và do đó trong ngắn hạn chưa thể
ngay lập tức tạo ra hiệu ứng bổ trợ cho khu vực doanh nghiệp (Phan Thị Minh Lý,
2013; Trần Đình Khôi Nguyên & cộng sự, 2021; Vũ Phương Nhi, 2023). Mặt khác,
việc gia tăng đầu tư công làm tăng nhu cầu hàng hóa dịch vụ trong nước khó tác động
tới khu vực đầu tư tư nhân từ doanh nghiệp hơn so với khu vực hộ gia đình do hàng
hóa từ doanh nghiệp phải trải qua nhiều mắt xích mới có thể đến được tay người tiêu
dùng cuối cùng (Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020).
99
Thứ ba, mặc dù xu thế lấn át là xu thế chủ đạo trong ngắn hạn nhưng tại thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng và Bà Rịa – Vũng Tàu, đầu tư công tạo tác động bổ trợ
tới đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp. Tác động lấn át của việc thiếu hụt vốn
đầu tư trên thị trường vốn vay có thể giảm bớt nếu như xuất hiện dòng chảy vốn đầu
tư nước ngoài đủ lớn (Dehn, 2000). Khi đó, lãi suất sẽ giảm xuống và hạn chế tác
động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó, với những địa phương
có dòng vốn FDI chảy vào lớn, khi kết hợp với đầu tư công cho CSHT tạo ra tác động
bổ trợ tới đầu tư tư nhân tư khu vực doanh nghiệp trong ngắn hạn cũng như trong dài
hạn (Kinda, 2007; Barro, 1990; Rieber, 1999; Askandarou Diallo, 2021). Nguyên
nhân là do dòng vốn FDI có thể hỗ trợ khu vực công về xây dựng CSHT như cảng
biển, cảng hàng không, điện, đường, khu công nghiệp...Từ đó, giảm bớt gánh nặng
cho NS chính phủ, tránh hiện tượng lấn át trên thị trường vốn, và giảm tác động lấn
át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân.
Với trường hợp TP.Hồ Chí Minh, với vị thế là thành phố hạt nhân của vùng
KTTĐ phía Nam, TP được định hướng trở thành trung tâm tài chính toàn cầu. Đến
nay, TP là địa phương duy nhất của cả nước được tổ chức Z/Yen London xếp hạng
so với các trung tâm tài chính toàn cầu. TP cũng là địa phương thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-202112.
Do đó, TP. Hồ Chí Minh là địa phương mà có dòng chảy đầu tư nước ngoài lớn so
với các địa phương còn lại trong khu vực và cả nước. Từ đó, có thể tạo áp lực làm
giảm sự gia tăng của lãi suất trong nước và hạn chế tác động lán át của đầu tư công
đối với đầu tư tư nhân. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao trong ngắn hạn
đầu tư công có thể tạo ra kết quả lấn át đối với đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp
nói riêng và tổng đầu tư tư nhân nói chung tại TP. Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, so với
các thành phố hạt nhân còn lại, tỷ lệ chi thường xuyên từ NSNN tại TP.Hồ Chí Minh
chỉ ở mức bình quân 22,37% trong giai đoạn 2010-2021 trong khi đó TP lại là địa phương luôn dẫn đầu về thu ngân sách nhà nước13. Do đó, áp lực từ chi thương xuyên
tới nguồn vốn dành cho đầu tư công giảm hơn so với các địa phương hạt nhân khác
thuộc các vùng KTTĐ còn lại. Từ đó đó, góp phần hạn chế tác động lấn át của đầu tư
công đối với đầu tư tư nhân tại TP. Hồ Chí Minh. Đối với Bà Rịa-Vũng Tàu , theo
12 Niên giám thống kê Việt Nam, các địa phương trong giai đoạn 2010-2021 13 Cổng công khai ngân sách nhà nước (https://ckns.mof.gov.vn/), Bộ Tài chính.
cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội mà NCS đã phân tích ở chương 2, đây là địa phương
100
có tỷ trọng vốn FDI lớn nhất trong nội vùng cũng như xét trên phạm vi các vùng
KTTĐ. Cụ thể, tỷ trọng vốn FDI trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội của Bà Rịa-
Vũng Tàu, bình quân trong giai đoạn 2010-2021 là 55%. Kết quả kiểm định ở chương
3 cũng cho thấy, tại địa phương này vốn FDI có tác động tích cực tới đầu tư tư nhân.
✓ Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình
Thứ nhất, hướng tác động từ đầu tư công tới đầu tư tư nhân là tác động bổ trợ
trong ngắn hạn. Điều này trái ngược với xu hướng tác động của đầu tư công tới đầu
tư tư nhân khu vực doanh nghiệp trong ngắn hạn. Tuy nhiên, điều này có thể được
giải thích như sau. Tại Việt Nam, các hộ gia đình kinh doanh chủ yếu giao dịch với
nhau và với người tiêu dùng cuối cùng, chứ không phải với các doanh nghiệp chính
thức. Hay nói cách khác, các hộ gia đình kinh doanh phụ thuộc nhiều vào nhu cầu
tiêu dùng cuối cùng vì chủ yếu sản xuất và bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Do
đó, khi đầu tư công tăng lên, nhu cầu mua hàng hóa dịch vụ tăng lên thì dễ tác động
tới khu vực đầu tư tư nhân từ hộ gia đình hơn (Hashmat Khan & cộng sự (2020); Đỗ
Thị Thanh Sơn (2020). Do đó, hiệu ứng bổ trợ của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân
trong ngắn hạn là tương đối rõ ràng. Trong khi đó, khu vực hộ gia đình với quy mô
nhỏ lẻ, kinh doanh manh mún và chưa được công nhận tư cách pháp nhân tại Luật
doanh nghiệp 2017 nên việc tiếp cận vốn tín dụng là tương đối khó khăn, và vì vậy ít
bị tác động bởi kênh lãi suất. Do đó, khi chính phủ tăng chi tiêu làm tăng lãi suất thì
khả năng tác động của lãi suất tăng tới đầu tư của hộ gia đình là thấp hơn so với khu
vực doanh nghiệp – nhóm có khả năng tiếp cận tín dụng với quy mô lớn hơn. Do đó
khả năng chịu tác động của hiệu ứng lấn át do Chính phủ vay vốn để tài trợ đầu tư
công là thấp. Kết hợp các luận giải trên, trong ngắn hạn, tác động của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân thuộc khu vực hộ gia đình là tương đối rõ ràng.
Thứ hai, tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân đặc biệt rõ rệt ở
các vùng KTTĐ, ngoại trừ vùng KTTĐ miền Trung.
Đối với vùng KTTĐ ĐBSCL, đây là vùng có tỷ trọng ngành nông nghiệp cao
hơn so với các vùng KTTĐ còn lại. Định hướng phát triển của vùng là trở thành trung
tâm nông nghiệp định hướng sử dụng công nghệ cao của cả nước. Vì lý do đó, các
địa phương nội vùng ưu tiên phân bổ vốn đầu tư công cho CSHT phục vụ ngành nông
nghiệp, từ đó thúc đẩy các hộ gia đình trong lĩnh vực nông nghiệp gia tăng đầu tư.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu trên thực tế đã cho thấy đầu tư của hộ gia đình trong
lĩnh vực nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở hạ tầng trên thế giới nói chung
101
và tại Việt Nam nói riêng (Brown, 1999; Pinstrup-Anderson & cộng sự, 2006; Sally
P. Marsh & cộng sự, 2007; Nguyễn Đức Thành, 2008; Nguyễn Thị Thu Hằng & cộng
sự, 2021). Do đó, khi Chính phủ tăng đầu tư công cho CSHT nông nghiệp thì có khả
năng tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân hộ gia đình tại vùng KTTĐ ĐBSCL.
Đối với vùng KTTĐ Bắc bộ, nơi tập trung hơn 1/3 số làng nghề của cả nước,
đầu tư tư công cũng cho thấy tác động bổ trợ đối với đầu tư tư nhân từ khu vực hộ
gia đình trong ngắn hạn. Nghị định số 52/2018/NĐ-CP quy định một số nội dung,
chính sách phát triển ngành nghề nông thôn và làng nghề. Nghị định cho thấy sự quan
tâm của Chính phủ đối với việc phát triển các làng nghề truyền thống nói chung.
Riêng ưu đãi về đầu tư, tín dụng, các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả được
hưởng ưu đãi theo Luật Đầu tư công; được áp dụng các chính sách khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; được ưu tiên vay vốn từ các tổ chức
tín dụng, Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ
phát triển khoa học và công nghệ quốc gia theo quy định của pháp luật. Đồng thời,
Chính phủ còn hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các làng nghề. Nội
dung hỗ trợ đầu tư, cải tạo, nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng làng nghề: Đường
giao thông, điện, nước sạch; hệ thống tiêu, thoát nước; xây dựng trung tâm, điểm bán
hàng và giới thiệu sản phẩm làng nghề. Như vậy có thể thấy, hình thức kinh doanh
làng nghề nhận được sự ưu ái trong chính sách đầu tư công của Chính phủ, đặc biệt
trong hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, từ đó đầu tư công có thể tạo hiệu ứng thúc đẩy
hình thức đầu tư này.
Đối với vùng KTTĐ phía Nam, như NCS đã phân tích các địa phương đều có
tỷ trọng vốn FDI lớn so với các địa phương khác trên cả nước và là những điểm đến
thu hút vốn FDI trên cả nước. Ngoài vấn đề liên quan tới lãi suất, đầu tư CSTH đã đề
cập ở trên thì đối với khu vực hộ gia đình, ảnh hưởng của vốn FDI có thể thể hiện ở
khía cạnh thu nhập của người lao động, từ đó tác động đến hành vi tiêu dùng và đầu
tư. Nghiên cứu của Merajothu (2020), Bayar & Ozturk (2018), Agrawal & Khan,
(2011) cho thấy một trong những ảnh hưởng tích cực của vốn FDI đối với nước tiếp
nhận đầu tư đó chính là là tạo ra việc làm và từ đó thúc đầy tiêu dùng cũng như đầu
tư trong nước. Tại Việt Nam, Bùi Anh Tuấn & cộng sự (2019) cũng chỉ ra tồn tại mối
quan hệ cùng chiều giữa vốn FDI và thu nhập và tiêu dùng của hộ gia đình trong giai
đoạn 2002-2016. Ngoài ra, đa số các địa phương nội Vùng đều thuộc các tỉnh dẫn
102
đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2010-202114. Theo nghiên cứu
của Kokko & cộng sự (2005), hộ gia đình kinh doanh sẽ nhận được lợi ích gián tiếp
từ các doanh nghiệp có tham gia xuất khẩu vì đầu vào của các doanh nghiệp này được
mua từ các hộ gia đình kinh doanh. Mặt khác, báo cáo của World Bank (2020) cho
thấy tại thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố dẫn đầu xuất khẩu khác tại Việt
Nam, hơn 90% đầu ra của hộ gia đình được bán cho các doanh nghiệp. Do đó, khi
Chính phủ tăng đầu tư công nhằm khuyến khích khu vực doanh nghiệp tăng đầu tư
thì đồng thời kéo theo sự gia tăng đầu tư của khu vực hộ gia đình do cầu về yếu tố
đầu vào từ doanh nghiệp tăng lên.
Đối với vùng KTTĐ miền Trung, chưa thấy được bằng chứng của đầu tư công
tác động tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn. Nguyên nhân có thể
lý giải như sau. Tại các địa phương nôi vùng, như Luận án đã phân tích ở chương 2,
bình quân vốn đóng góp của hộ gia đình trong vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội chiếm
34,81% so với khu vực doanh nghiệp là 65,18%. So với các vùng KTTĐ khác, vai
trò của đầu tư khu vực hộ gia đình đối là tương đối mờ nhạt tại vùng KTTĐ miền
Trung. Mặt khác, đóng góp của vốn FDI trong tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện toàn xã
hội còn rất nhỏ so với vùng KTTĐ Bắc bộ và phía Nam. Do đó, nhìn chung, ảnh
hưởng tích cực của vốn FDI đối với lãi suất trên thị trường vốn vay và từ đó giảm
14 Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2010-2021, Bộ Công thương
hiệu ứng lấn át và tăng hiệu ứng bổ trợ là tương đối mờ nhạt tại vùng KTTĐ miền Trung.
103
TỔNG KẾT CHƯƠNG 5
Chương 5 Luận án tập trung phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư
nhân thông qua phương pháp bình quân nhóm gộp PMG. Trong dài hạn, kết quả cho
thấy đầu tư công có tác động bổ trợ tới tổng đầu tư tư nhân tại tất cả các vùng KTTĐ.
Cụ thể hơn, đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp
nhưng không tạo tác động tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình trong dài hạn. Đồng
thời, Luận án sử dụng phương pháp phân tích phi nhân quả được đề xuất bởi Judios
& cộng sư (2021) nhằm phân tích tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư
nhân khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình tại các vùng KTTĐ.
Tuy nhiên trong ngắn hạn, xu thế chủ yếu của tác động của đầu tư công tới đầu
tư tư nhân khu vực doanh nghiệp là lấn át. Nguyên nhân liên quan tới vấn đề bội chi
ngân sách tại các địa phương, Nhà nước tham gia vào đầu tư cùng khu vực tư nhân
những lĩnh vực mà tư nhân có thể hoạt động hiệu quả hơn. Trong khi đó đầu tư công
có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân thuộc khu vực hộ gia đình tại một số các địa
phương. Bên cạnh đó, các thành phố hạt nhân thuộc các vùng KTTĐ (ngoại trừ TP. Hồ
Chí Minh), đầu tư công nhìn chung chưa tác động/ tác động lấn át tới đầu tư tư nhân
thuộc khu vực doanh nghiệp và từ đó dẫn đến chưa có tác động/ tác động lấn át tổng
đầu tư tư nhân. Ngoài ra, tại TP.Hồ Chí Minh đầu tư công tạo hiệu ứng bổ trợ đối với
khu vực doanh nghiệp cũng như khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn do có lợi thế về
thu hút dòng vốn quốc tế cũng như tỷ lệ chi thường xuyên tại TP.Hồ Chí Minh thấp
hơn so với các hạt nhân khác của vùng KTTĐ trong khi đó TP lại là địa phương luôn dẫn đầu về thu ngân sách nhà nước15.
Bên cạnh yếu tố tố đầu tư công, Luận án cũng chỉ ra tác động của các yếu tố đầu
tư trực tiếp nước ngoài FDI, lãi suất thực tế IR, tổng sản phẩm địa phương GRDP, tỷ
15 Báo cáo Quyết toán thu, chi NSNN theo lĩnh vực tại TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2010-2021.
lệ lạm phát INF tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và dài hạn.
104
CHƯƠNG 6: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐẦU TƯ CÔNG
NHẰM THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM CỦA VIỆT NAM
6.1 Bối cảnh quốc tế và trong nước
6.1.1 Bối cảnh quốc tế
Trước tác động của đại dịch Covid-19, từ đầu năm 2020, cạnh tranh thu hút
FDI giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Điều này đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đầu
tư công và đầu tư tư nhân trong nước tại các quốc gia toàn cầu.
FDI vào Mỹ đã tăng lên 114% trong khi đó FDI vào Liên Minh châu Âu tăng
8% nhưng vẫn thấp hơn mức trước đại dịch. Tổng mức tăng dòng vốn toàn cầu vào
năm 2021-2022 được ghi nhận chiếm ¾ tại các nền kinh tế phát triển. Các quốc gia
phát triển đã ban hành nhiều chính sách để thu hút FDI quy trở về nước thông qua
miễn giảm thuế, cải cách thủ tục cấp phép đầu tư, áp thuế cao với hàng xuất khẩu...
Mặc dù vậy, trước ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn
tìm kiếm những địa điểm có chi phí sản xuất thấp và có sẵn chuỗi cung ứng thì các
nước đang phát triển bao gồm có Ấn Độ và các nước Đông Nam Á được xem là là
điểm đến thu hút lượng lớn FDI trong thời kỳ mới, có khả năng thay thế Trung Quốc.
Bên cạnh đó, dòng FDI sau đại dịch tập trung nhiều vào lĩnh vực năng lượng tái tạo
và bất động sản công nghiệp. Các khoản đầu tư vào lĩnh vực xanh có sự gia tăng 55%
nhưng chủ yếu tập trung trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và kinh tế số. Các lĩnh vực
đầu tư xanh khác chưa phục hồi được như trước thời điểm đại dịch. Số lượng các dự
án trong ngành công nghiệp liên kết chuỗi giá trị toàn cầu bị sụt giảm một nửa. Mặt
khác, tác động của xung đột Nga- Ukraine đã vượt ra khỏi phạm vi khu vực và gây
khủng hoảng trên cả phương diện lương thực, nhiên liệu và tài chính. Điều này đã
là gia tăng rủi ro, ảnh hưởng đáng kể tới đà phục hồi FDI toàn cầu, khiến cạnh tranh
thu hút ngày càng gay gắt hơn. Tuy nhiên, biến động đối với dòng FDI toàn cầu một
mặt tạo ra thách thức đối với các quốc gia trong bối cảnh mới nhưng cũng tạo ra cơ
hội để nâng cao vai trò của vốn đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư công. Cụ thể,
xu hướng dòng vốn FDI quay trở lại quốc gia phát triển đặt ra nhiều thách thức đối
với các quốc gia phát triển khi vốn FDI chính là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh đó, tại các quốc gia đang phát triển như
Trung Quốc, vai trò của đầu tư công lại càng trở nên quan trong hơn đối với nỗ lực
105
cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt xây dựng và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng
– yếu tố then chốt nhằm thu hút FDI. Mặt khác, trước sự sụt giảm của vốn FDI, đầu
tư tư nhân trở thành động lực phục hồi nền kinh tế trước tác động của đại dịch và
cũng là đối tượng được hưởng lợi từ việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong nước.
Bên cạnh đó, toàn cầu hóa đang có dấu hiệu bị chậm lại, các vòng đàm phán
trong khuôn khổ WTO sẽ tiếp tục bế tắc do mâu thuẫn, cạnh tranh giữa các nước lớn.
Các chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu đã đứt gãy do covid-19 lại thêm đứt gãy
và càng khó phục hồi. Từ đó, đầu tư công và đầu tư tư nhân trong nước cũng bị tác
động rõ rệt.
Theo đó, hàng hóa ngày càng gặp khó khăn trong lưu thông từ trung tâm sản
xuất sang trung tâm tiêu thụ, ngay trong nội bộ của các quốc gia, từ vùng này sang
vùng khác. Việc đứt gãy chuỗi cung ứng đã làm gia tăng đáng kể chi phí sản xuất,
tăng giá hàng tiêu dùng, gây áp lực lạm phát cao tại các quốc gia và ảnh hưởng tiêu
cực tới tăng trưởng toàn cầu. Mặc dù theo nhận định của WB (2023), chuỗi cung ứng
có thể được khắc phục nhờ việc định hình lại sự phân bổ theo hướng giảm tập trung
vào Trung Quốc để chuyển sang các quốc gia khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Bồ Đào
Nha...Tuy nhiên, các thách thức từ biến đổi khí hậu, xung đột kéo dài giữa Nga và
Ukraina làm cho quá trình phục hồi chuỗi cung ứng càng kéo dài. Có thể nói, biến
động đối với chuỗi cung ứng toàn cầu không chỉ ảnh hưởng chung tới tăng trưởng
toàn cầu mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình đầu tư công và đầu tư tư nhân của
các quốc gia. Cụ thể, chuỗi cung ứng có xu hướng ngắn hơn và có xu hướng tập trung
phục vụ khách hàng địa phương với hoạt động sản xuất địa phương. Điều này mang
lại cơ hội phát triển cho các nhà đầu tư trong nước. Mặt khác, đầu tư tư nhân trong
nước cũng đối diện với nhiều thách thức khi chi phí sản xuất gia tăng do áp lực lạm
phát cao. Trong bối cảnh đó, đầu tư công trong nước cần thể hiện vai trò là “vốn mồi”,
dẫn dắt đầu tư tư nhân trong nước.
Ngoài ra, sự bất ổn của một số ngân hàng ở Mỹ, châu Âu đã ảnh hưởng tới niềm
tin của người dân trên thế giới về hệ thống ngân hàng trong khi đó các ngân hàng
Trung ương tiếp tục gia tăng lãi suất và sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn nữa
nhằm kiềm chế lạm phát. Trong bối cảnh đó, vai trò của đầu tư công đối với đầu tư
trong nước lại càng được nhấn mạnh.
Sự sụp đổ của ngân hàng Thung lũng Silicon -SVB và ngân hàng Signature -SB
của Mỹ, ngân hàng lớn thứ hai của Thụy Sỹ bị ngân hàng UBS mua lại là những sự
106
kiện gây ra biến động lớn đối với hệ thống tài chính trên thế giới. Tuy nhiên chính
sách tiền tiền tệ thắt chặt tạo ra áp lực giảm tiêu dùng trong nước cũng như gây ra sự
sụt giảm đối với hoạt động xuất khẩu do cầu hàng hóa của khu vực nước ngoài giảm
mạnh. Từ đó, tạo lực cản cho quá trình phục hồi tăng trưởng của các quốc gia, thậm
chí đẩy nền kinh tế rơi vào một cuộc suy thoái dài hơn. Mặt khác, một số khu vực của
nền kinh tế đang không phản ứng với việc tăng lãi suất nên một số ngân hàng trung
ương đang gặp khó khăn trong vấn đề kiềm chế lạm phát. Do đó, điều này còn đặt ra
thách thức đối với các ngân hàng trung ương về mức độ sẵn sàng để nền kinh tế chịu
bao nhiêu tổn thất từ việc tăng lãi suất để đưa lạm phát về mức mong muốn đặc biệt
trong bối cảnh xung đột Nga-Ukraina đang kéo dài và chuỗi cung ứng ngày càng đứt
gãy. Trước sự mất niềm tin của người dân về hệ thống ngân hàng và sự khó khăn của
ngân hàng trung ương trong vấn đề kiểm soát lạm phát, vai trò của chính sách tài
khóa, trong đó có vai trò đầu tư công của Chính phủ ngày càng quan trọng đối với
sự phục hồi của khu vực tư nhân trong nước và tăng trưởng kinh tế. Tại một số quốc
gia, chính sách tiền tệ giảm hiệu quả rõ rệt khi một số khu vực của nền kinh tế không
còn phản ứng với sự thay đổi của lãi suất. Trong bối cảnh đó, để thúc đẩy sự phục hồi
và ổn định của nền kinh tế, cần thiết phải có sự hỗ trợ của chính sách tài khóa, trong
đó có đầu tư công của Chính phủ.
Mặt khác, thuế tối thiểu toàn cầu cũng tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc và toàn
diện tới các nền kinh tế trên thế giới và đặt ra nhiều thách thức và cơ hội đối với đầu
tư công và đầu tư tư nhân trong nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia mới nổi và đang phát triển sử dụng
các ưu đãi về thuế để thu hút FDI của các tập đoàn đa quốc gia thì chính sách thuế tối
thiểu toàn cầu tạo ra áp lưc đối với các quốc gia. Các quốc gia cần phải thay đổi chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng tập trung vào nâng cao năng lực cạnh
tranh từ các yếu tố như môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng hay nguồn lao động
thay vì hướng tới ưu đãi về thuế như trước đây. Do đó, chính sách thuế tối thiểu toàn
cầu cũng chính là cơ hội để nâng cao hiệu quả đầu tư tại các quốc gia đặc biệt là tại
các quốc gia mới nổi và đang phát triển. Như vậy, chính sách thuế tối thiểu toàn cầu
đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội đối với đầu tư công và đầu tư tư nhân trong
nước. Cụ thể, thay vì cạnh tranh thu hút FDI bằng chi phí sản xuất rẻ như trước đây,
các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển cần tập trung nâng cao chất lượng
lao động và chất lượng cơ sở hạ tầng thông qua chính sách đầu tư công. Tuy nhiên,
107
chính sách thu hút FDI trong bối cảnh mới cần chuyển đổi theo hướng thu hút số
lượng sang chất lượng, hướng tới tạo lập chuỗi sản xuất toàn cầu trong đó có sự tham
gia của doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, doanh nghiệp trong nước cần cải thiện
bằng việc đầu tư máy móc, quản trị cũng như cải tiến quy trình làm việc nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm để có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Chiến tranh thương mại Mỹ -Trung và sự thay đổi chính sách bảo hộ mậu dịch
trên thế giới cũng là yếu tố tác động tới đầu tư tư nhân trong nước và từ đó gián tiếp
ảnh hưởng tới đầu tư công.
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung Quốc kéo dài được sự báo sẽ có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới thương mại và đầu tư quốc yếu, làm gián đoạn nghiêm trọng đối với
chuỗi sản xuất toàn cầu (Cấn Văn Lực, 2022). Cùng với đó là sự xuất hiện của các
biện pháp bảo hộ mậu dịch mới liên quan tới các mặt hàng mới, tăng thuế hoặc tăng
cường các quy định hải quan và quy định về xuất xứ hàng hóa. Những sự kiện trên
đã đặt ra thách thức đối với đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư công. Cụ thể, đầu
tư tư nhân trong nước phải đối mặt với khó khăn liên quan tới hoạt động xuất khẩu
hàng hóa và dịch vụ do Mỹ và Trung Quốc là các thị trường xuất khẩu lớn nhất thế
giới. Hơn nữa, nguyên liệu sản xuất bị áp thuế cáo cũng sẽ tăng giá, từ đó chi phí sản
xuất tăng. Việc xuất hiện các biện pháp bảo hộ mới trên thế giới khiến các doanh
nghiệp trong nước lại càng gặp khó khăn hơn trong vấn đề thâm nhập thị trường nước
ngoài. Trong bối cảnh đó, vai trò của đầu tư công ngày càng quan trọng hơn khi cần
phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển Khoa học công nghệ nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước nhằm ứng phó kịp thời
với ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ-Trung và xu hướng bảo hộ mậu dịch
mới trên thế giới.
