BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ NHÂN:

NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC VÙNG KINH TẾ

TRỌNG ĐIỂM TẠI VIỆT NAM

Ngành: Kinh tế quốc tế

HỒ THỊ HOÀI THƯƠNG

Hà Nội - 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ

NHÂN: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC VÙNG KINH

TẾ TRỌNG ĐIỂM TẠI VIỆT NAM

Ngành: Kinh tế quốc tế

Mã ngành: 9310106

Nghiên cứu sinh: Hồ Thị Hoài Thương

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Thị Thùy Vinh

Hà Nội - 2023

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả

nghiên cứu trong Luận án là trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ một công

trình khoa học nào khác.

Tác giả luận án

Hồ Thị Hoài Thương

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS,TS Nguyễn Thị Thùy Vinh, giáo viên hướng

dẫn đã hết lòng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện cho tôi có thể hoàn thành được Luận

án.

Đồng thời, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Ngoại

thương, Khoa Sau đại học, Ban lãnh đạo Khoa Kinh tế Quốc tế, Bộ môn Kinh tế

Vĩ mô cùng các thầy cô đồng nghiệp, bạn bè đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi rất tận tình trong

quá trình thực hiện Luận án.

Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình đã luôn yêu

thương, tin tưởng và động viên tôi.

Tác giả luận án

Hồ Thị Hoài Thương

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT................................................................. vi

DANH MỤC BẢNG ......................................................................................... viii

DANH MỤC HÌNH ............................................................................................. ix

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................................................................... 8

1.1 Các nghiên cứu về tác động lấn át của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân .... 8

1.2 Các nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân.. 13

1.3 Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................... 18

1.3.1 Nội dung tiếp cận nghiên cứu ................................................................. 18

1.3.2 Phương pháp tiếp cận nghiên cứu ........................................................... 20

TỔNG KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................. 21

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG TỚI

ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM ......................... 22

2.1 Những vấn đề cơ bản về đầu tư công và đầu tư tư nhân ................................ 22

2.1.1 Đầu tư công ............................................................................................. 22

2.1.2 Đầu tư tư nhân ......................................................................................... 27

2.1.3 Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân .......................................... 32

2.2 Đầu tư công, đầu tư tư nhân tại vùng kinh tế trọng điểm .............................. 38

2.2.1 Những vấn đề cơ bản về vùng kinh tế trọng điểm .................................. 38

2.2.2 Vai trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân đối với vùng kinh tế trọng

điểm ......................................................................................................43

TỔNG KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................. 46

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. 47

3.1 Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu..................................................... 47

3.1.1 Khung phân tích ...................................................................................... 47

3.1.2 Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 48

3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng ............................................................. 52

3.2.1 Mô hình nghiên cứu ................................................................................ 52

3.2.2 Phương pháp ước lượng .......................................................................... 55

3.3 Phương pháp nghiên cứu định tính ................................................................ 58

3.3.1 Phương pháp thống kê mô tả .................................................................. 64

3.3.2 Phương pháp phân tích - tổng hợp ......................................................... 65

3.4 Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................... 59

iv

CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG VÀ ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI

CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM CỦA VIỆT NAM ........................... 62

4.1 Tổng quan về các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam ............................. 62

4.1.1 Lịch sử hình thành các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam ............ 62

4.1.2 Tình hình phát triển kinh tế tại các vùng kinh tế trọng điểm của

Việt Nam .................................................................................................. 63

4.2 Thực trạng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của

Việt Nam .............................................................................................................. 65

4.2.1 Thực trạng đầu tư công tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam . 65

4.2.2 Thực trạng đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

.......................................................................................................................... 69

4.2.3 Thực trạng mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng

kinh tế trọng điểm của Việt Nam ..................................................................... 71

4.2.4 Thực trạng chính sách thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân

tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam ................................................ 85

TỔNG KẾT CHƯƠNG 4 .................................................................................. 79

CHƯƠNG 5: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ

CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM

CỦA VIỆT NAM ................................................................................................ 80

5.1 Mô tả thống kê................................................................................................ 80

5.2 Kết quả ước lượng tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng

kinh tế trọng điểm của Việt Nam ......................................................................... 80

5.2.1 Các kiểm định ......................................................................................... 80

5.2.2 Phân tích kết quả ..................................................................................... 81

v

TỔNG KẾT CHƯƠNG 5 ................................................................................ 103

CHƯƠNG 6: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐẦU TƯ CÔNG NHẰM THÚC

ĐẨY ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM CỦA

VIỆT NAM ........................................................................................................ 104

6.1 Bối cảnh quốc tế và trong nước ................................................................... 104

6.1.1 Bối cảnh quốc tế .................................................................................... 104

6.1.2 Bối cảnh trong nước .............................................................................. 107

6.2 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các

vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam đến năm 2030 ...................................... 112

6.2.1 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân đối

với tổng thể các vùng KTTĐ ......................................................................... 112

6.2.2 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân đối

với từng vùng KTTĐ ..................................................................................... 114

6.3 Giải pháp thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các vùng

kinh tế trọng điểm của Việt Nam ....................................................................... 115

6.3.1. Nhóm giải pháp chung cho các vùng kinh tế trọng điểm .................... 116

6.3.2. Nhóm giải pháp cụ thể đối với từng vùng kinh tế trọng điểm ............. 126

TỔNG KẾT CHƯƠNG 6 ................................................................................ 145

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt

Mô hình tự phân phối độ trễ ARDL Autoregressive Distributed Lag hồi quy

Cơ sở hạ tầng CSHT

Ước lượng ảnh hưởng cố DFE Dynamic Fixed Effect định động

Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL

CGE Computable General Equibrilium Mô hình cân bằng tổng thể

FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FPI Foreign Portfolio Investment Đầu tư gián tiếp nước ngoài

GMM Generalized Method of Moments Hồi quy khoảnh khắc

GRDP Gross Regional Domestic Product Tổng sản phẩm địa phương

IMF International Money Fund Qũy tiền tệ thế giới

INF Inflation Lạm phát

IR Real interest rate Lãi suất thực tế

The Japan International Cooperation Cơ quan Hợp tác Quốc tế JICA Agency Nhật Bản

KTTĐ Kinh tế trọng điểm

MG Mean Group Ước lượng nhóm trung bình

NSNN Ngân sách Nhà nước

Organization for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển OECD Cooperation and Development Kinh tế

Phương pháp bình phương OLS Ordinary Least Square nhỏ nhất

PI Private investment Đầu tư tư nhân

PIE Private investment of Enterprises Đầu tư khu vực doanh nghiệp

PIH Private investment of Households Đầu tư khu vực hộ gia đình

Ước lượng nhóm trung bình PMG Pool Mean Group gộp

vii

Chữ viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt

PU Public investment Đầu tư công

Mô hình vectơ tự động hồi PVAR Panel Vector Autoregression quy dạng bảng

Mô hình vectơ tự động hồi SVAR Structural Vector Autoregression quy cấu trúc

TP Thành phố

UN United Nations Liên hợp quốc

United Nations Conference on Trade Hội nghị Liên Hợp Quốc về UNCTAD and Development Thương mại và Phát triển

Mô hình vectơ tự động hồi VAR Vector Autoregression quy

VECM Vector Error Correction Model Mô hình hiệu chỉnh sai số

WB World Bank Ngân hàng thế giới

viii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của các vùng KTTĐ giai đoạn

2010-2021 ........................................................................................................ 64

Bảng 2.2: Tốc độ tăng đầu tư công bình quân giai đoạn 2010-2021 .............. 66

Bảng 2.3: Tốc độ tăng đầu tư tư nhân bình quân giai đoạn 2010-2021 .......... 70

Bảng 2.4: So sánh tốc độ tăng trưởng đầu tư công, đầu tư tư nhân, FDI giai

đoạn 2010-2018 so với giai đoạn 2019-2021 tại các vùng KTTĐ ................. 74

Bảng 3.1: Các giả thuyết nghiên cứu và dấu kỳ vọng .................................... 51

Bảng 3.2: Thống kê mô tả các biến ................................................................. 80

Bảng 3.3: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị dữ liệu bảng ............................. 81

Bảng 3.4: Kết quả kiểm định đồng liên kết .................................................... 53

Bảng 3.5: Kiểm định tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại 4

vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021 ................................................................... 81

Bảng 3.6: Kiểm định phi nhân quả Granger về tác động của đầu tư công cho

CSHT tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021 ............... 83

Bảng 3.7: Kiểm định tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu

vực doanh nghiệp (PIE) tại 4 vùng KTTĐ ...................................................... 85

Bảng 3.8: Kiểm định phi nhân quả Granger về tác động của đầu tư công cho

CSHT tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp tại các vùng KTTĐ giai đoạn

2010-2021 ........................................................................................................ 87

Bảng 3.9: Kiểm định tác động dài hạn của đầu tư công đầu tư tư nhân khu vực

hộ gia đình (PIH) tại 4 vùng KTTĐ ................................................................ 88

Bảng 3.10: Kiểm định tác động ngắn hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại

các Vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021 ............................................................ 90

Bảng 3.11: Kiểm định tác động ngắn hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

của khu vực doanh nghiệp (PIE) và khu vực hộ gia đình (PIH) tại các Vùng

KTTĐ .............................................................................................................. 97

Bảng 4.1: Tình hình phát triển các khu công nghiệp theo các vùng KTTĐ đến

cuối năm 2020 ............................................................................................... 119

Bảng 4.2: Thông tin chung về kết quả xây dựng cánh đồng lớn tại vùng KTTĐ

ĐBSCL năm 2020 so với năm 2016 ............................................................. 143

ix

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Khung nghiên cứu của Luận án ...................................................... 48

Hình 1.2: Hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân ........................................................ 33

Hình 1.3: Kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân ......................... 38

Hình 2.1: GRDP bình quân của các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021 ......... 63

Hình 2.2: Quy mô đầu tư công tại các vùng KTTĐ bình quân giai đoạn

2010-2021 ........................................................................................................ 65

Hình 2.3: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ ........ 67

Hình 2.4: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ giai đoạn

2010-2021 ........................................................................................................ 68

Hình 2.5: Quy mô đầu tư tư nhân bình quân tại các vùng KTTĐ giai đoạn

2010-2021 ........................................................................................................ 69

Hình 2.6: Cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ giai đoạn

2010-2021 ........................................................................................................ 71

Hình 2.7: Tỷ trọng đầu tư công, đầu tư tư nhân, FDI trong tổng vốn đầu tư toàn

xã hội giai đoạn 2010-2021 ............................................................................. 72

Hình 2.8: Hệ số thu hút đầu tư và tốc độ tăng trưởng FDI tại các vùng KTTĐ .. 75

Hình 4.1: Cơ sở xây dựng giải pháp ............................................................. 116

Hình 4.2: Tình hình thu chi bình quân từ NS địa phương trong giai đoạn

2010-2021 tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung .................... 133

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư công có vai trò to lớn thúc đẩy

sự phát triển kinh tế, nhất là trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, tạo môi

trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh từ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh

của khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư công vào kết cấu hạ tầng kinh

tế- xã hội cũng một trong các nhân tố quan trọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI), từ đó gia tăng nguồn lực phát triển đất nước. Tại Việt Nam, quy mô đầu

tư công tăng nhanh đã góp phần đóng góp cho sự tăng trưởng cao của Việt Nam trong

một thời gian dài. Đầu tư công thường được đề cập đến với vai trò là “đầu tư mồi” để

thu hút , dẫn dắt đầu tư tư nhân, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội tại các

địa phương, các vùng kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó, Việt Nam đang hội nhập

sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với việc tham gia nhiều hơn vào các hiệp định thương

mại, hiệp định thương mại thế hệ mới và thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo

các cam kết. Khi đó, muốn đảm bảo tăng trưởng, Chính phủ cần phải tăng cường đầu

tư công vào cơ sở hạ tầng kinh tế (đường sá, cầu cống, cảng..., hạ tầng cho các khu

công nghiệp, thương mại) và cơ sở hạ tầng xã hội (trường học, bệnh viện...) nhằm cải

thiện môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh. Như vậy có thể thấy, đầu tư công

đóng vai trò quan trọng đối với đầu tư tư nhân và sự phát triển kinh tế tại Việt Nam,

đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Hiện nay, Việt Nam có bốn vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ), gồm vùng KTTĐ

Bắc Bộ, vùng KTTĐ miền Trung, vùng KTTĐ phía Nam và vùng KTTĐ đồng bằng

sông Cửu Long (ĐBSCL) với tổng số 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đảng

và Nhà nước xác định đây là các vùng động lực làm đầu tàu kéo theo sự phát triển

của các vùng khác trên cả nước. Đây là cũng là những khu vực trọng điểm về đầu tư

công, đầu tư tư nhân và đóng góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế đất nước. Mặc dù

đóng vai trò là yếu tố dẫn dắt tạo nền tảng cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư tư nhân nội

vùng và cả nước, tuy nhiên trong nhiều năm qua vai trò của đầu tư công tại các vùng

KTTĐ được nhận định là còn mờ nhạt (Trần Du Lịch, 2021). Trên thực tế, đầu tư

công vào cơ sở hạ tầng các công trình kinh tế trọng điểm đã có nhiều thành tựu trong

tạo đòn bầy kích thích, thu hút hoạt động đầu tư tư nhân, đặc biệt trong các khu kinh

tế, khu công nghiệp (Nguyễn Thị Chính, 2020; Nguyễn Thị Thanh Huyền & cộng sự,

2022). Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, việc thu hút chưa hiệu quả và chưa tạo

2

được động lực lôi kéo đầu tư tư nhân. Cụ thể, kết cấu cơ sở hạ tầng giao thông, cảng

biển, đường sắt, đô thị chưa đồng bộ do thiếu cơ quan chịu trách nhiệm điều tiết, quy

hoạch vùng nên chưa phát huy được lợi thế, hiệu quả và tạo lực hấp dẫn đối với khu

vực tư nhân (Trần Duy Đông, 2022). Ngoài ra, đầu tư công tạo áp lực lớn tới ngân

sách nhà nước do tại các cùng KTTĐ cần một nguồn lực lớn phụ vụ các dự án đầu tư

liên kết vùng, từ đó tạo áp lực lớn trên thị trường vốn vay và ảnh hưởng tiêu cực tới

đầu tư tư nhân (Đỗ Thị Thanh Huyền & cộng sự, 2021). Do đó, đầu tư công tạo ra tác

động lấn át hay bổ trợ tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ vẫn là vấn đề gây nhiều

tranh cãi. Vì vậy, vấn đề đặt ra là các khu vực kinh tế trọng điểm cần sử dụng vốn

đầu tư công như thế nào để có thể tăng cường hiệu ứng bổ trợ, giảm hiệu ứng lấn át

đối với đầu tư tư nhân, từ đấy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nội dung này đặc biệt

quan trọng đối với các vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung trong bối cảnh

xung đột Nga - Ukraine, thuế tối thiểu toàn cầu đang ngày càng có những ảnh hưởng

sâu sắc và toàn diện tới nền kinh tế Việt Nam cũng như dư địa của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế đang ngày càng hẹp dần1.

Bên cạnh đó, dưới góc độ nghiên cứu, tác động của đầu tư công đến đầu tư tư

nhân là chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nhưng cơ chế và kết quả của tác

động còn nhiều tranh cãi. Nhiều nghiên cứu cho thấy đầu tư công có tác động bổ trợ

(crowding in) đến đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư công đầy đủ vào cơ sở hạ tầng giúp

cải thiện khả năng tiếp cận thị trường, giảm chi phí sản xuất và tăng đầu tư tư nhân

(Aschauer,1989a; Saidjada và cộng sự , 2016; Makuyana, 2016 và Ouedraogo & cộng

sự, 2019). Ngoài ra, đầu tư của chính phủ vào vốn con người (chẳng hạn như giáo dục

và y tế), chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển góp phần hình thành vốn con người,

nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy đầu tư nhân (Lall, 2007; Daniele, 2009;

Flores-Chamba & cộng sự, 2019; Jena & Barua, 2020). Tuy nhiên, các nghiên cứu

khác cho thấy đầu tư công có thể tạo tác động lấn át (crowding out) tới đầu tư tư nhân

khi nhu cầu vốn lớn cho đầu tư phát triển của chính phủ có thể khiến lãi suất trên thị

trường vốn vay tăng lên làm giảm khả năng tiếp cận vốn của khu vực tư nhân

(Friedman, 1978; Ganelli, 2003; Kustepeli, 2005; Cavallo & Daude, 2011). Ngoài ra,

tăng thuế hoặc vay nợ để tài trợ cho chi tiêu chính phủ cũng khiến khu vực tư nhân

khó tiếp cận các nguồn tài chính khan hiếm của nền kinh tế (Pereira & Andraz, 2004;

1 Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý III và cả năm 2022, Tổng cục thống kê

Drezgić, 2011; Rodríguez-Pose & cộng sự, 2012; Solihin & cộng sự, 2021). Tác động

3

của đầu tư công tới đầu tư tư nhân còn gây nhiều tranh cãi khi xét trong ngắn hạn và

trong dài hạn, cũng như khi xét tác động của các thành phần của đầu tư công tới các

thành phần của đầu tư tư nhân (Pereira & cộng sự, 2001; Castillo & cộng sự, 2005;

Ngeendepi & cộng sự, 2021; Babu & cộng sự ,2022). Như vậy, về mặt nghiên cứu,

tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân là một trong những vấn đề gây nhiều

tranh luận và cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này một cách hệ thống và toàn diện.

Tại Việt Nam, có khá nhiều nghiên cứu về đầu tư công và hiệu quả của đầu tư

công (Nguyễn Hồng Thắng, 2009; Hoàng Thế Anh, 2014; Diệp Gia Luật, 2015; Trần

Vũ Phong, 2018; Đào Thị Hồ Hương, 2021; Phạm Thị Thanh Bình, 2023). Tuy nhiên

còn khuyết thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về tác động của giữa đầu tư công đối

với đầu tư tư nhân, đặc biệt là những nghiên cứu thực nghiệm kiểm định hiệu ứng lấn

át và hiệu ứng bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Bên cạnh đó những nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới các thành phần cụ thể

của đầu tư tư nhân hay nghiên cứu tác động của đầu tư công cho cơ sở hạ tầng tới đầu

tư tư nhân chưa được tập trung khai thác trong các nghiên cứu tại Việt Nam. Mặt

khác, theo hiểu biết của NCS, chưa có nghiên cứu nào được thực hiện dưới góc độ

định tính và định lượng đối với 24 tỉnh/thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm. Các

nghiên cứu tại Việt Nam chủ yếu tập trung ở góc độ tổng thể nền kinh tế hoặc góc độ

một địa phương cụ thể. Trong khi đó, vùng KTTĐ được Đảng và Nhà nước xác định

là đầu tàu kéo theo sự tăng trưởng chung của cả nước. Do đó nghiên cứu các kênh tác

động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân, từ đó đề xuất giải pháp để sử dụng vốn đầu

tư công hiệu quả nhằm thu hút đầu tư tư nhân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

tại các vùng KTTĐ và cả nước là vấn đề cần thiết trong bối cảnh kinh tế thế giới có

nhiều biến động.

Dựa vào khoảng trống thực tiễn và nghiên cứu được đề cập ở trên, nghiên cứu

sinh (NCS) đã lựa chọn “Tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân: Nghiên

cứu trường hợp các vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu

cho Luận án.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ và câu hỏi nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của Luận án là phân tích tác động của đầu tư công tới đầu

tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam. Từ đó, Luận án đề xuất các

4

giải pháp để thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế

trọng điểm của Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu cơ bản trên, Luận án sẽ thực hiện những nhiệm

vụ cụ thể về lý thuyết và thực nghiệm sau đây:

Thứ nhất, hệ thống cơ sở lý luận về đầu tư công, đầu tư tư nhân, các kênh tác

động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và lý thuyết về vùng kinh tế trọng điểm.

Thứ hai, phân tích thực trạng tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại tại

các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Bên cạnh đó, kiểm định tác động của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân tại tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam trong

khoảng thời gian nghiên cứu dựa trên các mô hình phân tích định lượng.

Thứ ba, đề xuất các giải pháp thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư

nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam.

2.3. Câu hỏi nghiên cứu

Luận án hướng tới việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu chính sau đây:

Thứ nhất, đầu tư công tác động lấn át hay bổ trợ tới đầu tư tư nhân cũng như

các thành phần của đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam và

tác động này có thay đổi hay không khi xét trong ngắn hạn và dài hạn?

Thứ hai, đầu tư công cho cơ sở hạ tầng (CSHT) ảnh hưởng như thế nào tới đầu

tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam?

Thứ ba, chính sách đầu tư công tại các vùng kinh tế trọng điểm cần được xây

dựng như thế nào để có thể thúc đẩy được đầu tư tư nhân đến năm 2030 ?

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng

kinh tế trọng điểm (KTTĐ) của Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

✓ Nội dung: Luận án nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân dưới góc độ tổng đầu tư công tác động tới các thành phần của đầu tư tư nhân

trong nước (đầu tư khu vực hộ gia đình và đầu tư khu vực doanh nghiệp) tại các vùng

KTTĐ của Việt Nam. Trong bối cảnh dòng vốn FDI đang trở nên cạnh tranh hơn sau

đại dịch Covid-19, vai trò của đầu tư tư nhân trong nước lại càng trở nên quan trọng

hơn đối với sự phục hồi kinh tế của các vùng KTTĐ và của Việt Nam. Do đó, cần tập

5

trung xây dựng các chính sách thực hiện đầu tư công nhằm dẫn dắt, tạo nền tảng thu

hút đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.

✓ Thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 2010

đến năm 2021. Do vùng KTTĐ ĐBSCL được thành lập vào tháng 4/2009 nên số liệu

về 4 vùng KTTĐ được tập hợp kể từ năm 2010 để đảm bảo tính thống nhất giữa các

vùng KTTĐ. Bên cạnh đó, hiện nay theo báo cáo của Tổng cục thống kê, số liệu liên

quan tới đầu tư công, đầu tư tư nhân tại các địa phương tại Việt Nam nói chung và tại

các vùng KTTĐ nói riêng mới được cập nhật tới năm 2021. Vì các lý do nêu trên, số

liệu nghiên cứu trong bài sẽ được thu thập bắt đầu từ năm 2010 cho đến năm 2021.

✓ Không gian: Luận án nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân tại 4 vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam với 24 tỉnh/thành phố. Bao gồm:

KTTĐ Bắc bộ (TP. Hà Nội, Hưng Yên,TP.Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc

Ninh, Vĩnh Phúc); vùng KTTĐ miền Trung (Thừa Thiên-Huế, TP. Đà Nẵng, Quảng

Nam, Quảng Ngãi, Bình Định), vùng KTTĐ phía Nam (TP.Hồ Chí Minh, Bình

Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang) và

vùng KTTĐ đồng bằng sông Cửu Long (TP.Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau).

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp nghiên cứu định tính

Phương pháp thu thập dữ liệu: Dữ liệu nghiên cứu trong bài là dữ liệu thứ cấp

được NCS thu thập từ Niên giám thống kê của các Cục Thống kê, Tổng cục Thống

kê, Báo cáo quyết toán chi NSNN của Sở Tài Chính của 24 tỉnh/ thành phố thuộc 4

vùng KTTĐ. Ngoài ra, dữ liệu liên quan tới lãi suất để chạy trong mô hình được NCS

thu thập từ World Bank.

Phương pháp phân tích tổng hợp: NCS tổng hợp và phân tích có hệ thống các

cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân. Từ đó, NCS chỉ ra khoảng trống nghiên cứu và xây dựng hướng nghiên cứu

của Luận án.

Phương pháp thống kê mô tả: NCS thống kê, mô tả số liệu thông qua các sơ đồ,

biểu đồ để thấy rõ thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân và mối quan hệ giữa đầu tư

công, đầu tư tư nhân tại các tỉnh của các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam. Từ đó,

kết hợp cùng kết quả nghiên cứu của mô hình định lượng, NCS đưa ra các đề xuất

chính sách.

6

4.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng

Phương pháp ước lượng nhóm trung bình gộp: NCS sử dụng phương pháp ước

lượng nhóm trung bình gộp (Pool Mean Group- PMG) để đánh giá tác động của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân và các thành phần của đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ

của Việt Nam. Phương pháp này cho phép các tham số ngắn hạn khác biệt giữa các

nhóm trong khi ràng buộc các tham số dài hạn đồng nhất giữa các đơn bị bảng.

Phương pháp phân tích phi nhân quả: Bên cạnh đó, NCS sử dụng phương pháp

phân tích phi nhân quả được đề xuất bởi Juodis & cộng sự (2021) cho dữ liệu bảng

để kiểm tra tác động của đầu tư công cho cơ sở hạ tầng (CSHT) tới đầu tư tư nhân

từng vùng do số liệu của đầu tư công cho CSHT không đủ quan sát để thực hiện với

mô hình PMG. Ưu điểm của phương pháp này đó chính là sử dụng được với số liệu

có cỡ mẫu nhỏ và trong mô hình mà các hệ số hồi quy là đồng nhất lẫn không đồng

nhất (Juodis & cộng sự, 2021).

5. Những đóng góp của Luận án

5.1. Về lý luận

Thứ nhất, Luận án đã tổng hợp và làm rõ các vấn đề lý thuyết về vùng, vùng

kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm. Đồng thời, thông qua cơ sở lý thuyết và các nghiên

cứu thực nghiệm trước đây, Luận án đã chỉ rõ kênh tác động của đầu tư công tới đầu

tư tư nhân. Từ đó, nghiên cứu đã xây dựng được khung phân tích tác động của đầu tư

công tới đầu tư nhân.

Thứ hai, Luận án sử dụng các mô hình kinh tế lượng phù hợp để đánh giá tác

động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ. Đa số các nghiên cứu

tại Việt Nam khi nghiên cứu dưới góc độ các tỉnh/thành thì sử dụng chuỗi dữ liệu

bảng với các phương pháp truyền thống như POLS, FEM, REM, GMM. Tuy nhiên,

hạn chế của các phương pháp này là không phân tách được tác động ngắn hạn và dài

hạn của chuỗi số liệu. Do đó, sẽ không tạo hiệu quả cao khi phân tích tác động của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân khi kênh tác động có thể tạo kết quả khác biệt trong

ngắn hạn và dài hạn. Luận án sử dụng mô hình PMG có thể phân tác được kênh tác

động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và dài hạn. Từ đó, cung cấp

góc nhìn toàn diện hơn về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó,

Luận án, sử dụng phương pháp phân tích phi nhân quả được đề xuất bởi Juodis &

cộng sự (2021) để phân tích tác động của đầu tư công CSHT đối với đầu tư tư nhân.

Tại các vùng KTTĐ tại Việt Nam, hơn 95% vốn đầu tư công dành cho xây dựng và

7

hoàn thiện CSHT. Đây được xác định là động lực thúc dẫn dắt và thu hút đầu tư tư

nhân tại các vùng KTTĐ.

5.2. Về thực nghiệm

Thứ nhất, thông qua phân tích định lượng, Luận án đã chỉ ra tác động của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân, đầu tư tư nhân thuộc khu vực doanh nghiệp, đầu tư tư nhân

thuộc khu vực hộ gia đình tại các vùng KTTĐ. Luận án chỉ ra rằng tác động của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân và các thành phần của đầu tư tư nhân là khác nhau trong

dài hạn và ngắn hạn. Đặc biệt, Luận án cũng chỉ ra tại mỗi vùng KTTĐ, đầu tư công

sẽ có tác động tới đầu tư tư nhân và các thành phần của đầu tư tư nhân là có sự khác

biệt. Ngoài ra, Luận án cũng chỉ ra được vai trò quan trọng của đầu tư CSHT đối với

đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.

Thứ hai, từ phân tích kết quả định lượng, Luận án đưa ra chính sách sử dụng

đầu tư công để thúc đẩy đầu tư tư nhân dưới góc độ tổng thể các vùng KTTĐ. Đồng

thời, Luận án cũng đề xuất các giải pháp cho từng vùng KTTĐ, phù hợp với tình hình

phát triển kinh tế, cơ cấu đầu tư công, đầu tư tư nhân và định hướng chính sách đầu

tư công trong giai đoạn 2022-2030. Đây là nội dung mang ý nghĩa thực tiễn rất quan

trọng trong bối cảnh các vùng KTTĐ luôn được định hướng là động lực tăng trưởng

của cả nước và đầu tư công được cho là yếu tố dẫn dắt quan trọng tạo nền tảng để thu

hút đầu tư tư nhân thời kỳ hậu Covid-19.

6. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án gồm 6 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài Luận án

Chương 2: Cơ sở lý luận về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và vùng

kinh tế trọng điểm

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng

điểm của Việt Nam

Chương 5: Phân tích định lượng tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại

vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

Chương 6: Giải pháp thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại

các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

8

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ

LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1 Các nghiên cứu về tác động lấn át của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân

Thứ nhất, các nghiên cứu phân tích tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư

tư nhân trong phạm vi một quốc gia cụ thể, hoặc một nhóm các quốc gia.

Pradhan, Ratha và Sarma (1990) khi kiểm tra về tác động của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân tại Ấn Độ trong giai đoạn 1990-2000 với mô hình cân bằng tổng thể

(CGE) đã chỉ ra rằng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng

mức độ lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân phụ thuộc vào cách thức chính phủ

tài trợ cho đầu tư công. Cụ thể, mức độ lấn át cao nhất khi chính phủ vay nợ trên thị

trường vốn vay. Trong khi đó, Bilgili (2003) sử dụng dữ liệu của Thổ Nhĩ Kỳ trong

giai đoạn 1988-2003 với phương pháp VECM đã chỉ ra tác động lấn át của đầu tư

công tới đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư công tăng lên 1%, đầu tư tư nhân sẽ giảm đi

0.68%. Tương tự Pradhan, Ratha và Sarma (1990), Bahal và cộng sự (2015) cũng

nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại Ấn Độ tuy nhiên trong giai

đoạn dài hơn (1950 – 2012) với mô hình hiệu chỉnh sai số VECM (Vector Error

Correction Model). Nhận thức được những thay đổi lớn về cấu trúc nền kinh tế Ấn

Độ đã trải qua trong ba thập kỷ qua, nhóm tác giả đã nghiên cứu xem liệu đầu tư công

trong những năm gần đây có trở nên bổ sung ít hay nhiều cho đầu tư tư nhân vào so

với giai đoạn trước năm 1980 hay không. Nghiên cứu chỉ ra rằng đầu tư công lấn át

đầu tư tư nhân từ năm 1950 đến năm 2012. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nazmi và

Ramirez (1997) xem xét tác động của đầu tư công, đầu tư tư nhân tới tăng trưởng

kinh tế tại Mexico giai đoạn 1940-1991với phương pháp bình phương nhỏ nhất hai

giai đoạn 2 SLS (Two Statge Ordinary Least Squares). Kết quả cho thấy đầu tư công

và đầu tư tư nhân đều tạo tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế tuy nhiên đầu tư

công có tác động mạnh hơn tới tăng trưởng kinh tế. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ

ra đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư công tăng 1% sẽ

làm cho đầu tư tư nhân nhân giảm 0.56%.

Tại Việt Nam, Tô Trung Thành (2012) sử dụng số liệu thu thập từ 1986-2010

tại Việt Nam với mô hình VECM nhằm mục đích nghiên cứu liệu đầu tư công tác

động tiêu cực hay tích cực đến đầu tư tư nhân. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hiện

tượng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân được thể hiện rõ nét. Theo đó, sau một thập

niên, đầu tư công tăng 1% sẽ khiến đầu tư tư nhân bị thu hẹp 0,48%. Hoàng Dương

9

Việt Anh (2013) sử dụng mô hình VAR trong nghiên cứu về tác động đầu tư công

đến tăng trưởng tại vùng Trung Bộ Việt Nam giai đoạn 1986-2011 đã chỉ ra được vai

trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân với tăng trưởng cũng như tác động của đầu tư

công tới đầu tư tư nhân. Theo đó, đầu tư công cũng có thể lấn át đầu tư tư nhân trong

việc sử dụng nguồn lực khan hiếm, do đó tác động xấu đến tăng trưởng. Phạm Thị

Linh (2016) đã sử dụng đồng thời biện pháp định tính và định lượng với mô hình

VAR để đánh giá tác động của đều tư công tới đầu tư tư nhân ở Việt Nam giai đoạn

từ qúy 3 năm 2004 đến quý 4 năm 2015. Kết quả cho thấy đầu tư tư nhân bị lấn át bởi

đầu tư công tại Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra đầu tư tư nhân bị chèn lấn ở ba

khía cạnh: hoạt động, vốn và cơ hội. Các nghiên cứu của Lê Văn Cường (2010),

Huỳnh Văn Mười Một (2017), Văn Hà & cộng sự (2022) cũng cho thấy tác động lấn

át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại Việt Nam.

Bên cạnh các nghiên cứu tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

trong phạm vi một quốc gia thì còn có các nghiên cứu phân tích đối với một nhóm

các quốc gia. Everhart và Sumlinski (2001) nghiên cứu tác động của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân với dữ liệu bảng không cân bằng tại 63 nước đang phát triển trong giai

đoạn 1970-2000. Kết quả cho thấy đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân

tại hầu hết các quốc gia mà có thể chế kém. Tương tự, Cavallo và Daude (2008) phân

tích ảnh hưởng của đầu tư công đến đầu tư tư nhân với phương pháp hồi quy khoảnh

khắc GMM (Generalized Method of Moments). Nghiên cứu sử dụng số liệu dạng

bảng của 116 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1980 đến 2006 cho thấy hiệu

ứng lấn át khá rõ rệt. Tuy nhiên mức độ lấn át của đầu tư công giảm bớt, thậm chí

còn có thể tác động khuyến khích đầu tư tư nhân, ở những quốc gia được đánh giá có

thể chế tốt hơn và có tính mở cao hơn với dòng thương mại và đầu tư quốc tế. Gilbert

Noula (2022) phân tích tác động của thâm hụt cán cân ngân sách trong trường hợp

Chính phủ tăng đầu tư công tới đầu tư tư nhân đối với các quốc gia CEMAC trong

giai đoạn 1984-2019 với phương pháp ước lượng nhóm trung bình gộp PMG (Pool

Mean Group). Theo đó, tăng đầu tư công sẽ tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân với

các quốc gia có tỷ lệ nợ công/GDP lớn. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra ngưỡng

đầu tư công có thể tạo ra tác động lấn át tới đầu tư tư nhân.

Trong khi đó, Erden và Holcom (2005) phân tích tác động đầu tư công đối với

đầu tư tư nhân không chỉ trong phạm vi nhóm nước phát triển mà còn mở rộng sang

phạm vi nhóm nước phát triển. Nghiên cứu được thực hiện với phương pháp tối thiểu

10

dạng gộp POLS (Pool OLS), phương pháp tác động cố định FE (Fixed Effect),

phương pháp tác động ngẫu nhiên RE (Random Effect) với bộ dữ liệu bảng bao gồm

12 quốc gia phát triển trong giai đoạn 1980-1996 và 19 quốc gia đang phát triển trong

giai đoạn 1980-1997. Kết quả cho thấy đối với nhóm các quốc gia phát triển, đầu tư

công tạo tác động lấn át. Tương tự, Mahmoudzadeh và cộng sự (2013) phân tích ảnh

hưởng của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong 23 phát triển và 15 nước đang

phát triển từ năm 2000 đến năm 2009 với việc sử dụng mô hình vecto tự hồi quy dạng

bảng PVAR (Panel Vector Autoregression). Nhóm tác giả phát hiện ra rằng tăng đầu

tư công lấn át đầu tư tư nhân ở các nước phát triển và bổ trợ đầu tư tư nhân ở các

nước đang phát triển. Các nghiên cứu của Altin Gjini (2012), A. Adegboye (2017),

Taner Turan và cộng sự (2021) cũng chỉ ra kết quả tương tự.

Thứ hai, các nghiên cứu còn phân tách đầu tư công thành các hạng mục đầu tư

và nghiên cứu tác động của các hạng mục đó tới đầu tư tư nhân.

Pereira (2000) đã phân tích tác động của đầu tư công lên đầu tư tư nhân của Hoa

Kỳ dựa trên mô hình vectơ tự động hồi quy VAR (Vector Autoregression) và số liệu

trong giai đoạn 1956-1997. Trong nghiên cứu này, tác giả không chỉ đánh giá tác

động của đầu tư công lên tổng đầu tư tư nhân mà còn xem xét từng loại đầu tư theo

hướng phân tích tác động của 5 loại đầu tư công lên tổng đầu tư tư nhân và từng loại

đầu tư tư nhân để xác định loại đầu tư công nào thúc đẩy đầu tư tư nhân. Kết quả

nghiên cứu chỉ ra rằng về kết quả đối với tác động của từng loại đầu tư công đối với

từng loại đầu tư tư nhân, trong khoảng 1/3 trường hợp, đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân.

Rahman và cộng sự (2015) cũng chia đầu tư công thành các hạng mục khác

nhau khi phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân cho trường hợp của

Pakistan trong giai đoạn 1974-2010. Cụ thể, nghiên cứu chỉ ra đầu tư công bao gồm

có chi tiêu của Chính phủ cho sức khỏe, giao thông, thông tin, dịch vụ cộng đồng,

quốc phòng. Kết quả cho thấy đầu tư công cho dịch vụ cộng đồng và quốc phòng có

tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Dada (2013) khi phân tích trường hợp của Nigeria

cũng cho thấy kết quả tương tự. Cụ thể, đầu tư công cho hành chính, xây dựng, nông

nghiệp, thông tin tạo hiệu ứng lấn át tới đầu tư tư nhân. Tương tự, Omitogun & cộng

sự (2018) nghiên cứu trường hợp của Nigeria trong giai đoạn 1981-2015 với mô hình

tự phân phối độ trễ hồi quy ARDL (Autoregressive Distributed Lag). Nhóm nghiên

cứu phân tách đầu tư công thành các hạng mục liên quan tới hành chính, chuyển giao,

11

dịch vụ kinh tế và dịch vụ xã hội. Kết quả cho thấy đầu tư công cho dịch vụ kinh tế

và dịch vụ xã hội có tác động lấn át tới đầu tư tư nhân tại Nigeria.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, thay vì phân tách đầu tư công thành các hạng mục đầu

tư (CSHT và các hạng mục khác) thì các nghiên cứu tập trung phân tích tác động lấn

át của đầu tư công theo nguồn vốn đầu tư tới đầu tư tư nhân. Nguyễn Thị Cành &

cộng sự (2020) nghiên cứu tác động của cho rằng đầu tư công từ nguồn vốn ngân

sách nhà nước tới đầu tư tư nhân cho 16 ngành công nghiệp với mô hình FOLS tại

Việt Nam trong giai đoạn 1990-2016. Kết quả cho thấy đầu tư công từ ngân sách nhà

nước lấn át đầu tư tư nhân của 16 ngành. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Liên

(2022) cũng cho thấy kết quả lấn át của đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước tới

đầu tư tư nhân tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2020. Kết quả tương tự cũng được

phát hiện trong nghiên cứu của Ngô Doãn Vịnh (2010), Ngô Thúy Quỳnh (2019), Bùi

Minh Chuyên và Nguyễn Ngô Việt Hoàng (2022). Đây cũng là một thực trạng chung

tại Việt Nam khi mà nguồn lực chủ yếu của đầu tư công chủ yếu xuất phát từ Ngân

sách nhà nước. Mặt khác vốn đầu tư công từ NSNN cho thấy có hiệu quả chưa được

như mong muốn và thậm chí có thể nói còn tương đối thấp tại Việt Nam (Ngô Doãn

Vịnh và cộng sự, 2021).