6.1.2 Bối cảnh trong nước
6.1.2.1 Những thuận lợi
Nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi mạnh mẽ, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm
phát trong tầm kiểm soát. Đây chính là yếu tố thuận lợi góp phần thúc đẩy sự phục
hồi của khu vực tư nhân trong nước trước những thách thức lớn, biến động khó lường
của kinh tế thế giới.
Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê (2022), điểm sáng nổi bật của kinh tế
Việt Nam năm 2022 đó chính là GDP tăng trưởng đạt 8,02%, đạt mức cao nhất kể từ
năm 2011. Tất cả các khu vực trong nền kinh tế bao gồm nông, lâm thủy sản, công
108
nghiệp và dịch vụ đều có sự tăng trưởng đáng kể. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
hàng hóa chính thức tăng 732,5 tỷ USD năm 2022. Có thể nói, sự phục hồi của nền
kinh tế tạo ra những động lực lớn cho sự phục hồi kinh tế tư nhân trong nước. Điều
này thể hiện rõ khi tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường tăng
30,3% so với năm 2021. Trong bối cảnh đó, vai trò của đầu tư công lại ngày trở nên
quan trọng hơn khi chính là “vốn mồi”, hỗ trợ đầu tư tư nhân tại các địa phương cả
nước trong quá trình phục hồi sau đại dịch và trước những biến động mạnh mẽ của
kinh tế thế giới.
Bên cạnh đó, uy tín và vị thế của Việt Nam được nâng cao nhờ thành công đạt
được trong công cuộc phòng chống dịch Covid-19 và nỗ lực thực hiện các cam kết
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh gắn liền với đổi mới sáng tạo. Đây chính là yếu tố
gia tăng năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới từ đó thu hút được
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo nguồn lực hỗ trợ đầu tư tư nhân trong nước và
thúc đẩy nhanh quá trình giải ngân vốn đầu tư công.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều bất ổn về kinh tế và chính trị, rõ ràng Việt
Nam đang có nhiều lợi thế đối với thu hút đầu tư nước ngoài nhờ vào ổn định kinh tế
và chính trị trong nước. Trước hết, Chính phủ Việt Nam đã chủ động và linh hoạt để
đẩy lùi dịch bệnh, bảo đảm sự an toàn cho người dân và duy trì ổn định xã hội. Để
vực dậy kinh tế trong nước, Chính phủ đã đưa ra 3 nhóm giải pháp với 33 nhiệm vụ
cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và thúc đẩy giải ngân vốn đầu
tư toàn xã hội, đặc biệt là đầu tư công. Hơn nữa, Chính phủ đang có nhiều nỗ lực liên
quan tới hoàn thiện hệ thống luật pháp như thông qua Luật Đầu tư sửa đổi, Luật
Doanh nghiệp sửa đổi với nhiều điểm mới, bổ sung thêm nhiều có chế ưu đãi hơn cho
các nhà đầu tư, từ đó tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với thị trường thế giới. Đồng
thời, Việt Nam đang nỗ lực thực hiện hóa những cam kết mạnh mẽ từ hội nghị Thượng
đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26) về thu hút đầu tư chất
lượng cao hướng tới nền kinh tế trung hòa các-bon và tăng trưởng xanh (Hà Huy
Ngọc, 2023). Nhờ những chính sách kịp thời và hợp lý của Chính phủ trong bối cảnh
mới, Việt Nam đã củng cố được vị thế và gia tăng được năng lực cạnh tranh trên thị
trường quốc tế, thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn. Đây chính là nền tảng quan
109
trọng phục vụ cho quá trình phục hồi kinh tế tư nhân trong nước, đồng thời đẩy nhanh
quá trình đầu tư công vốn đã bị đình trệ trước tác động của Covid-19.
Mặt khác, nợ công của Việt Nam được kiểm soát an toàn. Đồng thời, ngân sách
Nhà nước thặng dư nhờ vào nhiều khoản thu vượt dự toán. Đây chính là yếu tố giảm
gánh nặng cho ngân sách Chính phủ khi thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư
tư nhân tại Việt Nam trong bối cảnh mới.
Theo Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2023), năm 2022, tổng chi
ngân sách Nhà nước đạt 87,5% dự toán và tăng 8,1% so với năm trước. Ngân sách
Nhà nước bội chi nhờ vào nhiều khoản thu vượt dự toán. Bên cạnh đó, áp lực nợ công,
nợ Chính phủ, nợ nước ngoài giảm bớt so với thời điểm trước và trong đại dịch Covid-
19. Ước tính đến cuối năm 2022, nợ công vào khoảng 43%-44%, nợ Chính phủ
khoảng 40%-41% và nợ nước ngoài khoảng 40%-41%. Như vậy, Chính phủ sẽ có
nhiều nguồn lực hơn để thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân. Đồng
thời, việc nhiều nguồn lực hơn để thực hiện đầu tư công giảm bớt gánh nặng vay nợ
để tài trợ đầu tư công, từ đó giảm khả năng xảy ra hiệu ứng lấn át trong đầu tư.
6.1.2.2 Những thách thức
Xung đột giữa Nga và Ukraine đã ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường xuất khẩu
của Việt Nam cũng như ảnh hưởng tới vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, vai trò động lực của đầu tư tư nhân trong nước và vai trò “vốn
mồi” của đầu tư công lại càng trở nên quan trọng đối với việc phục hồi và phát triển
nền kinh tế trước biến động của kinh tế thế giới.
Xung đột giữa Nga và Ukraine là một trong những yếu tố khiến nền kinh tế biến
động bất thường và tính bất định trở nên cao hơn khi đây chính là nguyên nhân đẩy
giá năng lượng cao hơn và ảnh hưởng tới nền kinh tế của các nước trên thế giới. Trước
biến động đó, các ngân hàng Trung ương lớn từ Mỹ và châu  thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt khiến kinh tế thế giới rơi vào suy thoái. Những sự kiện trên đã ảnh
hưởng nghiêm trọng tới tình hình xuất khẩu cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam. Trong bối cảnh đó, rõ ràng vai trò của đầu tư tư nhân trong nước lại càng
trở nên quan trọng hơn với nhiệm vụ là động lực thúc đẩy sự phục hồi tăng trưởng
kinh tế. Đồng thời, để có thể thu hút được vốn đầu tư tư nhân trong nước, đầu tư công
cần thực hiện vai trò “vốn mồi”, hỗ trợ khu vực tư nhân từ xây dựng, hoàn thiện cơ
sở hạ tầng tới hỗ trợ tín dụng đối với những hạng mục đầu tư quan trọng, thiết yếu
của nền kinh tế.
110
Mặt khác, việc tham gia vào các hiệp định thương mại (FTA), hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới cũng như cam kết thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu cũng tạo ra
những ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế Việt Nam và đặt ra nhiều thách thức đối với
đầu tư công, đầu tư tư nhân trong nước.
Có thể nói, tham gia vàocác hiệp định thương mại (FTA), hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới cũng như cam kết thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu một mặt tạo ra
cơ hội cho Việt Nam trong việc nâng cao năng lực thu hút đầu tư theo chiều sâu thì
cũng đặt ra nhiều áp lực, yêu cầu mới về cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh
doanh. Trên thực tế, với mức thuế suất thuế thu nhập bình quân áp dụng cho các
doanh nghiệp đa quốc gia hiện nay ở quanh ngưỡng 12%, thấp hơn so với quy định
chung cho thấy Việt Nam đang sử dụng ưu đãi thuế như một giải pháp để thu hút đầu
tư nước ngoài. Do đó, việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
và cam kết thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu có thể dẫn tới mất lợi thế cạnh tranh của
Việt Nam trong thu hút FDI, từ đó đặt ra thách thức đối với doanh nghiệp trong nước.
Do doanh nghiệp FDI đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ, đào
tạo nguồn lực trong nước, đồng thời trong lĩnh vực quan trọng là công nghiệp hỗ trợ,
kết nối doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, thuế
tối thiểu toàn cầu cũng đặt ra áp lực đối với đầu tư công trong nước. Cụ thể, thay vì
thu hút FDI bằng các ưu đãi về chính sách thuế như trước đây, Việt Nam cần phải
thay đổi chiến lược thu hút đầu tư nghiêng về chiều sâu thông qua những cải cách về
thủ tục hành chính, sửa đổi chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật có
liên quan, đồng thời tập trung đầu tư công cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng
nhằm tạo cải thiện môi trường kinh doanh.
Ngoài ra, thị trường tài chính trong nước đang có nhiều điểm nghẽn, đứt gãy
niềm tin gây khó khăn cho khu vực tư nhân trong việc tiếp cận vốn để đầu tư, từ đó
gián tiếp đặt ra thách thức cho đầu tư công.
Theo Nguyễn Thế Anh (2022), thị trường chứng khoán đang trải qua giai đoạn
đặc biệt khó khăn mặc dù tăng trưởng kinh tế tích cực, lạm phát được kiểm soát tốt.
Không chỉ thị trường chứng khoán, làn sóng các nhà đầu tư rút khỏi các sản phẩm tài
chính, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp đang khiến cả doanh nghiệp và các tổ chức
phân phối rơi vào khó khăn trong vấn đề thanh khoản. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ
cũng xảy ra đứt gãy thanh khoản nghiêm trọng. Sau sự cố ngân hàng SCB, các ngân
hàng bị mất niềm tin vào nhau nên hoạt động cho vay liên ngân hàng bị đứt gãy. Từ
111
sự khủng hoảng của hệ thống tài chính đã tạo ra nhiều rủi ro đối với hoạt động doanh
nghiệp khi đây chính là kênh dẫn vốn của doanh nghiệp cả nước. Do đó có thể thấy
số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới hoặc quay lại hoạt động tăng lên nhưng số
doanh nghiệp rút khỏi thị trường cũng tăng. Theo Tổng cục thống kê (2023), bình
quân một tháng năm 2022 có tới 11,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Ngoài những áp lực đến từ lạm phát gia tăng, chính sách tiền tệ thắt chặt thì nguyên
nhân quan trọng đến từ việc khó khăn về tiếp cận thị trường vốn.
Như vậy có thể thấy, thị trường tài chính khủng hoảng thanh khoản và đứt gãy
đã tạo ra áp lực rất lớn đối với sự duy trì hoạt động của doanh nghiệp trong bối cảnh
kinh tế trong nước và nước ngoài có nhiều biến động khó lường. Trước những khó
khăn về việc tiếp cận vốn của khu vực tư nhân, đầu tư công trong nước cần phải có
những chính sách hỗ trợ kịp thời. Trong đó hỗ trợ các ngân hàng chính sách xã hội
trong các dự án đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, góp phần
giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn đầu tư cho khu vực tư nhân trong bối cảnh hiện tại.
Tuy nhiên, trên thực tế, cơ chế lãi suất tín dụng đầu tư qua các ngân hàng chính sách
xã hội còn chưa linh hoạt do khả năng cấp bù lãi suất tín dụng của của vốn đầu tư
công từ NSNN có hạn nên lãi suất tín dụng từ các ngân hàng chính sách xã hội chậm
phản ứng với những biến đổi của lãi suất thị trường. Lãi suất thiếu hấp dẫn cũng là
một trong những cản trở đối với việc thu hút đầu tư của khu vực đầu tư tư nhân.
Xu hướng chuyển đổi số và tăng trưởng xanh cũng là một trong những nhân tố
tác động mạnh mẽ tới đầu tư tư nhân, từ đó tạo thách thức đối với đầu tư công.
Chuyển đối số và tăng trưởng xanh đang là con đường phát triển bền vững của nhiều
quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế đó. Một mặt, xu
hướng gắn liền với việc đầu tư vào công nghệ tiên tiến, kết cấu hạ tầng thông minh
và bền vững, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đầu tư của khu
vực tư nhân. Mặt khác, khu vực tư nhân cần phải có những sự thay đổi và thích ứng
với xu hướng mới. Tuy nhiên, với xu hướng này, hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng viễn
thông, hạ tầng giao thông và hạ tầng điện chính là yếu tố then chốt tạo đột phá. Trong
bối cảnh đó, đầu tư công chính là nguồn lực mang tính tiên phong và tạo nền tảng để
xây dựng hạ tầng, thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh thành công.
112
6.2 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các
vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam đến năm 2030
6.2.1 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân đối
với tổng thể các vùng KTTĐ
Chính phủ đã ban hành nghị quyết 128/NQ-CP 2020 về các nhiệm vụ đẩy mạnh
phát triển tổng thể các vùng KTTĐ, trong đó nhấn mạnh chính sách đầu tư công đối
với sự phát triển của các vùng KTTĐ, từ đó tạo động lực thúc đẩy đầu tư tư nhân.
Nội dung chính sách được cụ thể hóa như sau:
Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ đề xuất phân bổ nguồn lực đầu tư
công thích đáng cho các vùng KTTĐ trong trung hạn. Ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn
nhà nước tham gia trong các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Trong
bối cảnh nguồn vốn phục vụ cho đầu tư công đang dần trở nên khan hiếm và không
đủ phục vụ cho nhu cầu đầu tư tại các tỉnh thành trên cả nước, Luật đầu tư công 2019
đã chính thức ghi nhân hình thức đầu tư theo phương thức hợp tác công tư PPP là một
trong những dạng thức của đầu tư công. Theo đó, PPP là hình thức đầu tư được thực
hiện trên cơ sở hợp đồng dự án giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư,
doanh nghiệp dự án để xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình
hạ tầng, cung cấp dịch vụ công cộng. Vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện
dự án bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ, vốn trái phiếu
chính quyền địa phương, vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài. Quy
trình thực hiện dự án đầu tư và các điều khoản liên quan tuân theo các quy định của
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020.
Đối với Bộ Tài chính, Chính phủ đề xuất ưu tiên cho phép các địa phương thuộc
vùng KTTĐ được tăng mức bội chi trong tổng mức bội chi ngân sách Nhà nước để
tăng mức vay lại của địa phương, từ đó có thêm nguồn vốn vay để đầu tư cho các dự
án quan trọng. Bên cạnh đó, điều tiết tỷ lệ nguồn thu để lại trong giai đoạn 2022-2025
cho các tỉnh, thành phố thuộc vùng KTTĐ, nhất là các thành phố đóng vai trò “đầu
tàu” của Vùng. Bên cạnh giải pháp tăng nguồn vốn hỗ trợ liên quan tới các dự án hợp
tác đầu tư công tư PPP, Chính phủ cũng hỗ trợ các đại phương thuộc vùng KTTĐ
bằng hình thức nới lỏng hơn đối với khoản thu-chi của các địa phương sao cho gia
tăng nguồn lực đầu tư công trong bối cảnh nguồn lực cho đầu tư công khan hiếm và
đặc biệt giảm mạnh trong bối cảnh hậu Covid-19. Cụ thể, các tỉnh và thành phố thuộc
vùng KTTĐ nằm trong mục các tiêu chí bổ sung được hưởng hệ số ưu tiên phân bổ
113
ngân sách, bao gồm: Thành phố đặc biệt (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh); Các
thành phố trực thuộc trung ương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ); Thành phố loại
I thuộc tỉnh (Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế); Các tỉnh, thành phố thuộc vùng
KTTĐ, các trung tâm phát triển của vùng và tiểu vùng.
Đối với Bộ Giao thông vận tải, ưu tiên phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước
để phát triển hạ tầng giao thông, đẩy nhanh tiến độ thực hiện một số dự án lớn mang
tính kết nối vùng và liên kết vùng KTTĐ (các công trình kết nối khu công nghiệp,
khu chế xuất, trục hướng tâm, vành đai, các đường kết nối cảng biển và hành lang
vận tải quốc tế). Đầu tiên là sự ưu tiên phân bổ ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng KTTĐ, thể hiện qua các quyết định về nguyên
tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn NSNN (Quyết
định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 cho giai đoạn 2007 - 2010 và Quyết định
số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 cho giai đoạn 2011 - 2015). Bên cạnh đó, gần
đây Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 19/7/2019 và 25/CT-TTg
ngày 11/10/2019 về thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững vùng KTTĐ phía
Nam và KTTĐ Bắc bộ, qua đó đưa ra nhiều nhiệm vụ cho các bộ, ngành, cơ quan có
thẩm quyền về phát triển cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, Chính phủ cũng có những chính
sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng của các hạt nhân kinh tế thuộc các vùng KTTĐ
như là khu kinh tế, khu công nghiệp. Một số ưu tiên, ưu đãi về phân bổ nguồn NSNN,
phát triển cơ sở hạ tầng đối với khu kinh tế, khu công nghiệp có thể kể đến: Các dự
án đầu tư hạ tầng cho các khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu sẽ được phân bổ
tối thiểu 70% tổng vốn đầu tư cho các địa phương có các khu kinh tế ven biển, khu
kinh tế cửa khẩu trọng điểm; đối với khu công nghiệp, cụm công nghiệp thì các địa
phương vùng Trung du, miền núi phía Bắc và Tây Nguyên hỗ trợ tối đa 170 tỷ
đồng/địa phương trong 5 năm, trong đó vốn hỗ trợ hạ tầng khu công nghiệp ít nhất là
120 tỷ đồng, trường hợp các địa phương khác hỗ trợ tối đa 150 tỷ đồng/địa phương,
trong đó vốn hỗ trợ hạ tầng khu công nghiệp ít nhất là 100 tỷ đồng (theo Quyết định
số 40/2015/QĐ-TTg ngày 14/9/2015). Bên cạnh đó, năm 2018, Chính phủ phê duyệt
chương trình mục tiêu đầu tư hạ tầng khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu, khu
công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao giai đoạn 2016 - 2020 với số vốn thực hiện lên tới gần 21 tỷ đồng trong đó
gần 17 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương và hơn 4 nghìn tỷ đồng từ nguồn
ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác.
114
Đối với Ủy Ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐ, để đa dạng
nguồn vốn cho đầu tư công thì có thể huy động các nguồn lực, kết hợp giữa nguồn
vốn giữa trung ương và địa phương, tranh thủ nguồn vốn ODA, vốn tư nhân và các
nguồn vốn khác để thực hiện các dự án trọng điểm, có tính đột phá và thúc đẩy liên
kết vùng.
6.2.2 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân đối
với từng vùng KTTĐ
Hiện nay, theo Nghị quyết 138/NQ-CP ngày 25/10/2022 của Chính phủ về
Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, các vùng
KTTĐ được xem là các vùng động lực, quyết định tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Theo đó, đầu tư công sẽ được phân bổ theo hướng ưu tiên cho các vùng KTTĐ, từ đó
tạo động lực thúc đẩy đầu tư tư nhân và với mỗi vùng KTTĐ, đầu tư công sẽ tập trung
vào các thành phố/ tỉnh chủ chốt (Phụ lục 40). Cụ thể như sau:
Với vùng KTTĐ phía Bắc, đầu tư công tập trung vào Tam giác Hà Nội- Hải
Phòng- Quảng Ninh, dọc theo các hành lang quốc lộ 5 và quốc lộ 18. Trong đó, Thủ
đô Hà Nội đóng vai trò là cực tăng trưởng, nắm giữ vai trò quan trọng trong liên kết
khu vực phía Bắc và quốc tế. Lĩnh vực ưu tiên đầu tư sẽ tập trung vào xây dựng
CKHT hỗ trợ các ngành thế mạnh của Vùng bao gồm công nghiệp chế biến chế tạo
giá trị gia tăng cao, vận tải biển, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới.
Ngoài ra, chính sách đầu tư công cũng tập trung vào liên kết các địa phương trong
vùng cũng như liên kết giữa vùng KTTĐ phía Bắc với các địa ph ương lân cận. Cụ
thể, với liên kết nội vùng, chính sách tập trung xây dựng các tuyến đường cao tốc,
tiền cao tốc, các tuyến quốc lộ, càng hàng không. Xây dựng các tuyến đường sắt điện
khí hóa từ Lào Cai, Lạng Sơn về Hà Nội -Hải Phòng.
Với vùng KTTĐ phía Nam, đầu tư công tập trung vào Tứ giác TP. Hồ Chí Minh -
Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa -Vũng Tàu, trong đó TP. Hồ Chí Minh đóng vai trò
là cực tăng trưởng, liên kết phát triển khu vực phía Nam và kết nối quốc tế. Bên cạnh
đó, lĩnh vực đầu tư ưu tiên sẽ tập trung xây dựng CKHT hỗ trợ các ngành thế mạnh
của Vùng bao gồm khoa học, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, dịch vụ tài
chính, ngân hàng và logistics. Ngoài ra, chính sách đầu tư công cũng tập trung vào
liên kết các địa phương trong vùng cũng như liên kết giữa vùng KTTĐ phía Nam với
các địa phương lân cận. Cụ thể, xây dựng các tuyến đường bộ cao tốc kết nối Thành
phố Hồ Chí Minh với các địa phương trong và ngoài vùng, đường vành đai 3,4 Thành
115
phố Hồ Chí Minh. Xây dựng các tuyến đường sắt điện khí hóa kết nối trung tâm đô
thị đến các cảng biển, cảng hàng không quốc tế cửa ngõ. Tạo động lực liên kết, lan
tỏa và thúc đẩy hợp tác phý triển qua hành lang kinh tế Bắc-Nam và hành lang kinh
tế Tây Nguyên - TP. Hồ Chí Minh.
Với vùng KTTĐ miền Trung, đầu tư công tập trung vào khu vực ven biển Thừa
Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi, trong đó thành phố Đà Nẵng được
xác định là cực tăng trưởng, giữ vai trò quan trọng trong liên kết và thúc đẩy dự phát
triển của vùng duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Bên cạnh đó, lĩnh vực ưu tiên
sẽ tập trung xây dựng CKHT hỗ trợ các ngành thế mạnh của Vùng bao gồm du lịch
biển, du lịch sinh thái, công nghiệp hóa dầu và công nghiệp ô tô- phụ trợ ngành cơ
khí. Ngoài ra, chính sách đầu tư công cũng tập trung vào liên kết các địa phương
trong vùng cũng như liên kết giữa vùng KTTĐ miền Trung với các địa phương lân
cận. Cụ thể, phát triển mạng lưới giao thông gắn với hình thành hành lang kinh tế Bắc
- Nam qua địa bàn vùng và các hành lang Đông - Tây kết nối các cửa khẩu quốc
tế, các đô thị và cảng biển lớn. Xây dựng các tuyến đường cao tốc kết nối vùng
với Tây Nguyên.
Với vùng KTTĐ đồng bằng sông Cửu Long, đầu tư công tập trung vào Tam
giác Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang, trong đó Cần Thơ được xác định là cực tăng
trưởng, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long và khu
vực lân cận. Bên cạnh đó, lĩnh vực ưu tiên phát triển là xây dựng CKHT hỗ trợ các
ngành thế mạnh của Vùng bao gồm công nghiệp chế biến lượng thực, thực phẩm,
nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao với việc tăng tỷ trọng thủy sản, trái cây và giảm
tỷ trọng lúa gạo một cách hợp lý, các dịch vụ phục vụ nông nghiệp và kinh tế biển
(Phú Quốc). Ngoài ra, chính sách đầu tư công cũng tập trung vào liên kết các địa
phương trong vùng cũng như liên kết giữa vùng KTTĐ ĐBSCL với các địa phương
lân cận. Cụ thể, tăng cường đầu tư hạ tầng kết nối Vùng với TP. Hồ Chí minh và vùng
Đông Nam Bộ, đầu tư hệ thống đường ven biển qua các tỉnh, phát triển kết cấu hạ
tâng đường thủy nội địa, nâng cao luông hàng hải cho các tàu biển trọng tải lớn.
6.3 Giải pháp thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các vùng
kinh tế trọng điểm của Việt Nam
Dựa trên kết quả mô hình ước lượng ở chương 5 về việc đánh giá tác động của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân với bộ dữ liệu bảng cân bằng tại 24 tỉnh/ thành phố
thuộc 4 vùng KTTĐ trong khoảng thời gian 2010-2021 thông qua kỹ thuật hồi quy
116
dạng bảng PMG, Luận án chỉ ra tác động khác biệt của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
tại mỗi vùng KTTĐ và tại từng địa phương thuộc các vùng KTTĐ trong ngắn hạn
cũng như trong dài hạn. Điều này hàm ý rằng các giơi ý chính sách phải tính đến sự
khác biệt của các vùng KTTĐ sao cho phù hợp với tính thực tiễn và hoàn cảnh của
từng Vùng. Cụ thể, bên cạnh dựa trên kết quả hồi quy về các yếu tố tác động tới đầu
tư tư nhân, giải pháp phải dựa trên đặc thù về tình hình phát triển kinh tế, thực trạng
đầu tư công, đầu tư tư nhân cũng như bối cảnh trong nước, quốc tế và định hướng
chính sách đầu tư công tại mỗi vùng KTTĐ, tại mỗi địa phương nội Vùng. Tựu trung
lại, các giải pháp đối với tổng thể các vùng KTTĐ và mỗi vùng KTTĐ được đề xuất
theo hướng gia tăng hiệu ứng bổ trợ và giảm thiểu hiệu ứng lấn át của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân.
Hình 6.1: Cơ sở xây dựng giải pháp
Nguồn: Tác giả thực hiện, 2022
6.3.1. Nhóm giải pháp chung cho các vùng kinh tế trọng điểm
6.3.1.1 Nhóm giải pháp thúc đẩy tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư
tư nhân
Thứ nhất, tăng cường vốn đầu tư công vào cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu thúc đẩy
đầu tư tư nhân.
a. Cơ sở đề xuất giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công có tác động bổ trợ đầu tư tư
nhân tại các vùng KTTĐ trong dài hạn. Hơn nữa, dựa vào kiểm đinh phi nhân quả,
117
đầu tư công cho CSHT có tác động tích cực tới đầu tư tư nhân, đặc biệt đối với khu
vực doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đối chiếu với thực trạng đầu tư công và đầu tư tư
nhân, đầu tư công cho CSHT ở các vùng KTTĐ chưa theo kịp với nhu cầu. Do đó
đầu tư công bổ sung là cần thiết và phải đi kèm với hiệu quả trong quy hoạch, tránh
trùng lặp, chậm trễ có thể làm kìm hãm đầu tư tư nhân và tăng trưởng của các địa
phương trong Vùng và các địa phương lân cận. Mặt khác, đối chiếu với bối cảnh
trong nước và quốc tế cũng như định hướng chính sách đầu tư công, đầu tư xây dựng
và hoàn thiện CSHT chính là một trong những ưu tiên hàng đầu tại các vùng KTTĐ-
vùng động lực của cả nước để thu hút đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài. Vậy
nên, tập trung đầu tư công vào cơ sở hạ tầng chính là một trong những giải pháp thúc
đẩy tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân.
b. Nội dung giải pháp
Về nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng, điểm chung về CSHT của các vùng KTTĐ
là chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các địa phương do thiếu nguồn lực để
hoàn thiện. Do đó, để có thể tăng cường vốn đầu tư công vào hoàn thiện và nâng cấp
cơ sở hạ tầng tại các địa phương thuộc các vùng KTTĐ, ngoài bổ sung và hoàn thiện
các quy định bằng văn bản mức ưu đãi về thu chi ngân sách, phần trăm ngân sách
được để lại nhằm mục đích phục vụ cho đầu tư công thì cần huy động nguồn vốn đầu
tư công ngoài ngân sách nhà nước. Một trong những giải pháp đó chính là tận dụng
hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư PPP. Luật đầu tư công 2019 cũng
quy định một trong những nội dung của đầu tư công đó chính là đầu tư cùng khu vực
tư nhân theo hình thức PPP. Tuy nhiên, hiện nay các quy định về hình thức đầu tư
PPP trong Luật đầu tư đối tác công tư 2020 trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đang có nhiều
chồng chéo và mâu thuẫn, từ đó hạn chế sự hỗ trợ của khu vực tư nhân trong hoạt
động đầu tư công (Bộ Tài chính, 2022). Hơn nữa, hiện nay chưa có một chính sách
ưu đãi nào liên quan tới hình thức đầu tư PPP trong lĩnh vực CSHT đối với các vùng
KTTĐ. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần xây dựng các cơ chế chính sách
nhằm tạo ưu đãi, đảm bảo đầu tư và hỗ trợ đầu tư nhằm tăng tính hấp dẫn của các dự
án PPP vào CSHT tại các vùng KTTĐ như: (i) bảo lãnh doanh thu tối thủ và bảo lãnh
vốn vay đối với các dự án CSHT trọng điểm tại các vùng KTTĐ; (ii) tăng cường cung
cấp thông tin, hướng dẫn thủ tục hành chính, hỗ trợ thao gỡ khó khắn trong quá trình
triển khai dự án tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ; (iii) điều chỉnh giá dịch vụ
118
CSHT và lộ trình tăng giá, điều kiện trợ giá , mức trợ giá và thời gian trợ giá theo
thông lệ quốc tế và có % ưu đãi đối với các dự án CSHT tại vùng KTTĐ.
Về các hạng mục CSHT của đầu tư công, đối với các vùng KTTĐ cần tập trung
phát triển đồng bộ hệ thống CSHT giao thông đường bộ, đường sắt, cảng biển, hàng
không. Theo phân tích của NCS ở chương 2, các vùng KTTĐ nhìn chung đã tập trung
sử dụng vốn đầu tư công từ NSNN cho xây dựng CSHT giao thông. Tuy nhiên, các
vùng KTTĐ đang có xu hướng hoàn thiện CSHT giao thông tại các địa phương nội
vùng mà chưa tập trung đầu tư CSHT giao thông đường bộ có tính chất kết nối giữa
các địa phương nội vùng, liên vùng và CSHT các cụm khu công nghiệp, khu kinh tế
(Trần Du Lịch, 2021). Các nghiên cứu trên thế giới của Ramirez (2000); Cavallo &
Daude (2011); Tchouassi & Ngangue (2014) và trong nước của Nguyễn Khắc Minh
(2015), Trần Thị Tuấn Anh (2017), và Nguyễn Minh Hải (2021) cho thấy, những địa
phương có tỷ lệ đầu tư công vào CSHT càng lớn thì thi khả năng “lan tỏa” tới các địa
phương lân cận càng cao. Trong khi đó, vấn đề liên kết vùng tại các vùng KTTĐ là một trong những nội dung trọng tâm trong chính sách phát triển vùng.16 Do đó, vấn
đề đầu tư vào CSHT để nâng cao khả năng liên kết vùng là một trong những vấn đề
trọng tâm mà các địa phương trong vùng KTTĐ cần quan tâm khi phân bổ vốn đầu
tư công. Trong đó, đặc biệt chú ý tới CSHT liên kết các cực tăng trưởng của mỗi
vùng. Đó chính là Tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh tại vùng KTTĐ Bắc
bộ; Ven biển Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi tại vùng KTTĐ
miền Trung; Tứ giác TP. Hồ Chí Minh - Bình Dương- Đồng Nai- Bà Rịa-Vũng Tàu
tại vùng KTTĐ phía Nam; Tam giác Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang tại vùng
KTTĐ ĐBSCL.
Bên cạnh đó, CSHT tại các KCN, KKT của các địa phương thuộc vùng KTTĐ
cũng là một trọng những hạng mục cần chú ý khi phân bổ đầu tư công. Tại các địa
phương thuộc vùng KTTĐ, số lượng KCN, KKT chiếm tới khoảng 3/4 số KCN, KKT
toàn nền kinh tế (Vụ Quản lý Các khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020).
16 Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng các vùng KTTĐ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải các vùng KTTĐ đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 17 Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng các vùng KTTĐ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
KCN, KKT cũng được nhận định là “xương sống” đối với sự phát triển kinh tế của các địa phương17.
119
Bảng 6.1: Tình hình phát triển các khu công nghiệp theo các vùng KTTĐ đến
cuối năm 2020
Vùng Số lượng So với cả nước (%)
Vùng KTTĐ Bắc bộ 24,39% 90
Vùng KTTĐ miền Trung 18,43% 68
Vùng KTTĐ phía Nam 31,71% 117
Vùng KTTĐ ĐBSCL 14, 91% 55
Tổng 74, 53% 330
Nguồn: Vụ Quản lý Các khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020
Tuy nhiên, CSHT của KCN, KKT tại hầu hết các địa phương thuộc vùng KTTĐ
nói riêng và cả nước nói chung đang bộc lộ dấu hiệu xuống cấp và chưa đáp ứng được
nhu cầu của doanh nghiệp (Vụ Quản lý Các khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
2020). Do đó, tập trung vốn đầu tư công vào hoàn thiện và phát triển CSHT tại KCN,
KKT của các địa phương thuộc vùng KTTĐ cũng là một trong những hạng mục cần
ưu tiên. Mặc dù trong Luật đầu tư 2020 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư 2020 đã nêu rõ các hạng mục
đầu tư công phân bổ cho CSHT KCN và KKT, tuy nhiên đối với vùng KTTĐ, đầu tư
CSHT nên theo hướng có thể kết nối các cụm CN trong các địa phương nội vùng và
liên vùng. Ưu tiên các KCN, KKT đang tập trung phát triển các ngành công nghiệp
mũi nhọn của toàn vùng.
Vê tổ chức thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện nay quy hoạch CSHT ở các địa
phương nội Vùng chưa có tính kết nối giữa các địa phương trong nội Vùng. Do đó,
trong quy hoạch về CSHT của các địa phương vùng KTTD cần tính tới yếu tố liên
kết giữa các địa phương nội vùng và các địa phương lân cận. Để thực hiện được mục
tiêu trên cần có sự hoạch định, thực thi và giám sát của Hội đồng Vùng. Tuy nhiên,
mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo, Hội đồng vùng kinh tế trọng
điểm giai đoạn 2015-2020 theo quyết định số 2059/QDD-TTg ngày 24/11/2015 song
bộ máy điều phối còn nhiều điểm bất hợp lý, cơ chế thực thi chưa hiệu quả (Nguyễn
Thị Cành, 2022). Cụ thể Hội đồng Vùng chỉ có chức năng tham mưu, đề xuất với Thủ
tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương
trình, đề án, nhiệm vụ, dự án có quy mô vùng và có tính chất liên kết vùng và phát
120
triển bền vững chứ không được quản lý điều hành trực tiếp các hoạt động của vùng
KTTĐ. Trong khi đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ không đưa ra quyết định được mà sẽ
giao lại cho Bộ, ngành xem xét, xử lý. Các Bộ, ngành khi đánh giá những đề xuất này
phải căn cứ trên các quy định pháp luật hiện hành mà theo đó hiện không có nhiệm
vụ chi cho cấp vùng nên đa phần các đề xuất của Vùng không giải quyết được. Một
số đề xuất nội dung liên vùng có thể được lồng ghép vào kế hoạch phát triển của các
Bộ, ngành làm nhưng trong bối cảnh nguồn lực công rất hạn chế nên khó thực hiện
được (Nguyễn Đình Cung, 2018). Do đó, việc quy hoạch CSHT không mang tính
đồng bộ và kết nối giữa các địa phương nội Vùng cũng như với các địa phương lân
cận, gây ra hiện tượng quy hoạch CSHT chồng chéo và nhiều bất cập như hiện nay
(Nguyễn Quỳnh Anh, 2019).
Để giải quyết được vấn đề trên, Chính phủ cần xem Hội đồng vùng như một cơ
quan chuyên trách, có tư cách pháp nhân độc lập, có con dấu riêng và được sử dụng
ngân sách (Nguyễn Thị Cành, 2022). Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ nên trao quyền
cho Hội đồng Vùng có thực quyền quyết định các bước sau dưới sự tham mưu, đề
xuất của Ủy ban nhân dân các Tỉnh/ thành phố, chuyên gia, nhà khoa học tiêu biểu
thuộc cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học cấp vùng, đại diện có uy tín của cộng đồng
doanh nghiệp của vùng: (i) Định hướng, xây dựng dự án và sàng lọc bước đầu, (ii)
Lựa chọn và lập ngân sách. Hội đồng vùng tổng hợp và lựa chọn dự án dựa tên cơ sở
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội các quôc gia, vùng, quy hoạch vùng và
gửi Ban chỉ đạo điều phối phát triển các vùng KTTĐ ở cấp Trung ương (Phó Thủ
tướng- trưởng Ban, Bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Phó ban; Ủy viên, các thành viên là Thứ
trưởng hoạch tương đương ở 9 bộ và Văn phòng chính phủ) xem xét. Ban chỉ đạo sẽ
xem xét đề xuất cho tường vùng và xác định các dự án ưu tiên trên cơ sở triển khai
phù hợp với định hướng, chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội
các quốc gia. Hội đồng vùng tiếp tục thực hiện (iii) Triển khai dự án, (iv) Điều chỉnh
dự án (nếu có). Hiện nay tại các vùng KTTĐ nói riêng và các tỉnh thành tại Việt Nam
nói chung, Thủ tướng Chính phủ đang trực tiếp chỉ đạo cùng các Bộ ban ngành liên
quan thực hiện toàn bộ các bước trên và tạo ra những chồng chéo, trung lặp, thiếu
hiệu quả trong công tác thực hiện và quản lý đầu tư công đặc biệt với CSHT (Vũ
Thành Tự Anh, 2014). Do đó, phân cấp phân quyền về thực hiện và quản lý đầu tư
công cho Hội đồng Vùng chính là một trong những giải pháp nâng cao hiệu quả thực
121
hiện và quản lý các dự án đầu tư công đối với CSHT nói riêng và các dự án khác của
đầu tư công.
Thứ hai, tập trung vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia
đình trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh doanh hộ gia đình đủ lớn
thành mô hình doanh nghiệp tại các vùng KTTĐ trong dài hạn.
a. Cơ sở đề xuất giải pháp
Đối chiếu kết quả mô hình hồi quy, trong dài hạn, đầu tư công chỉ tác động bổ
trợ tới đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp chứ không tác động tới đầu tư tư nhân
từ khu vực hộ gia đình. Tuy nhiên trong ngắn hạn, tồn tại tác động bổ trợ của đầu tư
công tới đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn. Đối chiếu tình hình
phát triển kinh tế tại các vùng KTTĐ cũng như thực trạng đầu tư tư nhân, không thể
phủ nhận vai trò của kinh tế hộ gia đình trong vấn đề tạo công ăn việc làm và thu
nhập cho cư dân, đặc biệt tại khu vực nông thôn (Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020). Đối chiếu
bối cảnh trong nước và quốc tế, vai trò của kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam ngày
càng quan trọng hơn do khu vực doanh nghiệp đang đối mặt với nhiếu thách thức từ
tình hình kinh tế trong nước và thế giới. Do đó, Chính phủ cần tăng cường tài trợ vốn
đầu tư công nhằm hỗ trợ đối với khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn nhằm thúc đẩy
tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình.
b. Nội dung giải pháp
Đối với hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, tiền đề cho
phát triển là tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng vững mạnh, đồng bộ các yếu
tố điện, đường, thủy lợi, đê điều, bến bãi. Mặc dù Chính phủ đã cụ thể hóa thông qua
các văn bản pháp lý như thông tư 05/2022/TT-BNNPTNT, Nghị quyết số 08/NQ-CP,
Nghị định số 120/2020/NĐ-CP, Điều 6 Thông tư 05/2022/TT-BNNPTNT, Thông tư
05/2022/TT-BNNPTNT về hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho ngành nông-lâm- ngư nghiệp
tuy nhiên hiệu quả thực thi của cách chính sách chưa cao và thiếu hụt nguồn vốn đầu
tư là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Bên cạnh đó, lĩnh vực nông nghiệp là
một trong những lĩnh vực khó thu hút vốn đầu tư tư nhân hợp tác với đầu tư công
theo hình thức PPP do các chính sách chung về PPP trước đó chủ yếu tập trung vào
các dự án cung cấp hàng hóa công ích phi nông nghiệp nên toàn bộ các mô hình PPP
trong nông nghiệp cho đến nay chủ yếu mang tính tự phát, xuất phát từ nhu cầu của
doanh nghiệp, người dân và chính quyền địa phương hoặc là sáng kiến của một số tổ,
nhóm nông dân (Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, 2020). Do đó, cần linh hoạt tiếp cận nguồn
122
vốn hỗ trợ đầu tư công từ các nguồn khác như các nguồn vốn ODA, vốn tài trợ của
các tổ chức phi chính phủ. Mở rộng hợp tác với các tổ chức tài chính lớn như WB,
ADB, Keximbank, JICA, KOICA,... nhằm thu hút vốn đầu tư công xây dựng kết cấu
hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tại các địa phương thuộc vùng
KTTĐ mà đầu tư công có tác động tích cực tới đầu tư hộ gia đình.
Đối với hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực phi nông-lâm- ngư nghiêp, vấn đề
khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng là một trong những yếu tố hạn chế đầu tư của
đối tượng này để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại các vùng KTTĐ, hộ
kinh doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ (chiếm gần 85%),
đặc biệt lĩnh vực bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ
khác, dịch vụ lưu trú, ăn uống. Quy mô hộ kinh doanh chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Do
mô hình kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún nên việc tìm nguồn vốn đầu vào đối với hộ
gia đình trong linh vực phi-nông-lâm ngư nghiệp gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, chính
sách ưu đãi tín dụng cũng là một trong những giải pháp nhằm hỗ trợ cho các hộ gia
đình hoạt động trong lĩnh vực này. Do đó, cần mở rộng đối tượng ưu đãi của Chính
sách, thay vì chỉ tập trung vào doanh nghiệp, thì trong ngắn hạn, Chính phủ cũng cần
tập trung tới khu vực hộ gia đình với các khoản vay ưu đãi nhằm khuyến khích đầu
tư tư nhân từ khu vực này trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, trong dài hạn, do hình thức hộ gia đình kinh doanh có nhiều bất cập
và đầu tư công không tạo tác động bổ trợ như ngắn hạn. Trong khi đó, hình thức kinh
doanh hộ gia đình, mặc dù góp phần giải quyết nhu cầu việc làm của nhiều lao động
và mô hình hoạt động tương đối đơn giản, tuy nhiên mô hình này đang cho thấy sự
mạnh mún, thiếu tổ chức và gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn khi hoạt động
(Lê Thị Thu Diễm, 2020). Do đó, Chính phủ nên xây dựng giải pháp chuyển đổi sang
hình thức kinh doanh doanh nghiệp nhằm thúc đẩy được tác động bổ trợ của đầu tư
công tới đầu tư tư nhân trong dài hạn. Một số giải pháp đã được Chính phủ cụ thể hóa
trong khoản 2 Điều 16 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017, Nghị định số
80/2021/NĐ-CP tuy nhiên chưa đủ sứcc để khuyến khích hộ kinh doanh chuyển sang
loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp (Nguyễn Thị Luyến, 2022).
Do đó, Chính phủ cần xây dựng chính sách chuyển đổi phải có lộ trình, có thể là 5
năm và hỗ trợ đảm bảo doanh nghiệp sau chuyển đổi duy trì và phát triển thông qua
việc hỗ trợ tiếp cận tín dụng, hỗ trợ xây dựng cơ sở sản xuất-kinh doanh từ nguồn
vốn đầu tư công (Lê Duy Bình, 2018).
123
Thứ ba, thúc đẩy hoạt động đầu tư công hiệu quả tại các hạt nhân của mỗi vùng
KTTĐ để tạo tác động bổ trợ cho đầu tư tư nhân cũng như tạo hiệu ứng lan tỏa đối với
đầu tư tư nhân ở các địa phương lân cận.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với tính hình phát triển kinh tế cũng như định hướng chính sách đầu
tư công tại các vùng KTTĐ, mỗi vùng KTTĐ đều có một cực tăng trưởng với vai trò
dẫn dắt sự phát triển của các địa phương nội Vùng và đồng thời tạo sự lan tỏa tới các
địa phương lân cận. Đặc biệt với vùng KTTĐ phía Nam và Bắc bộ, vai trò quan trọng
của TP. Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội lại càng thể hiện rõ. Bên cạnh đó, đối chiếu với
kết quả hồi quy, trong ngắn hạn, hầu như các đầu tàu tăng trưởng còn lại không thể
hiện được vai trò dẫn đầu của mình trong việc thu hút đầu tư tư nhân. Trên thực tế,
do ảnh hưởng từ đầu tàu, hầu hết các địa phương nội vùng đều chưa cho thấy được
sự thu hút đầu tư tư nhân trong nội Vùng. Do đó, để thúc đẩy tác động bổ trợ từ đầu
tư công tới đầu tư tư nhân từ đó thúc đẩy tăng trưởng chung của vùng KTTĐ và cả
nước, cần nâng cao vai trò của các đầu tàu tại các vùng KTTĐ.
b. Nội dung giải pháp
Đối với Chính phủ, cần có chính sách ưu đãi và chế tài cụ thể đối với phân bổ
ngân sách với các cực tăng trưởng tại các vùng KTTĐ. Mặc dù quyết định số
210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 cho giai đoạn 2007 - 2010 và quyết định số
60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 cho giai đoạn 2011 - 2015 đã có quy định về hệ số
ưu đãi phân bổ ngân sách cho các thành phố và tỉnh là các cực tăng trưởng của từng
vùng KTTĐ nhưng quy định còn mang tính “cào bằng” và chưa có sự xem xét cụ thể
tới mức độ phát triển kinh tế và vai trò của từng địa phương. Do đó cần có sự tính
toán lại về hệ số ưu đãi phân bổ ngân sách cho các cực tăng trưởng tại các vùng KTTĐ
sao cho phù hợp với tình hình phát triển và nhu cầu đầu tư thực tế tại các địa
phương này.
Đối với Chính quyền địa phương, giải ngân vốn đầu tư công chính là yếu tố thúc
đẩy đầu tư tư nhân tại Việt Nam nói chung và các địa phương thuộc vùng KTTĐ nói
riêng (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2022). Kết quả hồi quy cũng cho thấy nhìn chung hầu
như những địa phương có tỷ lệ giải ngân đầu tư công cao thì trong cả ngắn hạn và dài
hạn, đầu tư công đều có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân. Trong khi đó, hầu hết các
địa phương hạt nhân thuộc vùng KTTĐ đều là những địa phương thuộc nhóm có tỷ
lệ giải ngân thấp (Bộ Tài chính, 2022). Các địa phương trong vùng KTTĐ có tỷ lệ
124
giải ngân vốn đầu tư công thấp hơn 50% (Bộ Tài chính, 2022). Theo đó, dựa vào kinh
nghiệm của các địa phương có tỷ lệ giải ngân cao, các hạt nhân trong vùng KTTĐ
nên tập trung vốn đầu tư công vào những dự án trọng điểm và không đầu tư dàn trải.
Bên cạnh đó, cần đưa ra tỷ lệ bố trí vốn thực hiện dự án theo nguyên tắc 100% chi
phí giải phóng mặt bằng và 80% chi phí xây lắp. Ngoài ra, thường xuyên rà soát, điều
chuyển vốn từ các dự án có tiến độ giải ngân chậm sang dự án có tiến độ giải ngân
tốt. Đồng thời, gắn vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các địa phương, đơn vị,
chủ đầu tư trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc giải ngân vốn đầu tư công. Song song
với đó, lập tổ công tác đặc biệt thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh
thường xuyên tổ chức kiểm tra thực tế hiện trường, kịp thời tháo gỡ ,xử lý các vướng
mắc có liên quan.
5.3.1.2 Nhóm giải pháp hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
Thứ nhất, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI vào lĩnh vực thế
mạnh của các địa phương nội Vùng
a. Cơ sở đề xuất giải pháp
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong dài hạn, vốn FDI có tác động tích cực tới
đầu tư tư nhân tại các địa phương thuộc các vùng KTTĐ. Hơn thế, trong bối cảnh cơ
cấu vốn đầu tư toàn xã hội tại vùng KTTĐ đang có xu hướng tăng dần tỷ trọng vốn
FDI thì rõ ràng đây cũng là động lực nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân, từ đó tạo động
lực tăng trưởng tại các vùng KTTĐ. Bên cạnh đó, dựa trên kết quả hồi quy của mô
hình ở chương 3, tại các địa phương có đầu tư FDI tác động tích cực tới đầu tư tư
nhân thì trong ngắn hạn đầu tư công có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân. Do đó, cần
xây dựng chính sách đối với thu hút FDI hợp lý có xét tới yếu tố ngắn hạn và dài hạn
để FDI có thể trở thành nhân tố hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới tư tư nhân
tại các vùng KTTĐ.
b. Nội dung giải pháp
Đối với Chính phủ, cần tạo điều kiện ưu đãi cho các dòng vốn FDI chảy vào các
địa phương thuộc vùng KTTĐ. Đặc biệt, trong bối cảnh dòng vốn FDI trở nên cạnh
tranh hơn thời kỳ hậu Covid-19. Ngoài ra, nhiều quốc gia đang dự kiến áp dụng mức
thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024, thách thức mới đối với Việt Nam là điều chỉnh
chính sách phù hợp để có thể thu hút được FDI mạnh mẽ hơn. Cụ thể, cần nghiên cứu
đề xuất điều chỉnh các chính sách thuế, kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, cũng
như phù hợp với quy định trong Hiệp định mà Việt Nam đã cam kết trước khi Hiệp
125
định có hiệu lực. Bên cạnh đó, cần có những đánh giá ảnh hưởng của các quy tắc trên
bởi mức độ ảnh hưởng lên các chính sách ưu đãi là khác nhau đối với từng quốc gia,
tập đoàn đa quốc gia, nhà đầu tư và chính sách ưu đãi thuế. Ngoài ra, nâng cao năng
lực cạnh tranh từ các yếu tố như môi trường đầu tư kinh doanh, lao động, CSHT, hệ
thống doanh nghiệp vệ tinh...
Đối với Chính quyền các địa phương thuộc vùng KTTĐ, cần có sự chọn lọc
dòng vốn FDI sao cho phù hợp với từng thế mạnh của địa phương mình. Các địa
phương cần tránh tình trạng thu hút dòng vốn FDI một cách ồ ạt mà không cần quan
tâm tới chất lượng dòng vốn và sự phù hợp của dòng vốn FDI với cơ cấu ngành nghề
tại địa phương.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, kết quả hồi quy cho thấy trong ngắn hạn
dòng vốn FDI không có tác động tới đầu tư tư nhân hoặc có tác động ngược chiều tới
đa số các địa phương nội Vùng. Chính vì vậy, để có thể hạn chế được tác động tiêu
cực của dòng vốn FDI trong ngắn hạn cần phải có những chính sách hợp lý của các
địa phương nội Vùng. Tại Việt Nam, việc các doanh nghiệp FDI độc quyền trong một
số lĩnh vực như nước uống có ga, thức ăn gia súc, chất tẩy rửa… đã tác động mạnh
tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Đôi khi, những công ty
100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá,
loại trừ đối thủ cạnh tranh khác, độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn áp các doanh nghiệp trong nước18. Do đó, cần gắn chặt thu hút FDI với quá trình tái cấu trúc
nền kinh tế, phù hợp với từng ngành, hướng vào những ngành nghề, sản phẩm cụ thể,
phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm lôi cuốn các doanh nghiệp nội địa
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đồng thời khai thác tối đa tiềm năng và hiệu quả
mà nguồn vốn FDI mang lại. Khi đó các doanh nghiệp nội địa sẽ là một trong những
mắt xích của chuỗi giá trị do ngồn vốn FDI tạo ra thay vì là đối thủ cạnh tranh trên
thị trường và phải chịu tác động lấn át.