Thứ ba, các nghiên cứu còn tập trung về tác động lấn át của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân trong các ngành, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.

Saeed và cộng sự (2006) sử dụng mô hình SVAR phân tích tác động của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ tại

Pakistan trong giai đoạn 1974-2006. Kết quả cho thất đầu tư công lấn át đầu tư tư

nhân trong lĩnh vực công nghiệp. Tương tự, Fujii và cộng sự (2013) sử dụng mô hình

vecto tự động hồi quy các nhân tố dạng mở rộng FAVAR (Factor Augmented Vector

Autogression) phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân theo các ngành

khác nhau cho nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn quý 2/1983 – quý 1/2008. Kết

quả cho thấy ngoại trừ ngành nông nghiệp và ngành tiện ích, đầu tư công tạo tác động

lấn át tới đầu tư tư nhân của các ngành còn lại. Nghiên cứu của Annala và cộng sự

(2008) cho nền kinh tế Nhật trong khoảng thời gian 1970-1998 với mô hình

VAR/ECM cũng cho thấy đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân ngoại trừ

các ngành nông nghiệp, tiện ích, thương mại và dịch vụ, tài chính, bảo hiểm và bất

động sản. Nghiên cứu cho trường hợp nền kinh tế Mỹ, Pereira and Andraz (2003) với

mô hình VAR cho dữ liệu liên quan tới 12 ngành công nghiệp trong giai đoạn 1956-

12

1997 kết luận đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân trong ngành khai

khoảng, truyền thông và bán buôn. Đầu tư công tạo tác động lấn át đối với các ngành

trong nền kinh tế còn được phát hiện trong các nghiên cứu của Pereira (2000);

Hamaaki (2008); Forni & Gambetti (2010), S. Muthu (2017).

Thứ tư, các nghiên cứu cho thấy tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân còn có nhiều tranh luận khi phân tích trong ngắn hạn và dài hạn.

Castillo & cộng sự (2005) nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân trong giai đoạn 1980-2002, sử dụng phương pháp VAR để phân tích tác động

dài hạn và phương pháp VECM để phân tích tác động ngắn hạn. Kết quả cho thấy,

đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân trong ngắn hạn. Tương tự, Foncesca (2009) phân

tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại trong giai đoạn 1980-2007 tại Tây

Ban Nha với phương pháp ARDL. Kết quả cho thấy sự đồng nhất với nghiên cứu của

Castillo & cộng sự. Tuy nhiên, trong ngắn hạn hiệu ứng lấn át chỉ xảy ra một phần.

Trái ngược với các nghiên cứu trên, hạn Saeed và cộng sự (2006), Mitra (2006), Mose

& cộng sự (2020) chỉ ra rằng đầu tư công tạo ra hiệu ứng lấn át tới đầu tư tưu nhân

cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Nguyễn Thị Chinh (2017) khi nghiên cứu về tác động của đầu tư công, đầu tư

tư nhân đến tăng trưởng kinh tế với mô hình VECM đã chỉ ra rằng trong dài hạn tư

công lấn át đầu tư tư nhân. Kết luận chung là đầu tư công đang có tác động lấn át lớn

hơn tác động bổ trợ đầu tư tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu 1995-

2016. Tương tự, Hùng Thanh và cộng sự (2021) nghiên cứu tác động của đầu tư tới

tăng trưởng kinh tế tại 63 tỉnh thành Việt Nam trong giai đoạn 2000-2020 với việc sử

dụng mô hình PMG. Kết quả nghiên cứu cho thấy dài hạn, đầu tư công lấn át đầu tư

tư nhân và từ đó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế mặc dù các yếu tố khác như

đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), lao động và độ mở thương mại có tác động tích

cực tới tăng trưởng kinh tế.

Trong khi đó, Nguyễn Thị Thanh Huyền & cộng sự (2022) lại cho rằng đầu tư

công có tác động lấn át tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn khi phân tích trường hợp

các vùng KTTĐ miền Trung trong giai đoạn 2000-2021. Tương tự, Phạm Thái Bình

(2020) đề cập đến tác động ngắn hạn và dài hạn của đầu tư công đối với nền kinh tế

Việt Nam. Tác giả sử dụng mô hình DSGE / RBC để phân tích những ảnh hưởng của

đầu tư công đến chu kỳ kinh doanh tại Việt Nam sau Đổi mới (1986). Nghiên cứu

cho thấy rằng đầu tư công giải thích tới 40% sự thay đổi của sản lượng của Việt Nam

13

trong cả ngắn hạn và dài hạn. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra tác động lấn át của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn.

1.2 Các nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân

Thứ nhất, các nghiên cứu phân tích tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư

tư nhân trong phạm vi một quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia.

Hatano (2010) sử dụng số liệu của Nhật Bản trong giai đoạn 1953-2004 phân

tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Nghiên cứu sử dụng hàm sản xuất

Cobb-Douglas với mô hình ECM. Theo đó, sau năm đầu tiên, đầu tư công bắt đầu tạo

tác động bổ trợ đối với đầu tư tư nhân. Tác giả đồng thời kiểm định tác động bổ trợ

của đầu tư công tới đầu tư tư nhân thông qua kiểm định nhân quả Granger. Kết quả

cho thấy đầu tư công có tác động cùng chiều tới đầu tư tư nhân. Girish Bahal & cộng

sự (2015) phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại Ấn Độ trong giai

đoạn Q2/1996-Q1/2015 với mô hình SVECM (Structural Vector Error Correction

Model). Kết quả cho thấy đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân giai đoạn

1980-2012 do các cải cách của nền kinh tế Ấn Độ trong những năm đầu thập niên 80.

Ngoài ra, hiệu ứng bổ trợ cũng được phát hiện trong nghiên cứu khi sử dụng số liệu

theo quý (Q2/1960-Q1/2015). Cụ thể, nếu đầu tư công tăng 1 rupee thì sẽ kéo theo

đầu tư tư nhân tăng lần lượt 0,3, 1,24, 1,07 rupeee sau 4, 8, 12 quý. Kết quả nghiên

cứu tương tự cũng được chỉ ra trong các nghiên cứu của K. Krishnamurty (1985),

Blejer & Khan (1984), D. Ramirez (1994), Naqvi (2003), Erden & Holcome (2005),

Mitra (2014), Abiad & cộng sự (2016).

Bên cạnh các nghiên cứu tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

dưới góc độ một quốc gia thì còn có các nghiên cứu dưới góc độ một nhóm các

quốc gia.

Nghiên cứu của Oshikoya (1994) đối với một nhóm 7 nước châu Phi

(Cameroon, Mauritius, Morocco, Tunisi, Kenya, Malawi, và Tanzani) trong giai đoạn

1970-1988 với phương pháp OLS đã chỉ ra rằng đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân ở

cả hai nhóm nước có thu nhập trung bình và nhóm thu nhập thấp. Tuy nhiên, bằng

chứng về sự bổ trợ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân rõ ràng hơn đối với các nước

có thu nhập trung bình. Rasmané Ouédraogo và cộng sự (2019) phân tích tác động

của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại 44 nước châu Phi thuộc khu vực hạ Sahara.

Nghiên cứu sử dụng mô hình nhóm trung bình truyền thống MG (Mean Group) và

mô hình AMG mở rộng (Augmented Mean Group). Kết quả cho thấy đầu tư công tạo

14

tác động bổ trợ tại 21 nước và với quốc gia nào khu vực tư nhân càng phát triển thì

tác động bổ trợ của đầu tư công càng lớn. Kamps (2004b) đã sử dụng mô hình VAR

để phân tích vai trò của vốn đầu tư công đối với nền kinh tế của 22 nước OECD. Mô

hình sử dụng dữ liệu theo năm của từng quốc gia trong giai đoạn 1960-2001 của các

biến đều dưới dạng logarit: vốn ròng của khu vực công, vốn ròng của khu vực tư

nhân, số lượng lao động và GDP (theo giá so sánh). Một trong những kết quả nghiên

cứu chỉ ra rằng vốn đầu tư công và vốn đầu tư tư nhân là bổ sung cho nhau trong dài

hạn. Afonso & Aubyn (2008) thông qua mô hình VAR và số liệu của một nhóm nước

phát triển (14 nước châu Âu, Canada, Mỹ và Nhật Bản) đánh giá các ảnh hưởng vĩ

mô của đầu tư tư nhân và đầu tư công. Kết quả cho thấy trong hầu hết trong các trường

hợp hiệu ứng khuyến khích đầu tư tư nhân của đầu tư công mang tính phổ biến hơn.

Altin Gjini & Agim Kukeli (2012) nghiên cứu hành vi đầu tư của khu vực tư nhân tại

các nền kinh tế chuyển đổi ở khu vực Đông Âu với mục tiêu chính là để điều tra tác

động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân. Tác giả đã sử dụng số liệu của 11 quốc

gia Đông Âu trong thời gian 19 năm từ 1991 đến 2009 với phương pháp POLS. Kết

quả nghiên cứu cho thấy mối đầu tư công tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân với mức

độ tin cậy 1%. Hiệu ứng bổ sung lẫn nhau này mạnh hơn ở nhóm các nước kém phát

triển hơn. Mahmoudzadeh & cộng sự (2013) phân tích ảnh hưởng của đầu tư công

đối với đầu tư tư nhân trong 23 phát triển và 15 nước đang phát triển từ năm 2000

đến năm 2009 với việc sử dụng mô hình PVAR. Nhóm tác giả phát hiện ra rằng tăng

đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân ở các nước đang phát triển. Phetsavong & Ichihashi

(2012) đã sử dụng mô hình tăng trưởng kinh tế của Le & Suruga (2005) và mô hình

hiệu ứng cố định thông qua phân tích dữ liệu từ 15 quốc gia đang phát triển ở châu Á

trong giai đoạn 1984-2009. Kết quả thực nghiệm cho thấy, đầu tư tư nhân đóng vai

trò quan trọng nhất trong việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Mario Alloza &

cộng sự (2022) nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Tây

Ban Nha giai đoạn quý 1/ 1995 - quý 4 / 2019 với việc sử dụng mô hình SVAR. Kết

quả cho thấy, trung bình, đầu tư công tăng có xu hướng tạo ra tác động tích cực đến

đầu tư tư nhân. Đặc biệt, khi đầu tư công tăng 1% sẽ thúc đẩy sự gia tăng tương đương

đầu tư tư nhân trong ngắn hạn.

Thứ hai, ngoài các nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân dưới góc độ tổng đầu tư công thì còn có các nghiên cứu chia đầu tư công thành

15

các thành phần theo lĩnh vực đầu tư và nghiên cứu tác động của các thành phần đó

tới đầu tư tư nhân.

Aschauer (1989a) đã xem xét tác động của đầu tư công vào cơ sở hạ tầng phi

quân sự đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế của các nước thuộc nhóm G-7

trong giai đoạn 1966 đến 1985. Sử dụng mô hình hồi quy bằng phương pháp bình

phương nhỏ nhất OLS (Ordinary Least Square) để phân tích, Aschauer nhận thấy rằng

tồn tại hiệu ứng bổ trợ giữa đầu tư tư nhân và đầu tư công, điều này cho thấy rằng

đầu tư công nâng cao sự đóng góp của đầu tư tư nhân vào tăng trưởng kinh tế. Cụ thể

nếu đầu tư công tăng 1% sẽ thúc đẩy tăng đầu tư tư nhân, qua đó thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế 0.4%. Sturm & cộng sự (1999) đánh giá tác động của kết cấu hạ tầng kinh tế

đầu tư công để tăng trưởng kinh tế tại Hà Lan giai đoạn 1853 đến 1953. Kiểm tra

quan hệ nhân quả Granger dựa trên mô hình ước lượng bằng phương pháp bình

phương nhỏ nhất OLS (Ordinary Least Square) được sử dụng trong nghiên cứu và

nhóm tác giả khẳng định tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng công cộng đối với đầu tư

tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Sau khi phân tích cơ sở hạ tầng công cộng là cơ bản

(như thoát nước, đường bộ, bến cảng và đường sắt) và bổ sung (như điện, khí đốt,

cấp nước), nhóm tác giả kết luận rằng cơ sở hạ tầng cốt lõi có tác động tích cực lâu

dài đến đầu tư tư nhân và kinh tế tăng trưởng trong khi cơ sở hạ tầng công cộng bổ

sung có tác động tích cực trong ngắn hạn. Cụ thể hơn, Pereira (2000) đã phân tích tác

động của đầu tư công lên đầu tư tư nhân của Hoa Kỳ dựa trên mô hình tự động hồi

quy VAR (Vector Autoregression) và số liệu trong giai đoạn 1956-1997. Trong

nghiên cứu này, tác giả không chỉ đánh giá tác động của đầu tư công lên tổng đầu tư

tư nhân mà còn phân tích tác động của 5 loại đầu tư công lên tổng đầu tư tư nhân. Kết

quả nghiên cứu chỉ ra rằng: (1) Ở mức độ tổng hợp, tổng đầu tư công thúc đẩy đầu tư

tư nhân; (2) Ở mức độ phân loại đầu tư tư nhân, đầu tư công có tác động thức đẩy

mạnh mẽ đối với đầu tư tư nhân vào thiết bị công nghiệp và giao thông. Xu và Yan

(2014) đã điều tra xem liệu chính phủ đầu tư thu hút đầu tư tư nhân vào Trung Quốc

từ năm 1980 đến năm 2011 bằng cách sử dụng mô hình SVAR. Nhóm tác giả chia

chi tiêu Chính phủ thành hai loại: (1) đầu tư phục vụ cung cấp hàng hóa công cộng

và cơ sở hạ tầng – được hiểu là đầu tư công, và (2) đầu tư trong công nghiệp tư nhân

và thương mại. Nghiên cứu chỉ ra rằng đầu tư của chính phủ vào hàng hóa công cộng

bổ trợ cho đầu tư tư nhân. Tác động tích cực của đầu tư công cho cơ sở hạ tầng cũng

16

được chỉ ra trong nghiên cứu của Daradag & cộng sự (2003), Cavallo & cộng sự

(2011), Saidjada và cộng sự (2016), Makuyana (2016) và Ouedraogo & cộng sự (2019).

Thứ ba, một số nghiên cứu còn phân tích tác động bổ trợ của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân dưới góc độ các ngành.

Saseed & cộng sự (2006) sử dụng mô hính SVAR phân tích tác động của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân ngành công nghiệp và ngành nông nghiệp tại Pakistan giai

đoạn 1974-2006. Kết quả nghiên cứu chỉ ra đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu

tư tư nhân ngành nông nghiệp do những tác động tích cực của đầu tư công vào CSHT

nông nghiệp. Tương tự, Fujii & cộng sự (2013) sử dụng mô hình vecto tự động hồi

quy các nhân tố dạng mở rộng FAVAR (Factor Augmented Vector Autogression)

phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân theo các ngành khác nhau cho

nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn quý 2/1983 – quý 1/2008. Kết quả cho thấy đầu

tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân của ngoại trừ ngành nông nghiệp và

ngành tiện ích. Nghiên cứu của Annala và cộng sự (2008) cho nền kinh tế Nhật trong

khoảng thời gian 1970-1998 với mô hình VAR/ECM cũng cho thấy đầu tư công tạo

tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân các ngành nông nghiệp, tiện ích, thương mại và

dịch vụ, tài chính, bảo hiểm và bất động sản. Nghiên cứu cho trường hợp nền kinh tế

Mỹ, Pereira & Andraz (2003) với mô hình VAR cho dữ liệu liên quan tới 12 ngành

công nghiệp trong giai đoạn 1956-1997 kết luận đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới

hầu hết các ngành trong nền kinh tế ngoại trừ nhành khai khoảng, truyền thông và

bán buôn. Đầu tư công tạo tác động bổ trợ đối với các ngành trong nền kinh tế còn

được phát hiện trong các nghiên cứu của Pereira (2000); Hamaaki (2008); Forni &

Gambetti (2010), S. Muthu (2017).

Tại Việt Nam, một số ít các nghiên cứu gần đây cũng tập trung phân tích tác

động của đầu tư công tới các ngành của đầu tư tư nhân. Nguyễn Thị Cành & cộng

sự (2018) áp dụng phương pháp đồng liên kết (Fully Modified OLS và Dynamic Panel

OLS) để đánh giá tác động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng

trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu từ 22 ngành kinh tế cấp 1 trong khoảng thời

gian 27 năm (1990-2016). Nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng nhất quán về hiệu quả

tích cực của đầu tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng GDP ngành ở Việt Nam. Kết

quả cho thấy đầu tư công không chỉ giúp thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân mà còn

làm tăng GDP trong dài hạn. Bên cạnh đó, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng được xem

như là vốn mồi để thu hút đầu tư tư nhân trong và ngoài nước vào sản xuất kinh

17

doanh. Giai đoạn đầu mới mở cửa đầu tư công thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh

và hệ số thu hút đầu tư khu vực tư nhân cao hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong

ngắn hạn đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân.

Chi tiết hơn, Nguyễn Thị Thùy Liên (2022) đánh giá tác động của đầu tư công

cho cơ sở hạ tầng tới ngành điện, xây dựng hạ tâng, vận tải-kho bãi và viễn thông

thông qua tính toán hệ số liên kết ngược (BL), liên kết xuôi (FL) trong giai đoạn

2001-2005. Kết quả cho thấy, xét từng ngành thì đầu tư công vào các ngành hạ tầng

như xây dựng, vận tải, kho bãi, viễn thông và ngành điện có tác động kích thích ngành

phát triển và kéo theo sự phát triển của các ngành khác. Vai trò của đầu tư công cho

cơ sở hạ tầng nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân còn được khẳng định trong các nghiên

cứu của Đinh Trọng Thắng (2019), Đỗ Thị Thanh Huyền & cộng sự (2021).

Thứ tư, các nghiên cứu cho thấy tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân còn gây nhiều tranh cãi khi phân tích trong ngắn hạn và dài hạn.

Castillo & cộng sự (2005) nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân trong giai đoạn 1980-2002, sử dụng phương pháp VAR để phân tích tác động

dài hạn và phương pháp VECM để phân tích tác động ngắn hạn. Kết quả cho thấy,

trong dài hạn đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân. Tương tự, Foncesca (2009) phân tích

tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại trong giai đoạn 1980-2007 tại Tây Ban

Nha với phương pháp ARDL. Kết quả cho thấy sự đồng nhất với nghiên cứu của

Castillo & cộng sự (2005). Tuy nhiên, trong dài hạn hiệu ứng bổ trợ tương đối yếu.

Nghiên cứu của Glenda Maluleke & cộng sự (2023) đối với trường hợp Nam Phi với

mô hình ARDL và ARDL phi tuyến trong giai đoạn 1980-2018 lại đưa ra kết quả

khác. Cụ thể, đầu tư công bổ trợ đầu tư tư nhân cả trong ngắn hạn và dài hạn. Cú sốc

bất lợi của đầu tư công làm giảm đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả

này cũng được phát hiện trong các nghiên cứu của Pereira & cộng sự (2001),

Kustepeli (2005), Ngeendepi & cộng sự (2021), Babu & cộng sự (2022).

Sử Đình Thành (2011) sử dụng mô hình SVAR (Structured Vector

Autoregressor – Vecto tự động hồi quy ) để phân tích tác động của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân tại Việt Nam trong giai đoạn 1990-2010. Kết quả cho thấy đầu tư công

không gây chèn lấn đầu tư khu vực tư nhân mà trái lại tạo ra hiệu ứng thúc đẩy trong

dài hạn, đặc biệt là đầu tư tư nhân trong nước. Tương tự, Nguyễn Thế Khang (2022)

nghiên cứu sự tác động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong nước ở

các địa phương của Việt Nam. Nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu bảng của 63 tỉnh/thành

18

của Việt Nam từ năm 2000 đến 2020, bằng phương pháp FMOLS và DOLS. Kết quả

cho thấy, đầu tư công tác động thúc đẩy tích cực cho đầu tư tư nhân trên cả hai phương

pháp ước lượng. Nghiên cứu của Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư & Lê Hoàng Phong

(2014) sử dụng mô hình ARDL để kiểm tra hiệu ứng của đầu tư công tới tăng trưởng

kinh tế Việt Nam giai đoạn 1988-2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy có tác động thúc

đẩy đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Chi tiết hơn, Hoàng Dương

Việt Anh (2013) sử dụng mô hình VAR trong nghiên cứu về tác động đầu tư công

đến tăng trưởng tại vùng Trung Bộ Việt Nam giai đoạn 1986-2011 đã chỉ ra được vai

trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân với tăng trưởng cũng như tác động của đầu tư

công tới đầu tư tư nhân. Theo đó, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng và vào việc nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực có thể làm tăng năng suất vốn tư nhân và có lợi cho tăng

trưởng. Kết quả nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân

trong dài hạn cũng được phát hiện trong nghiên cứu gần đây của Nguyễn Văn Bôn

(2021), Lê Thanh Tùng (2022).

Ngược lại với kết luận của các nghiên cứu trên, Nguyễn Thị Chinh (2017) khi

nghiên cứu về tác động của đầu tư công, đầu tư tư nhân đến tăng trưởng kinh tế với

mô hình VECM đã chỉ ra rằng đầu tư công tác động bổ trợ đầu tư tư nhân chỉ trong

ngắn hạn. Theo tác giả, trong ngắn hạn đầu tư công tạo hiệu ứng bổ trợ do nhu cầu

hàng hóa và dịch vụ từ Chính phù làm cho cầu về sản phẩm của khu vực tư nhân gia

tăng, khuyến khích khu vực này đầu tư nhiều hơn. Tuy nhiên, trong dài hạn điều này

không xảy ra do khi đi vào thực hiện đầu tư công lại kém hiệu quả hoặc tham gia vào

các lĩnh vực mà đầu tư tư nhân hiệu quả hơn. Tuy nhiên có thể thấy, tổng hợp từ các

nghiên cứu trên, tại Việt Nam, đầu tư công tác động bổ trợ đối với đầu tư tư nhân

chủ yếu xảy ra trong dài hạn.

Tóm tắt về các nghiên cứu liên quan tới tác động của đầu tư công đối với đầu

tư tư nhân được thể hiện trong bảng ở phụ lục 1.

1.3 Khoảng trống nghiên cứu

1.3.1 Nội dung tiếp cận nghiên cứu

Thứ nhất, hiện tại có rất ít nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới đầu tư

tư nhân ở cấp độ vùng kinh tế và đặc biệt chưa có một nghiên cứu nào phân tích tác

động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam.

Chủ yếu các nghiên cứu tập trung phân tích đầu tư công và đầu tư tư nhân dưới góc

một quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia. Trong khi đó, một trong những nội dung

19

trọng tâm của sự đổi mới chính sách đầu tư của các quốc gia nói chung và Việt Nam

nói riêng đó chính là tăng cường thúc đẩy đầu tư công, đặc biệt tại các vùng Kinh tế

trọng điểm và coi đây là yếu tố dẫn dắt quan trọng, tạo nền tảng cơ sở hạ tầng để thu

hút đầu tư tư nhân vào phục hồi và phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh hậu

Covid-19. Tuy nhiên, đầu tư công tại Việt Nam luôn là điểm nghẽn của nền kinh tế.

Mặt khác, mỗi vùng kinh tế trọng điểm lại có đặc trưng và điều kiện phát triển kinh

tế riêng biệt. Chính vì vậy, nghiên cứu tác động đầu tư công tới đầu tư tư nhân, từ đó

đề xuất các giải pháp để thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân cho từng

vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam rất có ý nghĩa trong thực tiễn.

Thứ hai, có khá nhiều nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân. Tuy nhiên còn khuyết thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa

đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Việt Nam, đặc biệt là những nghiên cứu thực nghiệm

kiểm định đồng thời giả thuyết “hiệu ứng lấn át” và “hiệu ứng bổ trợ” trong ngắn hạn

và dài hạn. Chủ yếu các nghiên cứu tại Việt Nam tập trung phân tích tác động trong ngắn

hạn hoặc trong dài hạn và chỉ ra ảnh hưởng của một trong hai giả thuyết chứ không phân

tích đồng thời hai giả thuyết. Đồng thời cũng chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam chỉ

rõ độ lớn của hiệu ứng lấn át và hiệu ứng bổ trợ chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố nào.

Trong khi đó, đây là vấn đề rất quan trọng không những trong vấn đề xây dựng mô hình

đánh giá mà còn là cơ sở đề xuất giải pháp sử dụng đầu tư công hiệu quả nhằm thúc đẩy

đầu tư tư nhân.

Thứ ba, hiện nay có rất ít nghiên cứu phân chia đầu tư tư nhân thành các thành

phần khác nhau theo nguồn vốn và chỉ rõ tác động của đầu tư công tới các thành

phần đó. Các nghiên cứu trên thế giới và một số ít nghiên cứu tại Việt Nam mới tập

trung phân tích tổng đầu tư tư nhân hoặc phân tách đầu tư tư nhân theo các ngành

nghề và lĩnh vực. Trong khi đó, phân tách đầu tư tư nhân theo nguồn vốn là cần thiết

vì tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân bao gồm có đầu tư doanh nghiệp và

đầu tư hộ gia đình chính có thể tạo ra các kết quả khác biệt, từ đó ảnh hưởng tới việc

thực hiện chính sách sử dụng hiệu quả đầu tư tư công nhằm thu hút đầu tư tư nhân.

Nội dung này đặc biệt trong bối cảnh hậu covid-19 khi khu vực doanh nghiệp trong

nước và hộ gia đình được kỳ vọng là yếu tố phục hồi và thúc đẩy nền kinh tế tại vùng

KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung.

20

1.3.2 Phương pháp tiếp cận nghiên cứu

Thứ nhất, đa số các nghiên cứu tại Việt Nam khi nghiên cứu dưới góc độ các

tỉnh/thành thì sử dụng chuỗi dữ liệu dữ liệu bảng với các phương pháp như POLS,

FMOLS, DOLS. Tuy nhiên, hạn chế của các phương pháp này là không phân tác được

tác động ngắn hạn và dài hạn của chuỗi số liệu. Do đó, sẽ không tạo hiệu quả cao khi

phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khi kênh tác động có thể tạo

kết quả khác biệt trong ngắn hạn và dài hạn. Do đó, cần phải xây dựng một phương

pháp có thể phân tác được kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong

ngắn hạn và dài hạn.

Thứ hai, hiện nay có rất ít nghiên cứu chỉ rõ vai trò của đầu tư công cho CSHT

tác động như thế nào tới đầu tư tư nhân và chưa có nghiên cứu nào chỉ rõ tác động

của hạng mục đầu tư này tới đầu tư doanh nghiệp và hộ gia đình. Trong khi đó, đầu

tư công cho CSHT kinh tế-xã hội so với các dạng thức đầu tư công khác thường tạo

động lực thu hút đầu tư tư nhân. Do đó, phân tích tác động của kênh này tới đầu tư tư

nhân cũng là một trong những vấn đề quan trọng nhằm mục tiêu phân tích tác động

của đầu tư công tới đầu tư tư nhân một cách toàn diện. Tuy nhiên dưới cấp độ vùng,

các tỉnh/thành, số liệu đầu tư công cho CSHT thì số liệu sẽ không liền mạch theo năm

ở các địa phương. Trong trường hợp này, cần thiết phải xây dựng một phương pháp

có thể sử dụng với chuỗi số liệu ngắn, đơn giản mà vẫn có thể thấy được chiều hướng

tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân.

21

TỔNG KẾT CHƯƠNG 1

Chương 1 Luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về tác động của

đầu tư công và đầu tư tư nhân, tiếp cận theo hiệu ứng lấn át và hiệu ứng bổ trợ. Theo

đó, các nghiên cứu nhìn chung đưa ra các kết luận như sau: Thứ nhất, đa số các nghiên

cứu cho rằng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân thường xuyên hơn ở các nước phát

triển trong khi đó tạo ra hiệu ứng bổ trợ ở các nước đang phát triển. Sự khác biệt

trong các kết quả này là do sự khác biệt về cơ cấu giữa hai loại nền kinh tế. Thứ hai,

các thành phần của đầu tư công sẽ có tác động khác nhau tới đầu tư tư nhân và đầu

tư công sẽ tác động khác nhau tới các thành phần của đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư

công vào lĩnh vực cơ sở cơ sở hạ tầng tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân bởi vì nó sẽ

giảm chi phí sản xuất tư nhân, do đó nâng cao lợi nhuận, điều này sẽ kích thích đầu

tư tư nhân. Ngược lại đầu tư công vào lĩnh vực không phải cơ sở hạ tầng thường lấn

át đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, ảnh hưởng của đầu tư công tới các lĩnh vực của đầu tư

tư nhân là chưa rõ. Thứ ba, các nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân có sự khác biệt rõ ràng khi xét trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này có thể lý

giải là do trong ngắn hạn, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện nên chưa

tạo được tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân, trong khi đó, việc Chính phủ vay trên thị

trường vốn vay để tạo nguồn tài trợ cho đầu tư có thể gây ra hiệu ứng lấn át đối với

đầu tư tư nhân trong ngắn hạn. Trong khi đó, trong dài hạn, cơ sở hạ tầng hoàn thiện

có thể tạo ra tác động tích cực đối với đầu tư tư nhân. Thứ tư, các nghiên cứu trên thế

giới và tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân dưới góc độ 1 quốc gia hoặc 1 nhóm các quốc gia. Đặc biệt, chưa có một nghiên

cứu nào tập trung ở góc độ vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, Chương 1 Luận án đã tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan tới

đầu tư công, đầu tư tư nhân, tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân, các nhân tố

điều tiết ảnh hưởng của đầu tư công tơi đầu tư tư nhân và v ùng kinh tế trọng điểm.

Đây chính là cơ sở để Luận án có thể xây dựng được giả thuyết nghiên cứu, mô hình

nghiên cứu và nền tảng cho các nhận xét về kết quả nghiên cứu cũng như hàm ý

chính sách.

22

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU

TƯ CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀ VÙNG KINH TẾ

TRỌNG ĐIỂM

2.1 Những vấn đề cơ bản về đầu tư công và đầu tư tư nhân

2.1.1 Đầu tư công

2.1.1.1 Khái niêm

a. Khái niệm về đầu tư công trên thế giới

Đầu tư công là một khái niệm gây tranh luận không chỉ ở Việt Nam mà cả thế

giới. Liên hợp quốc (UN, 2009) cho rằng đầu tư công có thể được hiểu là các khoản

đầu tư của Nhà nước nhằm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế trong tương lai.

Theo Ngân hàng thế giới (WB, 2010), đầu tư công là khoản chi tiêu công giúp làm

tăng thêm tích lũy vốn vật chất. Tổng đầu tư công bao gồm đầu tư vào cơ sở hạ tầng

vật chất do chính phủ trung ương, chính quyền địa phương và các công ty thuộc khu

vực công thực hiện. Theo quan điểm của Qũy tiền tệ quốc tế (IMF, 2012), đầu tư công

là toàn bộ chi tiêu của khu vực công, nhưng không bao gồm chi tiêu của các doanh

nghiệp nhà nước, để hình thành các tài sản cố định. Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác

và Phát triển (OECD, 2016) lại cho rằng đầu tư công muốn nói đến đầu tư của Chính

phủ vào cơ sở hạ tầng vật chất (đường giao thông, tòa nhà chính phủ…) và cơ sở hạ

tầng mềm (hỗ trợ đổi mới, nghiên cứu và phát triển…) với thời gian hữu ích kéo dài

trên một năm. Tương tự, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA, 2018) định nghĩa

đầu tư công là chi tiêu của chính phủ cho cơ sở hạ tầng công cộng bao gồm cơ sở hạ

tầng kinh tế như sân bay, đường bộ, đường sắt, cảng, nước và nước thải, điện, khí đốt

và viễn thông và cơ sở hạ tầng xã hội như trường học và bệnh viện. Cơ sở hạ tầng

kinh tế và xã hội đều trở thành tài sản vật chất công cộng khi chúng được hoàn thành.

Tuy nhiên, Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, 2008)

cho rằng việc giới hạn đầu tư công trong chi tiêu Chính phủ có thể đưa ra cách nhìn

hẹp về đầu tư công bởi những khoản đầu tư tư nhân vì mục đích công cũng có thể coi

là đầu tư công.

Như vậy có thể thấy, khái niệm về đầu tư công trên thế giới đang tồn tại ba quan

điểm chính. Quan điểm thứ nhất nhấn mạnh chủ sở hữu nguồn vốn của đầu tư công.

Theo đó, đầu tư công là đầu tư của Nhà nước, của Chính phủ. Chủ sở hữu nguồn vốn

của đầu tư công là cơ quan Nhà nước, cơ quan thuộc chính phủ từ trung ương đến địa

phương...Các cơ quan Nhà nước, của Chính phủ sẽ sử dụng nguồn vốn này hoặc Nhà

23

nước giao cho các chủ thể khác trong nền kinh tế sử dụng nguồn vốn đầu tư công.

Hạn chế của quan điểm này là không giải thích được các dự án đầu tư theo hình thức

hợp tác công tư (PPP) có phải là đầu tư công hay không trong khi đó đây là các hình

thức đầu tư phổ biến nhằm phát triển cơ sở hạ tầng trong các nền kinh tế hiện nay.

Bên cạnh đó, quan điểm này cho thấy một cách nhìn khá hẹp về nguồn lực đầu tư cho

phát triển kinh tế-xã hội trên thực tế. Vì nguồn lực Nhà nước luôn bị giới hạn nên chỉ

dùng nguồn lực Nhà nước để đầu tư sẽ không đáp ứng được nhu cầu xã hội. Quan

điểm thứ hai nhấn mạnh vào mục đích của đầu tư công. Quan điểm này được chia

thành 2 luồng ý kiến: (i) Đầu tư công nhằm thúc đầy năng lực sản xuất của nền kinh

tế hay chính là tăng thêm tích lũy vốn vật chất. Tuy nhiên, trên thực tế, một số chi

tiêu cho các vấn đề phúc lợi xã hội như y tế, giáo dục, môi trường…cũng cần được

xét vào danh mục của đầu tư công. (ii) Đầu tư công là đầu tư phát triển không vì mục

tiêu lợi nhuận. Theo đó, đầu tư công là đầu tư vào lĩnh vực phục vụ quan sự phát triển

kinh tế-xã hội, cung cấp hàng hóa dịch vụ công và vì mục đích công. Với quan điểm

này, đầu tư công có thể thu hút, huy động và sử dụng mọi nguồn lực kinh tế, kể cả

nguồn vốn trong nước của khu vực tư nhân và khu vực nước ngoài. Điều này có nghĩa

chủ thể đầu tư không nhất thiết phải là Nhà nước mà có thể là khu vực tư nhân hoặc

khu vực nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều hoạt động của Nhà nước rất khó

để phân tách được là có tính lợi nhuận hay phi lợi nhuận. Ví dụ doanh nghiệp nhà

nước hay các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đều có sự đan xen giữa mục

tiêu chính trị và mục tiêu lợi nhuận. Quan điểm thứ ba là sự kết hợp giữa chủ sở hữu

nguồn vốn đầu tư công và mục đích của đầu tư công. Theo quan điểm này, đầu tư

công được hiểu là việc sử dụng vốn Nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án

không vì mục tiêu lợi nhuận.

b. Khái niệm về đầu tư công tại Việt Nam

Tại Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung chưa có khái niệm

đầu tư công, trong nền kinh tế đầu tư của Nhà nước là chủ yếu, trong quản lý kinh tế

và thống kê chỉ sử dụng khái niệm “đầu tư xây dựng cơ bản nhà nước”. Đầu những

năm 1990 khi kinh tế Việt Nam bắt đầu đổi mới sang cơ chế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa thì thuật ngữ “đầu tư công” mới bắt đầu xuất hiện bên cạnh các thuật

ngữ “đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh” và “đầu tư trực tiếp nước ngoài”.

Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới khái niệm đầu tư công chưa

thực sự rõ ràng. Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư công, năm 2014, Việt

24

Nam đã xây dựng và ban hành đạo luật về đầu tư công (Luật Đầu tư công năm 2014).

Đây là lần đầu tiên, chính sách về đầu tư công được ghi nhận trong một đạo luật, thể

hiện rõ tầm quan trọng của lĩnh vực này. Bên cạnh đó, hàng loạt các đạo luật khác có

liên quan cũng được cập nhật, sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính tương thích. Tuy

nhiên, sau một thời gian triển khai thi hành Luật Đầu tư công năm 2014 đã phát sinh

tồn tại hạn chế, bất cập gây cản trở đến hoạt động đầu tư công (Lê Nhật Bảo và cộng

sự, 2020).

Để tháo gỡ những hạn chế, bất cập, ngày 13/6/2019, Quốc hội đã thông qua Luật

Đầu tư công năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2020). Theo Khoản 15

điều 4 Luật Đầu tư công 2019, đầu tư công là “hoạt động đầu tư của Nhà nước vào

các chương trình, dự án và đối tượng đầu tư công khác theo quy định của Luật đầu

tư công”. Như vậy, khái niệm đầu tư công đưa ra ở Luật Đầu tư Công 2019 gồm 2

phần: thứ nhất, chủ sở hữu của vốn đầu tư chính là Nhà nước và thứ hai, mục đích

của hoạt động đầu tư là đầu tư vào các chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế -

xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Vậy,

thuật ngữ Đầu tư công theo Luật Đầu tư công 2019 có thể hiểu là đầu tư của Nhà

nước tuy nhiên không bao gồm đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước. Theo khoản 11

điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020, doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp

nắm giữ trên 50% vốn điều lệ. Do đó, dựa vào quy định của Luật Doanh nghiệp 2020,

nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước không chỉ bao gồm vốn từ Nhà nước

mà còn từ khu vực tư nhân. Hay nói cách khác, trong đầu tư sản xuất kinh doanh của

Doanh nghiệp Nhà nước không chỉ bao gồm đầu tư phát triển CSHT, đầu tư cung cấp

sản phẩm công ích mà còn nhằm mục đích sinh lời. Tuy nhiên, hiện tại, hệ thống

thống kê của Việt Nam chưa có số liệu phân tách các dạng đầu tư trên của doanh

nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, vai trò dẫn dắt, tạo động lực, thúc đẩy các thành phần

kinh tế của doanh nghiệp Nhà nước còn hạn chế tại Việt Nam (Trần Kim Chung &

cộng sự, 2021). Cụ thể, Doanh nghiệp Nhà nước còn yếu ở những ngành có ảnh

hưởng, quyết định đến hỗ trợ nầg cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và khu vực

doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều vận hành

theo phương thức khép kính, thực hiện gần như toàn bộ các khâu của quá trình sản

xuất và chưa tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tham gia. Vì vậy, đối chiếu với

định nghĩa của đầu tư công theo Luật đầu tư công 2019, và thông qua việc phân tích

hạn chế trong chức năng của doanh nghiệp Nhà nước, theo quan điểm của NCS, đầu

25

tư công không bao gồm đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước. Cách hiểu này được sử

dụng trong các nghiên cứu cùng chủ đề tại Việt Nam gần đây như nghiên cứu của

Nguyễn Thị Đoan Trang (2018), Nguyễn Thị Cành & cộng sự (2018), Phan Đình

Khôi & cộng sự (2019), Phạm Thái Bình (2020), Nguyễn Thị Thùy Liên (2022).