Thứ hai, hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng trên cơ sở khuyến khích
các thành phần tham gia và đa dạng hóa các công cụ tín dụng.
a. Cơ sở đề xuất giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, lãi suất trong ngắn hạn và dài hạn có tác
động lấn át đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ và tạo hiệu ứng lấn át tới đầu tư tư
18 Báo cáo của Sở Tài chính Tỉnh Thừa Thiên Huế, 2015.
nhân. Bên cạnh đó, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế cũng như thực trạng đầu
126
tư tư nhân tại các vùng KTTĐ, có thể thấy phần lớn các doanh nghiệp thuộc các vùng
KTTĐ là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hoặc là các hộ gia đình kinh doanh
nhỏ lẻ. Đây là đối tượng khó tiếp cận thị trường vốn vay và chịu ảnh hưởng đáng kể
khi lãi suất biến động. Đối chiếu với bối cảnh trong nước và quốc tế, khu vực tư nhân
đang gặp nhiểu khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn vay. Do đó, cần phải xây
dựng và hoàn thiện thị trường tín dụng với hướng đa dạng hóa các công cụ và các
thành phần tham gia nhằm giải quyết vấn đề liên qua tới sự thiếu hụt vốn trên thị
trường vốn vay tại các vùng KTTĐ trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Từ đó,
giải pháp này có thể hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân.
b. Nội dung giải pháp
Trước hết, cần phát triển và hoàn thiện các định chế tài chính - tín dụng phí
ngân hàng nhằm khuyến khích nhiều thành phần tham gia vào thị trường tín dụng
thay vì chỉ phụ thuộc phần lớn vào NHTM như hiện nay… Các định chế tài chính này
là những công cụ để tập hợp các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, bao gồm vốn trong
công chúng, vốn đầu tư tài chính của các doanh nghiệp, vốn của các tổ chức bảo…
Đồng thời, cũng xây dựng các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ đầu tư
và chức năng chính là tham gia vào thị trường vốn trung dài hạn, có cơ chế khác với
các NHTM hiện nay là tham gia vào thị trường tiền tệ.
Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa hơn nữa các công cụ tín dụng. Cụ thể, cần phát
triển mạnh thị trường trái phiếu trên cơ sở tăng cung cầu trên thị trường bằng các mở
rộng cho nhiều thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ hơn, nghiên cứu
đưa ra các khuôn khổ pháp lý thông thoáng cho việc mua bán, cầm cố các trái phiếu
chính phủ, cho phép trái phiếu chính phủ được chiết khấu tại NHNN. Mặt khác, phát
triển thị trường thương phiếu (hối phiếu và lệnh phiếu) mà hiện nay hầu như chúng
ta chưa triển khai thực hiện. Nếu thị trường thương phiếu phát triển, không chỉ làm
lành mạnh hóa tình trạng chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp, mà là điều kiện
phát triển các dịch vụ chiết khấu và tái chiết khấu, thu nhập dịch vụ của các tổ chức
tín dụng. Đặc biệt chia sẻ và giảm áp lực thị trường tín dụng ngắn hạn cho các tổ chức
tín dụng đang khá nóng hiện nay.
6.3.2. Nhóm giải pháp cụ thể đối với từng vùng kinh tế trọng điểm
Từ kết quả nghiên cứu của Luận án, có thể thấy tác động của đầu tư công cũng
như tới tổng đầu tư tư nhân và đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp, đầu tư tư
nhân từ khu vực hộ gia đình tại mỗi địa phương thuộc vùng KTTĐ là có sự khác nhau
127
trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, các vùng KTTĐ cũng có sự khác biệt về tình hình phát
triển kinh tế, tình hình đầu tư công và đầu tư tư nhân. Vì vậy, Luận án sẽ phân tích
một số giải pháp cụ thể đối với từng vùng KTTĐ bên cạnh những chính sách định
hướng chung cho tất cả vùng KTTĐ. Đồng thời, với mỗi giải pháp, Luận án sẽ chỉ rõ
nhằm thúc đẩy hiệu ứng bổ trợ hay hạn chế hiệu ứng lấn át của đầu tư công tới đầu
tư tư nhân.
6.3.2.1. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
Thứ nhất, tập trung vốn đầu tư công xây dựng CSHT giao thông hỗ trợ hình
thành cơ cấu đô thị hạt nhân, đô thị vệ tinh nhằm thúc đẩy hiệu ứng bổ trợ của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.
a. Cơ sở đề xuất giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công tạo ra hiệu ứng bổ trợ cho
đầu tư tư nhân trong dài hạn, đặc biệt là đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp. Đối
chiếu với cơ cấu vốn đầu tư từ khu vực tư nhân tại các địa phương nội Vùng, đầu tư
từ khu vực doanh nghiệp cũng chiếm 53,45% với việc tập trung nhiều KCN, KKT
của cả nước (24,34%). Bên cạnh đó, đối chiếu với thực trạng đầu tư công, tại vùng
KTTĐ Bắc bộ, trong cơ cấu đầu tư công cho CSHT thì đầu tư cho CSHT giao thông
chiếm tỷ trọng chủ yếu. Đối chiếu với định hướng chính sách đầu tư công thông qua
Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, các đô thị
Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hạ Long, Hải Dương đóng vai trò là các vực phát triển trong
hệ thống đô thị của Vùng. Các địa phương Sơn Tây, Từ Sơn, Xuân Mai, Chí Linh,
Cẩm Phả, Uông Bí, Móng Cái phát triển thành các đô thị vệ tinh. Như vậy, không
gian phát triển vùng KTTĐ Bắc bộ sẽ gồm hai tiểu vùng là tiểu vùng Thủ đô Hà Nôi
và tiểu vùng Duyên hải. Trong đó, tiểu vùng Thủ đô Hà Nội bao gồm Thủ đô và các
tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Binh, Hưng Yên và Hải Dương. Tiểu vùng ven biển gồm thành
phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh. Do đó, một trong những vấn đề trong phân bổ
đầu tư công mà các địa phương nội Vùng cần chú ý đó chính là tạo điều kiện cho sự
hoạt động thuận lợi của khu vực doanh nghiệp thông qua hoàn thiện CSHT, đặc biệt
là CSHT giao thông gắn liền với quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế- xã hôi của
toàn Vùng.
b. Nội dung giải pháp
Trước hết, tại tiểu vùng Thủ đô, hoàn thành việc xây dựng hệ thống các trực
đường cao tốc nhằm liên kết các tỉnh/thành phố trong tiểu vùng. Bên cạnh đó, cần
128
chú ý tới các đường vành đai kết nối Hà Nội với các địa phương trong tiểu vùng và
các địa phương nội vùng. Các tuyến đường vành đai sẽ giảm tải áp lực giao thông nội
đô và hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông của tiểu vùng và khu vực. Hơn nữa, các
tuyến đường vành đai sẽ đẩy mạnh kết nối nhiều khu, cụm công nghiệp, khu đô thị,
các tỉnh, thành phố trong vùng giao thương. Hiện tại, đường vành đai 3,5 hơn 45 kim
đi qua Đại lộ Thăng Long đến Quốc lộ 32 với tổng số vốn đầu tư 25.000 tỷ đồng và
đường vành đai 4 đi qua Hà Nội- Hưng Yên- Bắc Ninh có tổng vốn đầu tư 94.000 tỷ
đồng. Vai trò của đầu tư công lại càng quan trọng hơn khi do ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19 khiến nguồn nhân công bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là công tác
giải phóng mặt bằng đang bị chậm nên các dự án vẫn chưa được hoàn thành đúng
tiến độ.
Bên cạnh đó, tăng cường vốn đầu tư công vào CSHT nhằm kết nối tốt hơn vùng
duyên hải Hải Phòng - Quảng Ninh cũng là một trong những mục tiêu ưu tiên. Hiện
tại, Hải Phòng và Quảng Ninh đang kết nối với nhau thông qua tuyến đường giao
thông đường bộ là Quốc Lộ 10, 2 tuyến phà Rừng, Lại Xuân, cao tốc Hạ Long-Hải
Phòng. Tuy nhiên, theo quy hoạch phát triển đô thị của Quảng Ninh thì phía Tây
Quảng Ninh sẽ có thêm thành phố Đông Triều và Quảng Yên. Trong khi đó, huyện
Thủy Nguyên cũng đang hoàn thiện hồ sơ thành lập thành phố Thủy Nguyên. Như
vậy các địa phương phía Tây Quảng Ninh và Thủy Nguyên, Hải Phòng vẫn khó khăn
trong việc di chuyển. Do đó, hành lang đường bộ thứ 3 của Quảng Ninh- Hải Phòng
là cầu Bến Rừng nối Quảng Yên với Thủy Nguyên qua sông Đá Bạch được khởi công
tháng 5/2022 và dự kiến hoàn thành cuối 2023 đóng vai trò rất quan trọng. Bên cạnh
đó, hành lang đường bộ thứ 4 là Lại Xuân cũng đang được xây dựng và dự kiến hoàn
thành cuối năm 2024. Tuy nhiên, cũng do dư địa của đại dịch covid-19 và ảnh hưởng
của chiến tranh Nga- Ucraina khiến giá vật liệu tăng cao, hai dự án cũng có dấu hiệu
chậm thi công hơn so với tiến độ. Vì vậy, vốn đầu tư công nên tập trung vào dự án
hành lang đường bộ thứ 3 và thứ 4 nhằm gia tăng kết nối giữa Hải Phòng- Quảng
Ninh nhằm giả quyết bài toán về vấn đề di chuyển giữa hai địa phương, từ đó thực
hiện đúng với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 của vùng KTTĐ Bắc bộ.
Thứ hai, tăng cường vốn đầu tư công hỗ trợ hộ kinh doanh làng nghề trong
ngắn hạn nhằm mục tiêu chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp trong dài hạn
gia tăng tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại vùng.
129
a. Cơ sở đề xuất giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công tạo tác động bổ trợ rõ rệt
cho đầu tư tư nhân thuộc khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn tại một số địa phương
thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ. Mặc dù về dài hạn, đầu tư công không tác động tới đầu tư
thuộc khu vực hộ gia đình và hình thức hộ gia đình kinh doanh trở nên không phù
hợp với bối cảnh mới, tuy nhiên, để thúc đẩy sự chuyển đổi trong dài hạn, trong ngắn
hạn, Chính phủ nên phân bổ vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ đầu tư khu vực hộ gia đình
tại vùng KTTĐ Bắc bộ. Đối chiếu với thực trạng đầu tư tư nhân tại các địa phương
thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ, một trong những hình thức kinh doanh điển hình của hộ
gia đình tại khu vực vùng KTTĐ Bắc bộ trong ngắn hạn đó chính là làng nghề. Do
đó, trước hết, Chính phủ cần phân bổ vốn đầu tư công cho khu vực này nhằm hướng
các hộ gia đình làng nghề tới đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên cứu tạo ra sản phẩm
mới, đồng thời đơn giản hóa thủ tục vay vố tăng cường khả năng tiếp cận của các cơ
sở đến nguồn vốn ưu đãi.
b. Nội dung giải pháp
Trước hết, để có thể hỗ trợ kinh doanh của làng nghề, vốn đầu tư công cần tập
trung tới các khía cạnh sau: (i) Về mặt bằng sản xuất và đầu tư kết cấu hạ tầng: Các
dự án đầu tư ngành nghề truyền thống được ưu tiên bố trí vào các cụm TTCN, các
điểm TTCN và các điểm TTCN làng nghề theo quy hoạch, được hưởng các chính
sách và thuế đất và phí sử dụng hạ tầng theo quy định của tỉnh; (ii) Đối với các dự án
phải di dời theo quy hoạch, được hưởng các chính sách theo Quyết định số 74/QĐ-
TTg ngày 06/4/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc sử dụng tiền chuyển quyền sử
dụng đất, tiền bán nhà xưởng và các công trình khác khi tô chức kinh tế phải di dời
trụ sở, cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy hoạch.
Tuy nhiên về dài hạn, bản thân hình thức làng nghề cũng xuất hiện nhiều yếu tố
bất cập (Bạch Thị Lan Anh, 2010) và theo xu thế phát triển của thế giới, các hộ kinh
doanh tại làng nghề nên có sự chuyển đổi thành hình thức doanh nghiệp. Nguồn vốn
đầu tư công trong dài hạn nên tập trung vào các cá nhân, tổ chức, các cơ sở sản xuất
đăng ký kinh doanh mới và dự kiến đầu tư phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền
thống. Theo đó, các đối tượng này nên được hỗ trợ một phần kinh phí khởi sự doanh
nghiệp, tham gia các lớp học khởi sự doanh nghiệp, lập kế hoạch kinh doanh, tăng
cường khả năng kinh doanh, theo kế hoạch khuyến công và khuyến nông hàng năm
của tỉnh. Đồng thời, chính quyền nên tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm đối tượng này
130
đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư.
Thứ ba, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI vào lĩnh vực công
nghiệp chế biến chế tạo nhằm hạn chế tác động lấn át và gia tăng tác động bổ trợ
của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.
a. Cơ sở đề xuất giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, FDI có tác động thúc đẩy đầu tư tư nhân
các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm trong dài hạn. Bên cạnh đó, đối chiếu
với tính hình phát triển kinh tế xã hội vùng KTTĐ Bắc bộ và định hướng đầu tư công
của vùng, phát triển công nghiệp chế biến chế tạo có vai trò quan trọng trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Số lượng vốn huy động cho phát triển công
nghiệp chế biến chế tạo đặc biệt là các ngành có hàm lượng và giá trị công nghệ cao
như chế tạo điện tử, linh kiện điện tử, máy tính, cơ khí, sản phẩm phục vụ ngành ô
tô... ở vùng KTTĐ Bắc Bộ hiện nay đang tăng lên nhanh chóng. Hơn nữa với lợi thế
là vùng tập trung nhiều KCN của cả nước, thu hút FDI vào lĩnh vực thế mạnh là công
nghiệp chế biến chế tạo là một trong những giải pháp phù hợp với bối cảnh hiện tại
của vùng.
b. Nội dung giải pháp
Về lĩnh vực đầu tư, trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, các địa
phương nội vùng nên ưu tiên thu hút FDI vào Công nghiệp điện tử, cơ khí chính xác,
công nghiệp chế tạo khuôn mẫu, dụng cụ y tế, công nghiệp dược, hoá mỹ phẩm. Theo
quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tầm nhìn
đến năm 2030, đây là những ngành được ưu tiên phát triển nhanh hơn các ngành khác
nhằm tạo tiền đề phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo.
Về phương thức đầu tư, các địa phương cần xác định phát triển công nghiệp chế
biến chế tạo sẽ gắn với phát triển KCN bền vững theo mô hình “ 3 trong1”. Đó chính
là KCN-khu đô thị-khu dịch vụ với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội đồng
bộ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, các địa phương cần ban hành
chính sách phát triển cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ, khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ theo hướng tiên tiến, hiện
đại, công nghệ cao, phát triển xanh nhằm tham gia vào mắt xích của chuỗi giá trị toàn
cầu cùng doanh nghiệp FDI. Mặt khác, nên thành lập Tổ công tác về xúc tiến đầu tư
của tỉnh chỉ đạo việc tiếp cận, xúc tiến các dự án lớn, động lực ngành công nghiệp
chế biến chế tạo do các nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước nghiên cứu.
131
6.3.2.2 Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Thứ nhất, tập trung vốn đầu tư công hoàn thiện tuyến cao tốc Bắc-Nam và
tuyến đường ven biển, đẩy mạnh hơn nữa sự liên kết về “trục ngang” nhằm gia
tăng hiệu ứng bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công và đầu tư công cho CSHT
có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ miền Trung. Đối chiếu với định
hướng chính sách đầu tư công thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-
2030, tầm nhìn đến năm 2050, hoàn thiện tuyến cao tốc Bắc-Nam, tuyến đường ven
biển và gia tăng kết nối với khu vực Tây Nguyên là một trong những giải pháp quan
trọng để phát huy các lợi thế, gia tăng năng lực cạnh tranh của các địa phương nội
vùng KTTĐ miền Trung.
b. Nội dung giải pháp
Trước hết, để hoàn thiện tuyên cao tốc Bắc- Nam, vốn đầu tư công cần tập trung
hoàn thiện tuyến cao tốc kết nối Bình Định với các địa phương còn lại trong vùng.
Hiện tại tuyến cao tốc này chưa được xây dựng và vì thế, giảm tính kết nối giữa Bình
Định và các địa phương nội Vùng. Bên cạnh đó, để thúc đẩy sự liên kết dọc tại các
địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung, Chính phủ nên tăng cường vốn đầu tư
công nhằm hỗ trợ dự án đường cao tốc Quảng Ngãi- Hoài Nhơn.
Ngoài ra, với đặc thù hơn 1.000km chiều dài bờ biển, vùng duyên hải miền
Trung có tiềm năng lớn trong việc phát triển vận tải ven biển cũng như du lịch biển.
Tuy nhiên, tại vùng KTTĐ miền Trung, vận tải đường bộ vẫn là chủ yếu (Lê Văn
Đính và cộng sự, 2022). Hiện tại, đường ven biển Võ Chí Công bắt đầu từ TP. Hội
An đến sân bay Chu Lai (huyện Núi Thành) dài 69 km, được xây dựng với tổng vốn
đầu tư 1.479 tỷ đồng và Tuyến ven biển tỉnh Bình Định đoạn từ Cát Tiến - Diêm Vân
(tổng mức đầu tư hơn 2.674 tỷ đồng) đã được tỉnh Bình Định tiến hành khởi công vào
giữa tháng 4/2022 đang là tuyến đường ven biển kết nối các địa phương thuộc vùng
KTTĐ miền Trung. Cùng với đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi và Quốc lộ 1A,
hai tuyến đường này là trục giao thông huyết mạch kết nối liên vùng, tạo động lực
phát triển lan tỏa kinh tế ven biển miền Trung (Lê Văn Đính và cộng sự, 2022). Do
đó, để mở rộng hơn nữa liên kết “dọc” các địa phương nội, cần phân bổ đầu tư công
cho các dự án về xây dựng các tuyến đường ven biển.
132
Đặc biệt, bên cạnh kết nối “dọc”, có thể tạo kết nối “ngang” bằng cách liên kết
giữa vùng KTTĐ miền Trung và các tỉnh Tây Nguyên. Hiện nay, vùng KTTĐ miền
Trung mới chỉ liên kết các tỉnh ven biển theo trục dọc mà chưa liên kết với các tỉnh
Tây Nguyên. Tuy nhiên trong bối cảnh các đại phương trong vùng có tiềm năng thế
mạnh khá tương đồng thì dễ dẫn tới áp lực cạnh tranh. Liên kết với các tỉnh Tây
Nguyên có thế mạnh khác biệt vừa hỗ trợ liên kết vùng ven biển bởi miền Trung là
cửa ngõ ra vào của vùng Tây Nguyên, kết nối tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây.
Thứ hai, hỗ trợ đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp nhằm hạn chế tác
động lấn át của đầu tư công trong ngắn hạn.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu kết quả mô hình hồi quy, trong ngắn hạn đầu tư công lấn át đầu tư tư
nhân khu vực doanh nghiệp tại hầu hết các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung.
Điều này cho thấy đầu tư công tác động mạnh tới đầu tư tư nhân tại các địa phương
nội vùng trong ngắn hạn so với các vùng KTTĐ khác tuy nhiêu chiều hướng tác động
lại là lấn át. Đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế cũng như thực trạng đầu tư
công, đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ, khu vực doanh nghiệp với các KCN, KKT đóng
vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế khu vực KTTĐ miền Trung. Do đó
để hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp
tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung thì cần thực hiện các giải pháp
như sau.
b. Nội dung giải pháp
Trước hết, tăng cường vốn đầu tư công cho cơ sở hạ tầng của các KCN, KKT
tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Miền Trung nhằm hỗ trợ khu vực doanh nghiệp.
Cơ cấu đầu tư tư nhân cho thấy đầu tư khu vực doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chủ đạo
so với đầu tư khu vực hộ gia đình tại các địa phương nội vùng. Kết quả hồi quy cũng
minh chứng cho tác động rõ rệt của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh
nghiệp so với khu vực hộ gia đình tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung.
Tuy nhiên, mặc dù được xác định là “xương sống” của các địa phương thuộc vùng
KTTĐ miền Trung tuy nhiên các KCN, KTT đang bộc lộ rất nhiều hạn chế (Đặng
Đình Đức, 2019). Cụ thể, trong quá trình phát triển, hoạt động của các KCN của vùng
còn tiềm ẩn nhiều hạn chế và một trong những nguyên nhân đó chính là hệ thống kết
cấu hạ tầng xuống cấp và thiếu đồng bộ (Trần Đình Thiên, 2021). Do đó, để thúc đẩy
đầu tư tư nhân, đối với mỗi địa phương nội Vùng, Chính phủ cần hỗ trợ vốn đầu tư
công hỗ trợ các KCN, KKT nhằm nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, từ đó thúc
133
đẩy đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ miền Trung. Vì vậy, Chính phủ cần ưu tiên vốn
đầu tư công để cải tạo cơ sở hạ tầng của KCN, KKT lớn đã xuống cấp tại mỗi địa
phương nội Vùng. Cụ thể, đó là khu KKT Dung Quất (Quảng Nam), KKTM Chu Lai
(Quảng Nam), KCN Đà Nẵng (Đà Nẵng). Sau đó, vốn đầu tư công có thể hỗ trợ các
KCN, KKT mới tại các địa phương nội vùng hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Cụ thể, (KCN)
Becamex VSIP (Bình Định), Khu công nghiệp Hoà Khánh mở rộng (Đà Nẵng), KCN
Quảng Vinh và Phú Đa (Thừa Thiên Huế).
Bên cạnh đó, cân đối ngân sách của các địa phương nội vùng, tăng tỷ lệ đầu tư
CSHT (chi XDCB) nhiều hơn. Từ số liệu của đầu tư XDCB của các địa phương thuộc
vùng KTTĐ cho thấy, chủ yếu ngân sách sử dụng cho chi thường xuyên nhiều hơn là
cho các khoản chi đầu tư XDCB (bình quân trên 40%). Trong khi đó, các khoản chi
thường xuyên là các khoản khó điều chỉnh. Điều này dẫn tới tiết kiệm cho ngân sách
đầu tư công thấp, gây ra vòng xoáy vay nợ bù đắp thâm hụt ngân sách và từ đó gây
sức ép lên thị trường vốn trong nước theo chiều hướng bất lợi cho kinh doanh của
doanh nghiệp (Đỗ Thị Thanh Huyền, 2021). Trên thực tế, ngoại trừ Đà Nẵng, các địa
phương còn lại thương xuyên đối mặt với vấn đề thâm hụt ngân sách do bội chi từ đó
dẫn tới nhu cầu vay vốn ngày càng tăng đối với khu vực công. Trong khi đó, theo cơ
cấu đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng, khu vực doanh nghiệp - đối tượng có
nhu cầu vay vốn lớn để triển khai các hoạt động đầu tư chiếm tới 65%. Do đó, sức
ép của thị trường vốn vay tác động rõ rệt tới các doanh nghiệp thuộc các địa phương
50
40
30
20
10
-
Đà Nẵng
Quảng Nam
Quảng Ngãi
Thừa Thiên Huế
Bình Định
Thu NS
Chi NS
nội vùng.
Hình 6.2: Tình hình thu chi bình quân từ NS địa phương trong giai đoạn 2010-
2021 tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Niên giám thống kê các tỉnh thuộc vùng KTTĐ
Miền Trung
134
Ngoài ra, tại một số địa phương nội Vùng như Huế (8,81%) có tỷ trọng doanh
nghiệp nhà nước cao hơn rất nhiều so với mức bình quân chung cả nước (0,3%). Việc
doanh nghiệp nhà nước tham gia hoạt động đầu tư cũng là một trong những nguyên
nhân tạo sự lấn át cho doanh nghiệp tư nhân khi cùng tham gia đầu tư vào một số lĩnh
vực mà khu vực tư nhân đầu tư hiệu quả hơn (Phạm Đình Khôi và cộng sự, 2019).
Để tránh hiện tượng chèn ép của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tới các địa phương
nội Vùng trong ngắn hạn, cần phải điều chỉnh lại cơ cấu chi NSNN, tập trung nhiều
hơn tới XBCD và quản lý tốt hơn các khoản chi thường xuyên.
Thứ ba, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI vào lĩnh vực nghỉ
dưỡng bất động sản nhằm gia tăng tác động bổ trợ và hạn chế tác động lấn át của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, trong ngắn hạn đầu tư công có tác động
lấn át đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng. Do đó, để hạn chế tác động lấn át
của đầu tư công trong ngắn hạn, các tỉnh trong vùng KTTĐ miền Trung cần tăng
cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bởi lẽ từ kết quả nghiên cứu,
FDI có tác động thúc đẩy đầu tư tư nhân tại một số các địa phương trong vùng kinh
tế trọng điểm miền Trung. Đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế và định hướng
chính sách đầu tư công, du lịch-dịch vụ là ngành kinh tế mũi nhọn của vùng. Mặt
khác, đối chiếu với bối cảnh trong nước và quốc tế, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đang ngày càng trở nên cạnh tranh hơn giữa các quốc gia trước tác động của
các cú sốc kinh tế và chính trị. Do đó, các địa phương cần xây dựng giải pháp khôi
phục và phát triển dịch vụ - du lịch cũng như thu hút FDI vào dịch vụ - du lịch.
b. Nội dung giải pháp
Về lĩnh vực đầu tư, với lợi thế về địa hình bờ biển dài đẹp, các địa phương nội
vùng KTTĐ miền Trung nên nắm bắt được xu thế của dòng vốn FDI, từ đó xây dựng
giải pháp nhằm thu hút dòng vốn FDI chảy vào lĩnh vực BĐS nghỉ dưỡng. Số liệu từ
Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy, tính đến ngày 20/9/2022,
tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt 18,7 tỷ USD,
giảm 15,3% so với cùng kỳ năm 2021.Trong đó, lĩnh vực kinh doanh BĐS vẫn tiếp
tục ở vị trí thứ 2 trong danh sách các ngành thu hút vốn đầu tư FDI trong 9 tháng qua
với hơn 3,5 tỷ USD, chiếm gần 19% tổng vốn đầu tư đăng ký. Có thể nói, xu hướng
chính của nhà đầu tư hiện nay là đầu tư những dự án giá trị, xây dựng những điểm
135
đến có giá trị và việc khai thác đầu tư theo dòng tiền hiện nay ở Việt Nam cực kỳ cao.