Có thể thấy, khái niệm về đầu tư công trong Luật đầu tư công 2019 của Việt

Nam nhìn chung nhìn nhận đầu tư công không chỉ góc độ chủ sở hữu của vốn đầu tư

mà cả ở góc độ mục đích đầu tư. Tuy nhiên, đầu tư công theo Luật đầu tư công 2019

vẫn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Thứ nhất, luật giới hạn nguồn lực đầu tư công

trong phạm vi nguồn vốn của đầu tư công bao gồm ngân sách Nhà nước và vốn từ

nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, từ đó hạn

chế việc thu hút các nguồn vốn khác cho hoạt động đầu tư công. Thứ hai, đối tượng

của đầu tư công gồm có đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo phương

thức đối tác công tư. Tuy nhiên, Luật đầu tư công quy định trong mọi trường hợp Nhà

nước không được góp quá 50% vốn dự án. Nhưng nếu Nhà nước góp dưới 50%, dự

án trên 30 năm thu hồi vốn thì không có nhà đầu tư hay ngân hàng nào tài trợ. Do đó,

hình thức đầu tư công theo phương thức công tư không hấp dẫn đối với các nhà đầu

tư tư nhân.

Mặc dù vậy, Luật đầu tư công 2019 đã có sự hoàn thiện hơn so với Luật đầu tư

công 2014 về các nội dung liên quan tới nguồn vốn đầu tư công, đối tượng đầu tư

công, quản trị đầu tư công và tiệm cận hơn với quan niệm của thế giới. Do đó, trong

phạm vi nghiên cứu của Luận án, khái niệm đầu tư công được hiểu theo Luật đầu tư

công 2019.

2.1.1.2 Phân loại đầu tư công

Tùy theo mục đích nghiên cứu khác nhau, có thể phân loại đầu tư công theo các

loại khác nhau.

Theo tính chất của dự án đầu tư: có thể phân chia đầu tư công thành dự án có

cấu phần xây dựng và dự án không có cấu phần xây dựng. Trong đó, dự án có cấu

phần xây dựng là dự án đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã

đầu tư xây dựng, bao gồm cả phần mua tàu sản, mua trang thiết bị của dự án. Dự án

không có cấu phần xây dựng là dự án mua tài sản, nhận chuyển nhượng quyền sử

dụng đất, mua, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc và dự án khác.

Theo quy mô đầu tư: đầu tư công có thể chia thành các nhóm dự án sau: dự án

quan trọng quốc gia, các dự án đầu tư nhóm A, dự án đầu tư nhóm B, dự án đầu tư

26

nhóm C. Các tiêu chí cụ thể để phân loại các dự án trọng điểm quốc gia, nhóm A, B,

C được quy định trong điều 7,8,9,10 Luật Đầu tư công 2019.

Theo nguồn vốn đầu tư: đầu tư công có thể chia thành các nhóm như sau: đầu

tư công từ ngân sách nhà nước (NSNN), đầu tư công từ vốn vay và đầu tư công từ

các nguồn khác.

2.1.1.3 Vai trò của đầu tư công

Thứ nhất, đầu tư công giúp thúc đẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua

kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Cụ thể, theo quan điểm của trường phái Keynes, tổng

cầu trong nền kinh tế phụ thuộc vào chi tiêu của các nhân hộ gia đình, đầu tư tư nhân,

chi tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng. Trong đó, chi tiêu chính phủ có thể tách thành

chi đầu tư (đầu tư công) và chi thường xuyên. Do đó, nếu đầu tư công tăng lên thì sẽ

trực tiếp làm tăng tổng cầu và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, nếu xét

từ phía cung với hàm sản xuất Cobb-Douglas thì sản lượng của nền kinh tế phụ thuộc

vào các yếu tố vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp. Trong đó, yếu tố vốn có

thể chia thành vốn đầu tư công và vốn đầu tư tư nhân. Do đó, khi yếu tố vốn đầu tư

tư nhân tăng sẽ có tác động tới sản lượng đầu ra và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế. Bên cạnh kênh trực tiếp, đầu tư công cũng tác động tới tăng trưởng kinh tế thông

qua kênh gián tiếp là đầu tư tư nhân. Về nội dung này, Luận án sẽ tiếp tục làm rõ hơn

ở phần tiếp theo khi phân tích lý thuyết về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân.

Thứ hai, đầu tư công góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo và bất bình

đẳng thu nhập trong xã hội từ đó, nâng cao và ổn định đời sống của người dân (Hà

Thị Tuyết Minh, 2017). Đầu tư công cho cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội sẽ tạo ra việc

làm, từ đó làm tăng thu nhập cho người lao động. Khi thu nhập tăng lên thì người lao

động có thể cải thiện được chất lượng cuộc sống của mình và những người xung

quanh. Bên cạnh đó, đầu tư công vào các lĩnh vực như giáo dục, đào tạo, y tế, môi

trường cũng góp phần quan trọng trong việc giúp người nghèo, người dân khu vực

vùng sâu vùng xa có cơ hội cải thiện chất lượng sống, xóa đói giảm nghèo cũng như

giảm bất bình đẳng trong thu nhập (Gomenee, 2003; Nguyễn Minh Hóa, 2017).

Thứ ba, đầu tư công góp phần đảm bảo ổn định và tăng cường quốc phòng, an

ninh. Các công trình, dự án an ninh quốc phòng là cơ sở quan trọng của đất nước để

bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh, độc lập, chủ quyền quốc gia (Lê Đức Tiến, 2022).

Một trong những chức năng của đầu tư công đó chính là đầu tư vào những lĩnh vực mà

đầu tư tư nhân không thể, không được phép hoặc không muốn đầu tư. Trong đó có lĩnh

27

vực an ninh, quốc phòng. Đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, tình hình

chính trị khu vực và thế giới ngày càng khó lường thì xu thế tất yếu của các quốc gia là

tăng cường đầu tư công cho quốc phòng và anh ninh (Phan Thị Hoài Vân, 2019).

2.1.2 Đầu tư tư nhân

2.1.2.1 Khái niệm

Hiện nay chưa có một cách hiểu đầy đủ và chính xác về thuật ngữ đầu tư tư

nhân. Theo Kumo (2006), đầu tư tư nhân là đầu tư được tiến hành bởi các doanh

nghiệp tư nhân nhằm mục đích tạo lợi nhuận. Molapo, S., & Damane, M. (2015) cho

rằng đầu tư tư nhân được hiểu như một nguyên tắc tổ chức cơ bản cho hoạt động kinh

tế trong nền kinh tế dựa trên thị trường nơi vốn vật chất cũng như tài chính nói chung

thuộc sở hữu tư nhân và các quyết định sản xuất được thực hiện vì lợi ích tư nhân.

Thabani (2017) khẳng định đầu tư tư nhân là bộ phận thuộc sở hữu tư nhân của nền

kinh tế hay chính là bộ phận của nền kinh tế thị trường tự do bao gồm các công ty

không thuộc sở hữu cũng như không chịu sự quản lý của Nhà nước. Trong khi đó,

theo WB (2019), đầu tư tư nhân là việc khu vực tư nhân mua sắm tài sản vốn với kỳ

vọng tạo ra một khoản thu nhập, giá trị lớn hơn trong tương lai.

Trong khi đó, tại Việt Nam, theo Nguyễn Văn Ngọc (2006), đầu tư tư nhân chỉ

việc tăng tư bản tư nhân (tăng thiết bị sản xuất). Ngô Thị Thanh Tú (2020) cho rằng

đầu tư tư nhân chính là việc nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn để hình thành tài sản tiến hành

các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư và các quy đinh khác của pháp

luật liên quan. Lê Việt An (2020) lại đồng quan điểm với định nghĩa về đầu tư tư

nhân của WB và giới hạn đầu tư tư nhân thực hiện trong phạm vi trong nước (đầu tư

tư nhân trong nước).

Tổng hợp từ các quan điểm trên và dựa trên khái niệm về đầu tư theo Điều 3

Luật Đầu tư 2020, Luận án cho rằng đầu tư tư nhân chính là việc nhà đầu tư thuộc

khu vực kinh tế tư nhân (ngoài Nhà nước) bỏ vốn đầu tư để tiến hành các hoạt động

đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các quy định khác của pháp luật liên quan.

Trong đó hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao

gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý đầu tư.

Như vậy, từ các quan điểm trên về đầu tư tư nhân có thể thấy đầu tư tư nhân

khác đầu tư công ở tính chất sở hữu của nguồn vốn đầu tư và mục đích đầu tư. Đầu

tư tư nhân là các khoản đầu tư của các thành phần kinh tế tư nhân trong khi đó đầu tư

công là khoản đầu tư của Nhà nước. Mục đích của đầu tư tư nhân là sinh lợi nhuận

28

trong khi đó mục đích của đầu tư công là phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, không vì

mục đích lợi nhuận.

Hiện nay trong thống kê chính thống của Việt Nam đang phân loại đầu tư theo

3 khu vực kinh tế là khu vực kinh tế “Nhà nước”, “ngoài Nhà nước” và “khu vực có

vốn đầu tư nước ngoài”. Theo đó, trong phạm vi Luận án này, đầu tư tư nhân sẽ được

hiểu là đầu tư sử dụng nguồn vốn thuộc sở hữu của khu vực ngoài Nhà nước hay

chính là đầu tư ngoài Nhà nước. Do đó, đầu tư tư nhân trong phạm vi nghiên cứu

của Luận án không bao gồm đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Đầu tư công là đầu tư sở hữu nguồn vốn thuộc khu vực Nhà nước hay chính là đầu

tư Nhà nước. Các hiểu này cũng tương đồng với đa số các nghiên cứu cùng chủ đề

tại Việt Nam, có thể kể đến như Sử Đình Thành (2011), Tô Trung Thành (2012),

Nguyễn Thị Chinh (2017), Nguyễn Thị Cành (2018), Phạm Thái Bình (2020),

Nguyễn Thế Khang (2022) và Nguyễn Thị Thùy Liên (2022).

2.1.2.2 Các thành phần của đầu tư tư nhân

Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD, 2018), đầu tư tư nhân bao

gồm đầu tư của khu vực tư nhân trong nước (các doanh nghiệp không thuộc nhà nước,

các cá nhân) và đầu tư của khu vực nước ngoài (đầu tư trực tiếp của tư nhân nước

ngoài và đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngoài). Cụ thể: (i) Đầu tư của khu vực tư

nhân trong nước là việc các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt

động kinh doanh; (ii) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI ) là hình thức đầu tư sang 1

nước khác mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn vào các dự

án nhằm giành đc quyền điều hành trực tiếp đối với các dự án mà họ bỏ vốn; (ii) Đầu

tư gián tiếp nước ngoài (FPI) là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ

phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài

chính trung gian khác mà nhà đầu tư ko trực tiếp tham gia quản lý hợp đồng đầu tư.

Tại Việt Nam, dựa vào cách phân chia trong Niên giám thống kê tại các địa

phương, đầu tư tư nhân chính là đầu tư khu vực ngoài Nhà nước và bao gồm: đầu tư

doanh nghiệp (ngoài nhà nước) và đầu tư hộ gia đình.

✓ Đầu tư doanh nghiệp

Hiện nay chưa có một cách hiểu đầy đủ và chính xác về thuật ngữ đầu tư doanh

nghiệp. Tuy nhiên, kết hợp Điều 4, Luật doanh nghiệp (2020) và Điều 3 Luật Đầu tư

(2020), Luận án cho rằng đầu tư doanh nghiệp là việc khu vực doanh nghiệp bỏ vốn

đầu tư để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các quy

29

định khác của pháp luật liên quan. Trong đó, doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có

tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm

mục đích kinh doanh ( Khoản 10, điều 4, Luật doanh nghiệp, 2020).

✓ Đầu tư hộ gia đình

Hiện nay chưa có một cách hiểu đầy đủ và chính xác về thuật ngữ đầu tư hộ gia.

Tuy nhiên, kết hợp Điều 212, Luật dân sự (2015), và Điều 3 Luật Đầu tư (2020), Luận

án cho rằng đầu tư hộ gia đình là việc khu vực hộ gia đình bỏ vốn đầu tư để tiến hành

các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các quy định khác của pháp

luật liên quan. Trong đó, hộ gia đình bao gồm các thành viên có tài sản chung, cùng

đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp

hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi

tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này (Điều 212 Luật dân sự 2015). Đầu tư

hộ gia đình bao gồm đầu tư của nhóm nông-lâm-ngư nghiệp và nhóm phi-nông-lâm-

ngư nghiệp bao gồm cả nhóm chính thức (là các hộ có đăng ký kinh doanh – hộ kinh

doanh) và nhóm không chính thức (là các hộ không đăng ký kinh doanh) (Tổng cục

thống kê, 2020).

Trong pham vi nghiên cứu của Luận án, do hạn chế của việc thu thập số liệu,

hộ gia đình giới hạn ở hộ gia đình thuần nông và hộ gia đình phi nông-lâm- ngư

nghiệp (nhóm chính thức).

2.1.2.3 Các yếu tố tác động tới đầu tư tư nhân

Thứ nhất là đầu tư công. Đầu tư công là một nhân tố đặc biệt khi vừa có thể hỗ

trợ vừa có thể lấn át hoạt động đầu tư của khu vực tư nhân. Đây cũng là nội dung

chính của nghiên cứu này và sẽ được trình bày cụ thể ở các phần sau.

Thứ hai là lãi suất thực tế. Lý thuyết tân cổ điển cho rằng lãi suất cao làm tăng

chi phí sử dụng vốn, làm giảm tỷ lệ đầu tư (Jorgenson, 1963). Lợi nhuận ròng của

nhiều dự án sẽ nhỏ hơn hoặc thậm chí âm với lãi suất cao hơn, ngăn cản các nhà đầu

tư tiềm năng đầu tư. Nói một cách cân xứng, với mức lãi suất thấp hơn, nhiều dự án

sẽ sinh lời hơn, cho phép các nhà đầu tư bỏ nhiều tiền hơn vào chúng. Các nghiên

cứu thực nghiệm đã thiết lập mối quan hệ ngược chiều mạnh mẽ giữa lãi suất và đầu

tư (Awad & cộng sự, 2021; Frimpong & Marbuah, 2010; Jongwanich & Kohpaiboon,

2008; Ofosu-Mensah Ababio & cộng sự, 2018). Ngược lại, McKinnon & Shaw

(1973) nói rằng đầu tư và lãi suất thực có thể có mối quan hệ tích cực. Theo đó, lãi

suất thực tế cao hơn sẽ làm tăng tiết kiệm, dẫn đến tăng khối lượng tín dụng trong

30

nước và đầu tư cân bằng cao hơn. Lý thuyết này, được gọi là giả thuyết McKinnon &

Shaw, dựa trên tiền đề rằng trở ngại lớn nhất đối với đầu tư là sự sẵn có của vốn tài

chính hơn là chi phí vốn. Lãi suất danh nghĩa cao ở hầu hết các nước đang phát triển,

nhưng lãi suất thực hầu hết là âm do tỷ lệ lạm phát cao. Tiết kiệm không được khuyến

khích bởi lãi suất thực tế thấp hoặc âm, làm giảm lượng tiền sẵn có để đầu tư (Ang,

2009; Emran & cộng sự, 2007). Lãi suất có thể tác động tiêu cực đến đầu tư qua kênh

tiết kiệm trong tình huống này. Tuy nhiên, kênh lãi suất sẽ có tác động mạnh hơn tới

đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp hơn là đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình do

khu vực hộ gia đình khó tiếp cận với vốn tín dụng hơn vì quy mô nhỏ lẻ, manh mún.

Thứ ba là tổng sản phẩm trong nước. Lý thuyết của kinh tế học vĩ mô cho rằng

đầu tư là những gì còn lại của tổng thu nhập sau khi tiêu dùng, chi tiêu chính phủ, và

xuất khẩu ròng được trừ. Đầu tư thường được mô hình hóa như một hàm của thu nhập

và lãi suất. Giả định trong mô hình trên, các yếu tố còn lại không đổi, thì tổng sản

phẩm trong nước tăng hay giảm đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư. Điều

đó cho thấy tăng trưởng kinh tế là một nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến đầu tư tư

nhân. Bên cạnh đó, Ho & cộng sự (2013) cũng phát hiện tổng sản phẩm trong nước

tăng lên giúp cho thu nhập của người dân tăng lên, từ đó kéo theo tiết kiệm nhiều hơn

và lượng tiền tiết kiệm này là một kênh tài trợ vốn cho đầu tư trong nước. Tương tự,

Greene & Villanueva (1991) nhấn mạnh các nước tăng trưởng dẫn đến thu nhập bình

quân đầu người cao, gia tăng tiết kiệm trong nước, và lượng tiết kiệm này có thể

được dùng để tài trợ cho các dự án đầu tư của khu vực tư nhân.

Thứ tư là đầu tư trực tiếp (FDI). Vốn FDI có thể tạo ra hiệu ứng bổ trợ với đầu

tư tư nhân. Theo đó, vốn FDI có thể thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài và tạo

ra sự bổ sung vốn đối với các doanh nghiệp trong nước (Markusen & Venables, 1999;

Driffield & Munday, 2000). Các doanh nghiệp trong nước có thể đáp ứng với dòng

vốn FDI bằng cách đổi mới và tăng nguồn vốn của họ để đối mặt với sự cạnh tranh

(De Mello, 1999). Dòng vốn FDI ồ ạt cũng có thể kích hoạt các khoản đầu tư trong

khu vực vào cơ sở hạ tầng làm tăng lợi nhuận của đầu tư trong nước (Cardoso &

Dornbusch, 1989). Tuy nhiên, vốn FDI cũng có thể lấn át đầu tư tư nhân. Vì các công

ty nước ngoài thường vượt trội hơn về mặt công nghệ, họ có thể tận dụng nhanh chóng

và hiệu quả hơn các cơ hội mà trước đây chỉ dễ tiếp cận với các nhà đầu tư trong nước

(Fry, 1993; Agosin & Mayer, 2000). FDI có khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong

31

nước và tăng trưởng tiêu cực do tỷ giá hối đoái có thể tăng lên, giá cả tư liệu sản xuất

cao hơn và giảm đầu tư trong nước (Cordon & Neary, 1982).

Thứ năm là lạm phát. Thông thường, tỷ lệ lạm phát cao được coi là một chỉ báo

về sự không chắc chắn của kinh tế vĩ mô và việc một quốc gia không có khả năng

quản lý chính sách kinh tế vĩ mô, cả hai đều dẫn đến môi trường đầu tư không thuận

lợi. Kết quả là tỷ lệ lạm phát lạm phát trong nước tỷ lệ nghịch với tốc độ tăng trưởng

đầu tư tư nhân (Frimpong & Marbuah, 2010). Hơn nữa, lạm phát làm tăng rủi ro của

các dự án đầu tư dài hạn, làm giảm thời gian đáo hạn trung bình của các khoản vay

thương mại và làm sai lệch nội dung kiến thức về giá tương đối, điều này có tác động

tiêu cực đến đầu tư tư nhân (Fischer, 1993).

Thứ sáu là độ mở của nền kinh tế. Trong bối cảnh hợp tác toàn cầu như hiện

nay, nhà đầu tư ở bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến tính mở của nền kinh tế.

Ngoài thị trường trong nước, các doanh nghiệp của quốc gia này có thể phụ thuộc vào

nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, công nghệ, vốn đầu tư, đội ngũ chuyên gia,

nhân công… đến từ các quốc gia khác trên thế giới. Việc mở cửa nền kinh tế đem lại

nhiều cơ hội cho các hoạt động xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp, giúp môi

trường kinh doanh thông thoáng hơn, có tác động nhân quả tích cực đến hoạt động

của doanh nghiệp nội địa, kể cả khu vực tư nhân. Với nhân tố này, nghiên cứu của

nhiều tác giả cho thấy sự đồng nhất cao khi khẳng định hiệu ứng tích cực của độ mở

lên đầu tư tư nhân, cho dù có sự khác nhau về thang đo biến số, phương pháp tiếp

cận, đặc điểm mẫu điều tra (Balasubramanyam & cộng sự, 1996; Combey, 2016; Su

và Bui, 2016). Tuy nhiên, mặt trái của sự mở cửa là có thể gây ra những cú sốc khi

tiếp cận đột ngột với sự cạnh tranh từ dòng vốn nước ngoài. Lúc đó, một số nhà đầu

tư tư nhân có thể không chịu nổi sức ép cạnh tranh và buộc phải tháo lui hoạt động

đầu tư (Serven, 2003).

Thứ bảy là sự ổn định chính trị. Ngoài các khía cạnh trên, sự ổn định về chính

trị xã hội cũng tác động không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu

vực tư nhân. Chính trị xã hội ổn định sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, giúp các

doanh nghiệp yên tâm tiến hành hoạt động đầu tư và mở rộng sản xuất. Sự ổn định

đó còn là dấu hiệu quan trọng đảm bảo rằng chính phủ và nền kinh tế có thể hỗ trợ

nhà đầu tư tư nhân giảm thiểu, khắc phục những rủi ro trong điều kiện khách quan.

Đặc biệt, khi nhà đầu tư tiến hành hoạt động đầu tư trong dài hạn, số vốn bỏ ra thường

lớn, nhất là các khoản chi cho hạ tầng, máy móc thiết bị. Số vốn này không dễ thu

32

hồi trong tương lai, nên các doanh nghiệp cũng khó lòng đảo chiều hoạt động đầu tư

hoặc rút vốn về (Mauro, 1998; Guillaumont & cộng sự, 1999; Everhart & Sumlinski,

2001; Everhart & cộng sự, 2009).

2.1.3 Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

Theo lý thuyết, tác động của đầu tư công (public investment) tới đầu tư tư nhân

(private investment) được giải thích thông qua 2 quan điểm chủ đạo: quan điểm ủng

hộ đầu tư công tạo ra hiệu ứng lấn át tới đầu tư tư nhân (crowding-out effect) (Blejer

và Khan, 1984; Beck, 1993; Voss, 2002; Ganelli, 2003; Kustepeli, 2005; Lütfi Erden,

2005; Ang, 2009; Cavallo & Daude, 2011), quan điểm ủng hộ đầu tư công tạo ra hiệu

ứng bổ trợ tới đầu tư tư nhân (crowding-in effect) (Aschauer, 1989a; Greene và

Villanueva, 1990; Ramirez, 1994; Reungsri, 2010; Hatano, 2010).

2.1.3.1 Kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

a. Hiệu ứng lấn át

Quan điểm thứ nhất ủng hộ hiệu ứng lấn át (crowding-out effect). Theo đó, nhu

cầu đầu tư của chính phủ tăng lên khiến cho đầu tư của khu vực tư nhân giảm xuống

(Blejer và Khan, 1984; Beck, 1993; Voss, 2002; Ganelli, 2003). Theo đó, hiệu ứng

lấn át có thể diễn ra qua 2 kênh chính: (i) tài trợ bằng nợ và (ii) sản xuất hàng hóa và

dịch vụ cạnh tranh với khu vực tư nhân.

Thứ nhất, nếu đầu tư chính phủ được tài trợ thông qua vay nợ từ hệ thống tài

chính hoặc phát hành trái phiếu trên thị trường vốn thì thị trường phải dành một lượng

vốn nhất định cho chính phủ. Một mặt, điều này dẫn đến lượng tín dụng cung cấp cho

khu vực tư nhân bị giảm xuống. Mặt khác, sự khan hiếm vốn trên thị trường đẩy lãi

suất trên thị trường tăng lên. Cả hai yếu tố này đều đưa đến chung một kết quả là đầu

tư tư nhân bị thu hẹp lại. Friedman (1978) còn phân biệt rõ hơn giữa "hiệu ứng lấn át

thực sự" và "hiệu ứng lấn át tài chính”. Hiệu ứng lấn át thực sự tập trung vào cách

việc Chính phủ tăng đầu tư có thể lấn át vốn từ khu vực tư nhân khi nền kinh tế ở

trạng thái toàn dụng. Trong khi đó, hiệu ứng lấn át tài chính xảy ra ngay cả khi nền

kinh tế không ở trong trạng thái toàn dụng. Theo đó, hiệu ứng lấn át tài chính có thể

hoạt động thông qua một cơ chế được gọi là “giao dịch lấn át”. Theo cơ chế này, khi

chính phủ tăng đầu tư, sẽ dẫn tới cầu tiền tăng, từ đó tạo áp lực làm tăng lãi suất và

giảm đầu tư tư nhân.

r

LM

2

1

0

33

IS2

Y

Y0 IS1 Y1 Y2

Hình 2.1: Hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân

Nguồn: Nguyễn Văn Công (2008)

Cụ thể, trong mô hình IS - LM, khi đầu tư chính phủ được mở rộng, đường IS0

sẽ dịch chuyển sang phải thành IS1, kéo theo thu nhập tăng từ Y0 thành Y1. Trên thị

trường tiền tệ, sự gia tăng của thu nhập Y làm tăng cầu tiền; trong điều kiện cung tiền

cố định thì cầu tiền tăng đã đẩy lãi suất lên cao (từ r0 đến r1). Do lãi suất cũng là chi

phí vay vốn để đầu tư nên khi lãi suất tăng, đầu tư giảm. Như vậy, hiệu ứng lấn át đầu

tư tư nhân (crowding out), thường gọi tắt là hiệu ứng lấn át đầu tư, được dùng để phản

ánh hiện tượng xảy ra khi chính phủ gia tăng can thiệp vào thị trường bằng những

khoản chi tiêu của mình làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động đầu tư của khu vực

tư nhân, làm cho đầu tư tư nhân giảm xuống. Theo Carlson và Spencer (1975), trong

hiện tượng lấn át đầu tư, nếu mỗi sự gia tăng trong chi tiêu công làm giảm một lượng

tương ứng vốn đầu tư tư nhân, hiện tượng này gọi là lấn át hoàn toàn. Còn nếu lượng

vốn tư nhân giảm đi ít hơn phần gia tăng của chi ngân sách thì đây là lấn át một phần.

Để tài trợ nợ, ngoài giải pháp vay nợ từ hệ thống tài chính hoặc phát hành trái

phiếu trên thị trường vốn thì Chính phủ còn có thể tăng thuế (Kustepeli, 2005). Việc

tăng đánh thuế có thể tạo động cơ cho việc trốn thuế hoặc có thể làm giảm kỳ vọng

lợi nhuận từ bất kỳ dự án đầu tư, từ đó giảm đầu tư tư nhân (Boopen và Khadaroo,

2006). Ahmed và Miller (1999) cho rằng chi tiêu của chính phủ được tài trợ bằng

thuế có xu hướng lấn át đầu tư tư nhân mức độ cao hơn so với việc tài trợ bằng nợ.

Thứ hai, đầu tư công cũng có thể làm giảm đầu tư tư nhân khi nó sản xuất hàng

hóa và dịch vụ cạnh tranh với khu vực tư nhân. Đặc biệt khi Nhà nước tích cực tham

34

gia vào các sự án khu vực thương mại mà khu vực tư nhân được biết đến là hiệu quả

hơn và có năng suất biên cao hơn. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới tăng trưởng đầu tư

tư nhân thông qua sự dịch chuyển của nó trong thị trường sản phẩm (Khan và Kumar,

1997). Đặc biệt ở các nước đang phát triển, đầu tư công do các doanh nghiệp kinh tế

nhà nước được bao cấp nhiều và hoạt động kém hiệu quả có khả năng lấn át đầu tư

tư nhân (Lütfi Erden, 2005).

b. Hiệu ứng bổ trợ

Ngược lại với hiệu ứng thay thế này, hiệu ứng bổ trợ (crowding-in effect) được

nhìn thấy khi có sự gia tăng đầu tư tư nhân do tăng đầu tư công.

Thứ nhất, thông qua việc xây dựng hoặc cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất như

đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh, cảng, sân bay và đường sắt (Aschauer

1989a và Hatano 2010) đầu tư công tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn,

thường làm tăng năng suất đầu tư tư nhân. Từ góc độ vi mô, hoạt động này giúp giảm

chi phí đầu tư ban đầu, tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn tư nhân. Ở khía cạnh

vĩ mô, chúng giúp đem lại sự tăng trưởng dài hạn của sản lượng tiềm năng, khiến các

nhà đầu tư lạc quan hơn vào triển vọng phát triển và tiếp tục đổ vốn vào (Aschauer,

1989a; Keynes, 1936). Ví dụ, sự hiện diện của một mạng lưới đường sắt có thể làm

giảm chi phí vận chuyển của thiết bị nặng cần thiết để thành lập một nhà máy mới.

Công ty tư nhân có thể tiếp tục tận dụng lợi thế này ngoài việc thiết lập nhà máy bằng

cách giảm chi phí sản xuất đơn vị biên thông quan vận chuyển bằng đường sắt các

nguyên liệu và sản phẩm cồng kềnh. Khi tích lũy tài sản công và tích lũy tài sản tư

nhân có tính bổ sung cho nhau, đầu tư công làm tăng năng suất cận biên của tích lũy

tài sản tư nhân, do đó, làm tăng tỷ suất sinh lợi của đầu tư tư nhân và kết quả là kích

thích gia tăng đầu tư tư nhân.

Thứ hai, nhu cầu hàng hóa dịch vụ từ Chính phủ khiến cầu về sản phẩm của khu

vực tư nhân tăng, khuyến khích khu vực này đầu tư nhiều hơn do kỳ vọng về doanh

thu và lợi nhuận tốt hơn (Ramirez, 1994; Greene và Villanueva, 1990).

Thứ ba, sự gia tăng thu nhập quốc dân phát sinh từ đầu tư công cũng có thể thu

hút đầu tư tư nhân. Điều này là do thu nhập quốc dân tăng sẽ kích thích tăng trưởng

kinh tế, từ đó có thể khiến khu vực tư nhân tăng cường đầu tư để khai thác bất kỳ cơ

hội sinh lời nào (Reungsri, 2010).

35

2.1.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng tới kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

Kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân (hiệu ứng lấn át và hiệu ứng

bổ trợ) sẽ chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản sau đây:

a. Hội nhập kinh tế quốc tế

Một trong những yếu tố phản ánh sự hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia

và ảnh hưởng tới kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân đó chính là đầu tư

trực tiếp nước ngoài FDI (Obstfedld, M., 1998; Harrison, A., & cộng sự, 2003, 2004).

FDI là yếu tố điều tiết, có thể vừa ảnh hưởng tới độ lớn của hiệu ứng lấn át vừa ảnh

hưởng tới độ lớn của hiệu ứng bổ trợ.

Trước hết, luồng vốn FDI chảy vào một nền kinh tế có thể tăng cung trên thị

trường vốn vay, từ đó giảm áp lực về tiếp cận vốn vay của khu vực tư nhân (Harrison,

A., & cộng sự, 2004). Hay nói cách khác, khi luồng vốn FDI chảy vào một nền kinh

tế gia tăng, có thể giảm bớt áp lực lãi suất tăng trên thị trường vốn do chính phủ vay

nợ để tài trợ cho đầu tư công, từ đó giảm độ lớn của hiệu ứng lấn át (Dehn, 2000).

Mặt khác, Obstfedld, M. (1998) chỉ ra rằng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài

vào thị trường trong nước là một trong những động lực khiến chính quyền nước nhận

đầu tư nỗ lực tạo môi trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thông qua các chính sách

thu hút, có thể kể đến chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Khi đó, đồng thời cũng sẽ

gia tăng độ lớn của hiệu ứng bổ trợ đối với khu vực tư nhân trong nước. Tuy nhiên,

dòng vốn FDI cũng có thể gia tăng độ lớn của hiệu ứng lấn át nếu như các doanh

nghiệp nước ngoài cạnh tranh vay vốn với doanh nghiệp trong nước bởi lẽ doanh

nghiệp nước ngoài như các công ty đa quốc gia thường có lợi thế hơn trong việc tiếp

cận vốn vay (Harrison, A., & cộng sự, 2003).

b. Yếu tố thời gian

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy có nhiều tranh luận về tác động của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân khi xét trong ngắn hạn và dài hạn. Trên thực tế, thời

gian thực hiện đầu tư công có ảnh hưởng tới khả năng sử dụng đầu tư công nhằm thúc

đẩy đầu tư tư nhân (Berg & cộng sự, 2019), vì vậy là một trong những yếu tố ảnh

hưởng độ lớn của hiệu ứng lấn át và hiệu ứng bổ trợ . Cụ thể, chất lượng của đầu tư

công phụ thuộc vào một số yếu tố như thể chế, khung pháp lý...Tuy nhiên, trong ngắn

hạn những yếu tố này có thể bị tác động bởi một số yếu tố như tham nhũng, thiếu

hiệu quả của chính phủ trong việc lên dự án đầu tư, phân bổ và thục hiện đầu tư.

Trong khi đó, nghiên cứu của Abiad, Furceri & cộng sự (2016), Myamoto & cộng sự

36

(2020) chỉ ra rằng tại những quốc gia chính phủ có năng lực quản lý đầu tư công tốt

thì độ lớn hiệu ứng bổ trợ càng cao .Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng bổ trợ của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân có thể nhỏ hơn trong dài hạn.

c. Độ nhạy cảm giữa đầu tư tư nhân và lãi suất

Độ nhạy cảm gữa đầu tư tư nhân và lãi suất ảnh hưởng tới hiệu ứng lấn át. Cụ

thể, kênh truyền dẫn ảnh hưởng của việc chính phủ tăng đầu tư làm ảnh hưởng tới

đầu tư tư nhân đó chính là kênh lãi suất. Đầu tư tư nhân càng nhạy cảm với lãi suất

thì khi lãi suất tăng lên, đầu tư tư nhân giảm càng nhiều. Do đó, độ lớn của hiệu ứng

lấn át càng lớn.

Theo Keith Carlson & cộng sự (1975), độ nhay cảm của đầu tư với lãi suất phụ

thuộc vào yếu tố kỳ vọng của khu vực tư nhân.

Cụ thể, việc chính phủ tăng đầu tư có thể dẫn tới lo ngại cho khu vực tư nhân

về việc sẽ vay nợ hoặc tăng thuế trong tương lai để tài trợ đầu tư , do đó ảnh hưởng

tiêu cực tới tâm lý đầu tư của khu vực tư nhân. Khi đó, khi chính phủ tăng đầu tư,

đường IS1 sẽ dịch chuyển tới IS2 (hình 1.1). Điều này sẽ dẫn tới sự gia tăng về “sự

ưa thích thanh khoản” (giảm đầu tư, tăng nắm giữ tiền mặt) của khu vực tư nhân và

từ đó làm cho đường LM dịch chuyển sang trái. Điều này làm cho đường IS tiếp tục

dịch chuyển sang trái. Cuối cùng, sau sự dịch chuyển của đường LM và IS, sản lượng

không thay đổi (Carlson, Spencer, 1975).

Trong trường hợp thứ 2, khi khu vực hộ gia đình được giả định có kỳ vọng hợp

lý. Khi đó, khu vực hộ gia đình cho rằng đầu tư của chính phủ sẽ hoàn toàn thay thế

đầu tư và tiêu dùng của khu vực hộ gia đình trong tương lai. Do đó, khi đường IS dịch

phải từ IS1 tới IS2 (hình 2.1) do chính phủ tăng đầu tư , hộ gia đình sẽ phản ứng lại

bằng cách chủ động giảm đầu tư hoặc tiêu dùng, khi đó đường IS sẽ dịch chuyển

lại bị trí ban đầu (IS1). Phản ứng của hộ gia đình không phụ thuộc vào cách thức

chính phủ tài trợ nợ là vay nợ trên thị trường vốn vay hay là đánh thuế (Carlson,

Spencer, 1975).

Bên cạnh đó, độ nhạy cảm giữa đầu tư tư nhân và lãi suất còn phụ thuộc vào sự

phát triển của thị trường tài chính. Đối với các quốc gia đang phát triển, khu vực tư

nhân chủ yếu phụ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng để vay vốn. Thị trường vốn bao

gồm thị trường chứng khoàn, thị trường trái phiếu quy mô còn nhỏ và còn có nhiều

bất cập trong quá trình phát triển liên quan tới năng lực doanh nghiệp, quản lý nhà

nước, khung pháp lý...(Vương Duy Lâm, 2019). Do đó, khu vực tư nhân phụ thuộc

37

tương đối lớn vào kênh tín dụng ngân hàng để tài trợ nguồn vốn đầu tư. Do đó, khi

Chính phủ tăng đầu tư và tài trợ bằng cách vay vốn qua kênh tính dụng ngân hàng,

điều này gây áp lực lớn tới lãi suất và ảnh hưởng mạnh tới khu vực tư nhân. Bên cạnh

đó, do thị trường vốn còn kém phát triển, khu vực hộ gia đình thông thường sẽ khó

tiếp cận thị trường vốn hơn so với khu vực doanh nghiệp. Từ đó, sự gia tăng của yếu

tố thường sẽ ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực hộ gia đình ít hơn so với khu vực

doanh nghiệp.

d. Ngoại ứng tích cực của danh mục đầu tư công

Danh mục đầu tư công là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới độ lớn của hiệu

ứng bổ trợ. Hiệu ứng bổ trợ sẽ lớn hơn khi các danh mục đầu tư tạo ra ngoại ứng tích

cực lớn hơn (Romer, 1986; Moretti & cộng sự, 2019). Cụ thể, đầu tư công vào lĩnh

vực cơ sở hạ tầng sẽ gia tăng độ lớn của hiệu ứng bổ trợ ( Aschauer, 1989, Fernald,

1999, Lanua, 2017). Bên cạnh đó, đầu tư công vào các dự án thân thiện với môi

trường cũng tạo ra hiệu ứng thúc đẩy tư nhân lớn hơn. Batini & cộng sự (2021) chỉ

ra rằng đầu tư công cho các dự án thân thiện với môi trường như các dự án năng lượng

tái tạo, năng lượng hạt nhân lần lượt làm cho độ lớn của hiệu ứng bổ trợ tăng 1,2 lần,

4,1 lần trong khi đó những dự án cho đầu tư năng lượng “nâu” chỉ làm cho độ lớn

của hiệu ứng bổ trợ tăng 0.65 lần.

e. Tính bất ổn của kinh tế vĩ mô

Trong thời kỳ nền kinh tế có nhiều bất ổn, đầu tư công có thể tạo tác động bổ

trợ tới đầu tư tư nhân nếu như nó có thể tác động tới lòng tin của khu vực tư nhân.