Các loại hình bất động sản nghỉ dưỡng hấp dẫn vốn FDI là khách sạn nội đô, khu nghỉ
dưỡng dài hạn, dịch vụ quản lý bất động sản nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí.
Về phương thức thu hút dòng vốn đầu tư, trước hết các địa phương nội vùng cần
dành nguồn lực đầu tư công tập trung vào cơ sở hạ tầng du lịch bao gồm cải thiện hệ
thống giao thông, xây dựng các khu du lịch, khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi, giải trí và
các tiện ích liên quan khác. Bên cạnh đó, để thu hút FDI vào BĐS nghỉ hướng, cần
chú ý tới đào tạo và phát triển nhân lực cho ngành du lịch. Mặt khác, các địa phương
nội vùng cần có sự hợp tác với các đối tác trong nước và nước ngoài nhằm bổ sung
thêm nguồn lực thúc đẩy du lịch nội vùng và từ đó thu hút khách du lịch quốc tế.
6.3.2.3 Vùng KTTĐ phía Nam
Thứ nhất, tập trung vốn đầu tư công xây dựng hạ tầng số hiện đại, thuộc
nhóm đầu các nước trong khu vực và hoàn thiện cơ sở hạ tầng KCN nhằm gia
tăng tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công cho CSHT tác động bổ trợ
tới đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ phía Nam. Đối chiếu với tình hình phát triển kinh
tế xã hội cũng như định hướng chính sách đầu tư công thông qua Quy hoạch tổng thể
quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, các địa phương nội Vùng được
định hướng phát triển các KCN sinh thái hiện đại và thành phố Hồ Chí Minh được
định hướng pháp triển thành trung tâm tài chính thế giới. Đối chiếu bối cảnh trong
nước và quốc tế, đầu tư công cho CSHT chính là một trong những giải pháp quan
trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của các địa phương và thu hút đầu tư tư nhân.
b. Nội dung giải pháp
Về xây dựng hạ tầng số, trong chiến lược phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
tại nghị quyết 128, vùng KTTĐ phía Nam được định hướng là trung tâm dịch vụ kinh
tế, tài chính, thương mại và khoa học-công nghệ của cả nước và cả khu vực. Trong
bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang chuyển sang xu hướng kinh tế số, Chính quyền
các địa phương thuộc vùng KTTĐ cần hướng đến chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
dành cho công nghệ số bên cạnh các vấn đề liên quan tới chất lượng nhân lực hay thể
chế. Theo nghiên cứu của Huỳnh Thị Tuyêt Ngân và cộng sự (2021), chuyển đổi số
có tác động tích cực tới đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại các tỉnh thuộc vùng
KTTĐ phía Nam. Trong đó, chỉ số hạ tầng công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan
136
trọng đối với tác động tích cực này. Mặt khác, theo báo cáo của Hiệp hội Thương mại
điện tử Việt Nam, hiện trong tốp 5 các tỉnh, thành dẫn đầu bảng xếp hạng Chỉ số
thương mại điện tử (EBI), có 2 tỉnh, thành nằm trong Vùng KTTĐ phía Nam là TP.Hồ
Chí Minh dẫn đầu và Bình Dương xếp thứ 5. Ngoài ra, Bình Dương còn được Cộng
đồng Thành phố thông minh thế giới (ICF) bình chọn là một trong 21 thành phố, khu
vực có chiến lược phát triển thành phố thông minh tiêu biểu của thế giới và là địa
phương đầu tiên của Việt Nam, cùng với Singapore trở thành thành viên chính thức
của ICF. Tuy nhiên, hạ tầng CNTT tại Vùng hiên nay còn ở tình trạng tiêng rẽ, độc
lập, do đó chưa đảm bảo tính liên tục của dịch vụ số. Hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin còn chậm về tốc độ, chưa đáp ứng các yêu cầu về phát triển của kinh tế số19.
Do đó, bên cạnh phân bổ vốn đầu tư công cho cơ sở hạ tầng giao thông, cơ sở hạ tầng
đô thị như các vùng KTTĐ khác, chính phủ cần tăng cường nguồn lực đầu tư công
cho việc xâu dựng và phát triển hạ tầng công nghệ số tại vùng KTTĐ phía Nam nói
riêng và tiến tới phổ cập cả nước nói chung. Đặc biệt, thành phố Hồ Chí Minh cần
phải đi đầu trong thực hiện chuyển đổi số, trong phát triển hạ tầng về công nghệ thông
tin, hạ tầng số để hỗ trợ quá trình chuyển đổi số nhanh chóng.
Hiện nay, Chính phủ đã giao Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp
với các cơ quan liên quan triển khai phát triển hạ tầng số hiện đại, ưu tiên triển khai
hạ tầng mạng 5G trong các khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung để
triển khai các công nghệ số đổi mới sáng tạo mang tính đột phá; hướng dẫn các địa phương xây dựng, phát triển chính quyền số gắn liền với đô thị thông minh20. Đối với
TP. Hồ Chí Minh, UBND TPHCM vừa ban hành kế hoạch triển khai Chương trình
“Chuyển đổi số của TPHCM” và Đề án “Xây dựng TPHCM trở thành đô thị thông
minh”. Theo đó, TP tục mở rộng, hoàn thiện nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của
TP để chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của các cơ quan tại TP và kết nối
liên thông thành công với nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia. Ngoài ra, xây
dựng kiến trúc mạng viễn thông băng rộng dùng riêng cho đô thị thông minh. Đồng
thời, tăng cường vùng phủ sóng và chất lượng dịch vụ viễn thông băng rộng di động
(3G, 4G, hường đến 5G) và mạng băng rộng cố định (cáp quang) đến cấp xã, khu
19 Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị. 20 Thông báo số 207/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ.
phố ấp.
137
Tuy nhiên, đặc điểm kinh tế TP.HCM là hơn 95% là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa cùng với hơn 300 ngàn hộ sản xuất kinh doanh cá thể. Mặc dù chuyển đổi số sẽ
nâng cao hiệu quả, năng suất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, hộ kinh doanh
trong mọi ngành kinh tế, nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức, trong đó nổi bật là yếu
tố nhân lực kể cả hai khía cạnh: nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và nhân lực
dôi dư do không đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong từng doanh nghiệp (động lực
và trở lực đang đan xen nhau). Có lẽ quá trình chuyển đổi số vấn đề công nghệ quan
trọng, nhưng quan trọng hơn là yếu tố con người. Do đó, vấn đề đặt ra là vai trò Nhà
nước hay nói cách khác là đầu tư công cho phát triển nguồn lực đủ trình độ đáp ứng
chuyển đổi số.
Về hoàn thiện CSHT KCN, xu thế biến đổi cấu trúc giao thông kết nối vùng và
lãnh thổ quốc gia thông qua hình thành hệ thống đường cao tốc, ga hàng không, cảng
biển sẽ tạo ra những xu thế dịch chuyển về phân bố địa bàn hệ thống các KCN “mới”
trong giai đoạn tới. Do đó, chiến lược tích hợp hệ thống KCN với hệ thống đô thị mới
và các điểm dân cư công nghiệp cần được thể hiện rõ định hướng Quy hoạch tổng thể
Quốc gia, Quy hoạch hệ thống đô thị - nông thôn để tạo ra sức mạnh tổng hợp giữa
phát triển sản xuất và nguồn nhân lực; gắn kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào
kỹ thuật; gắn kết giữa phát triển đô thị và hệ thống điểm dân cư hiện đại và hệ thống
KCN. Đẩy mạnh nghiên cứu, đổi mới quy hoạch nhằm xây dựng các mô hình đô thị
- công nghiệp, khu dịch vụ - công nghiệp - đô thị, KCN sinh thái (tiết kiệm năng
lượng, phát thải thấp). Xây dựng mô hình KCN sinh thái, KCN đô thị dịch vụ đồng
bộ kết cấu hạ tầng KCN.
Thứ hai, quản lý hiệu quả vốn vay trong đầu tư công nhằm hạn chế tác động
lấn át đối với đầu tư tư nhân trong ngắn hạn.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, trong ngắn hạn, đầu tư công có tác động
lấn át đầu tư doanh nghiệp tới một số địa phương thuôc vùng KTTĐ phía Nam trong
khi đó lại có tác động bổ trợ tại một số địa phương. Đối chiếu với thực trạng đầu tư
công tại các địa phương vùng KTTĐ, hiệu ứng lấn át đều là những địa phương có tỷ
trọng vốn vay trong cơ cấu đầu tư công lớn nhất trong nội Vùng. Cụ thể, Bình Phước
với tỷ lệ vốn vay 31,42%, Tiền Giang với 28,37%. Trong khi đó hầu hết các địa
phương còn lại tỷ lệ vốn vay chỉ dưới 10% trong cơ cấu đầu tư công.
138
b. Nội dung giải pháp
Trước hết, để hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại một
số địa phương thuộc vùng KTTĐ, trước hết Chính phủ cần trao quyền cho Hội đồng
Vùng và Chính quyền địa phương rà soát danh mục các chương trình, dự án đầu tư
sử dụng vốn vay, kiên quyết cắt giảm các chương trình, dự án không đảm bảo hiệu
quả, chưa thực sự cần thiết. Bên cạnh đó, Hội đồng Vùng và Chính quyền địa phương
đặc biệt là các địa phương đang có tỷ trọng vốn vay cao cần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn vay, từng bước thu hẹp phạm vi sử dụng nợ, chỉ tập trung cho các công
trình, dự án trọng điểm, thực sự có hiệu quả, đảm bảo khả năng cân đối nguồn trả nợ.
Theo Đỗ Thị Thanh Huyền và cộng sự (2021), một trong những nguyên nhân dẫn tới
đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân đó chính là đầu tư công dựa nhiều vào nguồn vay
nợ, đặc biệt là vay nợ trong nước. Các ngân hàng thương mại nắm giữ hầu hết trái
phiếu Chính phủ và do đó chèn ép đầu tư tư nhân trong nước, từ đó phải dựa nặng
nề vào việc vay nợ từ các ngân hàng thương mại. Tình trạng này kết hợp với số lượng
lớn các khoản vay không hiệu quả và sức ép liên quan tới tính thanh khoản của hệ
thống ngân hàng đã đẩy Chính phủ đến khó khăn trong việc trả nợ của Chính phủ. Và
vòng xoáy đầu tư công, thâm hụt ngân sách, vay nợ, lấn át đầu tư tư nhân lại tiếp diễn.
Thứ ba, phát triển thị trường vốn nhằm giảm áp lực đối với tín dụng ngân
hàng nhằm hạn chế tác động lấn át của đầu tư công trong ngắn hạn.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, trong ngắn hạn tại TP. Hồ Chí Minh,
đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân tư khu vực doanh nghiệo cũng như
hộ gia đình. Nguyên nhân xuất phát từ yếu tố tại thành phố Hồ Chí Minh có thị trường
vốn tương đối phát triển so với các địa phương khác. Hơn nữa, trong chiến lược phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm tại nghị quyết 128, vùng KTTĐ phía Nam được
định hướng là trung tâm dịch vụ kinh tế, tài chính, thương mại và khoa học-công nghệ
của cả nước và cả khu vực. Kết quả hồi quy lại cho thấy yếu tố lãi suất có tác động
ngược chiều tới đầu tư tư nhân và đầu tư công tại Việt Nam phụ thuộc nhiều vào việc
vay vốn từ NHTM (Đỗ Thị Thanh Huyền và cộng sự, 2021). Đối chiếu với thực trạng
đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ phía Nam nói riêng và tại các vùng KTTĐ nói chung,
khi vực hộ gia đình cũng gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn từ hệ thống NHTM
do không có tài sản đảm bảo. Do đó, đa dạng hóa công cụ tín dụng chính là giảm
gánh nặng đối với thị trường vốn hiện nay đang dựa nhiều vào hệ thống ngân hàng
139
thương mại và từ đó sẽ giảm tình trạng vay vốn tín dụng ngân hàng để tài trợ đầu tư
công. Đối chiếu với định hướng chính sách đầu tư công tại vùng cũng như bối cảnh
trong nước và quốc tế, TP.HCM đang được định hướng trở thành trung tâm tài chính
quốc tế, từ đó tạo động lực dẫn dắt các địa phương còn lại phát triển thị trường vốn.
b. Nội dung giải pháp
Trước hết, Chính phủ, Hội đồng Vùng cũng như chính quyền địa phương vùng
KTTĐ phía Nam cần nghiên cứu về vấn đề phát triển và hoàn thiện các định chế tài
chính-tín dụng phi ngân hàng như các công cụ quỹ đầu tư , công ty đầu tư , công ty
tàu chính...Các định chế này là công cụ để tập hợp các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội,
từ đó giảm áp lực cho tín dụng ngân hàng, cũng như tạo điều kiện cho các thành phần
đầu tư tư nhân có thể tiếp cận được vốn để mở rộng đầu tư.
Bên cạnh đó, thành phố Hồ Chí Minh cần chứng minh vai trò dẫn dắt của mình
thông qua việc tiên phong phát triển thị trường vốn. Đến nay, TP Hồ Chí Minh là địa
phương duy nhất của cả nước được tổ chức Z/Yen - London đánh giá xếp hạng so với
các trung tâm tài chính toàn cầu. Các cấu phần thị trường bao gồm thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán phái sinh đều đạt tốc độ tăng
trưởng cao, là cơ sở để thị trường tiếp tục phát triển trong giai đoạn 2020 đến năm 202521. Đây chính là cơ sở để thúc đẩy việc hình thành Trung tâm tài chính quốc tế
tại TP Hồ Chí Minh. Do đó, thành phố hoàn toàn có đủ khả năng để trở thành hạt
nhân dẫn dắt các địa phương còn lại phát triển thị trường vốn. Để phát triển TP.HCM
trở thành trung tâm tài chính quốc tế, cần hoàn thiện 3 trụ cột cốt lõi. Thứ nhất, với
trụ cột thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng, hiện chỉ mới có hệ thống ngân hàng
thương mại mà thiếu ngân hàng đầu tư. Thứ hai, với trụ cột thị trường vốn thì còn
manh nha, sơ khai và mới hình thành dạng trái phiếu ở một số lĩnh vực nhất định,
trong đó chủ yếu là ngành bất động sản. Cần hoàn thiện hệ thống pháp lý để thị trường
này hoạt động đầy đủ cho tất cả ngành nghề. Thứ ba, là trụ cột về thị trường hàng hoá
phái sinh. Trụ cột này hoàn toàn chưa có, thậm chí sàn giao dịch điện tử hàng hoá sơ
cấp nhất cũng chưa hình thành.
Thứ tư, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI công nghệ cao theo
hướng tự động hóa, ứng dụng robot và trí tuệ nhân tạo nhằm gia tăng tác động bổ
trợ và hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa
21 Tọa đàm “Giải pháp hình thành trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM”, Báo Sài Gòn giải phóng, 9/2/2023.
phương nội vùng.
140
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ
phía Nam có vốn FDI có rác động tích cực tới đầu tư tư nhân thì đầu tư công tạo hiệu
ứng bổ trợ tới đầu tư công ngay cả trong ngắn hạn. Đối chiếu với tình hình phát triển
kinh tế, mặc dù là vùng KTTĐ có nhiều KCN, KKT nhất trong số 4 vùng KTTĐ
nhưng giá trị gia tăng của sản phẩm, hiệu quả sử dụng tài nguyên, thâm dụng lao động
phổ thông chính là những hạn chế mà các địa phương nội vùng đang phải đối mặt.
Do đó, định hướng phát triển của Vùng là chuyển hướng thu hút đầu tư FDI có chiều
sâu. Hay nói cách khác, vùng định hướng thu hút FDI công nghệ cao, tập trung hỗ trợ
các dự án đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng tự động hóa, ứng dụng robot và trí
tuệ nhân tạo trong sản xuất và quản lý, điều hành.
b. Nội dung giải pháp
Trước hết, để hướng tới mục tiêu thu hút vốn đầu tư FDI vào các dự án công
nghệ cao đòi hỏi các địa phương nội Vùng cần phải cân đối và điều chỉnh cơ cấu vốn
đầu tư công cho CSHT KHCN với mức hợp lý hơn. Do ngoại trừ TP. Hồ Chí Minh,
các địa phương nội vùng có tỷ trọng đầu tư CSHT cho KHCN tương đối thấp (1,13%).
Bên cạnh đó, TP.Hồ Chí Minh với vai trò là thành phố đầu tàu cần tiên phong phát
triển CSHT cho KHCN trong cơ cấu vốn đầu tư công. Mặt khác, TP.HCM cần ban
hành Bộ tiêu chí thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và có kế hoạch, lộ trình, chính
sách cho việc chuyển đổi công nghệ trong phát triển công nghiệp trên địa bàn TP. Từ
đó, hình thành điểm sáng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư có mong muốn chuyển đến
tìm kiếm cơ hội làm ăn, phát triển tại TP.HCM nói riêng, vùng KTTĐ phía Nam và
cả nước nói chung trong bối cảnh dòng vốn đầu tư trên thế giới đang có sự chuyển
dịch mạnh mẽ từ Tây sang Đông, nhất là Đông Nam Á trong đó có VN. Qua đó, tạo
sức mạnh lan tỏa tới các địa phương nội vùng nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn
FDI công nghệ cao.
6.3.2.4 Vùng KTTĐ ĐBSCL
Thứ nhất, tập trung vốn đầu tư công vào cơ sở hạ tầng giao thông đường thủy
nhằm gia tăng tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa
phương nội vùng.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công có tác động bổ trợ đầu tư tư
nhân trong dài hạn. Đặc biệt đầu tư công cho CSHT theo phương pháp phi nhân quả
141
Granger có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân. Do đó, tập trung đầu tư công vào cơ
sở hạ tầng chính là một trong những giải pháp lan tỏa tác động dài hạn của đầu tư
công tới đầu tư tư nhân. Mặt khác, đối chiếu với thực trạng đầu tư công tại các địa
phương vùng KTTĐ ĐBSCL, đầu tư công cho cơ sở hạ tầng giao thông ở vùng KTTĐ
ĐBSCL chưa theo kịp với nhu cầu, do đó đầu tư công bổ sung là cần thiết và phải đi
kèm với hiệu quả trong quy hoạch, tránh trùng lặp, chậm trễ… làm kìm hãm sự phát
triển cơ sở hạ tầng trong khu vực (UNDP, 2022). Ngoài ra, đối chiếu với bối cảnh
trong nước và quốc tế, đầu tư công cho CSHT chính là một trong những giải pháp
quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của các địa phương và thu hút đầu tư tư
nhân trong nước cũng như nước ngoài.
b. Nội dung giải pháp
Tại Vùng KTTĐ ĐBSCL, phương thức vận tải hàng hóa bằng đường bộ đang
chiếm ưu thế so với đường thủy (thủy nội địa và vận tải biển ven bờ). Tuy nhiên, hạ
tầng giao thông đường bộ hiện tại vẫn bộc lộ rất nhiều yếu kém, một phần do địa hình
của Vùng (ngập mặn, sạt lở, địa chất kém…) khó thực thi các dự án đường bộ, mặt
khác do thiếu nguồn lực đầu tư. Trong bối cảnh ngân sách đang bị thu hẹp do đại dịch
Covid-19, ngân sách Chính phủ không thể đầu tư dàn trải cho tất cả các hạng mục
liên quan tới các dự án đường bộ tại các địa phương do đó Chính phủ cần hỗ trợ
nguồn vốn đầu tư công tập trung vào các tuyến liên kết nội vùng như tuyến cao tốc
Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Cà Mau, tuyến tránh Quốc lộ 1 qua
TP. Cà Mau…Bên cạnh đó, để hỗ trợ hoạt logistics cho các doanh nghiệp Chính phủ
cũng nên tập trung vào hệ thống đường bộ cao tốc khi mà hệ thống đường bộ cao tốc
tại Vùng chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải với khối lượng lớn, tốc độ nhanh, an
toàn và chi phí đường bộ cao tốc tại khu vực ĐBSCL cao hơn 1,3-1,5 lần so với các
khu vực khác. Hiện nay mới chỉ có tuyến Cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ đang bắt đầu
được thi công vào năm 2021 và đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.22
Tuy nhiên, nếu tính đầy đủ các chi phí ngoại tác (ví dụ hệ quả gây ra cho biến
đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, tai nạn, tắc nghẽn giao thông, các chi phí khác…)
thì chi phí vận tải đường bộ sẽ cao gấp năm lần so với vận tải đường thủy nội địa;
22 Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030
phát thải khí nhà kính cũng cao gấp 3,5 lần. Vận tải thủy còn có nhiều lợi thế như giá
142
cước thấp, tải được nhiều loại hàng có khối lượng lớn, hàng hóa siêu trường, siêu
trọng, lại là phương thức vận chuyển mang tính xã hội hóa. Vì vậy, việc đầu tư hạ
tầng giao thông thủy một cách đồng bộ đang là vấn đề cấp thiết (Vũ Thành Tự Anh,
2022). Trong bối cảnh vận tải container ở Việt Nam đang ngày càng phát triển và vận
tải đường bộ đang quá tải thì việc chuyên chở và trung chuyển hàng container bằng
đường thủy nội địa là một trong những giải pháp vận tải hợp lý trong việc kết nối với
các cảng biển. Ngoài ra, còn góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát
thải khí CO2. Do đó, đầu tư công tại vùng KTTĐ ĐBSCL cần hướng mục tiêu vào
phát triển hạ tầng giao thông đường thủy. Trong đó, cần ưu tiên đầu tư tuyến đường
thủy kết nối các địa phương nội vùng như Rạch Giá - Cà Mau, Mộc Hoa - Hà Tiên,
Quản Lộ - Phụng Hiệp, cảng Tân Châu, An Giang, cảng Bình Long, An Giang, cảng
Tắc Cậu, Kiên Giang và cảng Ông Đốc, Cà Mau hoặc tuyến đường thủy kết nối với
thành phố Hồ Chí Minh và Vùng Đông Nam Bộ như tuyến Thành phố Hồ Chí Minh
- Kiên Lương.
Thứ hai, tăng cường đầu tư công vào hỗ trợ chuyển đổi mô hình sản xuất
nông nghiệp theo hướng bền vững và có sự liên kết với doanh nghiệp nhằm gia
tăng tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công có tác động tích cực tới đầu
tư tư nhân khu vực hộ gia đình tại một số địa phương nội Vùng trong ngắn hạn và
khu vực doanh nghiệp trong dài hạn. Mặt khác, đối chiếu với thực trạng đầu tư tư
nhân và tình hính phát triển kinh tế tại các địa phương nôi vùng, đầu tư tư nhân tại
vùng KTTĐ ĐBSCL phụ thuộc vào cả hộ gia đình và doanh nghiệp với tỷ trọng gần
tương đương nhau. Trong đó, nông nghiệp chính là ngành sinh kế chủ đạo của hộ gia
đình tại các địa phương nội Vùng và cũng là thế mạnh của vùng KTTĐ ĐBSCL. Tuy
nhiên, hiệu quả đầu tư tư nhân của khu vực này chưa cao do thiếu hụt lượng vốn lớn.
Bên cạnh đó, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp chưa thực sự có sự gắn kết.
b. Nội dung giải pháp
Để hỗ trợ chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, chính sách đầu tư công cần
tập trung hỗ trợ khu vực hộ gia đình tham gia sản xuất nông nghiệp theo hướng bền
vững và có sự liên kết với doanh nghiệp. Một trong những mô hình tiêu biểu mà khu
vực hộ gia đình tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL có thể triển khai và
phát triển đó chính là mô hình cánh đồng lớn.
143
Bảng 6.2: Thông tin chung về kết quả xây dựng cánh đồng lớn tại vùng KTTĐ
ĐBSCL năm 2020 so với năm 2016
Tổng số cánh đồng lớn Số hộ tham gia Diện tích gieo trồng Địa phương (Cánh đồng) (Hộ) trong 12 tháng trước
2016 2020 2016 2020 2016 2020
6 599 2 091 39 954 6 453 24 An Giang 140
6 161 4 855 23 005 15 321 93 Kiên Giang 151
26 593 18 473 35 002.9 39 308 44 Cần Thơ 36
998 4 193 2 456 3 695 18 Cà Mau 8
Nguồn: Cuộc điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 và 2016, Tổng
cục thống kê
Trên thực tế, cánh đồng lớn là mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân
để sản xuất lúa hàng hóa quy mô lớn. Khởi phát ở An Giang, cánh đồng mẫu lớn là
mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để sản xuất lúa hàng hóa quy mô
lớn, tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngành hàng lúa
gạo Việt Nam. Đây được xem là mối liên kết nhà nông - nhà doanh nghiệp trong sản
xuất - tiêu thụ lúa gạo. Mô hình này được kỳ vọng sẽ giúp lúa gạo dễ tiêu thụ, nâng
cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững và tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của ngành hàng lúa gạo. Tuy nhiên, tổng số cánh đồng, số
hộ tham gia và diện tích gieo trồng có xu hướng sụt giảm mạnh trong những năm gần
đây. Một trong những nguyên nhân được cho là doanh nghiệp khó khăn trong tiếp
cận nguồn vốn (Đặng Hiếu, 2016).
Những năm gần đây, nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi dành cho nông nghiệp đã
được đưa ra để thúc đẩy sự phát triển của chương trình cánh đồng lớn tại ĐBSCL nói
chung và vùng KTTĐ ĐBSCL nói triêng. Tuy vậy nguồn vốn đầu tư trực tiếp đủ
mạnh, tạo đột phá cho cánh đồng lớn lại là vấn đề nan giải. Liên kết giữa doanh
nghiệp và nông dân chủ yếu vẫn ở phần ngọn là bao tiêu thu mua lúa. Do đó cánh
đồng lớn ngày càng bị thu nhỏ và chững lại trong những năm gần đây tại các địa
phương từng là đầu tàu của chương trình cánh đồng lớn như An Giang, Kiên Giang.
Mặc dù hai địa phương còn lại là Cần Thơ và Cà Mau đều có sự gia tăng về số lượng
cánh đồng lớn, số hộ tham gia và diện tích gieo trồng nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ.
Do đó, Nhà nước cần tập trung đầu tư và tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp
tiếp cận vốn để mô hình này tiếp tục lan tỏa và phát huy hiệu quả trong thời gian tới.
144
Trong đó, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nòng cốt thì cần được Chính phủ
hỗ trợ cùng Ngân hàng chính sách xã hội cho vay đủ vốn để đầu tư xây dựng cánh
đồng lớn liên kết theo từng dự án được các tỉnh, thành phố phê duyệt dựa trên các
tiêu chí, quy định của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Thứ ba, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI vào nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao nhằm gia tăng tác động bổ trợ và hạn chế tác động lấn át của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.
a. Cơ sở xây dựng giải pháp
Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, trong dài hạn FDI có tác động bổ trợ đầu
tư tư nhân tại các địa phương nội vùng. Do đó, để hạn chế tác động lấn át của đầu tư
công trong ngắn hạn, các tỉnh trong vùng KTTĐ ĐBSCL cần tăng cường thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế tại các
địa phương nội vùng, nông, lâm nghiệp, thủy sản là những ngành kinh tế mũi nhọn
của vùng nên các địa phương cần tìm giải pháp khôi phục cũng như thu hút FDI vào
các ngành mũi nhọn trên. Mặt khác, đối chiếu với bối cảnh trong nước và quốc tế, xu
hướng đầu tư mới của vốn FDI trên quy mô toàn cầu cho thấy dòng vốn vào lĩnh vực
sản xuất đang giảm dần. Thay vào đó, vốn FDI vào các lĩnh vực năng lượng tái tạo,
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao hơn
(UNCTAD, 2021).
b. Nội dung giải pháp
Theo Dương Thị Trang (2018), các chính sách quan trọng để có thể thu hút FDI
vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam bao gồm có chính sách hỗ trợ
tín dụng, chính sách đất đai và chính sách cơ sở hạ tầng. Với trường hợp của vùng
KTTĐ ĐBSCL, các chính sách trên nên được thực hiện theo hướng như sau:
Đối với chính sách hỗ trợ tín dụng, ngoài gói tín dụng từ các ngân hàng thương
mại cho vay phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo nghị quyết số 30/2017/NQ,
các cá nhân doanh nghiệp sản xuất công nghiệp công nghệ cao có thể tiếp cận tín
dụng với lãi suất ưu đãi tại các ngân hàng chính sách xã hội. Mặc dù vậy, tại vùng
KTTĐ ĐBSCL, nguồn vốn mà các NHTM cho vay còn thiếu hụt khoảng 20% nhu
cầu (Nguyễn Thị Tuyết Nga, 2021). Do đó, Chính phủ nên sử dụng một phần vốn đầu
tư công nhằm cấp bù chênh lệch lãi suất tín dụng cho các cá nhân doanh nghiệp vay
vốn cho các dự án nông nghiệp công nghệ cao.
Đối với chính sách đất đai, tại vùng KTTĐ ĐBSCL, quy mô đất đai nông hộ
nhỏ lẻ, manh mún và không có diện tích lớn (VCCI, 2022). Điều này dẫn đến khó
145
khăn trong việc áp dụng đồng bộ khoa học kỹ thật. Do đó, Chính phủ cần sử dụng
vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ tài chính cho người nông dân nhằm vận động chuyển
quyền sử dụng đất, từ đó đẩy nhanh quá trình triển khai tích tụ, tập trung đất đai cho
các dự án nông nghiệp công nghệ cao.
Đối với chính sách cơ sở hạ tầng, do đặc thù tại vùng KTTĐ ĐBSCL, địa chất
yếu nên triển khai các dự án liên quan tới xây dựng CSHT đòi hỏi nguồn vốn lớn
(VCCI, 2022). Do đó, Chính phủ nên ưu tiên nguồn lực vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ
xây dựng CSHT nhằm hỗ trợ thu hút FDI vào nông nghiệp công nghệ cao. Các công
trình CSHT để phục vụ cho nông nghiệp công nghệ cao cần tập trung hoàn thiện là
hệ thống điện lưới, hệ thống thủy lợi, hệ thống công nghệ thông tin và hệ thống thủy lợi.
TỔNG KẾT CHƯƠNG 6
Chương 6 Luận án tập trung đề xuất giải pháp sử dụng đầu tư công nhằm thúc
đẩy đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.
Cụ thể, Luận án đề xuất giải pháp chung cho các vùng KTTĐ, đồng thời đưa ra
các giải pháp riêng biệt cho từng vùng KTTĐ. Các giải pháp đều tập trung vào gia
tăng hiệu ứng bổ trợ và giảm hiệu ứng lấn át của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân
tại các vùng KTTĐ. Đối với giải pháp chung, Luận án đề xuất các giải pháp như sau:
Thứ nhất, tăng cường vốn đầu tư công vào cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu thúc đẩy đầu
tư tư nhân trong dài hạn; Thứ hai, tập trung vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ đầu tư tư
nhân từ khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh
doanh hộ gia đình đủ lớn thành mô hình doanh nghiệp tại các vùng KTTTĐ trong dài
hạn; Thứ ba, thúc đẩy hoạt động đầu tư công hiệu quả tại các hạt nhân của mỗi vùng
KTTĐ để tạo tác động bổ trợ cho đầu tư tư nhân cũng như tạo hiệu ứng lan tỏa đối
với đầu tư tư nhân ở các địa phương lân cận. Đối với giải pháp cụ thể, Luận án đề
xuất các giải pháp cho từng vùng KTTĐ trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế, thực
trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân, kết quả mô hình hồi quy cũng như định hướng đầu
tư công trong giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2050 của các vùng KTTĐ.
Ngoài ra, Luận án cũng đề xuất các giải pháp liên quan tới (i) Tăng cường thu
hút và chọn lọc các dự án FDI vào các lĩnh vực thế mạnh của địa phương nội Vùng
và (ii) Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng nhằm hạn chế tác động lấn át của
đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn, từ đó khuyến khích đầu tư tư nhân tại
các vùng KTTĐ.
146
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền kinh tế sau đại dịch Covid-19, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài trở nên cạnh tranh hơn, đầu tư công trở thành lực đẩy, thu hút vốn đầu tư tư
nhân trong nước và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam nói chung và
vùng KTTĐ nói riêng. Nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại
các vùng KTTĐ tại Việt Nam, Luận án đã làm rõ các khái niệm về đầu tư công, đầu
tư tư nhân, chỉ ra kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và
dài hạn tại các vùng KTTĐ. Theo đó, trong ngắn hạn, đầu tư công tạo ra tác động lấn
át hoặc không tác động tới đầu tư tư nhân nhưng trong dài hạn, đầu tư công lại tạo ra
tác động bổ trợ đầu tư tư nhân. Cụ thể hơn, trong ngắn hạn, đầu tư công tạo ra tác
động lấn át hoặc không tác động tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp, tuy nhiên
tại một số địa phương thuộc vùng KTTĐ, đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư
tư nhân khu vực hộ gia đình.
Luận án sử dụng ước lượng trung bình nhóm gộp PMG nhằm phân tách tác động
ngắn hạn và dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Phương pháp này cho phép
các tham số ngắn hạn khác biệt giữa các nhóm trong khi ràng buộc các tham số dài
hạn đồng nhất giữa các đơn bị bảng. Vì vậy ưu điểm của PMG là nó cho phép phân
biệt tính động trong ngắn hạn (khác nhau giữa các nhóm) và dài hạn (đồng nhất giữa
các nhóm). Đây là một trong những điểm mới về phương pháp nghiên cứu của Luận
án so với những công trình nghiên cứu đi trước.
Từ kết quả mô hình hồi quy, kết hợp với tình hình thực hiện đầu tư công, đầu
tư tư nhân cũng như chính sách đầu tư công tại vùng KTTĐ, Luận án đề xuất các giải
pháp nhằm sử dụng hợp lý đầu tư công, từ đấy thúc đẩy đầu tư tư nhân chung cho
toàn bộ các vùng KTTĐ và tại mỗi vùng KTTĐ. Cụ thể, đối với giải pháp chung cho
tất cả các vùng KTTĐ, thứ nhất, tăng cường vốn đầu tư công vào cơ sở hạ tầng nhằm
mục tiêu thúc đẩy đầu tư tư nhân trong dài hạn. Thứ hai, tập trung vốn đầu tư công
nhằm hỗ trợ đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển
đổi mô hình kinh doanh hộ gia đình thành mô hình doanh nghiệp tại các vùng KTTTĐ
trong dài hạn. Thứ ba, thúc đẩy hoạt động đầu tư công hiệu quả tại các hạt nhân của
mỗi vùng KTTĐ để tạo tác động bổ trợ cho đầu tư tư nhân cũng như tạo hiệu ứng lan
tỏa đối với đầu tư tư nhân ở các địa phương lân cận. các vùng KTTĐ cũng có sự khác
biệt về tình hình phát triển kinh tế, tình hình đầu tư công và đầu tư tư nhân. Vì vậy,
147
Luận án sẽ phân tích một số giải pháp cụ thể đối với từng vùng KTTĐ bên cạnh
những chính sách định hướng chung cho tất cả vùng KTTĐ.
Bên cạnh những đóng góp mới, Luận án vẫn còn những hạn chế như sau:
Thứ nhất, số liệu về đầu tư tư nhân tập trung ở góc độ doanh nghiệp và hộ gia
đình nói chung. Luận án chưa bóc tách được cụ thể các hình thức đầu tư từ khu vực
doanh nghiệp và hộ gia đình. Đồng thời với hình thức đầu tư hộ gia đình, Luận án
mới tập trung phân tích hộ gia đình kinh doanh trong lĩnh vực nông -lâm- ngư nghiệp
và phi nông-lâm-ngư nghiệp chính thức. Số liệu khu vực phi chính thức chưa được
khai thác trong Luận án.
Thứ hai, giải pháp liên quan tới vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chưa có
những đánh giá chi tiết từ nghiên cứu định tính nên chưa thực sự toàn diện.
NCS hy vọng những hạn chế này sẽ mang đến một số hướng nghiên cứu mới
trong tương lai như sau:
Thứ nhất, Luận án điều tra, khảo sát hộ gia đình cũng như khu vực doanh nghiệp
thức theo cơ cấu ngành nghề tại các vùng KTTĐ để có số liệu chi tiết hơn, từ đó sử
dụng mô hình ước lượng tác động cụ thể của đầu tư công tới lĩnh vực kinh doanh của
gia đình và doanh nghiệp.
Thứ hai, Luận án thu thập và tổng hợp các số liệu chi tiết về vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với các lĩnh vực đầu tư tại các vùng KTTĐ thông qua nguồn từ Sở Kế
hoạch và Đầu tư tại các địa phương nội vùng. Từ đó, Luận án có thể đề xuất các giải
pháp chi tiết và toàn diện hơn đối với vấn đề sử dụng vốn FDI hợp lý nhằm gia tăng
hiệu ứng bổ trợ và giảm hiệu ứng lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa
phương nội vùng KTTĐ.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
TT Tên công trình Nơi công bố Vai trò
Năm công bố 2022 Tác giả thứ 1
Hội thảo quốc tế VEAM
of
1 The direct and spill - over effect of public investment on economic growth and convergence in the Southern Key Economic Region: An spatial application regression model
2022 Tác giả thứ 1
private investment
Hội thảo quốc tế CIEMB ISBN: 978-604- 330-515-9
2 The impact of public investment on in Vietnam’s Central Key Economic Region and the Mekong Delta Key Economic Region: a PMG approach
2023 Tác giả độc lập
3 Analyzing the impact of public investment on private investment in the Central Key Economic Region
2022 Tác giả độc lập
4 Tình hình vốn đầu tư thực hiện tại vùng KTTĐ Đồng bằng sông Cửu Long
2022 Tác giả độc lập
2022 Tác giả thứ 1
Hội thảo quốc tế ICSEED ISBN: 978-604- 79-3740-0 Tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam Tạp chí Kinh tế và Quản lý
Tác giả thứ 1
investment private
Được chấp nhận bài vào ngày 20/7/2023
Thailand and The World Economy Journal (Scopus Q4)
5 Nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 6 Tác động trực tiếp và lan tỏa của đầu tư công tới tăng trưởng và hội tụ tại vùng KTTĐ phía Nam 7 The impact of public investment in on Vietnam’s Central Key Economic Region and the Mekong Delta Key Economic Region: a PMG approach
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu Tiếng Việt
1. Nguyễn Quỳnh Anh, Phát triển liên kết vùng kinh tế trọng điểm còn vướng mắc,
Báo Kiểm toán, số 36, 2019.
2. Hoàng Thế Anh, Nâng cao hiệu quả đầu tư công cho phát triển kinh tế huyện
3. Hiệp Hòa- Tỉnh Bắc Giang, Luận án Tiễn sĩ, Đại học Thái Nguyên, 2014.
4. Nguyễn Xuân Anh, Phân vùng kinh tế - xã hội và bài toán đánh thức tiềm lực
phát triển của địa phương, Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn Quốc gia, 2021.
5. Hoàng Dương Việt Anh, Đánh giá hiệu quả đầu tư công tại vùng Bắc Trung Bộ,
Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền Tệ; Số: 18(363)/ 2013.
6. Bạch Thị Lan Anh, Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, 2011.
7. Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự, Tác động phi tuyến của phát triển tài chính
lên tăng trưởng kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, Số
10, pp.54-80, 2020.
8. Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16/7/2021 về tình hình, kết quả thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2020 và dự kiến Kế hoạch 5 năm 2021 -
2025.
9. Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm
2021 - 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ Bắc bộ.
10. Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm
2021 - 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ miền Trung.
11. Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm
2021 - 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ phía Nam.
12. Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm
2021 - 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ ĐBSCL.
13. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực của Việt Nam giai đoạn 2010-2021
14. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng
KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021.
15. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng
KTTĐ miền Trung giai đoạn 2010-2021.
16. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng
KTTĐ phía Nam giai đoạn 2010-2021.
17. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng
KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021.
18. Báo cáo tình hình KT-XH quý III và 9 tháng năm 2022, Tổng cục thống kê TP.
Cần Thơ
19. Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, Chính phủ, 2018
20. Nghi quyết số 15-NQ/TW, Bộ Chính trị, 2022.
21. Nguyễn Thị Cành & cộng sự, Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư
nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học, Số 13(2)/2018.
22. Nguyễn Thị Chinh, Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân trong phát
triển kinh tế tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, 2017.
23. Trần Kim Chung & cộng sự, Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản, Số
962(3)/2021.
24. Huỳnh Thế Du & cộng sự, Hệ thống tài chính Việt Nam, Chương trình Giảng
dạy Kinh tế Fullbright, 2013.
25. Lê Văn Đính & cộng sự, Liên kết vùng - Đòn bẩy phát triển vùng KTTĐ miền
Trung, Hội thảo Quốc gia “Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Liên kết tạo
động lực phát triển”, 7/2022.
26. Trần Thanh Hà, Một số vấn đề phân vùng kinh tế Việt Nam, Viện Việt Nam học
và khoa học phát triển, 2018.
27. Trần Trọng Hanh, Quy hoạch vùng, NXB Xây dựng, 2015.
28. Ngô Văn Hải, Phát triển các nguồn lực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sĩ,
Đại học Kinh tế-Luật, TP.Hồ Chí Minh, 2014.
29. Đoàn Thị Hân & cộng sự, Thu hút vốn đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông
thôn ở Viênt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học và công nghệ lâm nghiệp, số 1,
2019
30. Nguyễn Xuân Hưng và cộng sự, Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới
tăng trưởng kinh tế tỉnh Bắc Ninh, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 276, tháng
06, 2020, tr. 79-92.
31. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của Việt Nam giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.
32. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng KTTĐ Bắc bộ
giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.
33. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng KTTĐ miền Trung
giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.
34. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng KTTĐ phía Nam
giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.
35. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng KTTĐ ĐBSCL
giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.
36. Nguyễn Đức Kiên, Kinh tế Việt Nam - Nhìn lại sau 35 năm đổi mới, Viện chiến
lược và Chính sách, Bộ Tài Chính, 2021.
37. Phạm Ngọc Khanh, Nâng cao chất lượng tăng trưởng của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nâm nhìn từ góc độ kinh tế, Tạp chí Khoa học Đại học mở Thành phố
Hồ Chí Minh, Vol.14(3), pp.84-105, 2019.
38. Nguyễn Thế Khang, Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa
phương ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing, Số 67 - Tháng
02 Năm 2022.
39. Phan Đình Khôi & cộng sự, Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh
tế Việt Nam, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, Số tháng 12/2019.
40. Đinh Cao Khuê & cộng sự, Tổng quan một số chính sách hỗ trợ sản xuất, chế
biến và xuất khẩu nông sản, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 18(9), 2020.
41. Nguyễn Thị Thùy Liên, Vai trò của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng
trưởng qua các hệ số thu hút và lan tỏa, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính-
Marketing, Số tháng 7- tháng 2 năm 2022.
42. Trần Du Lịch, Tọa đàm: Đột phá hạ tầng thúc đẩy vùng kinh tế TP.HCM - Đồng
Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu, Báo Giao thông, 2021.
43. Vũ Thị Lộc, Xây dựng chiến lược phát triển thương mại vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ đến năm 2030, Luận án Tiễn sĩ, Đại học Thương mại, 2020.
44. Nguyễn Đình Luận, Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, Tạp chí phát triển và hội nhập, Số 25(35) - Tháng 11-12/2015.
45. Diệp Gia Luật, Nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư công tại Việt Nam đến
năm 2020, Tạp chí Phát triển Kinh tế, Số 11/2015, tr. 2-24.
46. Luật Đầu tư công 2019, truy cập tại: www.moj.gov.vn/pages/vbpq.aspx.
47. Luật Đầu tư 2020, truy cập tại:https://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tl-pbgdpl/Pages/de-
cuong.aspx?ItemId=314.
48. Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1998, truy cập tại https://moit.gov.vn/van-
ban-phap-luat/van-ban-phap-quy/-luat-khuyen-khich-dau-tu-trong-nuoc.html.
49. Luật ngân sách nhà nước 2015, truy cập tại
https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=180627.
50. Nguyễn Thị Luyến, Một số vấn đề trong chính thức hóa hộ kinh doanh ở Việt
Nam, Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, Bộ kế hoạch và Đầu tư,
2022.
51. Nguyễn Đức Minh, Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu trường hợp
của thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, 2014.
52. Hà Thị Tuyết Minh, Nâng cao hiệu quả đầu tư công để giảm nghèo ở Việt Nam,
Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia số 174 (12/2016).
53. Niên giám thống kê Việt Nam giai đoạn 2010-2021
54. Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021.
55. Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn
2010-2021.
56. Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn
2010-2021.
57. Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn
2010-2021.
58. Vũ Phương Nhi, Đẩy nhanh việc triển khai các công trình, dự án trọng điểm
ngành giao thông, 2023, truy cập tại https://baochinhphu.vn/day-nhanh-viec-
trien-khai-cac-cong-trinh-du-an-trong-diem-nganh-giao-thong-
102230215150316629.htm.
59. Hà Hữu Nga, Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong
phát triển bền vững vùng kinh tế, Đề tài cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng
Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2008.
60. Nguyễn Quỳnh Nga, Quảng Ninh: Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, Tạp chí Công
thương, số tháng 11 năm 2019.
61. Nguyễn Thị Thanh Nga, Tác động đầu tư công và đầu tư tư nhân đến tăng trưởng
kinh tế: bằng chứng thực nghiệm từ các quốc gia đang phát triển ở Châu Á, Đại
học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, 2016.
62. Nguyễn Thị Tuyết Nga, Tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế nông
nghiệp vùng KTTĐ Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Tài chính, Kỳ 1 tháng
6/2021.
63. Huỳnh Thị Tuyết Ngân & cộng sự, Tác động của chuyển đổi số đến tăng trưởng
kinh tế tại các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Tạp chí Nghiên cứu
Tài chính - Marketing, số 63, 2021.
64. Trần Đình Khôi Nguyên & cộng sự, Ảnh hưởng của các chính sách hỗ trợ và cơ
sở hạ tầng đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng,
Tạp chí Kế toán và Kiểm toán (ISSN 1859 - 1914), số 212, Tháng 5/2021.
65. Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP, Chính phủ, 2016.
66. Nghị quyết 35/NQ-CP, Chính phủ, 2019.
67. Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng các vùng KTTĐ
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
68. Phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải các vùng KTTĐ đến năm
2020 và định hướng đến năm 2030
69. Lê Gia Phong, Kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng giai đoạn 2016-2020 tạo
đà và bứt phá, Tạp chí Con số- Sự kiện, số tháng 3 năm 2022.
70. TrầnVũ Phong, Nâng cao hiệu quả đầu tư công tại huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh
Long, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Trà Vinh, 2018.
71. Nguyễn Hà Phương và Nguyễn Tiến Huy, Đóng góp của ba vùng kinh tế trọng
điểm vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, Tạp chí Kinh tế và
Dự báo, 12, 2009.
72. Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
73. Tọa đàm “Giải pháp hình thành trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM”, Báo Sài
Gòn giải phóng, 9/2/2023
74. Sử Đình Thành, Đầu tư công chèn lấn hay thúc đẩy đầu tư khu vực tư nhân ở
Việt Nam,Tạp chí phát triển kinh tế,Số 251 tháng 9/2011, tr. 37-45.
75. Nguyễn Đức Thành, Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư trong lĩnh vực nông
nghiệp: Tổng quan những vấn đề lý luận cơ bản, Trung tâm nghiên cứu kinh tế
và chính sácg, Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
76. Tô Trung Thành, Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình
thực nghiệm VECM, Tạp chí Tài chính, Số 560 tháng 6/2014, tr. 01-17
77. Nguyễn Hồng Thắng, Nâng cao chất lượng đầu tư công,Tạp chí phát triển kinh
tế,Số 221 tháng 3/2009, tr. 08-12.
78. Nguyễn Thị Thọ, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đẩy mạnh liên kết để phát triển
bứt phá, Tạp chí Con số sự kiện, Số kỳ I tháng 9 năm 2019.
79. Thông cáo báo chí về kết quả điều tra nông thông, nông nghiệp giữa kỳ năm
2020, Tổng cục thống kê.
80. Đinh Văn Thông, Di dân ngoại tỉnh vào thành phố Hà Nội: Vấn đề đặt ra và giải
pháp, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và kinh doanh 26(2010), 173-180.
81. Nguyễn Đình Thu & cộng sự, Đầu tư công với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Tạp chí Tài chính vĩ mô, Số 1(222), 2022.
82. Trần Ngọc Anh Thư và Lê Hoàng Phong, Tác động của đầu tư công đối với tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam: Góc nhìn thực nghiệm từ mô hình ARDL, Tạp chí
Phát triển và Hội nhập, Số19/2014, tr. 03-10.
83. Lê Đức Tiến, Một số vấn đề về tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc, Tạp chí Quốc phòng Toàn dân số tháng 3 (2022).
84. Dương Thị Trang, Thu hút nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ
cao ở Việt Nam, Tạp chí Công thương, số 9-tháng 6/2018.
85. Nguyễn Đoan Trang, Tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế tại Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, 2018.
86. Nguyễn Ngọc Trân, Đồng bằng sông Cửu Long: Quy hoạch phải vượt lên trên
lợi ích cục bộ địa phương, Báo cáo tại Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến
đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thời kỳ 2021-2030, 21/6/2022.
87. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc, Thống kê ứng dụng trong kinh tế - xã
hội. NXB Lao Động - Xã hội, 2011.
88. Sally P. Marsh & cộng sự, Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt
Nam: Tóm tắt chính sách, ACIAR Tài liệu nghiên cứu số 126, 2007.
89. Đỗ Thị Thanh Sơn, Kinh tế hộ gia đình và những vấn đề đặt ra đối với chính
sách tài chính, Đề tài cấp Bộ, Mã số: 2020-25, Bộ Tài chính.
90. VCCI, Báo cáo thường niên Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh giai đoạn 2010-
2022
91. VCCI, Chuyển đổi mô hình phát triển và Quy hoạch tích hợp, Báo cáo thường
niên đồng bằng sông Cửu Long, 2022, truy cập tại
https://fsppm.fulbright.edu.vn/cache/TomTatBaoCao-2022-08-1615473462.pdf
92. VERP, Báo cáo nghiên cứu giải pháp thuận lợi hóa hoạt động sản xuất kinh
doanh cho hộ kinh doanh ở Việt Nam, 2021, truy cập tại
https://www.freiheit.org/sites/default/files/2021-11/2021-bao-cao-nghien-cuu-
ho-kinh-doanh-fnf-vietnam.pdf.
93. Viện Chiến lược phát triển (2004), Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội: Một số
vấn đề lý luận và thục tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
94. Viện nghiên cứu TP. Hồ Chí Minh, Một số tồn tại của sự quản lý phát triển vùng
KTTÐPN, Đề tài cấp Viện, 2023.
95. Vụ Quản lý Các khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo tình hình thành
lập và phát triển KCN, KKT năm 2020.
B. Tài liệu tiếng Anh
96. Abbas, A., Abbas, Z., & Mustifa, G., (2022), An empirical analysis of sector-
wise private investment for a small open economy, Development Studies
Research, Vol.9(1), pp.21-50, 2022.
97. ADB (The Asian Development Bank), Asian Development Outlook Update
Report 2021
98. Alaev, E. B., Socio-economic geography: conceptual and terminological
dictionary, p.48-50, 1983.
99. Ang, J. B., Private investment and financial sector policies in India and
Malaysia, World Development, Vol.37(7), pp.1261-1273, 2009
100. Argimón, I., González-Páramo, J.M. and Roldán, J.M., Evidence of public
spending crowding-outfrom a panel of OECD countries, Journal of Applied
Economics, Vol. 29 No. 8/1997, pp. 1001-1010.