Do đó đây là yếu tố có thể ảnh hưởng tới hiệu ứng bổ trợ. Nghiên cứu của Berg &

cộng sự (2019), Bloom (2018) chỉ ra rằng trong thời kỳ nền kinh tế có nhiều bất ổn,

đầu tư tư nhân có xu hướng giảm xuống và mức độ ảnh hưởng bởi chính sách khuyến

khích từ đầu tư công cũng giảm xuống. Hay nói cách khác, độ lớn của hiệu ứng bổ

trợ sẽ nhỏ hơn khi nền kinh tế ổn định. Tuy nhiên, Bachmann & cộng sự (2012) chỉ

ra rằng, sự bất ổn của kinh tế vĩ mô có thể làm tăng độ lớn của hiệu ứng bổ trợ nếu

như chính sách đầu tư công của chính phủ có thể làm tăng được kỳ vọng của khu vực

tư nhân về triển vọng kinh tế.

Tóm lại, có thể thấy đầu tư công tác động tới đầu tư tư nhân thông qua kênh bổ

trợ và kênh lấn át. Mức độ tác động thông qua hai kênh này lại chịu sự điều tiết của

một số yếu tố như NCS đã phân tích ở trên. Trong đó, đáng chú ý là vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài FDI (hội nhập kinh tế quốc tế) và thời gian (ngắn hạn và dài

38

hạn) là hai yếu tố có ảnh hưởng đồng thời tới độ lớn của cả hiệu ứng lấn át là

hiệu ứng bổ trợ. Đây cũng làm hàm ý quan trọng để Luận án tiếp tục thực hiện phân

tích thực trạng đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ ở chương 2, xây

dựng mô hình đánh giá tác động ở chương 3 cũng như là cơ sở để đề xuất giải pháp

ở chương 4.

Nội dung các kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và các yếu tố

ảnh hưởng tới các kênh được Luận án tóm tắt ở sơ đồ sau:

Hình 2.2: Kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

2.2 Đầu tư công, đầu tư tư nhân tại vùng kinh tế trọng điểm

2.2.1 Những vấn đề cơ bản về vùng kinh tế trọng điểm

2.2.1.1 Vùng kinh tế trọng điểm và các khái niệm liên quan

• Khái niệm vùng

39

Vùng là một hệ thống các thành phố hoặc các địa điểm có tính thứ bậc, trong đó

mỗi vùng bao gồm một vài thành phố có thứ hạng cao hơn và nhiều thành phố nhỏ ở

cấp thấp hơn (Harmaakorpi, Vesa & Pekkarinen, Satu, 2002). Vùng cũng có thể được

hiểu là các giới hạn địa lý hoặc tài nguyên thiên nhiên hoặc hệ sinh thái (Dunford,

Micheal, 2015). Trong khi đó, Gregory & cộng sự (2009) cho rằng vùng phải thỏa

mãn 3 đặc trưng cơ bản sau đây: thứ nhất, một miền hoặc một khu vực không rõ ràng

về quy mô trên bề mặt trái đất, thứ hai, là một phần của một hệ thống các vùng che

phủ trái đất và thứ ba, một bộ phận của một đặc trái đất như là một vùng khí hậu đặc

biệt hoặc vùng kinh tế đặc biệt.

Tại Việt Nam, theo khoản 6, điều 3 Luật Quy hoạch 2017, Vùng là một bộ phận

quốc gia bao gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lân cận gắn với một

số lưu vực sông hoặc có sự tương đồng về điều kiện kinh tế- xã hội, lịch sử, dân cư,

kết cấu hạ tầng và có mối quan hệ tương tác tạo nên sự bền vững với nhau.

Như vậy, tại Việt Nam, vùng được xem là vùng địa lý gắn liền với các đặc điểm

về dân cư và mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2015).

• Khái niệm vùng kinh tế

Một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên đưa ra định nghĩa về vùng kinh tế trên

thế giới đó chính là nhà địa lý học người Nga - Alaev. Theo đó, Alaev (1983) cho

rằng vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân,

chuyên môn hóa những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản, có mối quan hệ qua lại

giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ

của vùng. Cụ thể hơn, Fligstein & cộng sự (2002) cho rằng vùng kinh tế là một lĩnh

vực xã hội tổng thể được tạo bởi các thể chế cũng như các bản sắc và các tác nhân

trong vùng. Theo Crone (2003), vùng kinh tế được định nghĩa dựa trên quan điểm

của Văn phòng phân tích Kinh tế Liên bang. Theo đó, vùng kinh tế được xem là tập

hợp từ các bang dựa trên các tiêu chí kinh tế và phi kinh tế. Trong đó, tiêu chí kinh tế

chính là thu nhập và phi kinh tế dựa trên mật độ dân số, tăng trưởng, cấu trúc tộc

người, chủng tộc.

Tại Việt Nam, theo Trần Văn Thông (1998), vùng kinh tế được định nghĩa là

những bộ phận lãnh thổ của nền kinh tế quốc dân, được tổ chức chuyên môn hóa sản

xuất theo lãnh thổ, có quan hệ qua lại với nhau bởi khối lượng hàng hóa thương xuyên

sản xuất ra ở đó và bởi những quan hệ KTXH khác. Nguyễn Quốc Toàn (2020) lại

cho rằng vùng kinh tế là một thực thể không gian lãnh thổ nhất định của quốc gia,

40

được hình thành bởi tập hợp các địa phương có các điều kiện tự nhiên, xã hôi, kinh

tế đặc trưng cùng hoạt động trong một hệ thống thứ bậc các quá trình trao đổi, liên hệ

trong và ngoài nhằm tận dụng lợi thế so sánh để đi đến mục tiêu phát triển vùng có

hiệu quả.

Như vậy có thể thấy vùng kinh tế theo quan điểm tại Việt Nam chủ yếu dựa trên

điều kiện tiềm năng tự nhiên và quan điểm "phân công lao động theo lãnh thổ". Các

nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ theo một kế hoạch căn bản mang tính pháp lệnh do

Nhà nước đề ra để các vùng và các địa phương thực hiện. Yếu tố thị trường đóng

vai trò rất thứ yếu, trong nhiều trường hợp hầu như không được chú ý (Viện Kinh

tế TP. Hồ Chí Minh, 2023).

• Khái niệm vùng kinh tế trọng điểm

Theo Ron Martin và Peter Sunley (2008), một quốc gia muốn trở nên phồn thịnh

thì phải có một số vùng phát triển hơn những vùng khác. Đây là khía cạnh ủng hộ cho

quan điểm cần phải có các vùng kinh tế tạo động lực cho tăng trưởng nhanh, tích tụ

các yếu tố vật chất cho quá trình thực hiện phát triển kinh tế chung của cả nước.

Theo Nguyễn Hà Phương và Nguyễn Tiến Huy (2009), vùng kinh tế trọng điểm

là vùng hội tụ đầy đủ nhất các điều kiện phát triển, có khả năng tạo lợi thế cạnh tranh,

làm đầu tàu tăng trưởng nhanh để đẩy mạnh quá trình phát triển cho chính mình và

tiến tới đóng vai trò chi phối quyết định đối với nền kinh tế cả nước. Bên cạnh đó,

vùng kinh tế trọng điểm còn là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, hội tụ các điều

kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, giữ vai trò động lực – đầu

tàu lôi kéo sự phát triển chung của cả nước (Viện Chiến lược phát triển, 2004). Theo

Nguyễn Văn Nam và Ngô Thắng Lợi (2010), vùng KTTĐ là vùng hội tụ tốt nhất các

điều kiện để phát triển, có khả năng tạo lợi thế cạnh tranh, làm đầu tàu tăng trưởng

để đẩy mạnh quá trình phát triển cho các vùng đó và tiến tới đảm nhận vai trò chi

phối tăng trưởng đối với nền kinh tế cả nước. Vùng KTTĐ của quốc gia là một phạm

trù lịch sử, có thể thay đổi theo thời gian. Số lượng và phạm vi lãnh thổ của mỗi vùng

KTTĐ sẽ thay đổi theo yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tóm lại, cách định nghĩa vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam có khuynh hướng

thiên về lượng, kế hoạch hóa và mục đích quản lý (Viện chiến lược phát triển, 2004).

41

2.2.1.2 Cơ sở hình thành vùng KTTĐ

• Cơ sở lý thuyết

Theo nghiên cứu của tác giả, cơ sở xây dựng vùng KTTĐ được dựa trên các lý

thuyết về phát triển vùng, chủ yếu dựa trên lý thuyết cực tăng trưởng (Growth Pole

theory), lý thuyết vùng trung tâm (Central Places theory) và Lý thuyết vùng lõi –

ngoại vi (Core - Periphery theory).

Lý thuyết cực tăng trưởng (Growth Pole theory)

Lý thuyết này được đề xuất bởi nhà kinh tế học người Pháp Francois Perroux

(1950, 1955). Ý tưởng trung tâm của lý thuyết cực tăng trưởng là sự phát triển kinh

tế hay tăng trưởng không đồng đều trên toàn bộ khu vực, mà thay vào đó diễn ra xung

quanh một cực (hoặc cụm) cụ thể. Cực này thường được đặc trưng bởi ngành công

nghiệp cốt lõi (chính). Đây là ngành công nghiệp tạo sự liên kết phát triển với các

ngành công nghiệp khác, chủ yếu thông qua các tác động trực tiếp và gián tiếp. Các

ngành công nghiệp cốt lõi có thể liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như ô tô,

hàng không, điện tử, thép, hóa dầu… Các tác động trực tiếp ngụ ý rằng ngành cốt lõi

mua hàng hóa và dịch vụ từ các nhà cung cấp của nó (các ngành liên kết ngược) hoặc

cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho khách hàng của mình (các ngành liên kết xuôi).

Các tác động gián tiếp có thể liên quan đến việc tăng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ

của những người làm việc trong các ngành cốt lõi, từ đó tạo ra sự liên kết hỗ trợ phát

triển và mở rộng các hoạt động kinh tế. Việc mở rộng ngành công nghiệp cốt lõi ngụ

ý mở rộng sản lượng, việc làm, đầu tư, cũng như các ngành công nghiệp mới.

Như vậy, từ lý thuyết cực tăng trưởng, có ba vấn đề chính được đặt ra. Thứ nhất,

lý thuyết xác định ngành công nghiệp chính là động lực của tăng trưởng. Cực tăng

trưởng sẽ tập trung ở nơi mà có các ngành công nghiệp “lõi”, có khả năng thúc đẩy

sự tăng trưởng của các ngành khác. Thứ hai, lý thuyết dựa trên ý tưởng về không gian

kinh tế (economic space). Trong đó, không gian kinh tế có nghĩa là nơi các yếu tố sản

xuất có thể được tập trung sao cho tăng trưởng kinh tế có thể được thúc đẩy dựa trên

cơ sở của một ngành công nghiệp dẫn đầu. Cực tăng trưởng có thể là bất kỳ vị trí nào

mà tài nguyên, đất đai, lao động, doanh nghiệp có thể kết hợp cùng nhau và tạo ra kết

quả tối ưu.

42

Lý thuyết vùng trung tâm (Central Places theory)

Một trong những hạn chế của Lý thuyết cực tăng trưởng chính là không đề cập

tới vấn đề không gian địa lý (Geography space). Lý thuyết vùng trung tâm từ đó ra

đời nhằm khắc phục hạn chế trên của lý thuyết cực tăng trưởng. Lý thuyết vùng trung

tâm được đề xuất bởi nhà kinh tế học Boudeville (1966) và được phát triển bởi

Friedman (1973, 1980). Theo quan điểm của Boudeville, có ba loại vùng trong nền

kinh tế: đồng nhất, phân cực và kế hoạch. Vùng đồng nhất được hiểu là tại đó các địa

phương gần nhau và đồng nhất về đặc điểm kinh tế - xã hội. Vùng phân cực được

hiểu là vùng mà tại đó các địa phương có sự phụ thuộc lẫn nhau về các yếu tố và vùng

kế hoạch là vùng được lập ra theo kế hoạch của Chính phủ. “Cực” theo quan điểm

của Boudeville đó chính là nơi tập hợp các ngành công nghiệp có khả năng thúc đẩy

các ngành khác và được thiết lập tại các vùng đô thị và có khả năng khuyến khích sự

phát triển của các địa phương lân cận. Tuy nhiên, Boudeville (1966) vẫn chủ yếu dựa

trên quan điểm lý thuyết cực tăng trưởng khi mà vẫn dựa trên lĩnh vực công nghiệp

như là động lực của tăng trưởng (Misra và cộng sự, 1974).

Lý thuyết vùng lõi - ngoại vi (Core - Periphery theory)

Friedman (1966) đã có những bổ sung quan trọng đối với những hạn chế mà

Boudeville đang vướng mắc với lý thuyết vùng lõi – ngoại vi. Friedman cho rằng tăng

trưởng kinh tế sẽ diễn ra ở vùng “lõi” mà xung quanh đó là các “ngoại vi” (periphery).

Các ngoại vi sẽ có mức độ phát triển về kinh tế kém hơn so với vùng “lõi” và phụ

thuộc vào sự phát triển của vùng “lõi”. Vùng “lõi” với sự tiến bộ về khoa học công

nghệ sẽ kéo theo sự phát triển của các “ngoại vi”. Như vậy với sự phát triển mới so

với lý thuyết ban đầu được đưa ra bởi Boudeville, Friedman bước đầu đã đưa ra một

mô hình tổng quát về các thuộc tính không gian của tăng trưởng kinh tế vùng (Hà

Hữu Nga, 2008).

Tóm lại, ba lý thuyết phát triển vùng đã nhận diện được nhiều vấn đề trong phát

triển vùng. Tuy nhiên tựu trung lại, ba lý thuyết đều nhấn mạnh tính tất yếu tồn tại

một điểm cực phát triển trong vùng và từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa tới các địa phương

lân cận. Có thể thấy, đây cũng chính là cơ sở lý luận cho sự ra đời của vùng Kinh tế

trọng điểm.

• Cơ sở thực tiễn

Thứ nhất, trên thực tế, quá trình phát triển vùng sẽ tạo ra sự chênh lệch giữa các

vùng. Hay nói cách khác khoảng cách giữa địa phương phát triển và địa phương kém

43

phát triển hơn sẽ ngày càng bị nới rộng (Nguyễn Văn Khánh & cộng sự, 2015). Bên

cạnh đó, mỗi vùng sẽ chỉ tập trung vào phát triển thế mạnh của mình dẫn đến mục

tiêu phát triển chung về kinh tế- xã hôi sẽ khó thực hiện. Việc xây dựng vùng KTTĐ

được xem là “đầu tàu” lôi kéo sự phát triển chung của cả nước, thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội của cả nước với tốc độ cao và bền vững, tạo điều kiện nâng cao mức

sống của người dân và giảm thiểu chênh lệch về thu nhập trên phạm vi toàn quốc gia.

Thứ hai, quá trình phát triển vùng đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn cho các mục

tiêu phát triển kinh tế- xã hội (Viện Nghiên cứu phát triển TP.Hồ Chí Minh, 2023).

Việc hình thành vùng KTTĐ có thể thu hút lượng lớn vốn đầu tư đặc biệt là đầu tư

công cho cơ sở hạ tầng, tạo động lực phát triển không chỉ trong các địa phương thuộc

vùng KTTĐ mà còn các địa phương lân cận và nền kinh tế quốc gia. Vùng KTTĐ do

có lợi thế về đầu tư công cho cơ sở hạ tầng nên có thể thu hút lượng lớn vốn đầu tư

tư nhân trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó gia tăng nguồn lực để phát

triển đất nước.

Thứ ba, trên thực tế trong quá trình phát triển, mỗi vùng sẽ có một số đặc điểm

nổi trội hơn so với các vùng khác. Hay nói cách khác, mỗi vùng đều có lợi thế bên

cạnh các hạn chế đặc thù (Nguyễn Văn Khánh & cộng sự, 2015). Hình thành vùng

KTTĐ vừa nâng cao lợi thế cạnh tranh của các vùng, vừa bổ sung các hạn chế do điều

kiện tư nhiên đặc thù, từ đó có thể gia tăng hiệu quả kinh tế theo quy mô.

Dựa vào cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn, quá trình hình thành vùng KTTĐ

được Luận án trình bày ở phụ lục 2.

2.2.2 Vai trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân đối với vùng kinh tế trọng điểm

2.2.2.1 Vai trò của đầu tư công

Thứ nhất, đầu tư công tạo nguồn lực thúc đẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại

các địa phương nội Vùng và từ đó tạo tác động lan tỏa tới các địa phương khác trong

cả nước. Về mặt lý thuyết, tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế thông qua

kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Cụ thể, theo quan điểm của trường phái Keynes, tổng

cầu trong nền kinh tế phụ thuộc vào chi tiêu của các nhân hộ gia đình, đầu tư tư nhân,

chi tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng. Trong đó, chi tiêu chính phủ có thể tách thành

chi đầu tư (đầu tư công) và chi thường xuyên. Do đó, nếu đầu tư công tăng lên thì sẽ

trực tiếp làm tăng tổng cầu và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, nếu xét

từ phía cung với hàm sản xuất Cobb-Douglas thì sản lượng của nền kinh tế phụ thuộc

vào các yếu tố vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp. Do đó, khi yếu tố vốn

44

đầu tư công tăng sẽ có tác động tới sản lượng đầu ra và từ đó thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế. Bên cạnh kênh trực tiếp, đầu tư công cũng tác động tới tăng trưởng kinh tế

thông qua kênh gián tiếp là đầu tư tư nhân. Cụ thể, đầu tư công nhằm xây dựng hoặc

cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất như đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh, cảng,

sân bay và đường sắt (Aschauer 1989a và Hatano 2010) tạo ra môi trường kinh doanh

thuận lợi hơn, làm tăng năng suất đầu tư tư nhân từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Về mặt thực tiễn, vùng KTTĐ được xem là “đầu tàu” lôi kéo sự phát triển chung của

cả nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Tỷ trọng đầu tư công chiếm

trên 50% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tại các vùng KTTĐ. Điều này cho

thấy Chính phủ rất ưu tiên nguồn lực đầu tư công vào các vùng KTTĐ nhằm thúc đẩy

sự phát triển kinh tế toàn vùng và lan tỏa khắp cả nước. Bên cạnh đó, trong bối cảnh

hậu Covid-19, dòng vốn FDI trở nên cạnh tranh hơn, tăng trưởng các địa phương

vùng KTTĐ, đặc biệt là các thành phố đầu tàu có xu hướng chậm lại (Nguyễn Thế

Khang, 2022). Trước tình hình đó, vai trò của đầu tư công lại càng được nhấn mạnh

hơn nữa. Đây chính là nguồn lực cũng như là nguồn lực cũng như là động lực thúc

đẩy tăng trưởng tại vùng KTTĐ, từ đó tạo động lực lan tỏa tăng trưởng tới các địa

phương khác trong cả nước.

Thứ hai, đầu tư công góp phần thúc đẩy liên kết các địa phương nội vùng, các

vùng từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như sự kết nối các địa

phương. Cụ thể, tại các vùng KTTĐ, Chính phủ ưu tiên đầu tư công cho cơ sở hạ tầng

kinh tế-xã hội, đặc biệt là phát triển hạ tầng giao thông. Đây chính là nền tảng đẩy

nhanh tiến độ thực hiện một số dự án lớn mang tính kết nối vùng và liên vùng KTTĐ.

Thông qua sự kết nối này, vừa nâng cao lợi thế cạnh tranh của các vùng, vừa bổ sung

các hạn chế do điều kiện tư nhiên đặc thù, từ đó có thể gia tăng hiệu quả kinh tế theo

quy mô (Nguyễn Văn Khánh & cộng sự, 2015). Trên thực tế trong quá trình phát triển

vùng, xuất hiện sự phát triển dàn trải, trùng lặp, cạnh tranh không lành mạnh giữa các

địa phương trong vùng cũng như sự phụ thuộc vào một số ngành, lĩnh vực phát triển

không bền vững và đã hết dư địa tăng trưởng. Đặc biệt, trước tác động của đại dịch

Covid-19, tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các địa phương trong nội vùng KTTĐ và

các địa phương lân cận bắt đầu có sự chênh lệch đáng kể. Do đó, vấn đề liên kết vùng

càng trở nên cấp bách (Tô Hà, 2021). Tuy nhiên, để có thể thực hiện được các dự án

liên kết vùng, đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn cũng như khả năng quy hoạch, bố trí

thực hiện và giám sát các dự án. Trong bối cảnh đó, đầu tư công tiếp tục giữ vai trò

45

là động lực dẫn dắt tăng trưởng và tập trung cho các dự án trọng điểm, liên kết vùng

và từ đó, tạo sự lan tỏa, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như các vùng KTTĐ.

Thứ ba, đầu tư công tạo cơ sở làm giảm khoảng cách giàu nghèo và bất bình

đẳng thu nhập trong xã hội từ đó, nâng cao và ổn định đời sống của người dân tại

vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung. Có thể nói, khi Chính phủ ưu tiên nguồn

vốn đầu tư công vào xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tăng kết nối cho các địa phương

nội vùng, lao động trong địa phương có cơ hội tiếp cận với nhiều công việc hơn, từ

đó có thể gia tăng thu nhập. Khi thu nhập tăng lên thì người lao động có thể cải thiện

được chất lượng cuộc sống của mình và những người xung quanh. Bên cạnh đó, ngoài

cơ sở hạ tầng kinh tế, đầu tư công vào các lĩnh vực như giáo dục, đào tạo, y tế, môi

trường cũng góp phần quan trọng trong việc giúp người nghèo, người dân khu vực

vùng sâu vùng xa có cơ hội cải thiện chất lượng sống, xóa đói giảm nghèo cũng như

giảm bất bình đẳng trong thu nhập.

2.2.2.2 Vai trò của đầu tư tư nhân

Thứ nhất, tương tự như đầu tư công, đầu tư tư nhân góp phần thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, đặc biệt tại các vùng KTTĐ. Trên thực tế, nguồn vốn đầu tư phát triển

kinh tế tại các vùng KTTĐ đòi hỏi một lượng rất lớn trong khi đó vốn đầu tư từ ngân

sách nhà nước không đủ để đáp ứng nhu cầu này. Tại cả 4 vùng KTTĐ, vốn đầu tư

tư nhân đóng vai trò chủ đạo trọng tổng đầu tư xã hội (chiếm trên 60%). Về mặt lý

thuyết, theo trường phái Keynes (1936), sự gia tăng đầu tư tư nhân có tác động thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác động tích cực tới tổng cầu. Bên cạnh đó, đầu

tư tư nhân (khu vực doanh nghiệp) thường hiệu quả cao hơn so với đầu tư của khu

vực cộng (hệ số ICOR thấp hơn) đặc biệt tại các vùng KTTĐ - nơi tập trung gần 75%

khu công nghiệp của cả nước nên hiệu quả tác động của đầu tư tư nhân tới tăng trưởng

thường cao hơn so với khu vực công (Nguyễn Thị Chinh, 2018; Nguyễn Thị Cành và

cộng sự, 2018; Nguyễn Thị Thùy Liên, 2021). Ngoài ra, tại vùng KTTĐ nói riêng và

cả nước nói chung, với đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình còn đóng vai trò quan

trọng đối với tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm, dịch vụ cho xã hội, đồng thời đóng

vai trò vệ tinh cho khu vực doanh nghiệp của nền kinh tế trong quá trình phân phối,

luân chuyển hàng hóa, dịch vụ (Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020).

Thứ hai, đầu tư tư nhân tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần

giải quyết tình trạng thất nghiệp vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung. Đầu tư

tư nhân trải đều trên tất cả các lĩnh vực, trên tất cả các vùng miền, ở tất cả mọi tầng

46

lớn, dân cư cho nên có thể thu hút một lực lượng lai động đa dạng, phong phú cả về

mặt số lượng và chất lượng trong khi đó đầu tư khu vực công chỉ có thể giải quyết

được một lượng nhỏ số lượng việc làm cho người lao động do bị giới hạn bởi lĩnh

vực đầu tư, nguồn vốn đầu tư và năng lực đầu tư (Nguyễn Đình Luận, 2015). Đặc

biệt, với đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình, các lao động không đủ trình độ, tiêu

chuẩn làm việc trong khu vực doanh nghiệp, khu vực hành chính sự nghiệp có thể

chuyển đến. Từ đó, hộ gia đình đã góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp cho xã hội

(Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020).

Thứ ba, đầu tư tư nhân góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc tế tại

vùng KTTĐ nói riêng và Việt Nam nói chung. Cụ thể, vùng KTTĐ Bắc bộ và phía

Nam tập trung các tỉnh, thành phố là trung tâm thương mai và giao dịch quốc tế của

cả nước (TP. Hồ Chí Minh, TP.Hà Nội, TP.Đà Nẵng, TP. Cần Thơ). Các địa phương

này có vai trò rất quan trọng trong tiến trình hội nhập, phát triển ngày càng sâu, rộng

hơn vào kinh tế khu vực và toàn cầu. Đặc biệt tại các vùng KTTĐ, đầu tư tư nhân

chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trong đó, đầu tư tư nhân từ khu vực

doanh nghiệp với đặc tính là da dạng, phong phú trên mọi lĩnh vực, ngành nghề có

thể góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực và

kinh nghiệm quản lý. Từ đó, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập vào nền kinh tế

thế giới không chỉ của các địa phương thuộc vùng KTTĐ mà còn tạo động lực kéo

theo sự hội nhập của cả nước (Nguyễn Đình Luận, 2015).

TỔNG KẾT CHƯƠNG 2

Chương 2 Luận án đã tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan tới đầu tư công, đầu

tư tư nhân, tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và các nhân tố điều tiết ảnh

hưởng của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Đồng thời, Luận án cũng tổng hợp lý thuyết

liên quan tới vùng kinh tế trọng điểm và vai trò của đầu tư công, đầu tư tư nhân tại

vùng kinh tế trọng điểm. Đây chính là cơ sở để Luận án có thể xây dựng được giả

thuyết nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và nền tảng cho các nhận xét về kết quả

nghiên cứu cũng như hàm ý chính sách ở các chương sau.

47

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu

3.1.1 Khung phân tích

Luận án đề xuất khung phân tích đánh giá tác động của đầu tư công tới đầu tư

tư nhân tại các vùng KTTĐ như hình 3.1. Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan tình

hình nghiên cứu về tác động của đầu tư công tới các thành phần của đầu tư tư nhân

cũng như đặc điểm của đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ của Việt Nam, Luận án

phân tách đầu tư tư nhân thành đầu tư khu vực doanh nghiệp và khu vực hộ gia đình.

Tiếp đó, Luận án đánh giá tác động của đầu tư công lần lượt tới đầu tư khu vực doanh

nghiệp và hộ gia đình. Đánh giá được thực hiện trong ngắn hạn và dài hạn dựa trên

các tổng hợp về cơ sở lý thuyết và tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy có sự

khác biệt về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khi xét theo thời gian. Bên

cạnh đó, nhận thức được vai trò của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân, đặc

biệt tại các vùng KTTĐ, Luận án tiến hành đánh giá tác động của đầu tư công cho

CSHT tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ. Trên cơ sở kết quả mô hình hồi quy về

tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân, thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân,

định hướng chính sách đầu tư công cũng như bối cảnh trong nước và bối cảnh nước

ngoài, Luận án tiến hành xây dựng chính sách sử dụng đầu tư công nhằm thúc đẩy

đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.

Để đạt được các mục tiêu đã đề ra trong khung phân tích, Luận án sử dụng kết

hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. Nội

dung các phương pháp được NCS trình bày chi tiết ở mục 3.3 Phương pháp nghiên cứu.

48

Hình 3.1: Khung phân tích của Luận án

Nguồn: Tác giả thực hiện, 2022

3.1.2 Giả thuyết nghiên cứu

Từ các mối quan hệ của khung phân tích và dựa trên tổng quan tình hình nghiên

cứu, lý thuyết chung về tác động của đầu tư công tới đầu tư nhân, các giả thuyết

nghiên cứu đưa ra để kiểm định thực nghiệm như sau:

Giả thuyết H1: Đầu tư công tác động bổ trợ (cùng chiều) tới tổng đầu tư tư nhân

trong dài hạn

Trong dài hạn, đầu tư công tạo tác động tới đầu tư tư nhân và tác động ở đây là

bổ trợ. Cụ thể, trong dài hạn khi Chính phủ tăng đầu tư công thông qua việc xây dựng

hoặc cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất như đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh,

cảng, sân bay và đường sắt (Aschauer 1989a và Hatano 2010), đồng thời tăng nhu

cầu hàng hóa dịch vụ từ Chính phủ (Ramirez, 1994; Greene và Villanueva, 1990).

Chính những yếu tố này sẽ thúc đẩy khu vực đầu tư tư nhân đầu tư nhiều hơn. Ngoài

ra, sự gia tăng thu nhập quốc dân phát sinh từ đầu tư công cũng có thể thu hút đầu tư

tư nhân. Điều này là do khi Chính phủ tăng đầu tư, nhập quốc dân tăng sẽ kích thích

49

tăng trưởng kinh tế, từ đó có thể khiến khu vực tư nhân tăng cường đầu tư để khai

thác bất kỳ cơ hội sinh lời nào (Reungsri, 2010).

Giả thuyết H2: Đầu tư công tác động bổ trợ (cùng chiều) tới đầu tư tư nhân khu

vực doanh nghiệp trong dài hạn

Trong dài hạn, khu vực doanh nghiệp và khu vực hộ gia đình có thể được hưởng

lợi từ đầu tư công cho CSHT như đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh, cảng,

sân bay và đường sắt (Aschauer, 1989a; Hatano, 2010; Mitra, 2014, Abiad & cộng

sự, 2016). Đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp, các dự án, công trình CSHT giao

thông trọng điểm phát huy tác dụng rõ rệt thông qua việc giảm chi phí logistics, giúp

doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được khách hàng hơn (Phan Thị Minh Lý, 2013; Trần

Đình Khôi Nguyên & cộng sự, 2021). Do đó, trong dài hạn, đầu tư công sẽ tạo tác

động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp.

Giả thuyết H3: Đầu tư công tác động bổ trợ (cùng chiều) tới đầu tư tư nhân khu

vực hộ gia đình trong dài hạn

Trong dài hạn, tương tự khu vực doanh nghiệp, khu vực hộ gia đình có thể được

hưởng lợi từ đầu tư công cho CSHT như đường bộ, đường cao tốc, nước và vệ sinh,

cảng, sân bay và đường sắt (Aschauer 1989a, Hatano 2010). Tuy nhiên, tác động bổ

trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình có thể không rõ ràng như

đối với khu vực doanh nghiệp do hình thức kinh doanh của hộ gia đình tại các quốc

gia đang phát triển như Việt Nam thường manh mún, nhỏ lẻ (VERP, 2021). Do đó,

trong dài hạn, đầu tư công sẽ tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình.

Giả thuyết H4: Đầu tư công tác động lấn át (ngược chiều) tới tổng đầu tư tư

nhân trong ngắn hạn

Theo cơ sở lý thuyết ở chương 1 về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân,

đầu tư công có thể tạo ra hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân (Blejer và Khan, 1984; Beck,

1993; Voss, 2002; Ganelli, 2003) thông qua 2 kênh chính: (i) tài trợ bằng nợ và (ii)

sản xuất hàng hóa và dịch vụ cạnh tranh với khu vực tư nhân. Hiệu ứng thông thường

xảy ra trong ngắn hạn với các quốc gia đang phát triển (Ang, 2009; Cavallo và

Daude, 2011). Do đó, trong ngắn hạn, đầu tư công sẽ tạo tác động lấn át tới tổng đầu

tư tư nhân.

Giả thuyết H5: Đầu tư công tác động bổ trợ (cùng chiều) tới đầu tư tư nhân khu

vực hộ gia đình trong ngắn hạn

50

Trong ngắn hạn, khu vực hộ gia đình có thể được hưởng lợi từ sự gia tăng thu

nhập quốc dân phát sinh từ đầu tư công. Cụ thể, các hộ gia đình kinh doanh phụ thuộc

nhiều vào nhu cầu tiêu dùng cuối cùng vì chủ yếu sản xuất và bán cho người tiêu

dùng cuối cùng. Do đó, khi đầu tư công tăng lên, nhu cầu mua hàng hóa dịch vụ tăng

lên thì dễ tác động tới khu vực đầu tư tư nhân từ hộ gia đình trong ngắn hạn (Đỗ Thị

Thanh Sơn, 2020). Bên cạnh đó, do khu vực tư nhân hộ gia đình khả năng tiếp cận

vốn vay khó khăn hơn (VERP, 2021) do ít tài sản đảm bảo nên khả năng chịu ảnh

hưởng lấn át do vay nợ trên thị trường vốn vay là thấp hơn so với doanh nghiệp. Do

đó, trong ngắn hạn, đầu tư công sẽ tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực hộ

gia đình.

Giả thuyết H6: Đầu tư công tạo tác động lấn át (ngược chiều) tới đầu tư tư nhân

khu vực doanh nghiệp trong ngắn hạn

Tại Việt Nam nói chung và các quốc gia đang phát triển nói riêng, do những

hạn chế về vốn đầu tư, cơ chế quản lý, ảnh hưởng của các biến động kinh tế, thời gian

thi công các công trình cơ sở hạ tầng có thể kéo dài và do đó trong ngắn hạn chưa thể

ngay lập tức tạo ra hiệu ứng bổ trợ cho khu vực doanh nghiệp (Phan Thị Minh Lý,

2013; Trần Đình Khôi Nguyên & cộng sự, 2021; Vũ Phương Nhi, 2023). Mặt khác,

việc gia tăng đầu tư công làm tăng nhu cầu hàng hóa dịch vụ trong nước khó tác động

tới khu vực đầu tư tư nhân từ doanh nghiệp hơn so với khu vực hộ gia đình do hàng

hóa từ doanh nghiệp phải trải qua nhiều mắt xích mới có thể đến được tay người tiêu

dùng cuối cùng (Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020). Do đó, trong ngắn hạn, đầu tư công có thể

tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp. Mặt khác, khu vực doanh

nghiệp dễ tiếp cận vốn vay hơn so với hộ gia đình nên khả năng chịu ảnh hưởng lấn át

do vay nợ trên thị trường vốn vay là cao hơn. Do đó, trong ngắn hạn, đầu tư công sẽ

tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp.

Như vậy, có thể tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu và dấu kỳ vọng của các giả

thuyết được trình bày ở Bảng 3.1.

51

Bảng 3.1: Các giả thuyết nghiên cứu và dấu kỳ vọng

Ký hiệu Dấu kỳ giả Nội dung giả thuyết Nguồn tham khảo vọng thuyết

Aschauer, 1989a; Hatano Đầu tư công tác động bổ trợ 2010; Reungsri, 2010; H1 (cùng chiều) tới tổng đầu tư tư + Nguyen Thi Canh, 2018; nhân trong dài hạn Nguyen The Khang, 2022

Aschauer, 1989a; Hatano, Đầu tư công tác động bổ trợ 2010; Mitra, 2014, Abiad (cùng chiều) tới đầu tư tư nhân + & cộng sự, 2016; Trần H2 khu vực doanh nghiệp trong dài Đình Khôi Nguyên & hạn cộng sự, 2021

Đầu tư công tác động bổ trợ

(cùng chiều) tới đầu tư tư nhân Hatano, 2010; Hashmat H3 + khu vực hộ gia đình trong dài Khan & cộng sự, 2020

hạn

Blejer và Khan, 1984; Đầu tư công tác động lấn át Beck, 1993; Voss, 2002; H4 (ngược chiều) tới tổng đầu tư tư - Ganelli, 2003; Ang, 2009; nhân trong ngắn hạn Cavallo và Daude, 2011

Đầu tư công tác động bổ trợ

(cùng chiều) tới đầu tư tư nhân Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020; H5 + khu vực hộ gia đình trong ngắn VERP, 2021

hạn

Saeed và cộng sự, 2006;

Đầu tư công tác động lấn át Mitra, 2006; Mose &

(ngược chiều) tới đầu tư tư nhân cộng sự, 2020; Trần Đình H6 - khu vực doanh nghiệp trong Khôi Nguyên & cộng sự,

ngắn hạn 2021; Vũ Phương Nhi,

2023

Nguồn: Tác giả thực hiện, 2022

52

3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng

3.2.1 Mô hình nghiên cứu

3.2.1.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất

Mô hình trong bài nghiên cứu xây dựng dựa trên lý thuyết tân cổ điển về đầu

tư được đề xuất bởi Jogenson (1963, 1967 và 1971). Mô hình này gần đây được

nghiên cứu bằng dữ liệu bảng bởi Omitogun,O. (2018),Omojolaibi và cộng sự (2016),

Gérard Tchouass và cộng sự (2014), AltinGjini và cộng sự (2012). Theo các nghiên

cứu trên, lượng vốn tối ưu hóa (K*) được xác định như sau:

𝑷𝜶𝒀 (1) 𝑲∗= 𝑪

Trong đó, K* là lượng vốn tối ưu, 𝜶 là hệ số co giãn của vốn theo sản lượng, P

là giá của sản lượng và C là chi phí sử dụng vốn.