101. Altin Gjini et al., Crowding-Out Effect Of Public Investment On Private
Investment: An Empirical Investigation, Volume 10, Number 5, Journal of
Business & Economics Research – May 2012.
102. Auschauer, D. A., Is public expenditure productive? Journal of Monetary
Economics, Vol. 23 No.2/1989, 177-200.
103. Awad, I. M., Al-Jerashi, G. K., & Alabaddi, Z. A., Determinants of private
domestic investment in Palestine: Time series analysis, Journal of Business and
Socio-economic Development, Vol.1(1), pp.71-86, 2021.
104. Bachmann, R., et al., Confidence and the Transmission of Government
Spending Shocks”, Journal of Monetary Economics, 59 (3): 235–49, 2012.
101. Barro, R., Government spending in a simple model of economic growth, Journal
of Political Economy, Vol. 98 No. 5/1990, S103-S125.
102. Batini, N., et al., Building Back Better: How Big Are Green Spending
Multipliers ?, IMF Working Paper 2021/087.
103. Berg, et al., Some Misconceptions about Public Investment Efficiency and
Growth, Economica, 86(342):409–30, 2009.
104. Bilgili, Faik., Dynamic implications of fiscal policy: Crowding-out or crowding-
in? METU-ERC, International Conference in Economics VII, "F5 Fiscal Policy,
Public and Private Expenditures" Middle East Technical University, Ankara,
Turkey, September 8, 2003.
105. Binh, P.T., Public investment and Vietnam business cycle: A Bayesian DSGE
Analysis, International conference, September 3 , 2020
106. Bénassy-Quéré, A., Fontagne, L., & Lahreche-Revil, A., How does FDI react to
corporate taxation? International Tax and Public Finance, Vol. 12 No.5/2005,
pp.583-603.
107. Bilas, V., FDI and Economic Growth in EU13 Countries: Cointegration and
Causality Tests, Journal of Competitiveness, 12(3), pp.47-63, 2020,
https://doi.org/10.7441/joc.2020.03.03,
108. Blejer, M.I. and Khan, M.S., Private investment in developing countries,
Finance and Development, 2015, pp. 26-29.
109. Breitung, J., The local power of some unit root tests for panel data, Advances
in Econometrics, Vol. 15/2002, pp.161-178.
110. Buiter, W., Crowding out and the effectiveness of fiscal policy, Journal of Public
Economics, Vol. 7 No. 3/1997, pp. 309-328.
111. Bukhari, S. A., Ali, L., & Saddaqat, M., Public investment and economic growth
in the Three Little Dragons: Evidence from heterogeneous dynamic panel data
112. Cruz, BO & Teixeira, R.J, The impact of public investment on private
international, Journal of Business and Information, Vol. 2 No.1/2007, pp.57-79.
investment in Brazil, 1947-1990, CEPAL Review, Vol. 67/1999, pp. 75 - 84
113. Cullison, E.W., Public investment and economic growth, Federal Reserve Bank
of Richmond Economic Quarterly, Vol. 79 No.4/1993, pp. 19-33.
114. Dehn, J., Private Investment in Developing Countries: The Effects of Commodity
Shocks and Uncertainty, CSAE Working Paper series, 2000.
115. D. O. Olayungbo & Ahmod Quadri, Remittances, financial development and
economic growth in sub-Saharan African countries: evidence from a PMG-
ARDL approach, Financial Innovation volume 5, Article number: 9 (2019).
116. Demetriades, P., & Siong, H. L., Finance, institutions and economic growth,
International Journal of Finance and Economics, 11(3), pp.245-260, 2006.
117. Dixit, A.K. & Pindyck, R.S., Investment Under Uncertainty, Princeton
University Press, Princeton, 1994
118. Dreger, C., & Reimers, H., Does public investment stimulate private investment?
Evidence for the euro area, Economic Modelling, Vol. 58/2016, pp.154-158.
119. Emran, S., Shilpi, F., & Alam, I., Economic Liberalization and the Price
Response of Aggregate Private Investment: Time Series Evidence from India,
Canadian Journal of Economics, Vol.40(3), pp. 914-934, 2007.
120. Erden, L. & Holcombe, R., The effects of public investment on private
investment indeveloping economies, Public Finance Review, Vol. 33
No.5/2005, pp. 575-602.
121. Erden, L. & Holcombe, R., The linkage between public and private investment:
aco-integration analysis of a panel of developing countries, Eastern Economic
Journal, Vol. 3No.3/2006, pp. 479-492.
122. Faisal, S., et al., Impact of Public Infrastructure Investment on Private
Infrastructure Investment, available at
https://reads.spcrd.org/index.php/reads/article/view/395/340
123. Favara, G., An Empirical Reassessment of the Relationship between Finance
and Growth, IMF Working Paper No. 03/123, 2003.
124. Ferreira, Public versus private provision of infrastructure in a neoclassical
growth model, Graduate School of Economics, 1994.
125. Fischer, S., The Role of Macroeconomic Factors in Growth, Journal of
Monetary Economics, Vol.32(3), pp.485-512, 1993.
126. Forni, M. and Gambetti, L., Fiscal Foresight and the Effects of Government
Spending, CEPR Discussion Papers 7840, 2010.
127. Frimpong, J. M., & Marbuah, G., The determinants of private sector investment
in Ghana: An ARDL approach, European Journal of Social Sciences, Vol.15(2),
pp.250-261, 2010.
128. Gérard Tchouassi et al., Private and Public Investment in Africa: A Time-Series
Cross-Country Analysis, International Journal of Economics and Finance, Vol.
6, No. 5 (2014).
129. Ghani, E. and Din, M., The impact of public investment on economic growth in
Pakistan”, The Pakistan Development Review, Vol. 45 No. 1/2006, pp. 87-98.
130. Gjini, A. and Kukeli, A., Crowding-out effect of public investment on private
investment: an empirical investigation, Journal of Business & Economics
Research, Vol. 10 No. 5)/2012, pp. 269-276.
131. Greene, W.H., Econometric Analysis, Ardl investment model of Tunisia,
Theoretical and Applied Economics, Vol. 20 No.2/2008, pp. 57-68.
132. Hamaaki, Junya., Investment responses to Japanese tax reforms: a cross-
industry comparison, Japan and the World Economy 20 (4)/2008, pp.542–
562.Harrison, A. and McMillan, M., Does Direct Foreign Investment Affect
Domestic Credit Constraints? Journal of International Economics, 61, pp.73-
100, 2003.
133. Hashmat Khan, et al., Consumer Confidence and Household Investment,
Carleton Economics Working Papers, Carleton University, 2020.
134. Haque, Effect of public and private investment on economic growth in
Bangladesh: an econometric analysis, Research Study Series No-FDRS Vol.
5/2013, pp. 105-136.
135. Hassan F Gholipour et al., Dutch Disease phenomenon and demand for
international business travels: Panel ARDL/PMG estimation, Journal of
Tourism Economy, Volume 28, Issue 5, 2021.
136. Hatano, T., Crowding-in effect of public investment on private investment,
Public PolicyReview, 6 (1)/2010, pp. 105-120.
137. Hsieh, E. and Lai, K.N, Government spending and economic growth: the G-7
experience, Review of Applied Economics, Vol. 26/1994, pp. 535-542.
138. Inna L. Litvinenko & cộng sự, The Economic Space in the Region: The
Theoretical Approaches, International Review of Management and Marketing,
Vol.6(S1), pp.119-124, 2016.
139. Im, K. S., Pesaran, M. H., & Shin, Y., Testing for unit roots in heterogeneous
panels, Journal of Econometrics, Vol. 115/2003, pp.53-74.
140. Johansen, Statistical analysis of cointegrating vectors, Econometric Reviews,
Vol. 12/1988, 231-254.
141. Jorgenson, D. W., Capital Theory and Investment Behaviour. American
Economic Review, 53 (2), 2pp.47–259, 1963.
142. Jorgensen, D., The Theory of Investment Behaviors, in Determinants of
Investment. National Bureau of Economic Research, pp.129–155, 1967.
143. Jorgenson, D. W., Econometric studies of investment behaviour: A Survey.
Journal of Economic Literature, pp. 1111–1147, 1971.
144. Jungho Baek, Environmental Kuznets curve for CO2 emissions: The case of
Arctic countries, Energy Economics, vol. 50, issue C, 13-17, 2015.
145. Jongwanich, J., & Kohpaiboon, A., Private investment: Trends and determinants
in Thailand, World Development, Vol.36(10), pp.1709-1724, 2008.
146. Osephine Ofosu -Mensah, A. et al, Foreign and domestic private investment in
developing and emerging economies: A review of literature, Cogent Economics
& Finance, Vol.10(1), 2022.
147. Juodis, A. et al., A homogeneous approach to testing for Granger non-causality
in heterogeneous panels, Empirical Economics, volume 60, pp. 93–112, 2021.
148. Khan, M., Government investment and economic growth in the developing
world, The Pakistan Development Review, Vol. 35 No.4/1996, pp. 419-439.
149. Khan, M. and Kumar, M., Public and private investment and the growth process
in developingcountries, Oxford Bulletin of Economics and Statistics, Vol. 59
No.1/1997, pp. 305-9049.
150. Kokko et al., The internationalization of Vietnamese small and medium-sized
enterprises, Asian Economic Papers, Vol.4(1), 2005.
151. Kollamparambil, U. and Nicolaou, M., Nature and association of public and
private investment: public policy implications for South Africa, Journal of
Economics and International Finance, Vol. 3 No.2/2011, pp. 98-108.
152. Kripfganz, D., & Schneider, D. C., Ardl: Estimatiing autogregressive
distributed lag and equilibrium correction models, Proceedings of the 2018
London Stata Coference. Retrieved from
http://repec.org/usug2018/uk18_Kripfganz.pdf.
153. Kumo, W., Infrastructure investment and economic growth in South Africa: a
granger causalityanalysis, Working Paper Series, Vol. 160/2012, African
Development Bank, Tunis.
154. Le, The effects of FDI and public expenditure on economic growth: from
theoreticalmodel to empirical evidence, GSICS Working Paper, Vol. 2/2015.
155. Lee, G., Long run equilibrium relationship between inward FDI and
productivity, Journal of Economic Development, Vol. 32 No.2/2007, pp.183-
192.
156. Levin, A., Lin, C. F., & Chu, C. S. J., Unit root tests in panel data: Asymptotic
and finite-sample properties, Journal of Econometrics, Vol. 108/2002, pp.01-24.
157. Loayza, N. V., & Ranciere, R., Financial development, financial fragility, and
growth, Journal of Money, Credit and Banking, 38(4), pp.1051-1076, 2006.
158. Lucas, On the mechanics of economic development, Journal of Monetary
Economics, Vol. 22/1988, pp. 3-42.
159. Masih, Mansur and Majid, Hamdan Abdul, Stock Price and Industrial
Production in Developing Countries: A Dynamic Heterogeneous Panel
Analysis, MPRA Paper No. 58308, posted 04 Sep 2014 00:37 UTC.
160. McKinnon, R. I., In Money and capital in economic development, Brookings
Institution Press, 1973.
161. Mehrara and Musai, Granger causality between economic growth in oil
exporting countries, Interdisciplinary Journal of Research in Business, Vol.
1No.08/2011, pp. 103-108.
162. Molapo, S., & Damane, M., DETERMINANTS OF PRIVATE INVESTMENT IN
LESOTHO, European Scientific Journal, ESJ, 11(34), 2015, Retrieved from
https://eujournal.org/index.php/esj/article/view/6743.
163. Nahla, S. et al., Is the Relationship between Financial Development and
Economic Growth Monotonic? Evidence from a Sample of Middle - Income
Countries, CESIFO WORKING PAPER NO. 4743, 2014
164. NJ.Dreger, C. and Reimers, H, On the relationship between public and private
investment in theEuro area, discussion papers, DIW Berlin, German Institute
for Economic Research, Berlin, 2014.
165. Cruz, B.O and Teixeira, J.R., The Impact of Public Investment on Private
Investment in Brazil: 1947- 1990, Cepal Review, Vol. 67, pp. 75-84, 1999.
166. Ofosu-Mensah Ababio, J., Sarpong-Kumankoma, E., & Osei, K. A., Financing
cost and private investment in Ghana, Advances in Economics and Business,
Vol.6(2), pp.99-113, 2018.
167. Omitogun,O., Investigating the Crowding Out Effect of Government
Expenditure on Private Investment, Journal of Competitiveness, 10(4), 136–
150, 2018.
168. Omojolaibi et al., Fiscal Policy and Private Investment in Selected West African
Countries, CBN Journal of Applied Statistics (JAS), Vol.7(1), pp.277-309, 2016.
169. Pedroni, P., Critical values for cointegration tests in heterogeneous panels with
multiple regressors, Oxford Bulletin of Economics and Statistics, Vol. 61/1999,
pp. 653-670.
170. Pereira, A. M., Is All Public Capital Created Equal? Review of Economics and
Statistics, Vol. 82, No. 3, 2000, pp. 513– 518.
171. Pereira, A. M. and J. M. Andraz, On the Impact of Public Investment on the
Performance of US Industries”, Public Finance Review, Vol. 31, No. 1, 2003,
pp. 66– 90.
172. Pesaran, M.H. and Shin, Y., Cointegration and speed of convergence to
equilibrium”, Journal ofEconometrics, Vol. 71No.2/1996, pp. 117-143.
173. Pesaran, M.H. and Shin, Y., An autoregressive distributed lag modelling
approach tocointegration analysis, Cambridge University Press, 1999.
174. Pesaran, M.H., Shin, Y. and Smith, R. Bounds testing approaches to the
analysis of level relationships, Journal of Applied Econometrics, Vol. 16/2001,
pp. 289-326.
175. Phetsavong, K., & Ichihashi, M., The impact of public and private investment
on economic growth: Evidence from developing Asian countries, 2012.
176. Radulović Dejan & cộng sự, Region as a Basic Territorial Unit of Regional
Development, Economic Analysis, Vol. 48, No. 3-4, pp.69-80, 2015.
177. Ram, Government size and economic growth: a new framework and some
evidence fromcross-section and time-series data, The American Economic
Review, Vol. 76 No.1/1986, pp. 191-203.
178. Ramirez, M.D. and Nazmi, N., Public investment and economic growth in Latin
America: an empirical test, Review of Development Economics, Vol. 7
No.1/2003, pp. 115-126.
179. Rufaro, G., and Paul-Francois M., A panel ARDL analysis of Productivity of key
economic sectors contributing to local economic growth in an emerging
country, Studia Universitatis Babes-Bolyal Oeconomica, Volume 65 (1), 2020,
pp. 39-53.
180. Rebelo, S., Long-run policy analysis and long-run growth, Journal of Political
Economy, Vol. 99 No.3/1991, pp. 500-521.
181. Reungsri, T, The impact of public infrastructure investment on economic
growth in Thailand, Doctoral dissertation, School of Economics and Finance,
Victoria University, Australia, 2010.
182. Samargandi, N., J. Fidrmuc, and S. Ghosh, Is the Relationship between
Financial Development and Economic Growth Monotonic? Evidence from a
Sample of Middle-Income Countries, World Development, 68, pp. 66-81, 2015.
183. Solihin et al., Do government policies drive economic growth convergence?
Evidence from East Java, Indonesia, Cogent Economics & Finance, 9:1,
1992875, DOI: 10.1080/23322039.2021.1992875, 2021.
184. Solow, R., A contribution to the theory of economic growth, The Quarterly
Journal of Economics, Vol. 70 No.1/1956, pp. 65-94.
185. Stuart Meck, Model Statutes for Planning and the Management of Change,
American Planning Association, 2002, available at
https://www.planning.org/publications/document/9148731/
186. Sundararajan, V. and Thakur, S., Public investment, crowding out and growth:
a dynamicmodel applied to India and Korea, staff papers, International
Monetary Fund, Washington, 1980.
187. Swaby, R., Public investment and growth in Jamaica, Fiscal and Economic
ProgrammeMonitoring Department, Bank of Jamaica, 2007.
188. Tingting Li et al., Environmental Kuznets Curve in China: New evidence from
dynamic panel analysis, Energy Policy, vol. 91, issue C, 138-147, 2016.
189. UN, Investment policy review series, 2009.
190. UNIO, Economic zones in the ASEAN, 2015.
191. Van, H. et al., Does foreign investment crowd in domestic investment? Evidence
from Vietnam, International Economics, Volume 171, October 2022, pp. 18-19.
192. Van, N. et al., Oil Price Shocks, Environmental Pollution, Foreign Direct
Investment, and Renewable Energy Consumption: An Empirical Analysis in
East Asian Countries, CRC Press, 2021, pp.177-202, ISBN 9781003098591.
192. Vedder, R. K., & Gallaway, L. E., Government size and economic growth, G-01
Dirksen building, Washington, DC, 1998.
193. World Bank Report, www.worldbank.org/ruralstrategy, 2001.
PHỤ LỤC Phụ lục 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Nhóm 1: Đầu tư công tạo hiệu ứng lấn át đối với đầu tư tư nhân
Pradhan, Ratha và Ấn Độ CGE Đầu tư công có tác
Sarma (1990) 1970-1986 động lấn át lên đầu
tư tư nhân. Mức độ
lấn át càng lớn khi
Chính phủ vay nợ
trên thị trường vốn
vay.
Bilgili (2003) Thổ Nhĩ Kỳ VECM Đầu tư công có tác
động lấn át tới đầu 1988-2003
tư tư nhân. Đầu tư
công tăng 1% sẽ
làm đầu tư tư nhân
giảm 0,68%
Nazmi & Ramirez Mexico 2 SLS Đầu tư công tác
động lấn át tới đầu (1997) 1940-1991
tư tư nhân. Đầu tư
công tăng 1% sẽ
làm đầu tư tư nhân
giảm 0,56%.
Bahal & cộng sự Ấn Độ VECM Đầu tư công lấn át
đầu tư tư nhân giai (2015) 1950-2012
đoạn 1980-2012
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Devarajan và cộng Nhóm 43 nước đang POLS Đầu tư công có tác
sự (1996) phát triển động lấn át đến
1970-1990 đầu tư tư nhân.
Các khoản đầu tư
công được tài trợ
bởi thuế sẽ lấn át
đầu tư tư nhân ít
hơn các khoản đầu
tư công được tài
trợ bởi nợ vay.
Đầu tư công tạo Everhart và 63 nước đang phát triển
tác động lấn át đến Sumlinski (2001) 1970-2000
đầu tư tư nhân tại
các quốc gia có thể
chế kém.
Cavallo và Daude 116 quốc gia đang phát GMM Mức độ lấn át của
đầu tư công tới đầu (2008) triển
tư tư nhân giảm 1980 – 2006
bớt ở những quốc
gia có độ mở cao
hơn.
Erden và Holcom 12 quốc gia phát triển POLS, FE và Đầu tư công tạo
tác động lấn át tại (2005) 19 quốc gia đang phát RE
nhóm các quốc gia triển
phát triển. 1980-1997
Mahmoudzadeh và 23 nước phát triển PVAR Đầu tư công lấn át
đầu tư tư nhân tại cộng sự (2013) 15 nước đang phát triển
các nước phát 2000-2009
triển.
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Pereira (2000) Hoa Kỳ VAR Đối với tác động 1956-1997 của từng loại đầu
tư công đối với
từng loại đầu tư tư
nhân,trong khoảng
1/3 trường hợp,
đầu tư công lấn át
đầu tư tư nhân.
Đầu tư công cho Rahman và cộng sự Pakistan
dịch vụ cộng đồng (2015) 1974-2010
và quốc phòng có
tác động lấn át tới
đầu tư tư nhân
Dada (2013) Nigeria VECM Đầu tư công cho
hành chính, xây 1980-2011
dựng, nông
nghiệp, thông tin
tạo hiệu ứng lấn át
tới đầu tư tư nhân
Omitogun & cộng Nigeria ARDL Đầu tư công cho
dịch vụ kinh tế và sự (2018) 1981-2015
dịch vụ xã hội có
tác động lấn át tới
đầu tư tư nhân.
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Pereira and Andraz Hoa Kỳ VAR Đầu tư công tạo
(2003) 1956-1997 tác động lấn át tới
đầu tư tư nhân
trong ngành nông
nghiệp, khai
khoảng, truyền
thông và bán buôn
Saeed và cộng sự Pakistan SVAR Đầu tư công lấn át
(2006) 1974-2006 đầu tư tư nhân
trong lĩnh vực
công nghiệp
Annala và cộng sự Nhật Bản VAR/ECM Đầu tư công tạo
(2008) 1970-1998 tác động lấn át tới
đầu tư tư nhân
ngoại trừ các
ngành nông
nghiệp, tiện ích,
thương mại và
dịch vụ, tài chính,
bảo hiểm và bất
động sản
Fujii và cộng sự Nhật Bản FAVAR Ngoại trừ ngành
(2013) quý 2/1983 – quý nông nghiệp và
1/2008 ngành tiện ích, đầu
tư công tạo tác
động lấn át tới đầu
tư tư nhân của các
ngành còn lại
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Tô Trung Thành Việt Nam VECM Hiện tượng đầu tư
(2012) 1986-2010 công lấn át đầu tư
tư nhân được thể
hiện rõ nét. Sau
một thập niên, đầu
tư công tăng 1% sẽ
khiến đầu tư tư
nhân bị thu hẹp
0.48%.
Hoàng Dương Việt vùng Trung Bộ Việt VAR Đầu tư công cũng
Anh (2013) Nam có thể lấn át đầu tư
1986-2011 tư nhân trong việc
sử dụng nguồn lực
khan hiếm.
Phạm Thị Linh Việt Nam VAR Đầu tư tư nhân bị
(2016) qúy 3/ 2004 - quý 4 / lấn át bởi đầu tư
2015 công ở ba khía
cạnh: hoạt động,
vốn và cơ hội.
Nguyễn Thị Chinh Việt Nam VECM Đầu tư công Hùng
(2017) 1995-2016 Thanh và cộng sự
(2021) có tác động
lấn át lớn hơn tác
động bổ trợ đầu tư
tư nhân ở Việt
Nam
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Phạm Thái Bình Việt Nam DSGE / RBC Tác động lấn át
(2020) của đầu tư công tới
đầu tư tư nhân
trong ngắn hạn.
Nguyễn Thị Cành Việt Nam FOLS Đầu tư công từ
& cộng sự (2020) 1990-2016 ngân sách nhà
nước lấn át đầu tư
tư nhân của 16
ngành
Nguyễn Thị Thùy Việt Nam FOLS, DOLS Kết quả lấn át của
Liên (2022) 2000-2020 đầu tư công từ vốn
ngân sách nhà
nước tới đầu tư tư
nhân
Nhóm 2: Các nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân
Hatano (2010) Nhật Bản ECM Sau năm đầu tiên,
1953-2004 đầu tư công bắt
đầu tạo tác động
bổ trợ đối với đầu
tư tư nhân
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Girish Bahal & Ấn Độ SVECM Đầu tư công tạo
cộng sự (2015) Q2/1996-Q1/2015 tác động bổ trợ tới
đầu tư tư nhân giai
đoạn 1980-2012
do các cải cách của
nền kinh tế Ấn Độ
trong những năm
đầu thập niên 80.
hiệu ứng bổ trợ
cũng được phát
hiện trong nghiên
cứu khi sử dụng số
liệu theo quý
(Q2/1960-
Q1/2015)
Mario Alloza và Tây Ban Nha SVAR Đầu tư công tăng
cộng sự (2022) quý 1 / 1995 - quý 4 / có xu hướng tạo ra
2019 tác động tích cực
đến đầu tư tư nhân.
Đặc biệt, khi đầu
tư công tăng 1% sẽ
thúc đẩy sự gia
tăng tương đương
đầu tư tư nhân
trong ngắn hạn
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Oshikoya (1994) Nhóm 7 nước châu Phi OLS Đầu tư công bổ trợ
(Cameroon, Mauritius, đầu tư tư nhân ở cả
Morocco, Tunisi, hai nhóm nước có
Kenya, Malawi, và thu nhập trung
Tanzani) bình và nhóm thu
1970-1988 nhập thấp. Bằng
chứng về sự bổ trợ
giữa đầu tư công
và đầu tư tư nhân
rõ ràng hơn đối với
các nước có thu
nhập trung bình.
Kamps (2004b) 22 nước OECD VAR Đầu đầu tư công
1960-2001 và đầu tư tư nhân
là bổ sung cho
nhau trong dài hạn
Afonso và Aubyn 14 nước châu Âu, VAR Trong hầu hết
(2008) Canada, Mỹ và Nhật trong các trường
Bản hợp hiệu ứng
khuyến khích đầu
tư tư nhân của đầu
tư công.
Altin Gjini và Các nền kinh tế chuyển POLS Đầu tư công tác
Agim Kukeli đổi ở khu vực Đông Âu động bổ trợ tới đầu
(2012) 1991-2009 tư tư nhân với mức
độ tin cậy 1%.
Hiệu ứng bổ sung
lẫn nhau này mạnh
hơn ở nhóm các
nước kém phát
triển hơn.
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Mahmoudzadeh và 23 phát triển và 15 nước PVAR Đầu tư công bổ trợ
cộng sự (2013) đang phát triển đầu tư tư nhân ở
2000 - 2009 các nước đang
phát triển.
Rasmané 44 nước châu Phi thuộc VECM Đầu tư công vào
Ouédraogo và cộng khu vực hạ Sahara cơ sở hạ tầng bổ
sự (2019) 1991 - 2009 trợ đầu tư tư nhân.
Sử Đình Thành Việt Nam SVAR Đầu tư công không
(2011) 1990-2010 gây chèn lấn đầu
tư khu vực tư nhân
mà trái lại tạo ra
hiệu ứng thúc đẩy
trong dài hạn, đặc
biệt là đầu tư tư
nhân trong nước
Hoàng Dương Việt vùng Trung Bộ Việt VAR Đầu tư công vào
Anh (2013) Nam cơ sở hạ tầng và
1986-2011 vào việc nâng cao
chất lượng nguồn
nhân lực có thể
làm tăng năng suất
vốn tư nhân
Trần Nguyễn Ngọc Việt Nam ARDL Có tác động thúc
Anh Thư và Lê 1988-2012 đẩy đầu tư tư nhân
Hoàng Phong và tăng trưởng
(2014) kinh tế trong dài
hạn
Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu
Nguyễn Thế 63 tỉnh/thành của Việt FMOLS và Đầu tư công tác
Khang (2022) Nam DOLS động thúc đẩy tích
2000 - 2020 cực cho đầu tư tư
nhân trên cả hai
phương pháp ước
lượng
Nguyễn Thị Cành Việt Nam FOLS và đầu tư công vào cơ
và cộng sự (2018) 1990-2016 DOLS sở hạ tầng được
xem như là vốn
mồi để thu hút đầu
tư tư nhân trong và
ngoài nước vào
sản xuất kinh
doanh 22 ngành
kinh tế cấp 1.
Nguyễn Thị Thùy Việt Nam Tính toán hệ Đầu tư công vào
Liên (2022) 2001-2005 số liên kết các ngành hạ tầng
ngược (BL), như xây dựng, vận
liên kết xuôi tải, kho bãi, viễn
(FL) thông và ngành
điện có tác động
kích thích ngành
phát triển và kéo
theo sự phát triển
của các ngành
khác.
Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022
Phụ lục 2: Cơ sở hình thành vùng KTTĐ
Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022
Phụ lục 3: Kiểm định sự phù hợp của các biến đưa vào mô hình
df
F
R2
ΔR2
286
31.71
0.0998
285
1.8
0.1055
0.0057
284
1.62
0.1105
0.0051
Nhóm các biến 1 2 3
283
7.32
0.1329
0.0224
14.31
0.1748
0.0419
4 5
282
LL
LR
AIC
BIC
-338.591
30.28
681.182
688.508
-337.683
1.82
681.3664
692.3552
-336.865
1.64
681.73
696.3819
Nhóm các biến 1 2 3
-333.19
7.35
676.3794
694.6942
4
-326.061
14.26
664.1228
686.1006
5
Note: Phương pháp hồi quy từng bước (Stepwwise Regression) được sự dụng để kiểm định sự phù
hợp của các biến đưa vào mô hình. Độ phù hợp của các biến sẽ thể hiện ở giá trị R bình phương
ngày càng tăng lên và AIC , BIC đặt giá trị nhỏ nhất có thể (Hair và cộng sự, 2014).
Nguồn: Tác giả thực hiện trên Stata 15
Phụ lục 4: Tổng quan quá trình hình thành và phát triển của các vùng KTTĐ
Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022
Phụ lục 5: Quy mô GRDP của các địa phương vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn
2010-2021 theo giá so sánh 2010
800000
700000
600000
500000
400000
300000
200000
100000
0
2010
2011
2013
2014
2015
2016
2018
2020
2021
Hưng Yên
2019 Hải Dương
2012 TP. Hà Nội
2017 Hải Phòng
Bắc Ninh
Vĩnh Phúc
Quảng Ninh
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 6: Quy mô GRDP của các địa phương vùng KTTĐ miền Trung
giai đoạn 2010-2021 theo giá so sánh 2010
120000
100000
80000
60000
40000
20000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Huế
Quảng Nam
Quảng Ngãi
Bình Định
Đà Nẵng
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 7: Quy mô GRDP của các địa phương vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn
2010-2021 theo giá so sánh 2010
1200000
1000000
800000
600000
400000
200000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Bình Dương
TP. Hồ Chí Minh
Bà Rịa- Vũng Tàu
Đồng Nai
Bình Phước
Tây Ninh
Long An
Tiền Giang
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ phía Nam
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 8: Quy mô GRDP các địa phương vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-
2021 theo giá so sánh 2010
120000
100000
80000
60000
40000
20000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
Cần Thơ
An Giang
Kiên Giang
Cà Mau
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống tại các địa phương thuộc Vùng KTTĐ ĐBSCL
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 9: Cơ cấu ngành của các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ các năm 2010, 2015, 2021
Đơn vị: %
2010
2015
2021
Nông
Nông
Nông
nghiệp,
nghiệp,
nghiệp,
Công
Công
Công
Địa
lâm
lâm
lâm
nghiệp
Dịch
nghiệp
Dịch
nghiệp
Dịch
phương
nghiệp
nghiệp
nghiệp
và xây
vụ
và xây
vụ
và xây
vụ
và
và
và
dựng
dựng
dựng
thủy
thủy
thủy
sản
sản
sản
4,44
32,31 63,24
2,88
23,54 73,58
2,55
27,30 70,15
Hà Nội
Hưng
18,23
52,59 29,18
12,18
61,89 25,92
9,27
68
22,72
Yên
Hải
9,65
37.34 53,01
8,10
39,41 52,50
4,22
56,12 39,66
Phòng
Quảng
9,35
56,80 33,85
8,80
56,42 34,78
6,28
60,10 33,61
Ninh
Hải
Dương
18,98
45,48 35,54
13,65
52,27 34,09
10,31
61,87 27,81
Bắc
10,44
56,78 32,78
10,31
61,87 27,81
2,81
80,47 16,72
Ninh
Vĩnh
13,68
53,75 32,57
10,54
57,47 31,98
7,83
63,74 28,43
Phúc
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 10: Cơ cấu ngành của các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung các năm 2010, 2015, 2021
Đơn vị: %
2010
2015
2021
Nông
Nông
Nông
nghiệp,
Công
nghiệp,
Công
nghiệp,
Công
lâm
nghiệp
Dịch
lâm
nghiệp
Dịch
lâm
nghiệp
Dịch
Địa phương
nghiệp
và xây
vụ
nghiệp
và xây
vụ
nghiệp
và xây
vụ
và thủy
dựng
và thủy
dựng
và thủy
dựng
sản
sản
sản
Thừa
Thiên
24,07
30,90
45,03
15,07
33,98
50,94
12,82
36,27 50,92
Huế
Quảng
41,53
25,31
33,16
22,01
29,76
48,24
17,27
42,52 40,22
Nam
Quảng
40,19
22,96
36,85
18,87
59,34
21,79
21,88
48,40 29,72
Ngãi
Bình
42,26
22,58
35,16
33,42
22,89
43,69
30,73
31,05 38,22
Định
Đà Nẵng
7,86
41,26
50,88
3,10
24,16
72,74
2,45
23,04 74,51
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ miền Trung
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 11: Cơ cấu ngành của các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam các năm 2010, 2015, 2021
Đơn vị: %
2010 2015 2021
Nông Nông Nông
nghiệp, Công nghiệp, Công nghiệp, Công
lâm nghiệp Dịch lâm nghiệp Dịch lâm nghiệp Dịch Địa phương
nghiệp và xây vụ nghiệp và xây vụ nghiệp và xây vụ
và thủy dựng và thủy dựng và thủy dựng
sản sản sản
TP. Hồ
0,78 32,06 67,17 0,84 28,61 70,56 0,72 25,91 72,36 Chí
Minh
Bà Rịa-
Vũng 3,39 86,56 10,05 5,28 81,44 13,28 3,36 73,55 23,08
Tàu
Bình 5,92 71,97 22,11 3,57 72,88 23,55 7,04 77,06 15,90 Dương
Đồng 15,57 58,57 25,86 12,93 63,35 23,72 11,50 65,09 23,41 Nai
Tây
38,52 26,16 35,32 29,04 34,83 36,13 23,26 46,21 30,53 Ninh
Bình
Phước 43,39 23,27 33,34 36,71 24,79 38,05 24,29 44,01 31,07
Long
30,74 32,68 36,58 23,76 42,07 34,17 17,17 54,73 28,10 An
Tiền
Giang 50,57 18,82 30,61 48,07 20,90 31,03 40,99 28,58 30,43
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ phía Nam
giai đoạn 2010 -2021
Phụ lục 12: Cơ cấu ngành của các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL các
năm 2010, 2015, 2021
Đơn vị: %
2010 2015 2021
Nông Nông Nông
nghiệp, nghiệp, nghiệp, Công Công Công Địa lâm lâm lâm nghiệp Dịch nghiệp Dịch nghiệp Dịch phương nghiệp nghiệp nghiệp và xây vụ và xây vụ và xây vụ và và và dựng dựng dựng thủy thủy thủy
sản sản sản
An 48,60 12,90 38,50 43,3 14,00 42,70 38,90 15,90 45,20 Giang
Kiên 42,60 24,40 33,00 41,50 18,60 39,90 33,80 22,00 44,20 Giang
Cần 16,90 35,00 48,10 14,20 33,80 52,00 12,40 34,00 53,60 Thơ
Cà Mau 39,20 36,60 24,10 32,30 31,00 37,7 34,60 32,30 33,10
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 13: Quy mô đầu tư công tại các địa phương vùng KTTĐ Bắc bộ theo
giá so sánh 2010 giai đoạn 2010-2021
150000
100000
50000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Hưng Yên
Hải Dương
Hà Nội
Hải Phòng
Bắc Ninh
Vĩnh Phúc
Quảng Ninh
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 14: Quy mô đầu tư công tại các địa phương vùng KTTĐ miền Trung
theo giá so sánh 2010 giai đoạn 2010-2021
15000
10000
5000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Thừa Thiên-Huế
Quảng Nam
Quảng Ngãi
Bình Định
Đà Nẵng
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung
giai đoạn 2010-2021.
Phụ lục 15: Quy mô đầu tư công tại các địa phương vùng KTTĐ phía Nam
theo giá so sánh 2010 giai đoạn 2010-2021
60000 50000 40000 30000 20000 10000 0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Bình Dương
TP. Hồ Chí Minh
Bà Rịa - Vũng Tàu
Đồng Nai
Bình Phước
Tây Ninh
Long An
Tiền Giang
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 16: Quy mô đầu tư công theo giá so sánh 2010 tại các địa phương
vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021
15000
10000
5000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Cần Thơ
An Giang
Kiên Giang
Cà Mau
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 17: Tỷ trọng đầu tư CSHT trong tổng đầu tư công tại các địa phương
Cả nước
Vĩnh Phúc
Bắc Ninh
Hải Dương
Quảng Ninh
Hải Phòng
Hưng Yên
Hà Nội
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Hạng mục khác
CSHT
vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2015-2021
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ
giai đoạn 2015-2021
Phụ lục 18: Các hạng mục đầu tư công cho CSHT tại các địa phương nội Vùng
Vĩnh Phúc
Bắc Ninh
Hải Dương
Quảng Ninh
Hải Phòng
Hưng Yên
Hà Nội
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Giao thông
Giáo dục
KHCN
Y tế
Các hoạt động khác
KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2015-2021
Nguồn: Niên giám thống kê, Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước tại các
địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2015-2021
Phụ lục 19: Tỷ trọng đầu tư CSHT trong tổng đầu tư công tại các địa phương
Cả nước
Bình Định
Quảng Ngãi
Quảng Nam
Đà Nẵng
Thừa …
0.00%
20.00%
40.00%
60.00%
80.00%
100.00%
120.00%
Hạng mục khác
CSHT
nội vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2015-2021
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung
giai đoạn 2015-2021
Phụ lục 20: Các hạng mục đầu tư công cho CSHT tại các địa phương nội Vùng
Bình Định
Quảng Ngãi
Quảng Nam
Đà Nẵng
Thừa Thiên-Huế
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Giao thông
Giáo dục
KHCN
Y tế
Các hoạt động khác
KTTĐ miền Trung giai đoạn 2015-2021
Nguồn: Niên giám thống kê, Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước tại các
địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2015-2021
Phụ lục 21: Tỷ trọng đầu tư CSHT trong tổng đầu tư công tại các địa phương
vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn 2015-2021
Cả nước Tiền Giang Long An Bình Phước Tây Ninh Đồng Nai
Bà Rịa-… Bình … T.P. Hồ Chí …
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Hạng mục khác
CSHT
Đơn vị: %
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam
giai đoạn 2015-2021
Phụ lục 22: Các hạng mục đầu tư công cho CSHT tại các địa phương nội Vùng
KTTĐ phía Nam giai đoạn 2015-2021
Tiền Giang Long An Bình Phước Tây Ninh Đồng Nai Bà Rịa-Vũng Tàu Bình Dương T.P. Hồ Chí Minh
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Giao thông
Giáo dục
KHCN
Y tế
Các hoạt động khác
Đơn vị: %
Nguồn: Niên giám thống kê, Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước tại các
địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn 2015-2021
Phụ lục 23: Tỷ trọng đầu tư CSHT trong tổng đầu tư công tại các địa phương
vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2015-2021
Cả nước
Cà Mau
Kiên Giang
An Giang
Cần Thơ
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Hạng mục khác
CSHT
Đơn vị: %
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2015-2021
Phụ lục 24: Các hạng mục đầu tư công cho CSHT tại các địa phương vùng
KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2015-2021
Cà Mau
Kiên Giang
An Giang
Cần Thơ
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Giao thông
Giáo dục
KHCN
Y tế
Các hoạt động khác
Đơn vị: %
Nguồn: Niên giám thống kê, Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước tại các
địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2015-2021
Phụ lục 25: Quy mô vốn đầu tư tư nhân theo giá so sánh 2010 tại các địa
phương vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021
250000
200000
150000
100000
50000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Hưng Yên
Hải Dương
Hà Nội
Hải Phòng
Bắc Ninh
Vĩnh Phúc
Quảng Ninh
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 26: Quy mô vốn đầu tư tư nhân theo giá so sánh 2010 tại các địa
phương vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2010-2021
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Thừa Thiên-Huế
Quảng Nam
Quảng Ngãi
Bình Định
Đà Nẵng
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 27: Quy mô vốn đầu tư tư nhân theo giá so sánh 2010 tại các địa
phương vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn 2010-2021
300,000.00
250,000.00
200,000.00
150,000.00
100,000.00
50,000.00
0.00
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Bình Dương
TP. Hồ Chí Minh
Bà Rịa - Vũng Tàu
Đồng Nai
Bình Phước
Tây Ninh
Long An
Tiền Giang
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 28: Quy mô vốn đầu tư tư nhân theo giá so sánh 2010 tại các địa
phương vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021
30000
20000
10000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Cần Thơ
An Giang
Kiên Giang
Cà Mau
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL
giai đoạn 2020-2021
Phụ lục 30: Cơ cấu vốn đầu tư tư nhân tại các địa phương vùng KTTĐ miền
Trung trong giai đoạn 2010-2021
ĐÀ NẴNG
QUẢNG NGÃI
BÌNH ĐỊNH
16,86
39,03
43,64
60,97
56,36
83,14
Vốn của DN Vốn của hộ gia đình
Vốn của DN Vốn của hộ gia đình
Vốn của DN Vốn của hộ gia đình
THỪA THIÊN HUẾ
QUẢNG NAM
22,42
38,39
61,61
77,58
Vốn của DN Vốn của hộ gia đình
Vốn của DN
Vốn của hộ gia đình
Đơn vị: %
Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ miền Trung
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 31: Cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn tại các địa phương vùng
KTTĐ phía Nam giai đoạn 2010-2021
TP.HỒ CHÍ MINH
BÌNH DƯƠNG
BÀ RỊA-VŨNG TÀU
14.32 %
14.10 %
24.60 %
85.68 %
Các doanh nghiệp
75.40 %
85.90 %
Hộ gia đình
Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp
ĐỒNG NAI
TÂY NINH
BÌNH PHƯỚC
42.79 %
60.44 %
30.84 %
39.56 %
57.21 %
69.16 %
Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp
LONG AN
TIỀN GIANG
39.91 %
41.25 %
58.75 %
60.09 %
Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp
Đơn vị: %
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 32: Cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn tại các địa phương thuộc
KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021
CẦN THƠ
KIÊN GIANG
38.29%
49.98%
52.02%
61.71%
Các doanh nghiệp
Hộ gia đình
Các doanh nghiệp
Hộ gia đình
CÀ MAU
AN GIANG
38.01%
61.99%
Đơn vị: %
59.47%
Các doanh nghiệp
Hộ gia đình
Các doanh nghiệp
Hộ gia đình
40.53%
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 33: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tại các địa phương vùng
QUẢNG NINH
HÀ NỘI
14.20%
9.82%
37.44%
39.17%
46.63%
52.74%
Đầu tư công Đầu tư tư nhân
Vốn FDI
Đầu tư công Đầu tư tư nhân
Vốn FDI
HƯNG YÊN
HẢI DƯƠNG
17.35%
14.35%
27.85%
30.56%
55.08%
54.80%
Đầu tư công Đầu tư tư nhân
Vốn FDI
Đầu tư công Đầu tư tư nhân
Vốn FDI
VĨNH PHÚC
BẮC NINH 7.65%
23.75%
31.06%
32.19%
60.20%
45.19%
Đầu tư công Đầu tư tư nhân
Đầu tư công Đầu tư tư nhân
Vốn FDI
Vốn FDI
HẢI PHÒNG
29.60%
KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021
18.02%
Đầu tư công Đầu tư tư nhân
Vốn FDI
52.38%
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 34: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tại các địa phương nội
vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2010-2021
QUẢNG NGÃI
ĐÀ NẴNG
Đơn vị: %
BÌNH ĐỊNH
34,7 4
37,6 6
44,3 6
47,9 9
61,7
51,5 2
3,56
7,65
10,8 2
Đầu tư công
Đầu tư công
Đầu tư công
FDI
FDI
Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân
FDI
THỪA THIÊN HUẾ
36,8 9
46,8
45,1 1
47,0 5
7,84
16,3 1
Đầu tư công
FDI
Đầu tư tư nhân
Đầu tư công FDI Đầu tư tư nhân
QUẢNG NAM
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 35: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tại các địa phương vùng
KTTĐ phía Nam giai đoạn 2010-2021
TP.HỒ CHÍ MINH
BÌNH DƯƠNG
BÀ RỊA-VŨNG TÀU
12,95
16,19
15,64
29,15
50,56
55,59
36,49
15,26
68,17
Đầu tư công
Đầu tư công
Đầu tư công
Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân
FDI
FDI
FDI
BÌNH PHƯỚC
TÂY NINH
ĐỒNG NAI 14,92
12,39
15,41
21,6
32,9
45,7
39,38
51,69
66,01
Đầu tư công
Đầu tư công
Đầu tư công
Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân
FDI
FDI
FDI
TIỀN GIANG
LONG AN
16,14
16,54
19,73
21,51
76,33
58,76
Đầu tư công
Đầu tư công
Đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân
FDI
FDI
Đơn vị: %
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 36: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tại các địa phương
nội Vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021
KIÊN GIANG
AN GIANG
Đầu tư công
Đầu tư tư nhân
FDI
Đầu tư công
Đầu tư tư nhân
FDI
2,11
1,33
31,02
32,63
66,87
66,04
CẦN THƠ
CÀ MAU
Đầu tư công
Đầu tư tư nhân
FDI
Đầu tư công
Đầu tư tư nhân
FDI
3,18
1,39
41,91
43,91
54,7
54,91
Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc Vùng KTTĐ ĐBSCL
giai đoạn 2010-2021
Phụ lục 37: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị dữ liệu bảng
Biến số
CIPS
Giá trị tới hạn
Bậc
Giá trị
Sai phân
10%
5%
1%
dừng
ban đầu
bậc 1
PI
-2,202**
-2,755***
-2,07
-2,17
-2,34
I(0)
PIE
-2,774***
-3,465***
-2,07
-2,17
-2,34
I(0)
-2,07
-2,17
-2,34
PIH
-3,164***
I(0)
-2,623***
PU
-1,829
-3,389***
-2,07
-2,17
-2,34
I(1)
PUCSHT
-2,111
-3,180***
-2,07
-2,17
-2,34
I(1)
FDI
-2,670***
-3,077***
-2,07
-2,17
-2,34
I(0)
GRDP
-1,277
-3,514***
-2,07
-2,17
-2,34
I(1)
IR
-4,352***
-5,018***
-2,07
-2,17
-2,34
I(0)
INF
-3,674***
-4,758***
-2,07
-2,17
-2,34
I(0)
Ghi chú: Giá trị p-value được trình bày trong dấu ngoặc đơn. ***, **, * thể hiện mức ý nghĩa lần lượt là 1%, 5%, 10%. Giả thuyết H0 là biến không dừng (có nghiệm đơn vị).
Nguồn: Tác giả thực hiện trên phần mềm Stata-15
Phụ lục 38: Kết quả kiểm định đồng liên kết
Kiểm định Kao Giá trị P-value
Modified Dickey–Fuller t 2,6102*** 0,0045
Dickey- Fuller t 1,5202* 0,0642
Augmented Dickey–Fuller t -1,5523* 0,0603
Unadjusted modified Dickey–Fuller t -5,1602*** 0,0000
Unadjusted Dickey–Fuller t -4,872*** 0,0000
Kiểm định Pedroni
Modified Phillips-Perron t 6,7900*** 0,0000
Phillips-Perron t -4,6334*** 0,0000
Augmented Dickey -Fuller t -2,9567*** 0,0016
Kiểm định Westerlund
Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%. Giả
thuyết H0 là không có đồng liên kết.
Variance ratio 0.6105** 0,0038
Nguồn: Tác giả thực hiện trên phần mềm Stata-15
Phụ lục 39: Kiểm tra tính vững của mô hình hồi quy
PMG MG DFE
Biến phụ thuộc PI Hệ số Hệ số Hệ số Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn
0,032 0,368*** 0,020 0,248** 0,029 0,099*** -0,308** 0,463 -0,044*** 0,005 -0,316*** 0,089 288 PU GRDP FDI INF IR EC Số quan sát 0,249 0,274*** 0,096 0,022 0,089 0,153 2,737 -3,065 0,028 -0,030 -0,610*** 0,061 288
Ghi chú: (1) ** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.
Độ trễ của 3 mô hình thường được lựa chọn dựa trên kỹ thuật của Kripfganz và Schinerder (2018). Tuy nhiên,
trên thực tế do chuỗi thời gian tương đối ngắn nên dựa vào các nghiên cứu đi trước của Loayza và Ranciere (2006), Demetriades và Siong (2006), Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự (2020), tác giả chọn độ trễ tối ưu cho tất cả các biến trong mô hình là 1.
(2) Phương pháp nhóm trung bình MG (Mean Group), các hệ số hồi quy trong ngắn hạn và dài hạn
được cho phép khác nhau. Ngược lại, phương pháp ảnh hưởng cố định động DFE (Dynamic Fixed Effect) giả định các hệ số hồi quy trong dài hạn và ngắn hạn là đồng nhất (Pesaran & cộng sự, 1999).
(3) Để lựa chọn giữa 3 phương pháp PMG, MG, DEF, kiểm định được sử dụng là kiểm định Hausman
(Pesaran và cộng sự, 1999). Giả thuyết H0 chính là không có sự khác biệt giữa phương pháp MG và PMG (hoặc PMG và DEF). Nếu giả thuyết này bị bác bỏ, điều này có nghĩa là phương pháp PMG là phù hợp và
ngược lại, phương pháp MG hoặc DEF sẽ phù hợp hơn.
0,954 0,255** 1,077 0,525 1,017 0,857** 2,012 0,749 0,070 -0,014 -0,513** 0,252 288 Hausman test: H0: PMG hiệu quả hơn MG (h-test =2.80; P-value =0.423) Hausman test: H0: PMG hiệu quả hơn DFE (h-test =9.22; P-value=0.101)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15
Phụ lục 40: Chính sách đầu tư công tại các vùng KTTĐ giai đoạn 2021-2030
Chính sách đầu tư công
Vùng KTTĐ ĐBSCL (công nghiệp chế biến lượng thực, thực phẩm, nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao) *
Vùng KTTĐ phía Nam (khoa học, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, dịch vụ tài chính, ngân hàng và logistics) *
Vùng KTTĐ miền Trung (du lịch biển, du lịch sinh thái, công nghiệp hóa dầu và công nghiệp ô tô- phụ trợ ngành cơ khí) *
Vùng KTTĐ Bắc bộ (công nghiệp chế biến chế tạo giá trị gia tăng cao, vận tải biển, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới) *
Cực tăng trưởng: TP. Hà Nội
Cực tăng trưởng: TP. Đà Nẵng
Cực tăng trưởng: TP. Hồ Chí Minh
Cực tăng trưởng: TP. Cần Thơ
Khu vực ưu tiên đầu tư: Tam giác Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang
Khu vực ưu tiên đầu tư: Tam giác Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh
Khu vực ưu tiên đầu tư: Ven biển Thừa Thiên Huế- Đà Nẵng – Quảng Nam – Quảng Ngãi
Khu vực ưu tiên đầu tư: Tứ giác TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương- Đồng Nai- Bà Rịa-Vũng Tàu
Lĩnh vực ưu tiên đầu tư: CSHT cho các ngành thế mạnh, gia tăng liên kết nội vùng và các khu vực lân cận (Lào Cai, Lạng Sơn)
Lĩnh vực ưu tiên đầu tư: CSHT cho các ngành thế tăng mạnh, gia liên kết nội vùng và các khu vực lân cận (mạng lưới giao thông gắn với hình thành hành lang kinh tế Bắc- Nam qua địa bàn vùng và các hành lang Đông-Tây, Tây Nguyên)
Lĩnh vực ưu tiên đầu tư: CSHT cho các ngành thế mạnh, gia tăng liên kết nội vùng và các khu vực lân thống (hệ cận đường ven biển qua các tỉnh, phát triển kết cấu hạ tâng đường thủy nội địa liên kết Vùng với TP. Hồ Chí minh và vùng Đông Nam Bộ)
Lĩnh vực ưu tiên đầu tư: CSHT cho các ngành thế mạnh, gia tăng liên kết nội vùng và các khu vực lân cận (đường bộ cao tốc kết nối Thành phố Hồ Chí Minh với địa các phương trong và vùng, ngoài đường vành đai 3,4 Thành phố Hồ Chí Minh hành lang kinh tế Bắc- Nam và hành lang kinh Tây tế Nguyên-TP. Hồ Chí Minh)
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ Nghị quyết 138/NQ-CP, Quyết định số 198/QĐ-TTg, Quyết
định số 1874/QĐ-TTg, Quyết định số 2631/QĐ-TTg