Omojolaibi và cộng sự (2016) đã chuyển đổi mô hình (1) cho mô hình dữ liệu

−𝝈 (2)

bảng như sau:

∗ =𝝋𝑷𝒊𝒕 𝒀𝒊𝒕 𝑪𝒊𝒕 Tập trung vào yếu tố đầu tư, các nhà nghiên cứu (Omojolaibi và cộng sự (2016)

𝑲𝒊𝒕

∗, do đó mô hình (2) được viết lại là:

và Omitogun (2018)) đã chỉ ra rằng đầu tư bằng sự thay đổi trong lượng vốn kỳ vọng

𝑰𝒊𝒕 = ∆𝑲𝒕

𝑰𝒊𝒕 = 𝝋𝟏 ∆𝒀𝒊𝒕 + 𝝋𝟐 ∆𝑷𝒊𝒕 − 𝝋𝟑∆𝑪𝒊𝒕 + 𝒖𝒊𝒕 (3) Omojolaibi và cộng sự (2016) mở rộng mô hình (3) với sự tham gia của biến

chính sách tài khóa. Dựa vào mô hình của Malik (2013), Omojolaibi và cộng sự

(2016) đã bổ sung thêm biến chính sách tài khóa (𝐹𝑃) bao gồm có chi đầu tư của

chính phủ, chi thường xuyên của chính phủ, thuế và nợ nước ngoài. Theo đó, mô hình

(3) được biến đổi như sau:

𝑰𝒊𝒕 = 𝝋𝟏 ∆𝒀𝒊𝒕 + 𝝋𝟐 ∆𝑷𝒊𝒕 + 𝝋𝟑𝑪𝒊𝒕 + ∑ 𝒌𝜹𝒌 𝑭𝑷𝒊𝒕𝒌+ 𝝁𝒊𝒕 (4) Tuy nhiên, để phù hợp với mục đích của bài nghiên cứu này, mô hình (4) được

biến đổi lại để chỉ rõ được tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Theo đó, dựa

𝑷𝑰𝒊𝒕 = 𝜶 + 𝝋𝟏 ∆𝒀𝒊𝒕 + 𝝋𝟐 ∆𝑷𝒊𝒕 + 𝝋𝟑𝑪𝒊𝒕 + 𝜹𝑷𝑼𝒊𝒕 + 𝝁𝒊𝒕

𝑷𝑰𝒊𝒕 = 𝜶 + 𝜹𝑷𝑼𝒊𝒕 + ∑ 𝝋𝒋 𝑿𝒊𝒕𝒋 + 𝝁𝒊𝒕 (5)

Trong đó: i=24 tỉnh/ thành phố thuộc Vùng KTTĐ, t=12 là thời gian từ 2010-2021; PI là tổng

đầu tư tư nhân (theo giá so sánh 2010), PU là tổng đầu tư công (theo giá so sánh 2010); X bao gồm

các biến P, C, Y; 𝜇 là sai số.

vào nghiên cứu của Omitogun,O. (2018) thì mô hình (4) được biến đổi như sau:

53

3.2.1.2 Cơ sở lựa chọn biến nghiên cứu

Bên cạnh đầu tư công (PU), nghiên cứu sử dụng các biến số tổng sản phẩm địa

phương (GRDP), lạm phát (INF), lãi suất thực tế (IR) và đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) là các biến tác động tới đầu tư tư nhân tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ.

Lý do dẫn đến sự lựa chọn các biến số này như sau:

Thứ nhất, đây là các biến số phản ánh các yếu tố chủ đạo tác động tới đầu tư

tư nhân dựa trên lý thuyết về đầu tư và các nghiên cứu thực nghiệm. Cụ thể, trong

mô hình nghiên cứu đề xuất (phương trình 5, mục 3.2.1.1) dựa trên lý thuyết tân cổ

điển về đầu tư được đề xuất bởi Jogenson (1963, 1967 và 1971), ngoài đầu tư công

(PU), các yếu tố tác động đến đầu tư tư nhân bao gồm có các biến số C (chi phí sử

dụng vốn), P (giá của sản lượng) và Y (sản lượng). Cụ thể, chi phí sử dụng vốn có tác

động ngược chiều tới đầu tư tư nhân nguyên nhân vì lợi nhuận ròng của nhiều dự án

sẽ nhỏ hơn hoặc thậm chí âm với chi phí sử dụng vốn cao hơn, ngăn cản các nhà đầu

tư tiềm năng đầu tư. Bên cạnh đó, khi giá của sản lượng càng cao, về lâu dài sẽ tạo

áp lực lạm phát tới nền kinh tế và dẫn đến môi trường đầu tư không thuận lợi, từ đó

tác động tiêu cực tới đầu tư khu vực tư nhân. Trong khi đó, sản lượng tăng, thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự gia tăng của tiết kiệm trong nước và đây là một kênh

tài trợ tạo động lực tăng đầu tư tư nhân. Trong khi đó, dựa trên các nghiên cứu thực

nghiệm của Peltonen và cộng sự (2012), Demilie Basha Hailu và cộng sự (2015),

Carrasco, M. (1998), Cavallo, E., and C. Daude (2010), Omojolaibi và cộng sự

(2016), Sofia Vilela São Marcos (2019), Nguyễn Thị Cành & cộng sự (2018),

Omitogun,O. (2018), Nguyễn Thị Thùy Liên (2022), biến chi phí sử dụng vốn C được

đo lường thông qua lãi suất thực tế (IR), giá của sản lượng P được đo lường thông

qua yếu tố chỉ số giá tiêu dùng (CPI), sản lượng Y có thể được đo lường lần lượt thông

qua tổng sản phẩm địa phương (GRDP). Và theo các nghiên cứu trên, các biến số

tổng sản phẩm địa phương (GRDP), lạm phát (INF), lãi suất thực tế (IR) đều có tác

động đáng kể tới đầu tư tư nhân trong nước. Do đó, dựa trên mô hình nghiên cứu đề

xuất cũng như kết luận từ các nghiên cứu thực nghiệm, tổng sản phẩm địa phương

(GRDP), lạm phát (INF), lãi suất thực tế (IR) là những yếu tố quan trọng tác động tới

đầu tư tư nhân, bên cạnh đầu tư công.

Thứ hai, bên cạnh các yếu tố tổng sản phẩm địa phương (GRDP), lạm phát

(INF), lãi suất thực tế (IR), sở dĩ mô hình đưa vào thêm biến đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI) cũng là dựa trên cơ sở về mặt lý thuyết về đầu tư, các nghiên cứu thực

54

nghiệm và tình hình thực tế tại các vùng KTTĐ. Về mặt lý thuyết, FDI chính là yếu tố

trực tiếp tác động tới đầu tư tư nhân và cũng là yếu tố ảnh hưởng tới độ lớn của hiệu

ứng lấn át/ bổ trợ mà đầu tư công có thể tạo ra đối với đầu tư tư nhân mà Luận án đã

đề cập ở phần cơ sở lý luận. Đồng thời, dựa trên nghiên cứu thực nghiệm của

Omitogun,O. (2018),Omojolaibi và cộng sự (2016), Gérard Tchouass và cộng sự

(2014), AltinGjini và cộng sự (2012), Đặng Thu Thủy & cộng sự (2020), Nguyễn Văn

Bôn (2021), Nguyễn Thị Liên (2022) thì đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một

trong những nhân tố phản ánh hội nhập kinh tế quốc tế và tác động mạnh mẽ tới đầu

tư tư nhân cùng với biến số đầu tư công. Trong các nghiên cứu này, FDI và đầu tư

công được cho là các biến số độc lập tác động tới đầu tư tư nhân. Về mặt thực tiễn, tại vùng KTTĐ, FDI chiếm tới hơn ¾ tổng vốn FDI cả nước2 thì rõ ràng vai trò của

FDI càng quan trọng hơn khi đánh giá tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, theo báo cáo PCI (2020, 2021,

2022), các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp tại các địa phương thuộc

các vùng KTTĐ ngày càng có vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng của các doanh

nghiệp FDI. Đây là kết quả quan trọng của Hiệp định thương mại tự lo Liên minh

châu Âu-Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực tháng 8 năm 2020 và sự dịch chuyển đầu tư

khỏi Trung Quốc sang nước láng giềng (Nguyễn Hà Anh, 2022). Như vậy có thể thấy,

mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước và do

đó, biến FDI nên được đưa vào mô hình như là một trong những nhân tố quan trọng

tác động tới đầu tư tư nhân trong nước. Mặt khác, báo cáo PCI (2020, 2021, 2022)

trong khi các nhà đầu tư nước ngoài vẫn xem chất lượng cung cấp dịch vụ công là

điểm yếu của Việt Nam thì dịch vụ công thông qua việc cung cấp cơ sở hạ tầng là

một trong những yếu tố quan trọng hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp trong nước

trong bối cảnh hậu Covid-19 và nền kinh tế thế giới có nhiều biến động. Như vậy có

thể thấy, tác động của FDI và đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ là

tương đối rõ ràng. Do đó, có thể xem đầu tư công và FDI là hai biến độc lập trong

mô hình và cùng tác động tới đầu tư tư nhân trong nước.

Thứ ba, Luận án tiến hành sử dụng Phương pháp hồi quy từng bước (Stepwwise

Regression) để chứng minh sự phù hợp của các biến trong mô hình thông qua sự thay

đổi của chỉ số R bình phương và các chỉ số thông tin AIC và BIC (Hair và cộng sự,

2 Niên giám thống kê Việt Nam, Niên giám thống kê các địa phương thuộc các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021

2014). Kết quả kiểm định cho thấy, khi thêm lần lượt các biến vào mô hình, đặc biệt

55

là biến FDI, độ tin cậy và phù hợp của mô hình ngày càng cao (R bình phương tăng

dần lên và giá trị AIC, BIC là nhỏ nhất). Kết quả kiểm định được trình bày ở phụ lục 3.

Ngoài ra, sự phù hợp của mô hình và các biến đưa vào mô hình sẽ được NCS

kiểm định thông qua thực hiện các mô hình hồi quy tương tự mô hình hồi quy đề xuất

để kiểm tra tính vững của mô hình. Các nội dung này sẽ được Luận án thực hiện ở

chương 5 và trình bày ở phụ lục 39.

Do đó, Luận án đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:

𝑷𝑰𝒊𝒕 = 𝜶 + 𝜹𝑷𝑼𝒊𝒕 + 𝝋𝟏𝑰𝑹𝒊𝒕 +𝝋𝟐𝑮𝑹𝑫𝑷𝒊𝒕 + 𝝋𝟑𝑰𝑵𝑭𝒊𝒕 + 𝝋𝟒𝑭𝑫𝑰𝒊𝒕 + 𝝁𝒊𝒕 (6)

3.2.2 Phương pháp ước lượng

Mục đích của phương pháp này là tính toán các tác động của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân thuộc khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình trong ngắn hạn và dài hạn.

Đồng thời, chỉ rõ vai trò của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân tại các vùng

KTTĐ. Nghiên cứu định lượng được thực hiện với các phương pháp sau:

3.2.2.1 Phương pháp ước lượng nhóm trung bình gộp

Luận án sử dụng dữ liệu bảng, là sự kết hợp thành phần dữ liệu chéo và thành

phần sữ liệu chuỗi thời gian. Phân tích hồi quy dữ liệu bảng thường có một số phương

pháp ước lượng chính như Pooled OLS, FEM, REM, GMM, GFLS. Tuy nhiên, để

phù hợp với dữ liệu nghiên cứu, Luận án sử dụng mô hình kinh tế lượng với phương

pháp ước lượng nhóm trung bình gộp (Pool Mean Group- PMG). Phương pháp này

có các ưu điểm như sau: (1) ước lượng cho một phương trình duy nhất thay vì ước

lượng hệ phương trình; (2) Có thể thực hiện với các biến có độ trễ khác nhau, không

phân biệt thứ tự sai phân I (0) hay I (1); (3) phân biệt được tác động ngắn hạn (khác

nhau giữa các nhóm) và dài hạn hạn (đồng nhất giữa các nhóm) trong mô hình

(Pesaran và cộng sự (1999), Samargandi, Fidrmuc, and Ghosh (2015). Đây là những

ưu điểm mà các phương ước lượng dữ liệu bảng truyền thống (Pooled OLS, FEM,

REM, GMM, FGLS) không thực hiện được.

Cụ thể, PMG được sử dụng để ước lượng các hệ số co giãn và tốc độ điều chỉnh

như sau:

𝒏 𝒋=𝟎

𝒎 𝒋=𝟎

∆𝒀𝒊𝒕=𝜽𝒊(𝒀𝒊𝒕−𝟏 − 𝜸𝒊𝑿𝒊𝒕) + ∑ 𝝆𝒊𝒋∆𝒀𝒊𝒕−𝒋 + ∑ 𝜷𝒊𝒋∆𝑿𝒊𝒕−𝒋 + 𝝉𝒊 +𝜺𝒊𝒕

Trong đó: (𝒀𝒊𝒕−𝟏 − 𝜸𝒊𝑿𝒊𝒕) = 𝑬𝑪hệ số điều chỉnh sai số phản ánh tốc độ điều chỉnh 𝜸𝒊và𝝆𝒊𝒋 ,𝜷𝒊𝒋lần lượt là hệ số hồi quy dài hạn và ngắn hạn

𝝉𝒊,𝜺𝒊𝒕 lần lượt là sai số không quan sát được và quan sát được.

56

Mô hình PMG được viết lại cho dữ liệu của Luận án có dạng như sau:

𝒎 𝒋=𝟎

𝒏 𝒋=𝟎

+ ∑ 𝜷𝟏𝒊𝒋∆𝑮𝑹𝑫𝑷𝒊𝒕−𝒋 + ∑ 𝜷𝟐𝒊𝒋∆𝑭𝑫𝑰𝒊𝒕−𝒋 ∑ 𝝆𝒊𝒋∆𝑷𝑰𝒊𝒕−𝒋 + 𝜸𝟓𝒊𝑰𝑵𝑭 𝒊𝒕 )+ ∆𝑷𝑰𝒊𝒕=𝜽𝒊(𝑷𝑰 𝒊𝒕−𝟏 − 𝜸𝟏𝒊𝑷𝑼 𝒊𝒕 − 𝜸𝟐𝒊𝑮𝑹𝑫𝑷 𝒊𝒕 − 𝜸𝟑𝒊𝑭𝑫𝑰 𝒊𝒕 − 𝜸𝟒𝒊𝑰𝑹 𝒊𝒕 − 𝒎 𝒋=𝟎

𝒎 𝒋=𝟎

𝒎 𝒋=𝟎

∑ 𝜷𝟑𝒊𝒋∆𝑰𝑹𝒊𝒕−𝒋 + ∑ 𝜷𝟒𝒊𝒋∆𝑰𝑵𝑭𝒊𝒕−𝒋 + 𝝉𝒊 + 𝜺𝒊𝒕 (1)

Trong đó: PI, PU, GRDP, FDI, IR, INF lần lượt là đầu tư tư nhân (theo giá so

sánh 2010), PU là đầu tư công (theo giá so sánh 2010), tổng sản phẩm địa phương

(theo giá so sánh 2010), đầu tư trực tiếp nước ngoài (theo giá so sánh 2010), lãi suất

thực tế, lạm phát tại các địa phương nội vùng thuộc 4 vùng KTTĐ

Tác giả sẽ xác định hệ số điều chỉnh sai số EC có ý nghĩa thống kê và nhỏ hơn

0 hay không. Nếu thỏa mãn có nghĩa là tồn tại tác động dài hạn của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân tại các địa phương thuộc các Vùng kinh tế trọng điểm. Tiếp theo, Luận

án sẽ xác định gía trị của các hệ số hồi quy ngắn hạn và dài hạn 𝜸𝒊và𝝆𝒊𝒋 ,𝜷𝒊𝒋 để xác

định chiều tác động của đầu tư tư nhân và các biến số độc lập khác tới đầu tư công

tại các vùng kinh tế trọng điểm trong ngắn hạn và dài hạn. Các kiểm định cần thiết

đối với mô hình PMG chính là kiểm định bậc dừng, kiểm định đồng liên kết. Sau khi

các kiểm định trên thỏa mãn điều kiện, Luận án sẽ tiến hành hồi quy dựa trên mô hình

PMG để đánh giá tác động của đầu tư công và đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và dài

hạn tại các vùng kinh tế trọng điểm.

Kiểm định nghiệm đơn vị

Bên cạnh đó, mô hình sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị bằng kiểm định

Breitung (2000) dựa trên phương pháp CADF được đề xuất bởi Pesaran (2007). Ưu

điểm của kiểm định này là được sử dụng với dữ liệu tồn tại hoặc không tồn tại quan

hệ chéo. Cụ thể:

𝑝 𝑗=0

𝑝 𝑗=0

∆𝑦𝑖𝑡 = 𝛼𝑖 + 𝛽𝑖 𝑦𝑖𝑡−1 + 𝜃𝑖𝑦̅𝑡−1 +∑ 𝛿𝑖𝑗 ∆𝑦̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑ 𝛾𝑖𝑗 ∆𝑦𝑖𝑡−𝑗 + 𝜀𝑖𝑡

𝑁 𝑖=1

Pesaran đề xuất một thống kê như sau: CIPS =𝑁−1 ∑ 𝜃𝑖

∆𝑃𝑈̅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑

𝛿𝑖1𝑗

𝛾𝑖1𝑗 ∆𝑃𝑈𝑖1𝑡−𝑗

+ 𝜀𝑖1𝑡

𝑝 𝑗=0

𝑝 𝑗=0

∆𝑃𝐼̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑

𝛾𝑖2𝑗 ∆𝑃𝐼𝑖2𝑡−𝑗

+ 𝜀𝑖2𝑡

Với các dữ liệu trong mô hình, Luận án lần lượt kiểm định nghiệm đơn vị cho

𝑝 𝑗=0

∆𝐹𝐷𝐼𝑖𝑡 = 𝛼𝑖3 + 𝛽𝑖3 𝐹𝐷𝐼𝑖3𝑡−1 + 𝜃𝑖3𝐹𝐷𝐼

̅̅̅̅̅𝑡−1 +∑

𝛿𝑖𝑗

̅̅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑ ∆𝐹𝐷𝐼

𝛾𝑖3𝑗 ∆𝐹𝐷𝐼𝑖𝑡−𝑗

+ 𝜀𝑖3𝑡

𝑝 𝑗=0

𝛿𝑖2𝑗 𝑝 𝑗=0

các biến số trong mô hình và tính toán thống kê CIPS cho từng biến số. ∆𝑃𝑈𝑖𝑡 = 𝛼𝑖1 + 𝛽𝑖1 𝑃𝑈𝑖1𝑡−1 + 𝜃𝑖1𝑃𝑈̅̅̅̅𝑡−1 +∑ 𝑝 ∆𝑃𝐼𝑖𝑡 = 𝛼𝑖2 + 𝛽𝑖2 𝑃𝐼𝑖2𝑡−1 + 𝜃𝑖2𝑃𝐼̅̅̅𝑡−1 +∑ 𝑗=0

∆𝐺𝑅𝐷𝑃𝑖𝑡 = 𝛼𝑖4 + 𝛽𝑖4 𝐺𝑅𝐷𝑃𝑖4𝑡−1 + 𝜃𝑖4𝐺𝑅𝐷𝑃

̅̅̅̅̅̅̅̅𝑡−1 +∑

𝛿𝑖4𝑗

̅̅̅̅̅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∆𝐺𝑅𝐷𝑃

𝑝 𝑗=0

𝛾𝑖4𝑗 ∆𝐺𝑅𝐷𝑃𝑖𝑡−𝑗

+ 𝜀𝑖4𝑡

𝑝 𝑗=0

∆𝐼𝑅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑

𝛾𝑖5𝑗 ∆𝐼𝑅𝑖𝑡−𝑗

+ 𝜀𝑖5𝑡

𝑝 𝑗=0

𝑝 ∆𝐼𝑅𝑖𝑡 = 𝛼𝑖5 + 𝛽𝑖5 𝐼𝑅𝑖𝑡−1 + 𝜃𝑖5𝐼𝑅̅̅̅𝑡−1 +∑ 𝑗=0 ∆𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡 = 𝛼𝑖6 + 𝛽𝑖6 𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡−1 + 𝜃𝑖6𝐼𝑁𝐹̅̅̅̅̅𝑡−1 +∑

𝛿𝑖6𝑗

̅̅̅̅̅̅̅𝑡−𝑗 + ∑ ∆𝐼𝑁𝐹

𝛾𝑖6𝑗 ∆𝐼𝑁𝐹𝑖𝑡−𝑗

+ 𝜀𝑖6𝑡

𝛿𝑖5𝑗 𝑝 𝑗=0

𝑝 𝑗=0

Kiểm định tính đồng liên kết

57

Để kiểm định tính đồng liên kết bảng cho các biến đưa vào mô hình thì tác giả

sử dụng kiểm định Westerlund (2007). Lợi thế của phương pháp này là sự phụ thuộc

giữa các quan sát chéo trong dữ liệu bảng được tính đến. Westerlund đề xuất mô hình

nghiên cứu như sau:

𝑝 𝑚=1

𝑝 𝑘=1

∆𝑦𝑖𝑡 = 𝑐𝑖 + 𝛼𝑖(𝑦𝑖𝑡−1 − 𝛽𝑖𝑥𝑖𝑡−1) + ∑ 𝛼1𝑖∆𝑦𝑖𝑡−𝑘 + ∑ 𝛽1𝑖∆𝑥𝑖𝑡−𝑚 + 𝜀𝑖𝑡 (1)

Trong đó αi tố𝑐 độ đ𝑖ề𝑢 𝑐ℎỉ𝑛ℎ 𝑣ề 𝑣ị 𝑡𝑟í 𝑐â𝑛 𝑏ằ𝑛𝑔. Giả thuyết H0 là 𝛼𝑖 = 0 cho tất cả các bảng. Nếu giả thuyết H0 bị lại bỏ và αi < 0 thì mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến tồn tại.

Với các dữ liệu trong mô hình, Luận án lần lượt kiểm định tính đồng liên kết

𝑝

𝑝

theo đề xuất của Westerlund (20007) như sau:

𝑘=1

𝑚=1

Trong đó biến số x lần lượt là PU, FDI, GRDP, INF và IR.

∆𝑃𝐼𝑖𝑡 = 𝑐𝑖 + 𝛼𝑖(𝑃𝐼𝑖𝑡−1 − 𝛽𝑖𝑥𝑖𝑡−1) + ∑ 𝛼1𝑖∆𝑃𝐼𝑖𝑡−𝑘 + ∑ 𝛽1𝑖∆𝑥𝑖𝑡−𝑚 + 𝜀𝑖𝑡

3.2.2.2 Phương pháp phân tích phi nhân quả

Ngoài ra, Luận án sử dụng phương pháp phân tích phi nhân quả được đề xuất

bởi Juodis và cộng sự (2021) cho dữ liệu bảng với giả thuyết H0 là 𝑿𝒊𝒕 không tác động tới 𝒀𝒊𝒕 để kiểm tra tác động của đầu tư công cho cơ sở hạ tầng (CSHT) tới đầu tư tư nhân từng vùng.

Giả sử mô hình hồi quy dạng bảng có dạng như sau:

𝒏 𝒀𝒊𝒕=𝜽𝟎,𝒊 + ∑ 𝝆𝒊𝒋𝒀𝒊𝒕−𝒋 + 𝒋=𝟏

𝒎 𝒋=𝟏

∑ 𝜷𝒊𝒋𝑿𝒊𝒕−𝒋 +𝜺𝒊𝒕

Giả thuyết H0 là 𝑿𝒊𝒕 không tác động tới 𝒀𝒊𝒕 có thể được biểu diễn như sau:

H0: 𝜷𝒊𝒋 = 𝟎

H1: 𝜷𝒊𝒋 ≠ 𝟎

Nếu bác bỏ H0 có nghĩa là 𝑿𝒊𝒕 tác động tới 𝒀𝒊𝒕. Với các dữ liệu trong mô hình, Luận án sử dụng phương pháp phân tích phi

nhân quả để kiểm định tác động của đầu tư công cho CSHT tới tổng đầu tư tư nhân

58

(1); đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp (2); đầu tư công

cho CSHT tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình (3).

𝒏 𝑷𝑰 𝒊𝒕=𝜽𝟎,𝒊 + ∑ 𝝆𝒊𝒋𝑷𝑰𝒊𝒕−𝒋 + 𝒋=𝟏

𝒎 𝒋=𝟏

Trong đó: PUCSHT là đầu tư công cho CSHT, PI là tổng đầu tư tư nhân

∑ 𝜷𝒊𝒋𝑷𝑼𝑪𝑺𝑯𝑻𝒊𝒕−𝒋 +𝜺𝒊𝒕 (1)

𝒏 𝑷𝑰𝑬 𝒊𝒕=𝜽𝟏,𝒊 + ∑ 𝝆𝒊𝟏𝒋𝑷𝑰𝑬𝒊𝒕−𝒋 + 𝒋=𝟏

𝒎 𝒋=𝟏

Trong đó: PUCSHT là đầu tư công cho CSHT, PIE là đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp

∑ 𝜷𝒊𝟏𝒋𝑷𝑼𝑪𝑺𝑯𝑻𝒊𝒕−𝒋 +𝜺𝒊𝟏𝒕 (2)

𝒏 𝑷𝑰𝑯𝒊𝒕=𝜽𝟐,𝒊 + ∑ 𝝆𝒊𝟐𝒋𝑷𝑰𝑯𝒊𝒕−𝒋 + 𝒋=𝟏

𝒎 𝒋=𝟏

Trong đó: PUCSHT là đầu tư công cho CSHT, PI là đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình

∑ 𝜷𝒊𝟐𝒋𝑷𝑼𝑪𝑺𝑯𝑻𝒊𝒕−𝒋 +𝜺𝒊𝟐𝒕 (3)

3.3 Phương pháp nghiên cứu định tính

Mục đích của nghiên cứu định tính là để (i) tổng hợp tình hình nghiên cứu về

các vấn đề có liên quan tới Luận án (chương 1), (ii) hoàn thiện khung lý thuyết của

đề tài (chương 2); (iii) phân tích và đánh giá thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân

tại các vùng KTTĐ (chương 4) và (iv) tạo cơ sở cho các luận giải về kết quả nghiên

cứu (chương 5); (v) nêu giải pháp (chương 6). Cụ thể, nghiên cứu định tính tiêu biểu

được thực hiện trong Luận án như sau:

3.3.1 Phương pháp thống kê mô tả

Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2011), phương pháp này sử

dụng để tóm tắt hoặc mô tả một tập dữ liệu, một mẫu nghiên cứu dưới dạng số hay

biểu đồ trực quan. Các công cụ số thường dùng để mô tả là trung bình cộng và độ

lệch chuẩn. Các công cụ trực quan thường dùng là các biểu đồ.

Trong Luận án, NCS sử dụng phương pháp này để phân tích thực trạng đầu tư

công, đầu tư tư nhân và đánh giá mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân ở

chương 4. Cụ thể, dựa trên số liệu thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như Tổng cục

thống kê, Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ, Bộ Tài Chính,

Sở tài chính các địa phương thuộc vùng KTTĐ, Ngân hàng thế giới (World Bank),

NCS đã sử dụng các biểu đồ trực quan để phân tích biến động và xu hướng của đầu

tư công, đầu tư tư nhân và mối quan hệ giữa đầu tư công, đầu tư tư nhân tại các vùng

KTTĐ. Bên cạnh đó, phương pháp này cũng được sử dụng ở chương 5 khi Luận án

mô tả số liệu thống kê. Luận án đã mô tả về công cụ số về độ lệch chuẩn, giá trị lớn

nhất, nhỏ nhất của các dữ liệu liên quan tới đầu tư công, đầu tư tư nhân và các dữ liệu

khác có trong mô hình hồi quy. Ở chương 5, dựa trên số liệu thống kê mô tả thông

qua biểu đồ ở chương 4, Luận án đã đưa ra các đánh giá về tình hình thực hiện đầu tư

công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân ở vùng KTTĐ, từ đó làm cơ sở xây dựng giải pháp.

59

3.3.2 Phương pháp phân tích - tổng hợp

Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2011), phương pháp này được

sử dụng để giải quyết những vấn đề còn gây tranh cãi, chưa có sự thống nhất giữa các

nhà khoa học. Phương pháp phân tích – tổng hợp giúp nhận ra khoảng trống nghiên

cứu, xâu chuối dữ liệu để rút ra nhận xét, đánh giá và đưa ra kết luận.

Trong Luận án, NCS đã sử dụng phương pháp này ở chương 1, chương 2 nhằm

phân tích, tổng hợp các nghiên cứu đi trước, từ đó nhận biết được khoảng trống nghiên

cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận về đầu tư công, đầu tư tư nhân và tác động của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân. Đối với chương 4, dựa tên khung phân tích ở chương 2,

Luận án phân tích thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân và mối quan hệ giữa đầu tư

công và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ. Ở chương 5, phương pháp này được sử

dụng để xây dựng mô hình về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân dựa trên

các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân và các nhân tố điều tiết tác động cửa đầu tư

công tới đầu tư tư nhân được tổng hợp và phân tích ở chương 2. Ở chương 6, Luận

án sử dụng phương pháp này để tổng hợp và phân tích định hướng xây dựng chính

sách đầu tư công tại các vùng KTTĐ, từ đó tạo căn cứ để đề xuất giải pháp sử dụng

đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân.

3.4 Dữ liệu nghiên cứu

Để thực hiện các phương pháp ước lượng của mô hình, bài nghiên cứu đã tiến

hành thu thâp dữ liệu từ các địa phương thuộc 4 Vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021.

Mặc dù đã rất nỗ lực song số các đơn vị chéo còn khiêm tốn là một hạn chế của nghiên

cứu do việc thu thập dữ liệu Vùng KTTĐ ở cấp độ chi tiết hơn như cấp quận, huyện

là rất khó khăn do sự thiếu hụt thống kê ở cấp độ này.

Dữ liệu của các biến trong mô hình được thu thập theo năm chủ yếu từ nguồn

tổng hợp các niên giám thống kê các tỉnh Vùng KTTĐ gồm tổng vốn đầu tư công PU,

tổng vốn đầu tư tư nhân trong nước (PI), tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),

Tổng sản phẩm địa phương (GRDP), Lãi suất thực tế (IR), Lạm phát (INF). Tổng sản

phẩm địa phương (GRDP), Lãi suất thực tế (IR) được xem là biến số thể hiện nhu cầu

và chi phí của hoạt động đầu tư (Altin Gjini & Albania Agim Kukeli, 2012; Christian

Dreger & Hans-Eggert Reimers, 2015). Các dữ liệu nghiên cứu liên quan tới vốn dầu

tư, tổng sản phẩm địa phương được tính toán theo giá so sánh năm 2010 để loại bỏ

các ảnh hưởng của yếu tố lạm phát.

60

Ngoại trừ lãi suất thực tế (IR), các biến được thể hiện ở dạng logarit cơ số tự

nhiên. Ngoài ra, các biến PI, PU, GRDP, FDI được tính toán ở dạng bình quân đầu

người. Cụ thể, các biến sẽ được tính bằng logarit của giá trị của biến chia cho dân số

tại các địa phương. Với cách tính này thì các giá trị sẽ được điều chỉnh theo phù hợp

với đặc điểm (quy mô dân số) của địa phương.

Chi tiết các biến trong mô hình và dấu kỳ vọng được trình bày ở Bảng 3.2

Bảng 3.2: Giới thiệu các biến trong mô hình

Cách đo lường và đơn

Dấu

kỳ

Nguồn tham

Ký hiệu

Tên gọi

Nguồn thu thập

vị tính

vọng

khảo

Biến phụ thuộc

Vốn đầu tư khu vực

Nguyễn Thị Cành & cộng sự

ngoài nhà nước theo giá

(2018), Nguyễn Thị Thùy Liên

so sánh 2010, bao gồm

(2021), Phan Đình Khôi (2020),

Niên giám thống

Vốn đầu tư tư

Vốn đầu tư từ doanh

Nguyễn Thị Kim Thuyền & cộng

PI

kê các tỉnh thuộc

nhân

nghiệp (PIE) và vốn

sự (2020)

các vùng KTTĐ

đầu tư từ hộ gia đình

(PIH)

(triệu đồng)

Biến độc lập

Sử Đình Thành

(2010), Nguyễn

Vốn đầu tư của khu vực

Niên giám thống

Dài hạn: +

Thị Cành & cộng

Vốn đầu tư

nhà nước tính theo giá

PU

kê các tỉnh thuộc

sự

(2018),

công

so sánh 2010

các vùng KTTĐ

Ngắn hạn: -

Nguyễn Thị Thùy

(triệu đồng)

Liên (2021), Phan

Đình Khôi (2020).

Sử Đình Thành

Dài hạn: +

(2010), Nguyễn

Vốn đầu tư thực hiện

Thị Cành & cộng

của các tổ chức, cá nhân

sự

(2018),

Niên giám thống

Vốn đầu tư trực

nước ngoài trên địa bản

Ngắn hạn: -

Nguyễn Thị Thùy

FDI

kê các tỉnh thuộc

tiếp nước ngoài

tỉnh, thành phố tính

Liên (2021), Phan

các vùng KTTĐ

theo giá so sánh 2010

Đình Khôi (2020),

(triệu đồng)

Nguyễn Thị Kim

Thuyền & cộng sự

(2020)

Pereira

(2000),

Tổng sản phẩm địa

Niên giám thống

+

Phetsavong &

Tổng sản phẩm

phương theo giá so sánh

61

GRDP

kê các tỉnh thuộc

Ishachi

(2012),

địa phương

2010

các vùng KTTĐ

Phan Đình Khôi

(triệu đồng)

(2020)

Cavallo, E., & C.

Daude

(2010),

Sofia Vilela São

Niên giám thống

Chỉ số giá tiêu dùng

-

Marcos

(2019),

các

địa

INF

Lạm phát

(CPI) bình quân năm tại

Đặng Thu Thủy &

phương

thuộc

các địa phương

cộng sự (2020),

vùng KTTĐ

Nguyễn Văn Bôn

(2021)

Demilie Basha

Hailu & cộng sự

World Bank,

(2015), Nguyễn

Niên giám thống

Lãi suất cho

Lãi suất cho vay - tỷ lệ

-

Thị Cành & cộng

IR

các

địa

lạm phát địa phương

vay thực tế

sự

(2018),

phương

thuộc

(%)

Nguyễn Thị Thùy

vùng KTTĐ

Liên (2021)

Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Chương 3 Luận án đã chỉ rõ các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong

quá trình phân tích. Theo đó, để đánh giá tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

trong ngắn hạn, dài hạn, Luận án sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính

và phân tích định lượng. Phân tích định tính được sử dụng với hai phương pháp chủ

đạo là phương pháp thống kê mô tả và phương pháp phân tích tổng hợp. Phương pháp

định lượng được sử dụng để kiểm định lại các nhận định của nghiên cứu định tính và

khẳng định chiều tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn và dài hạn.

Cụ thể, Luận án thực hiện phương pháp ước lượng nhóm trung bình gộp nhằm chỉ

rõ tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp, khu vực hộ gia

đình trong ngắn và dài hạn. Ngoài ra, Luận án cũng sử dụng phương pháp phân tích

phi nhân quả để đánh giá tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân.

62

CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG VÀ ĐẦU TƯ

TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM

CỦA VIỆT NAM

4.1. Tổng quan về các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam của Việt Nam

4.1.1 Lịch sử hình thành các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế

trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia trong quá trình phát triển (Nguyễn Thế Bính,

2015). Bên cạnh những lợi ích mà toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mang lại

thì các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với nhiều thử

thách liên quan tới năng lực cạnh tranh quốc gia còn yếu kém, cơ chế chính sách còn

chậm đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong khi đó, bên cạnh những thành tựu đạt được sau quá trình Đổi mới, nền kinh tế

Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu điểm liên quan tới sự chênh lệch về phát triển kinh tế,

mức sống dân cư giữa các địa phương, chậm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thiếu đầu

tàu dẫn dắt, tạo động lực thúc đẩy phát triển chung của cả nước (Chính phủ, 2021).

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã xác định đổi mới cơ cấu kinh tế của

đất nước là một yêu cầu khách quan cấp thiết trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc

tế cũng như tình hình thực tại của đất nước. Cụ thể, cần phải lựa chọn một số

tỉnh/thành phố để hình thành các vùng trọng điểm quốc gia có khả năng đột phá, tạo

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc

gia từ đó thích nghi được với bối cảnh mới cũng như thực tiễn nói chung. Theo đó,

Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt các quyết định số Quyết định số 747/TTg

ngày 11/9/1997, Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg ngày 29/11/1997, Quyết định số

44/1998/QĐ-TTg ngày 23/2/1998, Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 16/04/2009

thành lập vùng KTTĐ Bắc bộ, vùng KTTĐ miền Trung, vùng KTTĐ phía Nam và

vùng KTTĐ ĐBSCL. Trong quá trình xây dựng các vùng KTTĐ, dựa trên tình hình

kinh tế xã hội, vai trò và mục tiêu phát triển của các vùng, Chính phủ đã có sự bổ

sung thêm một số tỉnh thành đối với các vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng KTTĐ phía

Nam theo quyết định số 145/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 và quyết định số

146/2004/QĐ-TTg.

Như vậy, hiện nay cả nước có 4 vùng KTTĐ với 24 tỉnh/ thành phố trực thuộc

mỗi vùng. Mỗi vùng KTTĐ có vai trò cụ thể trong quá trình hỗ trợ và thúc đẩy sự

63

phát triển kinh tế - xã hội của cả nước (Phụ lục 4). Có thể nói, việc hình thành các

vùng KTTĐ vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cả nước vừa đáp ứng bối cảnh toàn

cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.

4.1.2 Tình hình phát triển kinh tế tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

4.1.2.1 Quy mô GRDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế

300000

250000

200000

150000

100000

50000

0

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021

Vùng KTTĐ Bắc bộ

Vùng KTTĐ miền Trung

Vùng KTTĐ phía Nam

Vùng KTTĐ ĐBSCL

Đơn vi: Tỷ đồng

Hình 4.1: GRDP bình quân của các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021

Nguồn: Niêm giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ

Về quy mô GRDP, có thể thấy rõ sự chênh lệch đáng kể về giữa vùng KTTĐ

phía Nam và vùng KTTĐ Bắc bộ so với hai vùng KTTĐ còn lại. Cụ thể, trong giai

đoạn 2010-2021, quy mô GRDP bình quân của vùng KTTĐ phía Nam đạt khoảng

188.750,5 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010) trong khi đó vùng KTTĐ Bắc bộ đạt

134.605,4 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010). Quy mô GRDP hai vùng KTTĐ này gấp

3-4 lần GRDP vùng KTTĐ miền Trung và ĐBSCL.

Bên cạnh đó, tại Vùng KTTĐ Bắc bộ và phía Nam, tồn tại sự chênh lệch rõ rệt

về quy mô GRDP giữa các cực tăng trưởng là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh so với các

địa phương còn lại (Phụ lục 5,7). Đặc biệt, so với địa phương có quy mô GRDP thấp

nhất vùng, GRDP của TP.Hà Nội gấp khoảng 10-11 lần; GRDP của TP. Hồ Chí Minh

gấp khoảng 17-18 lần. Tuy nhiên, không có sự chênh lệch đáng kể về quy mô GRDP

giữa địa phương Đà Nẵng (cực tăng trưởng của vùng KTTĐ miền Trung), Cần Thơ

(cực tăng trưởng của vùng KTTĐ ĐBSCL) với các địa phương nội vùng (Phụ lục 6,

8).

Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, ngoại trừ vùng KTTĐ Bắc bộ, các vùng KTTĐ

còn lại đều cho thấy xu hướng tăng trưởng chậm lại trong giai đoạn 2018-2021 so với

giai đoạn 2010-2017. Đặc biệt tại vùng trọng điểm của các vùng KTTĐ - vùng KTTĐ

64

phía Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn 2010-2021 thấp nhất

so với các vùng còn lại.

Bên cạnh đó, tại các cực tăng trưởng của các vùng KTTĐ ( TP.Hà Nội, TP.Hồ

Chí Minh, TP. Đà Nẵng, TP. Cần Thơ) cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại

đáng kể trong giai đoạn 2018-2021 so với các địa phương còn lại trong nội vùng. Mặc

dù vậy, nhìn chung các cực tăng trưởng vẫn là động lực tăng trưởng quan trọng của

các vùng KTTĐ.

Bảng 4.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của các vùng KTTĐ

giai đoạn 2010-2021

STT Vùng KTTĐ

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2010-2018 Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2010-2021

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2019-2021 6,75% -2,03% 1,90% 2,15% 1 Vùng KTTĐ Bắc bộ 2 Vùng KTTĐ miền Trung 3 Vùng KTTĐ phía Nam 4 Vùng KTTĐ ĐBSCL

10,12% 11,39% 6,88% 10,33% 5,38% 6,69% 6,36% 7,94% Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương nội

vùng KTTĐ

4.1.2.2 Cơ cấu ngành

Nhìn chung, cơ cấu ngành của các vùng kinh tế trọng điểm đã có sự chuyển dịch

theo hướng tích cực, trong đó ngành công nghiệp - xây dựng đóng vai trò quan trọng

trong tăng trưởng kinh tế vùng (Phụ lục 9,10,11,12). Tuy nhiên, có thể thấy tốc độ

dịch chuyển cơ cấu ngành tại các vùng KTTĐ còn tương đối chậm.

Bên cạnh đó, so với các vùng KTTĐ khác, tỷ trọng ngành công nghiệp ở vùng

KTTĐ Bắc bộ lớn hơn nhiều so với tỷ trọng ngành dịch vụ. 6/7 địa phương đều có

xu hướng tăng mạnh tỷ trọng của ngành công nghiệp với mức bình quân khoảng 60%.

Điều này hoàn toàn hợp lý khi ngành công nghiệp - xây dựng đang phát huy vai trò là trụ cột tăng trưởng của Vùng (Nguyễn Thị Thọ, 2019)3. Trong khi đó, tại vùng

KTTĐ phía Nam, mặc tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp – xây dựng tăng lên liên tục

và đứng đầu trong 3 khu vực kinh tế, cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp và nông

3 Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021 – 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ Bắc bộ.

nghiệp của các địa phương có sự khác biệt đáng kể. Nhóm có tỷ trọng nhóm ngành

65

công nghiệp (62,15%) và tỷ trọng ngành nông nghiệp thấp (5,66%) bao gồm TP. Hồ

Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai. Trong khi đó nhóm cho tỷ

trọng ngành nông nghiệp cao (32,61%), tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp (33,80 %)

thấp bao gồm Tây Ninh, Bình Phước, Long An và Tiền Giang. Tương tự vùng KTTĐ

phía Nam, cơ cấu kinh tế ngành của từng địa phương nội vùng KTTĐ miền Trung có

sự khác biệt đáng kể. TP. Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế có cơ cấu kinh tế ngành tiến

bộ với đóng góp phần lớn của ngành dịch vụ. Ngược lại, tỷ trọng đóng góp của ngành

nông nghiệp trong GRDP của các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định còn khá cao. Trái

ngược với các vùng KTTĐ còn lại, tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng của

Vùng KTTĐ chưa tương xứng với cơ cấu kinh tế của Vùng, bình quân trong giai đoạn

2010-2021, chỉ đạt 24,85%. Trong khi đó, tỷ trọng ngành nông nghiệp cao hơn mức

bình quân của cả nước trong cùng giai đoạn.

4.2. Thực trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của

Việt Nam

4.2.1 Thực trạng đầu tư công tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

4.2.1.1 Quy mô và tốc độ tăng trưởng đầu tư công

150000

100000

50000

0

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021

Vùng KTTĐ Bắc bộ

Vùng KTTĐ miền Trung

Vùng KTTĐ phía Nam

Vùng KTTĐ ĐBSCL

Đơn vi: Tỷ đồng

Hình 4.2: Quy mô đầu tư công tại các vùng KTTĐ bình quân

giai đoạn 2010-2021

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ

Về quy mô đầu tư công, có thể thấy quy mô đầu tư công tại vùng KTTĐ Bắc

bộ và phía Nam gấp 4-5 lần so với hai vùng KTTĐ còn lại. Cụ thể, quy mô đầu tư

công tại vùng KTTĐ Bắc bộ lớn nhất trong các vùng và có xu hướng tăng tương đối

ổn định trong giai đoạn 2010-2021. Trong khi đó, quy mô đầu tư công tại các vùng

KTTĐ còn lại có xu hướng tăng trong giai đoạn 2010-2019 và giảm trong giai đoạn

66

2020-2021, đặc biệt tại vùng KTTĐ phía Nam. Mặc dù, nhìn chung, vốn đầu tư công

vẫn là nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế tại các vùng KTTĐ, đặc biệt

tại các vùng trọng điểm của các vùng KTTĐ- nơi cần nguồn lực rất lớn để thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế và tạo sự lan tỏa tới các địa phương lân cận.

Đối với các địa phương nội vùng tại các vùng KTTĐ, tại vùng KTTĐ Bắc bộ,

và vùng KTTĐ phía Nam, các thành phố hạt nhân là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh cho

thấy quy mô đầu tư công lớn gấp 6-7 lần các địa phương còn lại. Trong khi đó, tại

cùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ ĐBSCL không cho thấy sự khác biệt đáng

kể về quy mô đầu tư công tại các địa phương nội vùng so với các thành phố hạt nhân

(Phụ lục 13,14,15,16).

Về tốc độ tăng trưởng đầu tư công, nhìn chung tốc độ tăng trưởng đầu tư công

tại vùng KTTĐ Bắc bộ là lớn nhất trong khi đó, mặc dù có quy mô đầu tư công chỉ

xếp sau vùng KTTĐ Bắc bộ nhưng vùng KTTĐ phía Nam có tốc độ tăng trưởng đầu

tư công xếp thứ ¾ các vùng KTTĐ. Điều này cho thấy đầu tư công không phải là

nguồn lực chủ đạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại vùng KTTĐ phía Nam- nơi thu

hút được lượng vốn FDI và đầu tư tư nhân lớn nhất cả nước. Trong khi đó, vùng

KTTĐ miền Trung có tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư công xếp sau vùng KTTĐ Bắc

bộ và vùng KTTĐ ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng thấp nhất. Bên cạnh đó, tốc độ tăng

trưởng đầu tư công có xu hướng sụt giảm trong giai đoạn 2018-2021 so với giai đoạn

2010-2017 tại các vùng KTTĐ.

Bảng 4.2: Tốc độ tăng đầu tư công bình quân giai đoạn 2010-2021

STT Vùng KTTĐ

Tốc độ tăng trưởng đầu tư công bình quân giai đoạn 2010-2018 Tốc độ tăng trưởng đầu tư công bình quân giai đoạn 2019-2021

6,51% 4,80% 2,52%

Tốc độ tăng trưởng đầu tư công bình quân giai đoạn 2010-2021 6,08% 4,53% 2,38% -1,18% 1 Vùng KTTĐ Bắc bộ 2 Vùng KTTĐ miền Trung 3 Vùng KTTĐ phía Nam 4 Vùng KTTĐ ĐBSCL 2% 4,94% 3,83% 2,02% - 9,67%

Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương nội

vùng KTTĐ

67

Về cơ cấu đầu tư công theo nguồn vốn, đầu tư công chủ yếu phụ thuộc vào

ngân sách Nhà nước. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng bình quân 68,78% của vốn đầu

tư công trong giai đoạn 2010-2021 tại các vùng KTTĐ. Vốn đầu tư công từ ngân sách

nhà nước chủ yếu tập trung cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Nguồn vốn

vay từ vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ

phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, xếp thứ hai sau nguồn vốn từ NSNN.

100%

6,98

8,9

11,37

12,85

90%

24,75

80%

22,74

15,85

21,41

70%

60%

50%

40%

71,30

68,36

68,27

67,22

30%

20%

10%

0%

Vùng KTTĐ Bắc bộ

Vùng KTTĐ phía Nam Vùng KTTĐ ĐBSCL

Vùng KTTĐ miền Trung

Vốn NSNN

Vốn vay

Vốn khác

Đơn vị: %

Hình 4.3: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ

giai đoạn 2010-2021

Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương

vùng KTTĐ

Về cơ cấu đầu tư công theo lĩnh vực đầu tư, do sự hạn chế về mặt thu thập số

liệu đầu tư công cấp Tỉnh/ Thành phố, Luận án chỉ trình bày cơ cấu đầu tư công theo

lĩnh vực trong giai đoạn 2015-2021. Theo đó, đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội

luôn là một trong những hạng mục đầu tư nhận được sự quan tâm lớn của các địa phương nội Vùng 4. Trong đó, đầu tư công cho CSHT chiếm tỷ trọng bình quân

94.33% (Phụ lục 17, 19, 21, 23). Như vậy, tỷ lệ đầu tư CSHT tại các vùng KTTĐ nhìn chung cao hơn so với mức có tỷ lệ đầu tư CSHT cả nước (87,30%5) trong cùng

4 Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng giai đoạn 2011-2015, 2016-2020 5 Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực của Việt Nam giai đoạn 2010-2021

giai đoạn.

68

Mặc dù định hướng là Trung tâm điện tử-tin học hàng đầu của đất nước, phát

triển công nghiệp chế biến, chế tạo; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tuy nhiên

CSHT Khoa học công nghệ tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ chỉ chiếm

tỷ trọng 1,93% trong cơ cấu đầu tư CSHT. Tương tự vùng KTTĐ Bắc bộ, mặc dù

định hướng là trung tâm dịch vụ tài chính, ngân hàng và logistics trong giai đoạn

2021-2030, định hướng 2050, tuy nhiên đầu tư công cho CSHT khoa học công nghệ

tại vùng KTTĐ phía Nam chiếm tỷ trọng thấp hơn so với vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng

KTTĐ miền Trung (Phụ lục 18,20,22,24). Nguyên nhân xuất phát từ vấn đề trong số

8 địa phương nội vùng thì có đến 4 địa phương (Tiền Giang, Long An, Tây Ninh) có

tỷ trọng ngành nông nghiệp lên tới 32,61% . Đây là nhóm ngành mà có sự trang bị

CSHT Khoa học công nghệ thấp hơn hẳn so với nhóm ngành công nghiệp và dịch

vụ. Trong khi đó tại vùng KTTĐ ĐBSCL, mục tiêu của toàn Vùng là hướng tới nền

nông nghiệp công nghệ cao, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Do vậy, các địa

phương nội vùng đã dành tỷ trọng vốn đầu tư công từ NSNN cho xây dựng CSHT

giáo dục tương đối lớn (12,88%).

100%

99%

98%

4,34

5,31

5,69

5,89

97%

96%

95%

94%

95,66

93%

93,26

94,31

94,11

92%

91%

Vùng KTTĐ Bắc bộ

Vùng KTTĐ miền Trung Vùng KTTĐ phía Nam

Vùng KTTĐ ĐBSCL

CSHT

Các hạng mục khác

Đơn vị: %

Hình 4.4: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ

giai đoạn 2010-2021

Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương

vùng KTTĐ

69

4.2.2 Thực trạng đầu tư tư nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

4.2.2.1 Quy mô và tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân

400000

300000

200000

100000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Vùng KTTĐ Bắc bộ

Vùng KTTĐ miền Trung

Vùng KTTĐ phía Nam

Vùng KTTĐ ĐBSCL

Đơn vi: Tỷ đồng

Hình 4.5: Quy mô đầu tư tư nhân bình quân tại các vùng KTTĐ

giai đoạn 2010-2021

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương nội vùng KTTĐ

Về quy mô vốn đầu tư tư nhân, vùng KTTĐ phía Nam và Bắc bộ là hai vùng

KTTĐ dẫn đầu với sự chênh lệch đáng kể so với hai vùng KTTĐ còn lại. Cụ thể,

vùng KTTĐ phía Nam và Bắc bộ có quy mô vốn đầu tư tư nhân gấp khoảng 5 lần

vùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ ĐBSCL. Điều này cho thấy vai trò động lực

của vùng KTTĐ phía Nam cũng như Bắc bộ đối với việc thu hút đầu tư tư nhân.

Bên cạnh đó, tại vùng KTTĐ phía Nam và vùng KTTĐ Bắc bộ, có sự chênh

lệch đáng kể về quy mô vốn đầu tư tư nhân tại các thành phố hạt nhân (TP. Hồ Chí

Minh và TP.Hà Nội) so với các địa phương nội vùng. Cụ thể, so với các địa phương

nội vùng, quy mô đầu tư tư nhân tại TP.Hồ Chí Minh và TP.Hà Nội gấp 12-13 lần.

Vì vậy, sự biến động đầu tư tư nhân tại hai thành phố hạt nhân này ảnh hưởng mạnh

mẽ tới biến động đầu tư tư nhân toàn vùng. Trong khi đó, các thành phố hạt nhân của

vùng KTTĐ miền Trung và KTTĐ ĐBSCL, quy mô đầu tư tư nhân không có sự

chênh lệch đáng kể so với các địa phương nội vùng. Tại vùng KTTĐ ĐBSCL, đầu tư

tư nhân tại thành phố hạt nhân Cần Thơ còn thấp hơn đáng kể so với tỉnh Kiên Giang.

Điều này cho thấy vai trò dẫn dắt thu hút đầu tư tư nhân của các thành phố hạt nhân

còn tương đối mờ nhạt tại vùng KTTĐ miền Trung và KTTĐ ĐBSCL (Phụ lục

26,27,28,29).

Về tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân, đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ có

xu hướng sụt giảm trong giai đoạn 2019-2021 so với giai đoạn 2010-2018 do ảnh

70

hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. Có ¾ vùng KTTĐ, đầu tư tư nhân tăng trưởng

âm trong giai đoạn 2019-2021. Tất cả các thành phố hạt nhân tại các vùng KTTĐ đều

cho thấy sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân. Đặc biệt, tại TP.Hồ Chí Minh

tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân sụt giảm mạnh kéo theo sự sụt giảm tốc độ tăng

trưởng đầu tư nhân toàn vùng.

Bảng 4.3: Tốc độ tăng đầu tư tư nhân bình quân giai đoạn 2010-2021

Tốc độ tăng Tốc độ tăng Tốc độ tăng

trưởng đầu tư trưởng đầu tư trưởng đầu tư

STT Vùng KTTĐ công bình quân công bình quân công bình quân

giai đoạn giai đoạn giai đoạn

2010-2018 2019-2021 2010-2021

1 Vùng KTTĐ Bắc bộ 8,78% 8,71% 8,76%

2 Vùng KTTĐ miền Trung 14,51% -4,72% 9,26%

3 Vùng KTTĐ phía Nam 13,82% -8,33% 7,78%

4 Vùng KTTĐ ĐBSCL 7,14% -0,67% 5,01%

Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê các địa phương

vùng KTTĐ

Về cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn, nhìn chung đầu tư của khu vực

doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chủ đạo (55,64%) so với đầu tư của khu vực hộ gia đình

(44,36%). Có thể nhận thấy khu vực doanh nghiệp là nguồn lực đóng góp vốn đầu tư

chủ đạo trong khu vực kinh tế tư nhân tại các vùng KTTĐ trong giai đoạn 2010-2021.

Tuy nhiên có sự khác biệt về tỷ trọng đầu tư khu vực hộ gia đình so với khu vực

doanh nghiệp tại các vùng KTTĐ. Cụ thể, tại vùng KTTĐ miền Trung, đầu tư khu

vực doanh nghiệp có tỷ trọng lớn hơn đáng kể so với đầu tư khu vực hộ gia đình

(Phụ lục 30). Trong khi đó, tại vùng KTTĐ ĐBSCL, đầu tư khu vực doanh nghiệp có

tỷ trọng tương đương đầu tư hộ gia đình (Phụ lục 32). Tại vùng KTTĐ phía Nam và

Bắc bộ, đầu tư khu vực doanh nghiệp lớn hơn hộ gia đình nhưng không đáng kể (Phụ

lục 31). Điều này cho thấy kinh tế hộ gia đình khu vực hộ gia đình cũng đóng vai trò

rất quan trọng đối với sự phát triển của các vùng KTTĐ. Hiện nay, tại các địa phương

thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ tập trung 613 làng nghề, chiếm hơn 1/3 số lượng làng

nghề trên cả nước (Bạch Thị Lan Anh, 2010). Ngoài ra, tại vùng KTTĐ ĐBSCL, tính

đến thời điểm tháng 12/2021, nhóm ngành có nhiều cơ sở nhất là nhóm ngành bán

buôn và bán lẻ, sữa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ với 31.817 cơ sở; nhóm

71

ngành hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ có ít cơ sở nhất, chỉ với 199 cơ

sở. Mặc dù đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế hộ gia đình nhưng mô hình kinh

doanh phi nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản ở vùng KTTĐ ĐBSCL còn nhỏ lẻ và

manh mún. Đồng thời, lao động thiếu kỹ năng nghề nghiệp và ngành nghề có hàm

lượng khoa học kỹ thuật cao còn hạn chế.

100%

90%

80%

50,75

53,19

53,45

70%

65,19

60%

50%

40%

30%

49,25

46,86

46,55

20%

34,81

10%

0%

Vùng KTTĐ Bắc bộ

Vùng KTTĐ miền Trung

Vùng KTTĐ phía Nam

Vùng KTTĐ ĐBSCL

Vốn hộ gia đình

Vốn Doanh nghiệp

Đơn vị: %

Hình 4.6: Cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn tại các vùng KTTĐ giai đoạn

2010-2021

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ

4.2.3 Thực trạng mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng

kinh tế trọng điểm của Việt Nam

4.2.3.1 Tỷ trọng đầu tư công, đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, trong vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội

tại các vùng KTTĐ, ngoài vốn đầu tư công, vốn đầu tư tư nhân thì còn có vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài FDI. Đặc biệt, các vùng KTTĐ lại là nơi thu hút nguồn vốn FDI

lớn nhất cả nước nên nguồn vốn FDI cũng là một trong những nhân tố quan trong khi

xét mối quan hệ của đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.

Cả nước

29.60%

51.70%

18.70%

Vùng KTTĐ ĐBSCL

37.63%

60.32%

2.05%

Vùng KTTĐ phía Nam

17.21%

55.24%

27.55%

Vùng KTTĐ miền Trung

35.17%

54.97%

9.85%

Vùng KTTĐ Bắc bộ

25.59%

53.63%

20.78%

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90% 100%

Đầu tư công

Đầu tư tư nhân

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

72

Hình 4.7: Tỷ trọng đầu tư công, đầu tư tư nhân, FDI trong tổng vốn đầu tư

toàn xã hội giai đoạn 2010-2021

Nguồn: Tác giả tính toán từ Niên giám thống kê Việt Nam, Niên giám thống kê

các địa phương vùng KTTĐ

Tại các vùng KTTĐ, đầu tư tư nhân chiếm tỷ trọng chủ đạo so với đầu tư công

và đầu tư trực tiếp nước ngoài với tỷ trọng bình quân 56,04%, cao hơn mức bình quân

của cả nước 51,7%. Trong khi đó, tỷ trọng vốn đầu tư công bình quân tại các vùng

kinh tế trọng điểm là 28.9%, thấp hơn mức bình quân của cả nước và có sự khác biệt

rõ rệt giữa các vùng KTTĐ. Cụ thể, tại các vùng KTTĐ ĐBSCL và miền Trung tỷ

trọng vốn đầu tư công lên tới 36,4%, cao hơn so với mức bình quân của cả nước là

29,6%. Tuy nhiên tại vùng KTTĐ Bắc bộ và phía Nam vốn đầu tư công chiếm tỷ

trọng nhỏ hơn với mức 21,4%. Nguyên nhân là do tại hai vùng KTTĐ này tỷ trọng

vốn đầu tư nước ngoài FDI tương đối lớn so với vùng KTTĐ ĐBSCL và miền Trung.

Hay nói cách khác, vốn FDI đang dần trở thành một trong những động lực quan trọng

thúc đẩy phát triển kinh tế tại vùng KTTĐ Bắc bộ và phía Nam, từ đó giảm bớt áp

lực đối với vốn đầu tư công. Trong khi đó, vùng KTTĐ ĐBSCL và miền Trung vẫn

cho thấy sự phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư công để phát triển kinh tế (Phụ lục 33,

34,35,36).

Như vậy, từ cơ cấu vốn đầu tư thực hiện, có thể thấy, tỷ trọng đầu tư tư nhân tại

các vùng KTTĐ đều lớn hơn mức bình quân của cả nước và tại các vùng có tỷ trọng

đầu tư công lớn thì đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng có tỷ trọng thấp và ngược

lại. Điều này hàm ý đầu tư tư nhân chính là nguồn lực quan trọng đối với quá trình

phát triển kinh tế tại các vùng KTTĐ. Bên cạnh đó, một số vùng KTTĐ đang giảm

dần sự phụ thuộc vào vốn đầu tư công do thu hút được nguồn vốn FDI lớn. Do đó,

73

FDI chính là yếu tố quan trọng cần xét tới khi xem xét mối quan hệ giữa đầu tư công

và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.

4.2.3.2 Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ

Để mô tả mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân, Luận án tiến hành

so sánh tốc độ tăng của đầu tư công, đầu tư tư nhân trong hai giai đoạn 2010-2018

và 2019-2021. Dựa trên cơ sở lý luận ở chương 1 và tỷ trọng đầu tư công, đầu tư tư

nhân trong vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội, FDI chính là yếu tố điều tiết mối quan

hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân. Do đó, Luận án sẽ xét mối quan hệ giữa đầu

tư công và đầu tư tư nhân trong mối quan hệ với tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài FDI. Sở dĩ Luận án lựa chọn mốc trước và sau năm 2019 là do đây là năm

2019 nền kinh tế toàn cầu giảm tốc xuống mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2008-2009 bởi xảy ra nhiều cú sốc trong đó có thể kể đến cuộc chiến

thương mại giữa Mỹ-Trung Quốc, biến động của thị trường dầu mỏ (IMF, 2020). Bên

cạnh đó, sự xuất hiện của đại dịch Covid-19 năm 2020 cũng ảnh hưởng nghiêm trọng

tới nền kinh tế toàn cầu, trong đó có nền kinh tế Việt Nam và các vùng KTTĐ. Quan

sát số liệu về quy mô đầu tư công, đầu tư nhân tại các vùng KTTĐ cũng chỉ ra xu

hướng sụt giảm trong giai đoạn 2019-2021 so với giai đoạn 2010-2018. Điều này một

lần nữa khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới

đầu tư công và đầu tư tư nhân cũng như là yếu tố ảnh hưởng tới tác động của đầu tư

công tới đầu tư tư nhân.

74

Bảng 4.4: So sánh tốc độ tăng trưởng đầu tư công, đầu tư tư nhân, FDI giai

đoạn 2010-2018 so với giai đoạn 2019-2021 tại các vùng KTTĐ

2010-2018

2019-2021

Chênh lệch giai đoạn 2019- 2021 so với giai đoạn 2010- 2018

Vùng KTTĐ

FDI

FDI

Δ PU

Δ PI

Δ FDI

Đầu tư công (PU)

Đầu tư công (PU)

Đầu tư tư nhân (PI)

Đầu tư tư nhân (PI)

6.51%

8.78% 14.10%

4.94%

8.71%

-0.23%

-1.57%

-0.07%

-14.33%

4.80% 14.51% 10.38%

3.83%

-4.72%

-0.37%

-0.97%

-19.23%

-10.75%

2.52% 13.82%

9.00%

2.02%

-8.33%

-3.66%

-0.50%

-22.15%

-12.66%

2.00%

7.14%

8.39%

-9.67%

-0.67%

-23.74%

-11.67%

-7.81%

-32.13%

Vùng KTTĐ Bắc bộ Vùng KTTĐ miền Trung Vùng KTTĐ phía Nam Vùng KTTĐ ĐBSCL

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên niên giám thống kê các địa phương thuộc

các vùng KTTĐ

Có thể thấy, tại tất cả các vùng KTTĐ sự sụt giảm tốc độ đầu tư công giai đoạn

2019-2021 kèm theo sụt giảm tốc độ tăng trưởng của đầu tư tư nhân. Như vậy có thể

thấy tồn tại mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ. Bên

cạnh đó, sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng vốn FDI giai đoạn 2019-2021 so với giai

đoạn 2010-2018 cũng được thể rõ ở bảng 2.3. Như vậy có thể thấy, dựa vào phân tích

định tính số liệu có thể thấy, hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện thông qua biến số FDI

có mối quan hệ với cùng chiều với tốc độ tăng trưởng của đầu tư công và đầu tư tư

nhân. Trong giai đoạn 2010-2018, dòng vốn FDI chảy vào các cùng KTTĐ với tốc

độ gia tăng, tốc độ tăng trưởng của đầu tư công và đầu tư tư nhân cùng tăng trưởng.

Tuy nhiên, sang giai đoạn 2019-2021, dưới tác động của đại dịch Covid-19, tốc độ

tăng trưởng dòng vốn FDI sụt giảm, tốc độ tăng trưởng đầu tư công và đầu tư tư nhân

cùng giảm. Đặc biệt với các địa phương có sự sụt giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng

FDI thì đầu tư công và đầu tư tư nhân cũng có xu hướng sụt giảm đáng kể tốc độ tăng

trưởng, thậm chí tăng trưởng âm. Điều đó cho thấy xét về mặt định tính, tác động của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân có mối quan hệ với hội nhập kinh tế quốc tế.

75

Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong bối cảnh

hội nhập có một số điểm khác biệt giữa các vùng KTTĐ. Cụ thể, tại vùng KTTĐ Bắc

bộ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sụt giảm mạnh trong giai đoạn 2019-2021 nhưng

đầu tư công và đầu tư tư nhân chỉ bị sụt giảm nhẹ. Trong khi đó, tại các vùng KTTĐ

khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng âm lại đi kèm với sự sụt giảm đáng kể

của đầu tư tư nhân hoặc cả đầu tư tư nhân và đầu tư công.

Để củng cố thêm về mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các

vùng KTTĐ, Luận án tiến hành tính toán hệ số thu hút đầu tư. Hệ số này cho biết khi

đầu tư công tăng lên 1 đồng thì sẽ thu hút bao nhiêu đồng vốn đầu tư từ khu vực tư

nhân (Nguyễn Thị Cành, 2018; Nguyễn Thị Tuyết Minh, 2019). Luận án tiến hành

tính toán và so sánh tại 4 vùng KTTĐ và đặt hệ số thu hút đầu tư trong mối quan hệ

với tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI để thấy được ảnh hưởng

1.0

60%

40%

3.0

0.8

40%

30%

0.6

20%

20%

2.0

10%

0.4

0%

0%

1.0

0.2

-20%

5 1 0 2

0 2 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

1 2 0 2

-10%

0 2 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

1 2 0 2

0.0

-40%

-20%

0.0

Hệ số thu hút đầu tư

Hệ số thu hút đầu tư

Tốc độ tăng trưởng FDI

Tốc độ tăng trưởng FDI

của hội nhập kinh tế quốc tế tới mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân.

5.0

25%

60%

3.0

20%

4.0

40%

2.5

15%

3.0

20%

2.0

10%

5%

0%

1.5

2.0

0%

-20%

1.0

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

0 2 0 2

1 2 0 2

1.0

-5%

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

0 2 0 2

1 2 0 2

-40%

0.5

0.0

-10%

-60%

0.0

Hệ số thu hút đầu tư

Hệ số thu hút đầu tư

Tốc độ tăng trưởng FDI

Tốc độ tăng trưởng FDI

Vùng KTTĐ miền Trung Vùng KTTĐ Bắc bộ

Vùng KTTĐ miền Nam Vùng KTTĐ ĐBSCL

Hình 4.8: Hệ số thu hút đầu tư và tốc độ tăng trưởng FDI tại các vùng KTTĐ

Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của niên giám thống kê các địa phương

thuộc các vùng KTTĐ

76

Nhìn chung từ hình 2.8, Luận án rút ra một số kết luận như sau về mối quan hệ

giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân trong giai đoạn 2010-2021 như sau:

Thứ nhất, hệ số thu hút đầu tư bình quân tại vùng KTTĐ miền Nam lớn nhất

trong số các vùng KTTĐ còn lại tuy nhiên có xu hướng sụt giảm. Điều này cho thấy

có thể đây là khu vực đầu tư công tạo được sự thu hút đối với đầu tư tư nhân nhưng

mức độ thu hút có xu hướng giảm. Trong khi đó, hệ số thu hút đầu tư tư nhân tại vùng

KTTĐ miền Trung là nhỏ nhất và nhỏ hơn mức bình quân của cả nước (Nguyễn Thị

Cành, 2018). Điều này cho thấy có thể đây là khu vực đầu tư công chưa thể hiện được

vai trò vốn mồi để thu hút đầu tư tư nhân với vai trò là một vùng KTTĐ.

Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của đầu tư công và đầu tư tư nhân có xu hướng giảm

tại các vùng KTTĐ trong giai đoạn 2019-2021 như Luận án đã chỉ ra ở trên, hệ số thu

hút đầu tư tư nhân trong giai đoạn 2019-2021 lại lớn hơn so với giai đoạn trước đó.

Điều này có thể hàm ý rằng trong bối cảnh đại dịch Covid-19 xảy ra thì vai trò thu

hút đầu tư tư nhân của đầu tư công tại các vùng KTTĐ lại càng rõ rệt hơn. Mặc dù

vậy, xu hướng sụt giảm của hệ số thu hút đầu tư trong giai đoạn 2019-2021 cho thấy

trước tác động của đại dịch Covid-19, đầu tư công đang đối mặt với nhiều khó khăn

trong quá trình thu hút đầu tư tư nhân nhằm phục hồi phát triển kinh tế tại các vùng

KTTĐ.

Thứ ba, mối quan hệ giữa hệ số thu hút đầu tư và tốc độ tăng trưởng FDI nhìn

chung cùng chiều và tương đối rõ rệt tại vùng KTTĐ phía Nam. Như đã đề cập ở

chương 3, dựa vào khảo sát PCI (2020, 2021, 2022), các doanh nghiệp tư nhân tại

Việt Nam, đặc biệt tại các tỉnh thành thuộc vùng KTTĐ phía Nam đang trở thành một

mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị của các doanh nghiệp FDI. Do đó, mối quan

hệ giữa FDI và đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ phía Nam là rất chặt chẽ. Hơn nữa,

dựa vào cơ sở lý thuyết ở chương 1, vốn FDI là một trong những nhân tố điều tiết tác

động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân, ảnh hưởng tới độ lớn của hiệu ứng lấn át và

hiệu ứng bổ trợ. Do đó, FDI là một trong những nhân tố quan trọng khi xét tác động

đầu tư công tạo ra đối với đầu tư tư nhân mà nghiên cứu cần quan tâm xem xét.

Mặc dù những nhận định trên phần nào cho thấy mối quan hệ giữa đầu tư công

và đầu tư tư nhân với sự ảnh hưởng của vốn FDI. Tuy nhiên trên thực tế như Luận án

đã chỉ ra có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư

tư nhân. Và để chỉ rõ tác động cụ thể của đầu tư công tới đầu tư tư nhân cần thiết thực

hiện phân tích định lượng tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân cả trong ngắn

77

hạn và dài hạn để có thể khẳng định chắc chắn tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân là bổ trợ hay lấn át, và yếu tố hội nhập có phải là yếu tố điều tiết tác động này

như lý thuyết đã đề cập và như phân tích định tính trên hay không. Để thực hiện mục

tiêu trên, Luận án sẽ sử dụng mô hình phân tích định lượng ở chương 5 để kiểm định

tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân và các thành phần của đầu tư tư nhân xét

trong ngắn hạn và dài hạn.

4.2.4 Thực trạng chính sách thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư

nhân tại các vùng KTTĐ của Việt Nam

Trong giai đoạn 2010-2021, các chính sách của Chính phủ (Nghị quyết số

145, 146, 148/2004/QĐ-TTg, 492/2009/QĐ-TTg, 210/2006/QĐ-TTg, chỉ thị

19/CT-TTg…) đều nhấn mạnh vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển của các

vùng KTTĐ, từ đó tạo động lực thúc đẩy đầu tư tư nhân. Để khuyến khích đầu tư tư

nhân tại các vùng kinh tế trọng điểm, trước hết, Chính phủ đã ưu tiên thực hiện chính

sách ưu tiên phân bổ vốn đầu tư công nhằm hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng.

Chính phủ luôn đề cập đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và

không thể thiếu trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân tạo động lực phát triển vùng kinh

tế trọng điểm. Cụ thể, các quyết định số 198, 242, 252, 1874-QD-TTg về phê duyệt

quy hoạch tổng thể cho 4 vùng KTTĐ cho đến năm 2020, định hướng 2030 đề ra các

giải pháp nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó ưu tiên hạ tầng giao thông (đường

bộ, đường thủy, đường sắt, và đường hàng không), cung cấp điện và bưu chính viễn

thông, hạ tầng thủy sản và công nghệ thông tin-truyền thông. Đồng thời, Chính phủ

cũng đưa ra chính sách phát triển cơ sở hạ tầng của các thành phố hạt nhân kinh tế

thuộc các vùng KTTĐ (Quyết định số 40/2015/QĐ-TTg). Mặt khác, Chính phủ đã

đưa ra chính sách ưu tiên phân bổ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển cơ sở hạ

tầng ở các vùng KTTĐ thông qua nguồn vốn từ NSNN (Quyết định số 60/2010/QD-

TTg). Theo đó, Chính phủ đưa ra các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ đầu

tư phát triển bằng nguồn vốn NSNN, trong đó các thành phố trực thuộc trung ương,

các thành phố loại I, các tình thành, phố trực thuộc vùng KTTĐ được hưởng hệ số ưu

tiên phân bổ ngân sách. Bên cạnh chính sách về phân bổ nguồn vốn đầu tư công cho

xây dựng cơ sở hạ tầng, Chính phủ cũng xây dựng các chính sách nhằm huy động

nguồn vốn xã hội. Một trong những hình thức được Chính phủ thực hiện nhằm kêu

gọi nguồn vốn xã hội cho xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng kinh tế trọng điểm đó

chính là hình thức hợp tác công tư PPP (Quyết định số 63/QĐ-TTg, Nghị định

78

5/2021/NĐ-CP). Chính phủ ưu tiên thu hút nguồn vốn này cho các dự án cơ sở hạ

tầng quan trọng, có sức lan tỏa rộng và tác động lớn tới kinh tế tại vùng KTTĐ.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được mà Luận án đã chỉ rõ về sự tăng trưởng

trong quy mô đầu tư tư nhân cũng như tỷ trọng đầu tư tư nhân so với vốn đầu tư thực

hiện toàn xã hội tại các vùng KTTĐ so với cả nước, các chính sách trên vẫn tồn tại

một số hạn chế. Cụ thể, thứ nhất, chưa có chính sách phân bổ nguồn lực đầu tư công

hợp lý cho các vùng KTTĐ. Nhìn chung, chính sách phân bổ đầu tư công nhìn chung

vẫn còn dàn trải và chưa thực sự gắn kết với chiến lược phát triển dài hạn có định

hướng phát triển vùng. Thứ hai, chưa xây dựng được chính sách hiệu quả nhằm thu

hút nguồn vốn xã hội nhằm gia tăng nguồn lực thực hiện các dự án đầu tư tư công.

Thứ ba, một trong những thành phần quan trọng của khu vực tư nhân đó chính là hộ

gia đình, tuy nhiên chính sách đầu tư công dành cho đối tượng này tại các vùng KTTĐ

còn tương đối mờ nhạt.

79

TỔNG KẾT CHƯƠNG 4

Chương 4 Luận án đi sâu vào phân tích tình hình kinh tế và thực trạng đầu tư

công, đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ cũng như có sự mô tả mối quan hệ giữa đầu

tư công và đầu tư tư nhân đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Nhìn chung, trái ngược với vùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ ĐBSL, quy

mô GRDP có sự phân hóa rõ rệt tại địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ và phía

Nam. Cụ thể, Vùng KTTĐ phía Nam có thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò đầu tàu

của cả Vùng với GRDP chiếm tới 44,5%-49,5% GRDP bình quân vủa Vùng KTTĐ

phía Nam hay Vùng KTTTD Bắc bộ có Hà Nội luôn đóng vai trò đầu tàu với mức

đóng góp GRPD chiếm tới 48,7% GDRP toàn Vùng. Tuy nhiên, các địa phương có

quy mô GRDP cao tại hai vùng KTTĐ này đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại,

đặc biệt trong giai đoạn 2016-2021. Bên cạnh đó, tại các vùng KTTĐ, cơ cấu ngành

dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ va giảm tỷ trọng

ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, tại vùng KTTĐ ĐBSCL, tỷ trọng ngành nông nghiệp

vẫn cao hơn mặt bằng chung của cả nước.

Đối với đầu tư công, quy mô đầu tư công tại các địa phương thuộc các vùng

KTTĐ có xu hướng tăng trưởng chậm lại và giảm tỷ trọng trong vốn đầu tư toàn xã

hôi. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chuyển dịch từ khu vực Nhà nước

sang khu vực ngoài Nhà nước. Tại cả 4 vùng KTTĐ, đầu tư công chủ yếu từ NSNN.

Đây cũng là một thực trạng chung tại Việt Nam khi mà nguồn lực chủ yếu của đầu tư

công chủ yếu xuất phát từ Ngân sách nhà nước. Mặt khác vốn đầu tư công từ NSNN

cho thấy có hiệu quả chưa được như mong muốn và thậm chí có thể nói còn tương

đối thấp tại Việt Nam. Đầu tư công cho CSHT chủ yếu tập trung vào hạng mục đầu

tư CSHT kinh tế. Tuy nhiên, CSHT cho các hạng mục khác như giáo dục hay khoa

học công nghệ vẫn còn thấp. Trong khi đó, đầu tư tư nhân mặc dù có xu hướng giảm

mạnh trong giai đoạn 2019-2021 do ảnh hưởng bởi ảnh hưởng Covid-19 tại các vùng

KTTĐ nhưng tỷ trọng trong vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng tăng. Trong cơ

cấu vốn đầu tư tư nhân, vốn đầu tư từ doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chủ đạo (trên

60%) so với vốn đầu tư từ hộ gia đình tại các vùng KTTĐ.

80

CHƯƠNG 5: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA

ĐẦU TƯ CÔNG TỚI ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG

KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM CỦA VIỆT NAM

5.1 Mô tả thống kê các biến số

Luận án sử dụng 9 biến trong nghiên cứu định lượng, gồm có: đầu tư tư nhân

(PI), đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp (PIE), đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình

(PIH), đầu tư công (PU), đầu tư công cho cơ sở hạ tầng (PUCSHT), đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI), tổng sản phẩm địa phương (GRDP), tỷ lệ lạm phát (INF) và lãi

suất thực tế (IR). Các số liệu này được thu thập từ 24 tỉnh/thành phố trực thuộc 4

vùng KTTĐ tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2021. Đặc điểm cơ bản của từng

chuỗi số liệu được thể hiện ở bảng 5.1 dưới đây.

Bảng 5.1: Thống kê mô tả các biến

Giá trị Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn Biến Số quan sát trung bình chuẩn nhất nhất

PI 288 2,64 0,83 -4,35 4,19

PIE 288 2,18 0,90 0,22 5,54

PIH 288 1,93 0,71 -0,47 4,01

PU 288 1,90 0,65 0,29 3,58

PUCSHT 288 1,44 0,83 -1,28 3,13

FDI 288 1,11 2,06 -9,72 4,66

GRDP 288 4,29 1,04 -2,80 6,16

INF 288 4,65 0,05 4,59 4,83

IR 288 4,87 3,10 -2,27 12,34

Nguồn: Tác giả thực hiện trên phần mềm Stata-15

5.2 Kết quả ước lượng tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các

vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

5.2.1 Các kiểm định

5.2.1.1 Kiểm định nghiệm đơn vị

Trong trường hợp chuỗi dữ liệu có tồn tại sự phụ thuộc chéo, cỡ mẫu nhỏ, theo

đề xuất của Pesaran (2007), Luận án sử dụng kiểm định CIPS.

Kết quả nghiên cứu ở bảng trên cho thấy các giá trị ban đầu của các biến PU,

PUCSHT, GRDP đều không dừng. Tuy nhiên, khi sử dụng sai phân bậc nhất, giải

81

thuyết về nghiệm đơn vị bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 1%. Trong khi đó, các biến còn lại

đều dừng. Như vậy có nghĩa là dừng I(0) bao gồm PI, PIE, PIH, INF, IR, FDI và dừng

I(1) bao gồm PU, PUCSHT, GRDP. Như vậy, các chuỗi dừng hỗn hợp I(0) và I(1).

Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị được thể hiện ở Phụ lục 37.

5.2.1.2 Kiểm định đồng liên kết

Để kiểm định mối quan hệ đồng tích hợp giữa các chuỗi dừng hỗn hợp theo

Westerlund (2005) và sử dụng thêm kiểm định Kao (1999), kiểm định Pedroni (1996)

để khẳng định kết quả kiểm định.

Kết quả nghiên khẳng định giả thuyết H0 không có đồng liên kết bị loại bỏ ở

mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% hay tồn tại cân bằng dài hạn giữa các biến số trong mô

hình. Khi có bằng chứng về mối quan hệ đồng tích hợp giữa các chuỗi dừng hỗn hợp

I(0) và I(1) thì Luận án sẽ sử dụng phương pháp PMG để ước lượng nhằm phân tích

tác động dài hạn và ngắn hạn trong dữ liệu bảng.

Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị được thể hiện ở Phụ lục 38.

5.2.2 Phân tích kết quả

5.2.2.1. Tác động dài hạn

Trường hợp 1: Xét tác động dài hạn của đầu tư công tới tổng đầu tư tư nhân

Bảng 5.2: Tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại 4 vùng

KTTĐ giai đoạn 2010-2021

Biến phụ thuộc PMG

Hệ số Độ lệch chuẩn PI

0,368*** 0,032 PU

0,248** 0,020 GRDP

0,099*** 0,029 FDI

-0,308** 0,463 INF

-0,044*** 0,005 IR

-0,316*** 0,089 EC

Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%. Độ

trễ của mô hình được lựa chọn dựa trên tiêu chí SIC ( Schwarz Information Criterion, Pesaran and Shin, 1999,

Norman Gemmell et al, 2015). Bên cạnh đó, trên thực tế do chuỗi thời gian tương đối ngắn nên dựa vào các

nghiên cứu đi trước của Loayza và Ranciere (2006), Demetriades và Siong (2006), Nguyễn Khắc Quốc Bảo

và cộng sự (2020), tác giả chọn độ trễ tối ưu cho tất cả các biến trong mô hình là 1.

288 Số quan sát

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15

82

Xét mô hình PMG, vector điều chỉnh sai số (EC) âm và có ý nghĩa thống kê (tại

mức 1%) mức cho thấy có sự tồn tại của mối quan hệ đồng tích hợp giữa các biến

trong các địa phương thuộc vùng KTTĐ tại Việt Nam. Hệ số của EC bằng -0,316 có

nghĩa là tốc độ điều chỉnh về trạng thái cân bằng trong dài hạn của mô hình là 31,6%

trước tác động của cú sốc.

Trong dài hạn, tất cả các yếu tố bao gồm đầu tư công (PU), đầu tư nước ngoài

(FDI), tổng sản phẩm quốc nội (GRDP), lãi suất thực tế (IR) và tỷ lệ lạm phát (INF)

đều có tác động đến đầu tư tư nhân. Trong đó, PU, GRDP và FDI có tác động tích

cực trong khi đó IR và INF có tác động ngược chiều tới đầu tư tư nhân. Cụ thể hơn,

về lâu dài, khi đầu tư công tăng 1% thì đầu tư tư nhân tăng 0,368%.. Kết quả trùng

khớp với kết quả nghiên cứu của Kamps (2004b), António Afonso & Miguel

St.Aubyn (2008), Sử Đình Thành (2011), Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư và cộng sự

(2014), Nguyễn Thị Cành (2018). Đinh Thế Cường (2020), Nguyễn Thế Khang

(2022), Đỗ Đình Thu và cộng sự (2022). Kết quả này cũng cho thấy sự phù hợp với

lý thuyết chung về tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong dài hạn chủ

yếu xuất phát từ việc đầu tư công hỗ trợ xây dựng và cải thiện CSHT từ đó thúc đẩy

đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó, trên thực tế, như phân tích của NCS ở chương 2, trong

cơ cấu vốn đầu tư công, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất

(70%) và trong vốn đầu tư công từ ngân sách Nhà nước, phần dành cho xây dựng kết

cấu hạ tầng chiếm tỷ trọng cao nhất tại các vùng KTTĐ (95,5%). Để minh chứng cho

tác động bổ trợ của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân, NCS sử dụng phương

pháp kiểm định phi nhân quả Granger được đề xuất bởi Juodis và cộng sự (2021) cho

chuỗi số liệu trong giai đoạn 2010-2021. Kết quả ước lượng được thể hiện ở bảng sau:

83

Bảng 5.3: Tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân tại các vùng

KTTĐ giai đoạn 2010-2021

Giả thuyết H0

Hệ số

z-statistics

P-value

Kết luận

Đầu tư công cho CSHT

0,184***

4,03

0,000 Bác bỏ H0

không tác động tới đầu

tư tư nhân tại vùng

KTTĐ Bắc bộ

Đầu tư công cho CSHT

0,199***

3,28

0,001 Bác bỏ H0

không tác động tới đầu

tư tư nhân tại vùng

KTTĐ miền Trung

Đầu tư công cho CSHT

0,034***

0,77

0,002 Bác bỏ H0

không tác động tới đầu

tư tư nhân tại vùng

KTTĐ phía Nam

Đầu tư công cho CSHT

0,480**

3,64

0,028 Bác bỏ H0

không tác động tới đầu

tư tư nhân tại vùng

KTTĐ ĐBSCL

Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%. Độ

trễ của mô hình được lựa chọn dựa trên tiêu chí SIC ( Schwarz Information Criterion, Pesaran and Shin, 1999,

Norman Gemmell et al, 2015). Bên cạnh đó, trên thực tế do chuỗi thời gian tương đối ngắn nên dựa vào các

nghiên cứu đi trước của Loayza và Ranciere (2006), Demetriades và Siong (2006), Nguyễn Khắc Quốc Bảo

và cộng sự (2020), tác giả chọn độ trễ tối ưu cho tất cả các biến trong mô hình là 1.

Nguồn: Tác giả thực hiện trên Stata 15

Kết quả kiểm định phi nhân quả cho thấy đầu tư công cho CSHT có tác động

cùng chiều tới đầu tư tư nhân tại cả 4 vùng KTTĐ. Điều này hoàn toàn phù hợp với

lý thuyết về tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Đồng thời, kết quả

cũng phù hợp với kết quả hồi quy về tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

trong dài hạn tại các vùng KTTĐ. Do đó, theo kết quả phân tích, về dài hạn, đầu tư

công có tác động bổ sung cho đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ là phù hợp với cơ sở

lý thuyết và phân tích thực tiễn.

Trong khi đó, vốn FDI tăng 1%, còn đầu tư tư nhân tăng 0,099%. Kết quả này

cũng trùng hợp với một số nghiên cứu như Cardoso và Dornbusch, 1989, Markusen

và Venables, 1999, De Mello, 1999, Driffield và Munday, 2000. Theo đó, vốn FDI

84

có thể thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài và tạo ra sự bổ sung vốn đối với các

doanh nghiệp trong nước (Markusen và Venables, 1999; Driffield và Munday;2000).

Các doanh nghiệp trong nước có thể đáp ứng với dòng vốn FDI bằng cách đổi mới

và tăng nguồn vốn của họđể đối mặt với sự cạnh tranh (De Mello, 1999). Dòng vốn

FDI ồ ạt cũng có thể kích hoạt các khoản đầu tư trong khu vực vào cơ sở hạ tầng làm

tăng lợi nhuận của đầu tư trong nước (Cardoso và Dornbusch, 1989). Tổng sản phẩm

trong vùng (GRDP) có tác động tích cực đến đầu tư tư nhân. Cụ thể, GRDP tăng 1%

sẽ kéo theo đầu tư tư nhân tăng 0,098%. Kết quả này cũng trùng khớp với các nghiên

cứu của Green & cộng sự (1991), Ho & cộng sự (2013), Nguyễn Thị Cành (2018),

Nguyễn Thị Liên (2021) and Nguyễn Thế Khang (2022). Theo đó, khi có tăng trưởng

kinh tế, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, từ đó thúc đẩy đầu tư tư nhân.

Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế cũng kiến các nhà đầu tư có niềm tin về nền kinh tế vĩ

mô, tăng kỳ vọng lợi nhuận trong tương lai và từ đó tăng đầu tư.

Trong khi đó, lãi suất thực tế (IR) tăng 1% thì đầu tư tư nhân giảm 0,044%.

Điều này đúng với kỳ vọng của tác giả và một số nghiên cứu của Jongwanich &

Kohpaipboon (2008), Frimpong & cộng sự (2010), Nguyễn Thị Cành (2018), Nguyễn

Thị Liên (2021), Nguyễn Thế Khang (2022). Đồng thời kết quả phù hợp với lý thuyết

về tác động của lãi suất thực tới đầu tư tư nhân. Cụ thể, theo Jorgenson (1963), lãi

suất là chi phí vay vốn để đầu tư, khi lãi suất tăng thì chi phí tăng và do đó đầu tư tư

nhân giảm. Tuy nhiên, tác động của lãi suất thực tới đầu tư tư nhân vào các vùng kinh

tế trọng điểm trong dài hạn là tương đối nhỏ. Trên thực tế, theo phân tích của NCS ở

chương 2, trong, các doanh nghiệp chủ yếu tại các vùng KTTĐ là các doanh nghiệp

có quy mô nhỏ và rất nhỏ (91,5%). Bên cạnh đó, với khu vực hộ gia đình, chỉ khoảng

3% đối tượng này tiếp cận được nguồn vốn chính thức từ ngân hàng do không có tài

sản đảm bảo. Họ phải tiếp cận nguồn vốn phi chính thức, nhiều trong số đó đến từ tín

dụng đen (Anh, 2019). Do đó, có thể là lý do mà lãi suất cho vay thực tế của ngân

hàng không ảnh hưởng đáng kể đến đầu tư tư nhân vào vùng KTTĐ.

Kết quả kiểm định cũng chỉ ra tác động dài hạn của tỷ lệ lạm phát INF tới đầu

tư tư nhân tại các vùng KTTĐ là ngược chiều. Cụ thể, INF tăng 1% sẽ kéo theo đầu

tư tư nhân giảm 0,308%. Kết quả này phù hợp với lý thuyết và các kết quả nghiên

cứu thực nghiệm đi trước. Theo đó, lạm phát thường được coi là một biến số làm tăng

chi phí sử dụng vốn, do đó làm giảm đầu tư tư nhân. Mặc dù Hall and Hitch (1989)

lập luận rằng lạm phát có thể làm tăng đầu tư tư nhân. Khi lạm phát cao hơn dẫn tới

85

nguồn thu của chính phủ tăng do chính phủ có nguồn thu thuế cao hơn. Do đó, chi

tiêu vào cơ sở hạ tầng sẽ được cải thiện và có ảnh hưởng tích cực đến đầu tư tư nhân.

Nhưng theo Demilie Basha Hailu và cộng sự (2015) tại những quốc gia đang phát

triển, tác động bất lợi của lạm phát lớn hơn tác động tích cực do tỷ trọng đầu tư tư

nhân lớn hơn so với đầu tư công.

Tính vững của mô hình: Để kiểm tra tính vững của mô hình và chứng minh

các biến đưa vào là hợp lý, theo đề xuất của Lu và White (2014), Paul-Francois, M.,

(2020), Chien, N., & cộng sự (2021), Luận án so sánh mô hình với các mô hình tương

tự PMG thường sử dụng phân tích với dữ liệu bảng là mô hình nhóm trung bình

(Mean Group- MG) và mô hình tác động cố định động (Dynamic Fixed Effect-DFE).

Kết quả kiểm định tính vững cho thấy mô hình nghiên cứu PMG là phù hợp nhất (Phụ

lục 39).

Trường hợp 2: Xét tác động dài hạn của đầu tư công lần lượt tới đầu tư tư

nhân khu vực doanh nghiệp (PIE), đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình (PIH)

a. Tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư khu vực doanh nghiệp (PIE)

Bảng 5.4: Tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh

nghiệp (PIE) tại 4 vùng KTTĐ

Biến phụ thuộc PMG

PIE Hệ số Độ lệch chuẩn

PU 0,415*** 0,062

GRDP 0,136*** 0,032

FDI 0,037*** 0,030

INF -0,013*** 0,392

IR -0,075* 0,012

Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%. Độ

trễ của 3 mô hình được lựa chọn dựa trên tiêu chí SIC ( Schwarz Information Criterion, Pesaran and Shin,

1999, Norman Gemmell et al, 2015). Bên cạnh đó, trên thực tế do chuỗi thời gian tương đối ngắn nên dựa vào

các nghiên cứu đi trước của Loayza và Ranciere (2006), Demetriades và Siong (2006), Nguyễn Khắc Quốc

Bảo và cộng sự (2020), tác giả chọn độ trễ tối ưu cho tất cả các biến trong mô hình là 1.

EC -0,151** 0,048

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15

Kết quả cho thấy trong dài hạn đầu tư công cũng có tác động bổ trợ tới đầu tư

tư nhân khu vực doanh nghiệp (EC<0 và hệ số của PU>0). Cụ thể đầu tư công tăng

86

1% sẽ khuyến khích đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp tăng 0,415%. Theo NCS,

nguyên nhân xuất phát từ các yếu tố sau:

Thứ nhất, kết quả cũng phù hợp với tình hình đầu tư công, đầu tư tư nhân thực

tế tại các vùng KTTĐ khi trong cơ cấu đầu tư tư nhân tại cả 4 vùng KTTĐ, đầu tư tư

nhân từ khu vực doanh nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn so với đầu tư tư nhân từ

khu vực hộ gia đình (vùng KTTĐ Bắc bộ: 53,45%, vùng KTTĐ miền Trung: 65,19%,

vùng KTTĐ phía Nam: 53,14%, vùng KTTĐ ĐBSCL 50,75%). Có thể nói, doanh

nghiệp chính là động lực tăng trưởng tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ nói riêng và cả nước nói chung6. Do đó, Chính sách đầu tư công của Chính phủ chủ yếu hướng

tới đối tượng khu vực tư nhân là doanh nghiệp. Hay nói cách khác, doanh nghiệp

chính là đối tượng được hưởng lợi nhiều hơn từ các chính sách đầu tư công tại các

vùng KTTĐ tại Việt Nam. Cụ thể, tính đến thời điểm hiện tại (tháng 4/2023), chưa

có một văn bản pháp lý chính thức nào quy định về vai trò của đầu tư công đối với

đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình tuy nhiên đối với đầu tư tư nhân từ khu vực

doanh nghiệp lại được thể hiện trong khá nhiều văn bản pháp lý như Luật Đầu tư

công năm 2019, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh

tại doanh nghiệp năm 2014, Nghị quyết số 35 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp

đến năm 2020. Các văn bản pháp lý trên đã tạo hành lang pháp lý để siết chặt kỷ luật

đầu tư công, tăng tính chủ động cho các chủ đầu tư và từng bước điều chỉnh hợp lý

phạm vi, lĩnh vực ưu tiên đầu tư công đối với đầu tư tư nhân từ doanh nghiệp.

Thứ hai, như NCS đã chỉ ra vai trò của đầu tư công cho CSHT đối với việc

khuyến khích đầu tư tư nhân, khu vực doanh nghiệp chính là đối tượng được hưởng

lợi nhiều nhất từ việc xây dựng và hoàn thiện CSHT. Như phân tích của NCS ở

chương 2, đầu tư công tại vùng KTTĐ chủ yếu tập trung vào xây dưng cơ sở hạ tầng

giao thông cho các các dự án, công trình trọng điểm (đường cao tốc, đường vành đai,

hầm...). Các dự án, công trình CSHT giao thông trọng điểm phát huy tác dụng rõ rệt

đối với đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp rõ rệt thông qua việc giảm chi phí

logistics, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được khách hàng hơn (Phan Thị Minh

Lý, 2013; Trần Đình Khôi Nguyên & cộng sự, 2021; Vũ Phương Nhi, 2023). Để minh

chứng cho tác động bổ trợ của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tu nhân khu vực

6 Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP và Nghị quyết 35/NQ-CP

doanh nghiệp, NCS sử dụng phương pháp kiểm định phi nhân quả được đề xuất bởi

87

Juodis và cộng sự (2021) cho chuỗi số liệu trông giai đoạn 2010-2021. Kết quả ước

lượng được thể hiện ở bảng 3.8.

Kết quả kiểm định phi nhân quả cho thấy đầu tư công cho CSHT có tác động

cùng chiều tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp tại 4 vùng KTTĐ. Điều này cho

thấy, đối với khu vực doanh nghiệp, đầu tư công cho CSHT có vai trò rất quan trọng

đối với việc khuyến khích đầu tư tư nhân.

Bảng 5.5: Tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư nhân khu vực

doanh nghiệp tại các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021

Giả thuyết H0 Hệ số z-statistics P-value Kết luận

Đầu tư công cho CSHT 0,287*** 0,089 0,001 Bác bỏ H0

không tác động tới đầu tư

tư nhân khu vực doanh

nghiệp tại vùng KTTĐ

Bắc bộ

Đầu tư công cho CSHT 0,291* 1,75 0,080 Bác bỏ H0

không tác động tới đầu tư

tư nhân khu vực doanh

nghiệp tại vùng KTTĐ

miền Trung

Đầu tư công cho CSHT 0,411** 2,48 0,013 Bác bỏ H0

không tác động tới đầu tư

tư nhân khu vực doanh

nghiệp tại vùng KTTĐ

phía Nam

Đầu tư công cho CSHT 0,090** 1,42 0,042 Bác bỏ H0

không tác động tới đầu tư

tư nhân khu vực doanh

nghiệp tại vùng KTTĐ

Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.

ĐBSCL

Nguồn: Tác giả thực hiện trên Stata 15

Kết quả cũng cho thấy sự phù hợp với kết quả hồi quy với mô hình PMG về tác

động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp trong dài hạn khi tại

88

các địa phương thuộc các vùng KTTĐ, đầu tư công đều cho thấy tác động tích cực

tới đầu tư tư nhân thuộc khu vực doanh nghiệp.

b. Tác động dài hạn của đầu tư công tới đầu tư khu vực hộ gia đình (PIH)

Bảng 5.6: Tác động dài hạn của đầu tư công đầu tư tư nhân khu vực hộ gia

đình (PIH) tại 4 vùng KTTĐ

Độ lệch chuẩn Hệ số PIH

-0,036 0,038 PU

0,893*** 0,066 GRDP

0,088*** 0,020 FDI

-0,422 0,311 INF

-0,089*** 0,008 IR

Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.

-0,340*** 0,085 EC

Nguồn: Tác giả thực hiện trên Stata

Tuy nhiên, kết quả cho thấy trong dài hạn đầu tư công không có tác động bổ trợ

tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình trong dài hạn (p-value >5%). Theo NCS,

nguyên nhân có thể xuất phát từ các yếu tố sau:

Thứ nhất, đối với hộ gia đình kinh doanh phi nông nghiệp (hộ kinh doanh), kể

từ khi chính thức được đề cập trong văn bản pháp lý năm 2006 đến nay, vấn đề kinh

doanh của hộ gia đình vẫn chưa có một khung pháp lý đầy đủ, chỉ được điều chỉnh

một số nội dung của Luật Doanh nghiệp (1999, 2005, 2014, 2020), Luật thương mại

và một số văn bản liên quan khác. Ngoài ra, trong quá trình xây dựng các chính sách

quản lý, cũng có thể nhận thấy định hướng của Nhà nước chủ yếu là khuyến khích,

thúc đẩy hộ gia đình kinh doanh phát triển thành doanh nghiệp chứ chưa chú trọng

đến hỗ trợ hộ gia đình hoạt động lành mạnh và minh bạch hóa (VEPR, 2021). Đối

với hộ gia đình kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản,

Khoản 30 điều 3 Luật Đất đai năm 2013 và điều 3 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT

của Bộ Tài nguyên và Môi trường có đề cập tới khái niệm hộ gia đình kinh doanh

nông nghiệp tuy nhiên không đề cập tới quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với đối tượng

này. Trong khi đó, điều 116 Bộ luật Dân sự (BLDS) khi đưa ra khái niệm về hộ gia

đình có đề cập hộ gia đình tham gia hoạt động nông, lâm ngư nghiệp tuy nhiên có

những điều khoản hạn chế quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự của hộ gia đình.

(Đinh Cao Khuê & cộng sự, 2020). Như vậy, so với khu vực doanh nghiệp, hộ gia

89

đình có những hạn chế nhất định về tư cách pháp lý. Do đó, việc tiếp cận vốn đầu tư

nói chung và vốn đầu tư công của khu vực hộ gia đình là tương đối khó khăn so với

khu vực doanh nghiệp. Hơn nữa, trái ngược với đầu tư tư nhân từ doanh nghiệp, hiện

nay chưa có một văn văn bản pháp lý chính thức nào quy định hay hướng dẫn liên

quan tới đầu tư công dành cho khu vực tư nhân là hộ gia đình kể cả tại các vùng

KTTĐ (VEPR, 2021).

Thứ hai, có thể thấy, khu vực hộ gia đình không phải là đối tượng được hưởng

lợi đáng kể từ việc xây dựng và hoàn thiện CSHT như khu vực doanh nghiệp. Cụ thể,

đối với hộ gia đình kinh doanh phi nông nghiệp (hộ kinh doanh), đây là đối tượng

hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún (chủ yếu kinh doanh tại nhà, đi thuê, chợ

tạm, chợ cóc...). Bên cạnh đó, tại các vùng KTTĐ, đa số hộ gia đình hoạt động trong

lĩnh vực kinh doanh ở lĩnh vực dịch vụ (bình quân 86%), với ngành nghề chủ yếu là bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy (bình quân 52,1%)7. Đây là những ngành khó

có thể cạnh tranh và tận dụng được lợi thế từ việc hoàn thiện các các dự án, công trình

trọng điểm như khu vực doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với hộ gia đình trong lĩnh vực

nông, lâm, ngư nghiệp, mặc dù Chính phủ đã có một số chính sách liên quan tới việc

thúc đẩy đầu tư công từ vốn NSNN nhằm hỗ trợ ngành nông, lâm, ngư nghiệp nhưng

các dự án liên quan đến thủy lợi, đê điều, có tính đặc thù cao, công tác thi công có

tính thời vụ, vừa thi công vừa phải bảo đảm phục vụ sản xuất nông nghiệp... Nhiều

dự án khi triển khai thực hiện công tác giải phóng mặt bằng cũng gặp những vướng

mắc về thủ tục và trình tự quy định, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ triển khai dự

án. Do đó, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công cho các dự án lĩnh vực nông,lâm, ngư

nghiệp tương đối chậm trễ, từ ảnh hưởng tới tác động tích cực mà CSHT có thể tạo

ra đối với hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Ngoài ra, vốn

đầu tư công từ NSNN cho lĩnh vực nông nghiệp còn tương đối thấp, chỉ đáp ứng được

khoảng 30% nhu cầu. Trong khi đó, khu vực nông nghiệp các hoạt động đều cần phải

cải thiện, đầu tư. Từ cơ sở hạ tầng, hỗ trợ vốn sản xuất, kiến thức sản xuất, tiêu thụ

sản phẩm. Các hình thức vốn tư khác (FDI, tài chính vi mô, tín dụng...) so với các

lĩnh vực khác thấp do lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp thường xuyên đối mặt với khó

khăn, rủi ro, dịch bệnh, thị trường bấp bênh (Đoàn Thị Hân, 2019). Do đó, vấn đề

7 Niên giám thống kê các địa phương thuộc các vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021, Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2021, Tổng cục thống kê

đầu tư CSHT cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp đối mặt với khó khăn về vốn đầu tư

90

và quá trình triển khai dự án. Từ đó, ảnh hưởng tới tác động tích cực mà đầu tư công

cho CSHT có thể lan tỏa tới các hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư

nghiệp. Hay nói cách khác, trái ngược với doanh nghiệp, trong dài hạn, không rõ bằng

chứng đầu tư công tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình như kết quả

ước lượng với mô hình PMG.

5.2.2.2. Tác động ngắn hạn

Trường hợp 1: Xét tác động ngắn hạn của đầu tư công tới tổng đầu tư tư nhân

Bảng 5.7: Tác động ngắn hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các Vùng

KTTĐ giai đoạn 2010-2021

Vùng Địa phương

ΔPU

ΔFDI

ΔGRDP

ΔIR

ΔINF

Hà Nội

0,393

0,028

0,564***

-0,014

-0,067***

Hải Phòng

0,105

0,152

0,989**

-0,002

0,538

Hải Dương

-0,222**

0,004

0,665

-0,008

0,423

KTTĐ

Bắc bộ

Hưng Yên

0,281***

-0,331*** 0,053***

-0,074***

-0,610***

Quảng Ninh

0,282**

0,321***

0,163 *** 0,001

0,047

Vĩnh Phúc

-0,185

-0,046

0,460

0,035**

-1,221

Bắc Ninh

-0,185**

-0,080*** 0,511**

-0,089***

1.268

Đà Nẵng

-0,165*

0,474***

0,635***

-0,025

0,424

Vùng

Quảng Nam

-0,692**

-0,291**

1,826***

-0,032*

-0,684*

KTTĐ

Quảng Ngãi

- 0,286

0,960***

0,289

0,077

-0,905

miền

Bình Định

-0,161

-0,074**

-0,209

-0,003

-1,308

Trung

Thừa Thiên Huế

1,317

0,279

0,372

-0,311

-0,305*

TP.Hồ Chí Minh

0,199 *

0,173**

0,508**

- 0,074

-1,745***

Bà Rịa-Vũng Tàu

0,361*

0,511***

0,485**

0,002

-1,678 ***

Vùng

Tiền Giang

-0,236***

-0,228*** 0,185

-0,032***

-0,813***

KTTĐ

Bình Phước

-0,450***

-0,451*** 0,142**

0,031**

-0,067***

phía

-0,510***

0,558**

0,937

-0,002

-0,336*

Đồng Nai

Nam

0,429***

0,626***

0,790

0,014

0,050

Long An

0,198

0,245***

0,032

-0,647

Tây Ninh

-0,101

-0,282*

0,093

0,006

0,098

Bình Dương

0,239

0,117

0,092

0,007

-0,199

Cần Thơ

0,770

Vùng

Kiên Giang

-0,616***

0,035**

0,033**

-0,062***

0,593

KTTĐ

Cà Mau

-0,153

-0,016

1,510

-0,013**

-0,872

ĐBSCL

An Giang

-0,249

-0.124

0,483*

0,051

-0,305*

Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15

91

Nhìn chung, trong ngắn hạn tác động của đầu tư công (bổ trợ và lấn át) tới đầu

tư tư nhân tồn tại tương đối rõ tại các địa phương hầu hết thuộc vùng KTTĐ phía

Nam và vùng KTTĐ phía Bắc. Cụ thể, có 6/8 địa phương thuộc vùng KTTĐ phía

Nam và 4/7 địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ, đầu tư công có tác động tới đầu

tư tư nhân trong ngắn hạn. Đối với hai vùng KTTĐ còn lại, đầu tư công chủ yếu

không tác động tới đầu tư tư nhân hoặc tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Từ đó có

thể khẳng định, trong ngắn hạn, tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các

vùng KTTĐ là có sự phân hóa rõ rệt tại các vùng KTTĐ và không tạo tác động bổ trợ

rõ ràng như trong dài hạn. Kết quả này tương ứng với nội dung lý thuyết mà tác giả

đã trình bày tại tổng quan tình hình nghiên cứu và mô hình lý thuyết ở chương 1. Cụ

thể, tại các quốc gia đang phát triển, chủ yếu trong ngắn hạn, đầu tư công tác động

lấn át tới đầu tư tư nhân. Theo đó, xuất phát từ thực tế là trong ngắn hạn, đầu tư công

vào cơ sở hạ tầng không thể tạo ra tác dụng bổ sung ngay lập tức cho đầu tư tư nhân.

Ngay cả sự gia tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng không hiệu quả được tài trợ bằng cách

đánh thuế thu nhập cũng làm giảm đầu tư tư nhân (P. Agénor, B. Moreno-Dodson,

2006). Mặt khác, khi chính phủ tăng cường đầu tư sẽ dẫn đến tăng cầu tiền tệ, từ đó

tạo áp lực tăng lãi suất và giảm đầu tư tư nhân. Trong khi đó, trong dài hạn, cơ sở hạ

tầng hoàn thiện có thể tạo ra tác động tích cực đối với đầu tư tư nhân (P. Agénor, B.

Moreno-Dodson, 2006; Kollamparaosystem, U. và Nicolaou M. (2011); Nguyễn

(2012); Phetsavong và Ichihashi (2012), Trần Ngọc Anh Thư & cộng sự (2014),

Dreger & Reimers (2016)). Tuy nhiên, bên cạnh hiệu ứng lấn át, tồn tại một số địa

phương ở các vùng KTTĐ, đầu tư công có tác động bổ trợ đầu tư tư nhân trong ngắn

hạn. Nguyên nhân có thể xuất phát từ tại các địa phương này có tỷ trọng đầu tư tư

nhân từ hộ gia đình lớn hơn so với khu vực doanh nghiệp trong cơ cấu vốn đầu tư tư

nhân. Trong khi đó, khi đầu tư công tăng lên, nhu cầu mua hàng hóa dịch vụ tăng lên

thì dễ tác động tới khu vực đầu tư tư nhân từ hộ gia đình hơn (Nguyễn Thị Thu

Phương, 2020). Hay nói cách khác, từ sự tăng lên của cầu hàng hóa và dịch vụ, trong

ngắn hạn, đầu tư khu vực hộ gia đình tăng lên, qua đó tạo ra hiệu ứng bổ trợ.

Ngoài ra, tại các địa phương đầu tư công tạo tác động tới đầu tư tư nhân, có thể

thấy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng tác động tới đầu tư tư nhân. Nhìn

chung, FDI tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân thì đầu tư công cũng tạo tác động

lấn át tới đầu tư tư nhân. Điều này đúng với nội dung lý thuyết Luận án đã đề cập ở

chương 1. Đó chính là FDI điều tiết tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Mặc

92

dù vậy, ở một số địa phương, tác động của FDI tới đầu tư tư nhân có thể ngược chiều

với tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Nguyên nhân có thể xuất phát từ ảnh

hưởng của đầu tư công tới các thành phần của đầu tư tư nhân ở các địa phương đó.

Bên cạnh đó, có thể thấy, đầu tư công có tác động lấn át hoặc không có tác động

tới thành phố hạt nhân thuộc các vùng KTTĐ ngoài trừ TP.Hồ Chí Minh. Các địa

phương này trong cơ cấu đầu tư công như NCS đã phân tích ở chương 2 phụ thuộc

rất lớn vào nguồn vốn từ NSNN. Trong khi đó, thực tế cho thấy, các thành phố hạt nhân thuộc vùng KTTĐ luôn có tỷ trọng chi thường xuyên8 từ NSNN lớn (bình quân 60,39%) trong giai đoạn 2010-20219. Do đó, NSNN dành cho đầu tư công thấp, từ đó

gây ra vòng xoáy để vay nợ tài trợ và từ đó gây áp lực tới khu vực tư nhân (Đỗ Thị

Thanh Huyền, 2021). Bên cạnh đó, các thành phố hạt nhân lại thực hiện vốn đầu tư

công chưa hiệu quả do thường có tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công thuộc nhóm thấp

nhất trên cả nước (Bộ Tài Chính, 2022). Chính những yếu tố này là nguyên nhân đầu

tư công tạo tác động lấn át hoặc không có tác động tới đầu tư tư nhân tại các thành

phố hạt nhân thuộc các vùng KTTĐ.

Đối với vùng KTTĐ Bắc bộ, đầu tư công có tác động bổ trợ tại 2/7 địa phương

trong ngắn hạn. Kết quả này trái ngược với giả thuyết nghiên cứu về tác động của đầu

tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn. Tuy nhiên, kết quả này có được giải thích

như sau. Hưng Yên và Quảng Ninh là hai tỉnh có tỷ lệ đầu tư công cho CSHT thuộc

nhóm cao trong các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ. Đây cũng là các địa

phương được đánh giá cao về môi trường đầu tư hấp dẫn trong các tỉnh thành Việt

Nam. Đặc biệt với tỉnh Quảng Ninh, trong giai đoạn 2016-2021, luôn xếp thứ 1 trên

63 tỉnh thành về môi trường đầu tư hấp dẫn (VCCI, 2022). Điều này cho thấy sự hấp

dẫn trong thu hút vốn đầu tư tư nhân của các địa phương này. Mặc dù, Bắc Ninh cũng

thuộc nhóm có môi trường đầu tư hấp dẫn và đầu tư nhiều cho CSHT tuy nhiên đầu

tư công tại địa phương này lại tạo tác động lấn át trong ngắn hạn. Nguyên nhân là do

trong ngắn hạn vốn FDI tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Trong khi đó, so với

các địa phương còn lại, tỷ trọng vốn FDI trong vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội cao

nhất trong các địa phương nội vùng và cao nhất cả nước khi đạt tới tỷ lệ 60,02% bình

quân trong giai đoạn 2010-2021. Do đó, tác động lấn át của vốn FDI đối với đầu tư

8 Chi thường xuyên là nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức khác và thực hiện các nhiệm 9 Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ giai đoạn 2010-2021

tư nhân đã ảnh hưởng tới tác động của đầu công tới đầu tư tư nhân tại địa phương này.

93

Bênh cạnh đó, tại vùng KTTĐ Bắc bộ, kết quả cho thấy chưa rõ tác động của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại hạt nhân của vùng - thành phố Hà Nội. Nguyên

nhân dẫn tới đầu tư công không tạo tác động tõ rệt tới đầu tư tư nhân tại Hà Nội trong

giai đoạn 2010-2021 có thể giải thích do so với các hạt nhân khác tại các vùng KTTĐ

thì tại TP. Hà Nội, tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm tỷ lệ

37,44%, thấp hơn nhiều so với đầu tư tư nhân (52,74%). Hơn thế nữa, tốc độ tăng

trưởng đầu tư công ngày càng giảm và trong giai đoạn 2019-2021 tốc độ tăng trưởng

đầu tư công tại TP. Hà Nội đạt giá trị âm. Bên cạnh đó, tỷ trọng vốn đầu tư công dành

cho CSHT của thành phố không thuộc nhóm cao trong các địa phương nội Vùng và

môi trường đầu tư ngày càng giảm tính cạnh tranh (VCCI, 2022). Điều này cho thấy

vai trò dẫn dắt, thu hút đầu tư tư nhân của đầu tư công đang dần mờ nhạt tại thành

phố Hà Nội.

Đối với vùng KTTĐ miền Trung, nhìn chung đầu tư công tạo hiệu ứng lấn át

hoặc không rõ tác động tới đầu tư tư nhân. Đối với các địa phương còn lại, nguyên

nhân có thể xuất phát từ kết cấu cơ sở hạ tầng của vùng KTTĐ miền Trung tương đối

bất lợi do ảnh hưởng của địa hình hình hẹp, dàn trải ảnh hưởng tới việc thực hiện các

dự án cơ sở hạ tầng đặc biệt là cảng biển còn chậm. Từ đó, hạn chế đầu tư tư nhân

vào nội Vùng. Bên cạnh đó, các địa phương xuất hiện hiện tượng lấn át đầu tư tư nhân

(Đà Nẵng, Quảng Nam) đều có tỷ lệ chi thường xuyên lớn trong nội Vùng (bình quân 55,26%)10. Do đó, phần vốn NSNN dành cho đầu tư công thấp từ đó gây ra vòng xoáy

để vay nợ tài trợ và từ đó gây áp lực tới đầu tư khu vực tư nhân tại các địa phương này.

Bên cạnh đó, tại thành phố hạt nhân của Vùng – TP.Đà Nẵng, đầu tư công tạo

tác động lấn át tới đầu tư tư nhân mặc dù vốn FDI tạo tác động bổ trợ tới đầu tư nhân.

Nguyên nhân có thể liên quan tới tỷ trọng vốn FDI tại Đà Nẵng (10,82%), nhỏ hơn

nhiều so với đầu tư tư nhân (51,52%) và đầu tư công (37,66%). Trong khi đó, Đà

Nẵng là một trong những địa phương có tỷ lệ chi thường xuyên lớn và ngân sách địa phương thường xuyên rơi vào tình trạng thâm hụt trong giai đoạn 2010-202111. Do

đó, tác động bổ trợ từ vốn FDI đối với đầu tư tư nhân nhỏ hơn so với tác động lấn át

của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân tại TP. Đà Nẵng.

Đối với vùng KTTĐ phía Nam, tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

10 Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực Quảng Ngãi, Bình Định giai đoạn 2010-2021 11 Báo cáo công khai số liệu NSNN giai đoạn 2010-2021 (Sở Tài chính, thành phố Đà Nẵng), Niên giám thống kê giai đoạn 2010-2021 (Cục Thống kê, thành phố Đà Nẵng)

trong ngắn hạn là rõ rệt (tại 6/8 địa phương) hơn so với các vùng KTTĐ còn lại tuy

94

nhiên tác động có sự khác giữa các địa phương. Với vai trò là vùng kinh tế động lực,

“trọng điểm” của các vùng KTTĐ của cả nước, trong những năm qua, vùng KTTĐ

phía Nam luôn được Chính phủ ưu tiên nguồn vốn đầu tư công để đầu tư hạ tầng kỹ

thuật nhằm tạo ra các bước đột phá trong phát triển kinh tế, bởi khu vực này phát triển

sẽ kéo theo các vùng lân cận. Nhờ chính sách này, vùng KTTĐ phía Nam từng bước

hoàn thành cơ sở hạ tầng và giao thông, từ đó thu hút lượng vốn đầu tư tư nhân đáng

kể vào các địa phương nội Vùng. Tuy nhiên, trên thực tế, tình hình phát triển kinh tế

các địa phương nội Vùng chưa đồng đều. Đây có thể là một trọng những nguyên nhân

dẫn đến sự chênh lệch trong sự thu hút đầu tư tư nhận tại các địa phương tại vùng

KTTĐ phía Nam. Cụ thể, tại các địa phương thuộc nhóm dẫn đầu về GRDP của Vùng

(TP.Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu ), đầu tư công vào cơ sở hạ tầng có sự ưu tiên

hơn nhằm tạo động lực phát triển toàn Vùng, do đó đầu tư công trong ngắn hạn có

tác động bổ trợ đầu tư tư nhân. Tại nhóm có GRDP thấp hơn trong Vùng (Tiền Giang,

Bình Phước), đầu tư công cho thấy tác động lấn át tới đầu tư tư nhân. Nguyên nhân

có thể xuất phát từ cơ cấu ngành của các địa phương này chủ yếu tập trung ở nông

nghiệp. Đây là lĩnh vực kém thu hút doanh nghiệp hoạt động và do đó ít được hưởng

lợi từ việc xây dựng và hoàn thiện CSHT, đặc biệt là CSHT giao thông từ các công

trình trọng điểm. Hơn nữa, Bình Phước (31,42%) và Tiền Giang (28,37%) là hai địa

phương có tỷ trọng vốn vay lớn nhất trong cơ cấu đầu tư công so với các địa phương

nội vùng khác. Điều này có nghĩa là các địa phương này dựa vào vốn vay để tài trợ

đầu tư công và do đó, đây có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến tác động

lấn át đầu tư tư nhân.

Đối với vùng KTTĐ ĐBSCL, chưa rõ tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân. Cụ thể, ngoại trừ Kiên Giang, tại TP. Cần Thơ, An Giang và Cà Mau, đầu tư

công chưa rõ tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân. Nguyên nhân có thể xuất phát như

phân tích của NCS ở chương 2, vùng KTTĐ ĐBSCL so với các vùng KTTĐ còn lại

dành phần vốn NSNN cho đầu tư công mục CSHT, đặc biệt là CSHT giao thông là

tương đối thấp. Trong khi đó, CSHT chính là yếu tố thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các

vùng KTTĐ trong dài hạn. Mặt khác, trong cơ cấu đầu tư tư nhân, tại vùng KTTĐ

ĐBSCL, khu vực hộ gia đình chiếm tỷ trọng tương đối lớn (bình quân 49,25%). Tuy

nhiên, đây là khu vực ít được hưởng lợi từ chính sách đầu tư công và cũng ít bị ảnh

hưởng bởi kênh lãi suất. Do đó, khi chính phủ tăng chi tiêu làm tăng lãi suất thì khả

năng tác động của lãi suất tăng tới đầu tư của hộ gia đình là thấp hơn so với khu vực

doanh nghiệp. Hay nói cách khác, hiệu ứng lấn át sẽ không xuất hiện rõ rệt tại các địa

phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL. Theo phân tích của NCS ở chương 2, cơ cấu đầu

95

tư công cho CSHT từ NSNN tại vùng KTTĐ ĐBSCL chỉ xếp sau vùng KTTĐ miền

Nam. Tuy nhiên, hiệu quả của đầu tư CSHT tại các địa phương nội Vùng trong ngắn

hạn lại chưa được thể hiện rõ. Nguyên nhân có thể xuất phát từ vị trí địa lý của Vùng

nằm ở khu vực có nền đất yếu hay sụt lún cộng với điều kiện vận tải và nguyên vật

liệu không có tại chỗ nên chi phí đầu tư cho một công trình xây dựng CSHT tại vùng

thường cao hơn rất nhiều cũng như thời gian hoàn thiện kéo dài hơn so với các địa

phương khác.

Tuy nhiên, tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân được phát hiện

tại tỉnh Kiên Giang. Đối với tỉnh Kiên Giang, tỷ trọng vốn vay trong vốn đầu tư công

la 32,45%, cao hơn mức bình quân của toàn Vùng. Do đó, Kiên Giang phụ thuộc

nhiều vào vốn vay, tăng áp lực vay vốn trên thị trường để đầu tư công và từ đó, tăng

khả năng lấn át tới đầu tư tư nhân. Mặc dù trên thực tế, vốn FDI tạo tác động bổ trợ

đối với đầu tư tư nhân, tuy nhiên, do tỷ trọng vốn FDI (2,11%) tại Kiên Giang thấp

hơn đáng kể so với vốn đầu tư (31,02%) nên ảnh hưởng của hiệu ứng lấn át sẽ lớn

hơn so với bổ trợ và từ đó làm giảm đầu tư tư nhân trong ngắn hạn.

Ngoài đầu tư công thì các yếu tố còn lại FDI, GRDP, INF và IR có những tác

động khác nhau tới các vùng KTTĐ.

Đối với yếu tố đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, trong ngắn hạn, FDI chủ yếu

tác động tới các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung, vùng KTTĐ phía Nam

và vùng KTTĐ Bắc bộ. Bên cạnh đó, trái ngược với dài hạn, tác động chủ yếu của

FDI tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ trong ngắn hạn chính là tác động lấn át.

Kết quả nghiên cứu của Luận án có sự trùng lặp với các nghiên cứu khác tại Việt

Nam cùng chủ đề như Nguyễn Thị Cành (2018), Nguyễn Thị Liên (2021), Nguyễn

Thế Khang (2022). Kết quả trên cũng phù hợp với cơ sở lý thuyết về mối quan hệ

ngược chiều giữa FDI và đầu tư tư nhân. Theo đó, vì các công ty nước ngoài thường

vượt trội hơn về mặt công nghệ, họ có thể tận dụng nhanh chóng và hiệu quả hơn các

cơ hội mà trước đây chỉ dễ tiếp cận với các nhà đầu tư trong nước (Fry, 1993; Agosin

và Mayer, 2000). FDI có khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong nước và tăng trưởng

tiêu cực do tỷ giá hối đoái có thể tăng lên, giá cả tư liệu sản xuất cao hơn và giảm đầu

tư trong nước (Cordon và Neary, 1982).

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu trong ngắn hạn cho thấy nhìn chung tác động của

FDI tới đầu tư tư nhân cùng chiều với tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân,

đặc biệt rõ rệt tại vùng KTTĐ phía Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với những phân

tích của NCS ở phần cơ sở lý thuyết và phần thực trạng về vai trò điều tiết của FDI

(hội nhập kinh tế quốc tế) đối với tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các

96

vùng KTTĐ. Cụ thể, tại các địa phương nội vùng, về cơ bản, địa phương nào FDI tạo

tác động lấn át tới đầu tư tư nhân thì đầu tư công cũng tạo tác động lấn át và ngược lại.

Tuy nhiên, có một số địa phương FDI tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân

nhưng đầu tư công tạo tác động lấn át tới đầu tư tư nhân và ngược lại thì nguyên

nhân như NCS đã đề cập ở phần trên. Đó là do tỷ trọng vốn FDI tại địa phương đó

nhỏ hơn rất nhiều so với đầu tư công hoặc có những nhân tố tác động làm tác động

lấn át của đầu tư công lớn hơn như thâm hụt ngân sách, tỷ trọng vốn vay trong đầu tư

công lớn hoặc tỷ lệ đầu tư công cho CSHT nhỏ.

Đối với yếu tố lãi suất thực tế IR, IR tạo ra tác động tiêu cực đến đầu tư tư

nhân tại hầu hết các địa phương thuộc các vùng KTTĐ trong ngắn hạn. Bằng chứng

này phù hợp với lý thuyết tân cổ điển tiêu chuẩn, lãi suất thực có tác động ngược

chiều đến đầu tư tư nhân. Kết quả này cũng trùng khớp với các nghiên cứu của

Demilie Basha Hailu (2015), Nguyễn Thị Cành (2018), Nguyễn Thế Khang (2022).

Bên cạnh đó, IR tác động rõ rệt tới đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng

KTTĐ ĐBSCL. Điểm đặc biệt là bằng chứng về tác động của yếu tố IR tới đầu tư tư

nhân tại vùng KTTĐ phía Nam là tương đối mờ nhạt khi chỉ có 2/8 địa phương nội

vùng chịu tác động của IR. Nguyên nhân có thể xuất phát từ sự đa dạng trong tiếp

cận các công cụ tài chính đối với khu vực tư nhân tại vùng KTTĐ phía Nam. Đặc biệt

khi TP. Hồ Chí Minh là được xem là trung tâm tài chính kinh tế của khu vực và quốc

tế. Do đó, việc tiếp cận các công cụ tài chính đối với TP. Hồ Chí Minh nói riêng và

các địa phương nội Vùng nói chung tương đối linh hoạt và đa dạng chứ không chỉ

dừng lại là vốn vay từ hệ thống NHTM. Đối với các vùng KTTĐ khác, sự tồn tại của

thị trường vốn phi chính thức như các hợp tác xã tín dụng, các tổ chức tín dụng vi mô

ở nông thôn...cũng là nguyên nhân dẫn tới yếu tố lãi suất thực tế IR tác động tương

đối mờ nhạt tới đầu tư tư nhân (Huỳnh Thế Du & cộng sự, 2013).

Đối với yếu tố tổng sản phẩm địa phương GRDP, GRDP chủ yếu tạo tác

động bổ trợ tới đầu tư tư nhân tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ trong ngắn hạn.

Tuy nhiên, tác động của GRDP tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn tại các địa phương

thuộc vùng KTTĐ là không thực sự rõ ràng. Cụ thể, GRDP chỉ tác động tới 2/5 địa

phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung, 4/8 địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam

và 2/4 địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL. Kết quả nghiên cứu có sự trùng lắp

với các nghiên cứu của Blejer and Khan (1984), Ahmed and Qayyum (2007) and

Khan and Khan (2007) về tác động cùng chiều của GRDP tới đầu tư tư nhân.

Đối với yếu tố lạm phát INF, INF tạo ra tác động tiêu cực đến đầu tư tư nhân

tại hầu hết các địa phương thuộc các vùng KTTĐ trong ngắn hạn. Lạm phát thường

97

được coi là một biến số làm tăng chi phí sử dụng vốn, do đó làm giảm đầu tư tư nhân.

Theo Demilie Basha Hailu và cộng sự (2015) tại những quốc gia đang phát triển, tác

động bất lợi của lạm phát lớn hơn tác động tích cực do tỷ trọng đầu tư tư nhân lớn

hơn sơ với đầu tư công. Tuy nhiên, cũng như yếu tố IR và GRDP, ảnh hưởng của lạm

phát tới đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ là không thực sự rõ rệt.

Trường hợp 2: Xét tác động ngắn hạn của đầu tư công lần lượt tới đầu tư tư

nhân khu vực doanh nghiệp (PIE), đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình (PIH)

Bảng 5.8: Tác động ngắn hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân của khu vực

doanh nghiệp (PIE) và khu vực hộ gia đình (PIH) tại các Vùng KTTĐ

ΔPU

ΔPU

Vùng

Địa phương

(ΔPU tác động tới ΔPIE)

(ΔPU tác động tới ΔPIH)

-0,388

Hà Nội

0,833*

-0,492

Hải Phòng

-0,782***

0,601***

Hải Dương

-0,025

0,353*

Hưng Yên

0,038

KTTĐ Bắc bộ

0,329**

Quảng Ninh

0,503***

-0,156

Vĩnh Phúc

-0,195

-0,273**

Bắc Ninh

0,492***

-0,383*

Đà Nẵng

0,189

-1,106***

Quảng Nam

0,493

-0,340

Quảng Ngãi

-0,669

Vùng KTTĐ miền Trung

-0,481***

Bình Định

-0,273

Thừa Thiên Huế

-0,442*

0,062

TP.Hồ Chí Minh

0,140*

0,418**

Bà Rịa-Vũng Tàu

0,322*

0,551

-0,606***

Tiền Giang

0,042

Vùng KTTĐ

-0,526***

Bình Phước

-0,316***

phía Nam

-0,233***

Đồng Nai

0,974***

0,596**

Long An

0,174***

0,068

Tây Ninh

0,165***

0,253**

Bình Dương

0,156

0,719

Cần Thơ

0,246

-0,833***

Kiên Giang

-0,005

Vùng KTTĐ ĐBSCL

0,340

Cà Mau

0,058**

-0,527

An Giang

0,413***

Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15

98

✓ Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp

Thứ nhất, vùng KTTĐ phía Nam, Bắc bộ và miền Trung cho thấy ảnh hưởng rõ

rệt hơn so với vùng KTTĐ ĐBSCL. Điều này xuất phát từ thực tế trong cơ cấu đầu tư

tư nhân thì trong khi tại các vùng KTTĐ khác, đầu tư tư nhân từ khu vực doanh

nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu thì tại vùng KTTĐ ĐBSCL tỷ trọng giữa đầu tư tư

nhân từ khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình là tương đương nhau. Bên cạnh đó, xét

cơ cấu kinh tế của các vùng KTTĐ thì tại vùng KTTĐ ĐBSCL, tỷ trọng ngành nông

nghiệp so với công nghiệp và dịch vụ lớn hơn so với các tại vùng KTTĐ còn lại.

Trong khi đó lĩnh vực nông nghiệp không phải là lĩnh vực có lợi thu thu hút các doanh

nghiệp như công nghiệp và dịch vụ.

Thứ hai, xu thế chủ yếu của tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu

vực doanh nghiệp là lấn át. Xu thế này giống xu thế chung của đầu tư công tác động

tới tổng đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ trong ngắn hạn. Nguyên nhân tác động

lấn át có thể xuất phát từ việc các địa phương tăng chi thường xuyên, rơi vào tình

trạng bội chi và từ đó gây áp lực lên thị trường vốn, từ đó tác động tiêu cực tới đầu

tư tư nhân. Ví dụ trường hợp của Đà Nẵng bội chi ngân sách 2.359 tỷ đồng; Quảng

Nam bội chi ngân sách 14.798 tỷ đồng bình quân trong giai đoạn 2010-2021. Tuy

nhiên tại các địa phương còn lại không rơi vào tình trạng bội chi nhưng trong vẫn xảy

ra hiện tượng lấn át. Nguyên nhân có thể xuất phát từ việc Nhà nước tham gia vào

đầu tư cùng khu vực tư nhân những lĩnh vực mà tư nhân có thể hoạt động hiệu quả

hơn. Điều này thể hiện ở các địa phương còn lại của vùng KTTĐ miền Trung đều có

tỷ trọng vốn đầu tư công (khu vực Nhà nước) trong tổng vốn đầu tư thực hiện toàn

xã hội bình quân lớn hơn 40% và tỷ trọng gần tương đương hoặc lớn hơn tỷ trọng

vốn đầu tư tư nhân. Tại Việt Nam nói chung và các vùng KTTĐ nói riêng, do những

hạn chế về vốn đầu tư, cơ chế quản lý, ảnh hưởng của các biến động kinh tế, thời gian

thi công các công trình cơ sở hạ tầng có thể kéo dài và do đó trong ngắn hạn chưa thể

ngay lập tức tạo ra hiệu ứng bổ trợ cho khu vực doanh nghiệp (Phan Thị Minh Lý,

2013; Trần Đình Khôi Nguyên & cộng sự, 2021; Vũ Phương Nhi, 2023). Mặt khác,

việc gia tăng đầu tư công làm tăng nhu cầu hàng hóa dịch vụ trong nước khó tác động

tới khu vực đầu tư tư nhân từ doanh nghiệp hơn so với khu vực hộ gia đình do hàng

hóa từ doanh nghiệp phải trải qua nhiều mắt xích mới có thể đến được tay người tiêu

dùng cuối cùng (Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020).

99

Thứ ba, mặc dù xu thế lấn át là xu thế chủ đạo trong ngắn hạn nhưng tại thành

phố Hồ Chí Minh nói riêng và Bà Rịa – Vũng Tàu, đầu tư công tạo tác động bổ trợ

tới đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp. Tác động lấn át của việc thiếu hụt vốn

đầu tư trên thị trường vốn vay có thể giảm bớt nếu như xuất hiện dòng chảy vốn đầu

tư nước ngoài đủ lớn (Dehn, 2000). Khi đó, lãi suất sẽ giảm xuống và hạn chế tác

động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó, với những địa phương

có dòng vốn FDI chảy vào lớn, khi kết hợp với đầu tư công cho CSHT tạo ra tác động

bổ trợ tới đầu tư tư nhân tư khu vực doanh nghiệp trong ngắn hạn cũng như trong dài

hạn (Kinda, 2007; Barro, 1990; Rieber, 1999; Askandarou Diallo, 2021). Nguyên

nhân là do dòng vốn FDI có thể hỗ trợ khu vực công về xây dựng CSHT như cảng

biển, cảng hàng không, điện, đường, khu công nghiệp...Từ đó, giảm bớt gánh nặng

cho NS chính phủ, tránh hiện tượng lấn át trên thị trường vốn, và giảm tác động lấn

át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân.

Với trường hợp TP.Hồ Chí Minh, với vị thế là thành phố hạt nhân của vùng

KTTĐ phía Nam, TP được định hướng trở thành trung tâm tài chính toàn cầu. Đến

nay, TP là địa phương duy nhất của cả nước được tổ chức Z/Yen London xếp hạng

so với các trung tâm tài chính toàn cầu. TP cũng là địa phương thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-202112.

Do đó, TP. Hồ Chí Minh là địa phương mà có dòng chảy đầu tư nước ngoài lớn so

với các địa phương còn lại trong khu vực và cả nước. Từ đó, có thể tạo áp lực làm

giảm sự gia tăng của lãi suất trong nước và hạn chế tác động lán át của đầu tư công

đối với đầu tư tư nhân. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao trong ngắn hạn

đầu tư công có thể tạo ra kết quả lấn át đối với đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp

nói riêng và tổng đầu tư tư nhân nói chung tại TP. Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, so với

các thành phố hạt nhân còn lại, tỷ lệ chi thường xuyên từ NSNN tại TP.Hồ Chí Minh

chỉ ở mức bình quân 22,37% trong giai đoạn 2010-2021 trong khi đó TP lại là địa phương luôn dẫn đầu về thu ngân sách nhà nước13. Do đó, áp lực từ chi thương xuyên

tới nguồn vốn dành cho đầu tư công giảm hơn so với các địa phương hạt nhân khác

thuộc các vùng KTTĐ còn lại. Từ đó đó, góp phần hạn chế tác động lấn át của đầu tư

công đối với đầu tư tư nhân tại TP. Hồ Chí Minh. Đối với Bà Rịa-Vũng Tàu , theo

12 Niên giám thống kê Việt Nam, các địa phương trong giai đoạn 2010-2021 13 Cổng công khai ngân sách nhà nước (https://ckns.mof.gov.vn/), Bộ Tài chính.

cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội mà NCS đã phân tích ở chương 2, đây là địa phương

100

có tỷ trọng vốn FDI lớn nhất trong nội vùng cũng như xét trên phạm vi các vùng

KTTĐ. Cụ thể, tỷ trọng vốn FDI trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội của Bà Rịa-

Vũng Tàu, bình quân trong giai đoạn 2010-2021 là 55%. Kết quả kiểm định ở chương

3 cũng cho thấy, tại địa phương này vốn FDI có tác động tích cực tới đầu tư tư nhân.

✓ Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình

Thứ nhất, hướng tác động từ đầu tư công tới đầu tư tư nhân là tác động bổ trợ

trong ngắn hạn. Điều này trái ngược với xu hướng tác động của đầu tư công tới đầu

tư tư nhân khu vực doanh nghiệp trong ngắn hạn. Tuy nhiên, điều này có thể được

giải thích như sau. Tại Việt Nam, các hộ gia đình kinh doanh chủ yếu giao dịch với

nhau và với người tiêu dùng cuối cùng, chứ không phải với các doanh nghiệp chính

thức. Hay nói cách khác, các hộ gia đình kinh doanh phụ thuộc nhiều vào nhu cầu

tiêu dùng cuối cùng vì chủ yếu sản xuất và bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Do

đó, khi đầu tư công tăng lên, nhu cầu mua hàng hóa dịch vụ tăng lên thì dễ tác động

tới khu vực đầu tư tư nhân từ hộ gia đình hơn (Hashmat Khan & cộng sự (2020); Đỗ

Thị Thanh Sơn (2020). Do đó, hiệu ứng bổ trợ của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân

trong ngắn hạn là tương đối rõ ràng. Trong khi đó, khu vực hộ gia đình với quy mô

nhỏ lẻ, kinh doanh manh mún và chưa được công nhận tư cách pháp nhân tại Luật

doanh nghiệp 2017 nên việc tiếp cận vốn tín dụng là tương đối khó khăn, và vì vậy ít

bị tác động bởi kênh lãi suất. Do đó, khi chính phủ tăng chi tiêu làm tăng lãi suất thì

khả năng tác động của lãi suất tăng tới đầu tư của hộ gia đình là thấp hơn so với khu

vực doanh nghiệp – nhóm có khả năng tiếp cận tín dụng với quy mô lớn hơn. Do đó

khả năng chịu tác động của hiệu ứng lấn át do Chính phủ vay vốn để tài trợ đầu tư

công là thấp. Kết hợp các luận giải trên, trong ngắn hạn, tác động của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân thuộc khu vực hộ gia đình là tương đối rõ ràng.

Thứ hai, tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân đặc biệt rõ rệt ở

các vùng KTTĐ, ngoại trừ vùng KTTĐ miền Trung.

Đối với vùng KTTĐ ĐBSCL, đây là vùng có tỷ trọng ngành nông nghiệp cao

hơn so với các vùng KTTĐ còn lại. Định hướng phát triển của vùng là trở thành trung

tâm nông nghiệp định hướng sử dụng công nghệ cao của cả nước. Vì lý do đó, các

địa phương nội vùng ưu tiên phân bổ vốn đầu tư công cho CSHT phục vụ ngành nông

nghiệp, từ đó thúc đẩy các hộ gia đình trong lĩnh vực nông nghiệp gia tăng đầu tư.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu trên thực tế đã cho thấy đầu tư của hộ gia đình trong

lĩnh vực nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở hạ tầng trên thế giới nói chung

101

và tại Việt Nam nói riêng (Brown, 1999; Pinstrup-Anderson & cộng sự, 2006; Sally

P. Marsh & cộng sự, 2007; Nguyễn Đức Thành, 2008; Nguyễn Thị Thu Hằng & cộng

sự, 2021). Do đó, khi Chính phủ tăng đầu tư công cho CSHT nông nghiệp thì có khả

năng tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân hộ gia đình tại vùng KTTĐ ĐBSCL.

Đối với vùng KTTĐ Bắc bộ, nơi tập trung hơn 1/3 số làng nghề của cả nước,

đầu tư tư công cũng cho thấy tác động bổ trợ đối với đầu tư tư nhân từ khu vực hộ

gia đình trong ngắn hạn. Nghị định số 52/2018/NĐ-CP quy định một số nội dung,

chính sách phát triển ngành nghề nông thôn và làng nghề. Nghị định cho thấy sự quan

tâm của Chính phủ đối với việc phát triển các làng nghề truyền thống nói chung.

Riêng ưu đãi về đầu tư, tín dụng, các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả được

hưởng ưu đãi theo Luật Đầu tư công; được áp dụng các chính sách khuyến khích

doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; được ưu tiên vay vốn từ các tổ chức

tín dụng, Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ

phát triển khoa học và công nghệ quốc gia theo quy định của pháp luật. Đồng thời,

Chính phủ còn hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các làng nghề. Nội

dung hỗ trợ đầu tư, cải tạo, nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng làng nghề: Đường

giao thông, điện, nước sạch; hệ thống tiêu, thoát nước; xây dựng trung tâm, điểm bán

hàng và giới thiệu sản phẩm làng nghề. Như vậy có thể thấy, hình thức kinh doanh

làng nghề nhận được sự ưu ái trong chính sách đầu tư công của Chính phủ, đặc biệt

trong hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, từ đó đầu tư công có thể tạo hiệu ứng thúc đẩy

hình thức đầu tư này.

Đối với vùng KTTĐ phía Nam, như NCS đã phân tích các địa phương đều có

tỷ trọng vốn FDI lớn so với các địa phương khác trên cả nước và là những điểm đến

thu hút vốn FDI trên cả nước. Ngoài vấn đề liên quan tới lãi suất, đầu tư CSTH đã đề

cập ở trên thì đối với khu vực hộ gia đình, ảnh hưởng của vốn FDI có thể thể hiện ở

khía cạnh thu nhập của người lao động, từ đó tác động đến hành vi tiêu dùng và đầu

tư. Nghiên cứu của Merajothu (2020), Bayar & Ozturk (2018), Agrawal & Khan,

(2011) cho thấy một trong những ảnh hưởng tích cực của vốn FDI đối với nước tiếp

nhận đầu tư đó chính là là tạo ra việc làm và từ đó thúc đầy tiêu dùng cũng như đầu

tư trong nước. Tại Việt Nam, Bùi Anh Tuấn & cộng sự (2019) cũng chỉ ra tồn tại mối

quan hệ cùng chiều giữa vốn FDI và thu nhập và tiêu dùng của hộ gia đình trong giai

đoạn 2002-2016. Ngoài ra, đa số các địa phương nội Vùng đều thuộc các tỉnh dẫn

102

đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2010-202114. Theo nghiên cứu

của Kokko & cộng sự (2005), hộ gia đình kinh doanh sẽ nhận được lợi ích gián tiếp

từ các doanh nghiệp có tham gia xuất khẩu vì đầu vào của các doanh nghiệp này được

mua từ các hộ gia đình kinh doanh. Mặt khác, báo cáo của World Bank (2020) cho

thấy tại thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố dẫn đầu xuất khẩu khác tại Việt

Nam, hơn 90% đầu ra của hộ gia đình được bán cho các doanh nghiệp. Do đó, khi

Chính phủ tăng đầu tư công nhằm khuyến khích khu vực doanh nghiệp tăng đầu tư

thì đồng thời kéo theo sự gia tăng đầu tư của khu vực hộ gia đình do cầu về yếu tố

đầu vào từ doanh nghiệp tăng lên.

Đối với vùng KTTĐ miền Trung, chưa thấy được bằng chứng của đầu tư công

tác động tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn. Nguyên nhân có thể

lý giải như sau. Tại các địa phương nôi vùng, như Luận án đã phân tích ở chương 2,

bình quân vốn đóng góp của hộ gia đình trong vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội chiếm

34,81% so với khu vực doanh nghiệp là 65,18%. So với các vùng KTTĐ khác, vai

trò của đầu tư khu vực hộ gia đình đối là tương đối mờ nhạt tại vùng KTTĐ miền

Trung. Mặt khác, đóng góp của vốn FDI trong tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện toàn xã

hội còn rất nhỏ so với vùng KTTĐ Bắc bộ và phía Nam. Do đó, nhìn chung, ảnh

hưởng tích cực của vốn FDI đối với lãi suất trên thị trường vốn vay và từ đó giảm

14 Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2010-2021, Bộ Công thương

hiệu ứng lấn át và tăng hiệu ứng bổ trợ là tương đối mờ nhạt tại vùng KTTĐ miền Trung.

103

TỔNG KẾT CHƯƠNG 5

Chương 5 Luận án tập trung phân tích tác động của đầu tư công tới đầu tư tư

nhân thông qua phương pháp bình quân nhóm gộp PMG. Trong dài hạn, kết quả cho

thấy đầu tư công có tác động bổ trợ tới tổng đầu tư tư nhân tại tất cả các vùng KTTĐ.

Cụ thể hơn, đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp

nhưng không tạo tác động tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình trong dài hạn. Đồng

thời, Luận án sử dụng phương pháp phân tích phi nhân quả được đề xuất bởi Judios

& cộng sư (2021) nhằm phân tích tác động của đầu tư công cho CSHT tới đầu tư tư

nhân khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình tại các vùng KTTĐ.

Tuy nhiên trong ngắn hạn, xu thế chủ yếu của tác động của đầu tư công tới đầu

tư tư nhân khu vực doanh nghiệp là lấn át. Nguyên nhân liên quan tới vấn đề bội chi

ngân sách tại các địa phương, Nhà nước tham gia vào đầu tư cùng khu vực tư nhân

những lĩnh vực mà tư nhân có thể hoạt động hiệu quả hơn. Trong khi đó đầu tư công

có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân thuộc khu vực hộ gia đình tại một số các địa

phương. Bên cạnh đó, các thành phố hạt nhân thuộc các vùng KTTĐ (ngoại trừ TP. Hồ

Chí Minh), đầu tư công nhìn chung chưa tác động/ tác động lấn át tới đầu tư tư nhân

thuộc khu vực doanh nghiệp và từ đó dẫn đến chưa có tác động/ tác động lấn át tổng

đầu tư tư nhân. Ngoài ra, tại TP.Hồ Chí Minh đầu tư công tạo hiệu ứng bổ trợ đối với

khu vực doanh nghiệp cũng như khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn do có lợi thế về

thu hút dòng vốn quốc tế cũng như tỷ lệ chi thường xuyên tại TP.Hồ Chí Minh thấp

hơn so với các hạt nhân khác của vùng KTTĐ trong khi đó TP lại là địa phương luôn dẫn đầu về thu ngân sách nhà nước15.

Bên cạnh yếu tố tố đầu tư công, Luận án cũng chỉ ra tác động của các yếu tố đầu

tư trực tiếp nước ngoài FDI, lãi suất thực tế IR, tổng sản phẩm địa phương GRDP, tỷ

15 Báo cáo Quyết toán thu, chi NSNN theo lĩnh vực tại TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2010-2021.

lệ lạm phát INF tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và dài hạn.

104

CHƯƠNG 6: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐẦU TƯ CÔNG

NHẰM THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ TƯ NHÂN TẠI CÁC VÙNG

KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM CỦA VIỆT NAM

6.1 Bối cảnh quốc tế và trong nước

6.1.1 Bối cảnh quốc tế

Trước tác động của đại dịch Covid-19, từ đầu năm 2020, cạnh tranh thu hút

FDI giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Điều này đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đầu

tư công và đầu tư tư nhân trong nước tại các quốc gia toàn cầu.

FDI vào Mỹ đã tăng lên 114% trong khi đó FDI vào Liên Minh châu Âu tăng

8% nhưng vẫn thấp hơn mức trước đại dịch. Tổng mức tăng dòng vốn toàn cầu vào

năm 2021-2022 được ghi nhận chiếm ¾ tại các nền kinh tế phát triển. Các quốc gia

phát triển đã ban hành nhiều chính sách để thu hút FDI quy trở về nước thông qua

miễn giảm thuế, cải cách thủ tục cấp phép đầu tư, áp thuế cao với hàng xuất khẩu...

Mặc dù vậy, trước ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn

tìm kiếm những địa điểm có chi phí sản xuất thấp và có sẵn chuỗi cung ứng thì các

nước đang phát triển bao gồm có Ấn Độ và các nước Đông Nam Á được xem là là

điểm đến thu hút lượng lớn FDI trong thời kỳ mới, có khả năng thay thế Trung Quốc.

Bên cạnh đó, dòng FDI sau đại dịch tập trung nhiều vào lĩnh vực năng lượng tái tạo

và bất động sản công nghiệp. Các khoản đầu tư vào lĩnh vực xanh có sự gia tăng 55%

nhưng chủ yếu tập trung trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và kinh tế số. Các lĩnh vực

đầu tư xanh khác chưa phục hồi được như trước thời điểm đại dịch. Số lượng các dự

án trong ngành công nghiệp liên kết chuỗi giá trị toàn cầu bị sụt giảm một nửa. Mặt

khác, tác động của xung đột Nga- Ukraine đã vượt ra khỏi phạm vi khu vực và gây

khủng hoảng trên cả phương diện lương thực, nhiên liệu và tài chính. Điều này đã

là gia tăng rủi ro, ảnh hưởng đáng kể tới đà phục hồi FDI toàn cầu, khiến cạnh tranh

thu hút ngày càng gay gắt hơn. Tuy nhiên, biến động đối với dòng FDI toàn cầu một

mặt tạo ra thách thức đối với các quốc gia trong bối cảnh mới nhưng cũng tạo ra cơ

hội để nâng cao vai trò của vốn đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư công. Cụ thể,

xu hướng dòng vốn FDI quay trở lại quốc gia phát triển đặt ra nhiều thách thức đối

với các quốc gia phát triển khi vốn FDI chính là một trong những động lực quan trọng

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh đó, tại các quốc gia đang phát triển như

Trung Quốc, vai trò của đầu tư công lại càng trở nên quan trong hơn đối với nỗ lực

105

cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt xây dựng và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng

– yếu tố then chốt nhằm thu hút FDI. Mặt khác, trước sự sụt giảm của vốn FDI, đầu

tư tư nhân trở thành động lực phục hồi nền kinh tế trước tác động của đại dịch và

cũng là đối tượng được hưởng lợi từ việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong nước.

Bên cạnh đó, toàn cầu hóa đang có dấu hiệu bị chậm lại, các vòng đàm phán

trong khuôn khổ WTO sẽ tiếp tục bế tắc do mâu thuẫn, cạnh tranh giữa các nước lớn.

Các chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu đã đứt gãy do covid-19 lại thêm đứt gãy

và càng khó phục hồi. Từ đó, đầu tư công và đầu tư tư nhân trong nước cũng bị tác

động rõ rệt.

Theo đó, hàng hóa ngày càng gặp khó khăn trong lưu thông từ trung tâm sản

xuất sang trung tâm tiêu thụ, ngay trong nội bộ của các quốc gia, từ vùng này sang

vùng khác. Việc đứt gãy chuỗi cung ứng đã làm gia tăng đáng kể chi phí sản xuất,

tăng giá hàng tiêu dùng, gây áp lực lạm phát cao tại các quốc gia và ảnh hưởng tiêu

cực tới tăng trưởng toàn cầu. Mặc dù theo nhận định của WB (2023), chuỗi cung ứng

có thể được khắc phục nhờ việc định hình lại sự phân bổ theo hướng giảm tập trung

vào Trung Quốc để chuyển sang các quốc gia khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Bồ Đào

Nha...Tuy nhiên, các thách thức từ biến đổi khí hậu, xung đột kéo dài giữa Nga và

Ukraina làm cho quá trình phục hồi chuỗi cung ứng càng kéo dài. Có thể nói, biến

động đối với chuỗi cung ứng toàn cầu không chỉ ảnh hưởng chung tới tăng trưởng

toàn cầu mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình đầu tư công và đầu tư tư nhân của

các quốc gia. Cụ thể, chuỗi cung ứng có xu hướng ngắn hơn và có xu hướng tập trung

phục vụ khách hàng địa phương với hoạt động sản xuất địa phương. Điều này mang

lại cơ hội phát triển cho các nhà đầu tư trong nước. Mặt khác, đầu tư tư nhân trong

nước cũng đối diện với nhiều thách thức khi chi phí sản xuất gia tăng do áp lực lạm

phát cao. Trong bối cảnh đó, đầu tư công trong nước cần thể hiện vai trò là “vốn mồi”,

dẫn dắt đầu tư tư nhân trong nước.

Ngoài ra, sự bất ổn của một số ngân hàng ở Mỹ, châu Âu đã ảnh hưởng tới niềm

tin của người dân trên thế giới về hệ thống ngân hàng trong khi đó các ngân hàng

Trung ương tiếp tục gia tăng lãi suất và sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn nữa

nhằm kiềm chế lạm phát. Trong bối cảnh đó, vai trò của đầu tư công đối với đầu tư

trong nước lại càng được nhấn mạnh.

Sự sụp đổ của ngân hàng Thung lũng Silicon -SVB và ngân hàng Signature -SB

của Mỹ, ngân hàng lớn thứ hai của Thụy Sỹ bị ngân hàng UBS mua lại là những sự

106

kiện gây ra biến động lớn đối với hệ thống tài chính trên thế giới. Tuy nhiên chính

sách tiền tiền tệ thắt chặt tạo ra áp lực giảm tiêu dùng trong nước cũng như gây ra sự

sụt giảm đối với hoạt động xuất khẩu do cầu hàng hóa của khu vực nước ngoài giảm

mạnh. Từ đó, tạo lực cản cho quá trình phục hồi tăng trưởng của các quốc gia, thậm

chí đẩy nền kinh tế rơi vào một cuộc suy thoái dài hơn. Mặt khác, một số khu vực của

nền kinh tế đang không phản ứng với việc tăng lãi suất nên một số ngân hàng trung

ương đang gặp khó khăn trong vấn đề kiềm chế lạm phát. Do đó, điều này còn đặt ra

thách thức đối với các ngân hàng trung ương về mức độ sẵn sàng để nền kinh tế chịu

bao nhiêu tổn thất từ việc tăng lãi suất để đưa lạm phát về mức mong muốn đặc biệt

trong bối cảnh xung đột Nga-Ukraina đang kéo dài và chuỗi cung ứng ngày càng đứt

gãy. Trước sự mất niềm tin của người dân về hệ thống ngân hàng và sự khó khăn của

ngân hàng trung ương trong vấn đề kiểm soát lạm phát, vai trò của chính sách tài

khóa, trong đó có vai trò đầu tư công của Chính phủ ngày càng quan trọng đối với

sự phục hồi của khu vực tư nhân trong nước và tăng trưởng kinh tế. Tại một số quốc

gia, chính sách tiền tệ giảm hiệu quả rõ rệt khi một số khu vực của nền kinh tế không

còn phản ứng với sự thay đổi của lãi suất. Trong bối cảnh đó, để thúc đẩy sự phục hồi

và ổn định của nền kinh tế, cần thiết phải có sự hỗ trợ của chính sách tài khóa, trong

đó có đầu tư công của Chính phủ.

Mặt khác, thuế tối thiểu toàn cầu cũng tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc và toàn

diện tới các nền kinh tế trên thế giới và đặt ra nhiều thách thức và cơ hội đối với đầu

tư công và đầu tư tư nhân trong nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia mới nổi và đang phát triển sử dụng

các ưu đãi về thuế để thu hút FDI của các tập đoàn đa quốc gia thì chính sách thuế tối

thiểu toàn cầu tạo ra áp lưc đối với các quốc gia. Các quốc gia cần phải thay đổi chính

sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng tập trung vào nâng cao năng lực cạnh

tranh từ các yếu tố như môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng hay nguồn lao động

thay vì hướng tới ưu đãi về thuế như trước đây. Do đó, chính sách thuế tối thiểu toàn

cầu cũng chính là cơ hội để nâng cao hiệu quả đầu tư tại các quốc gia đặc biệt là tại

các quốc gia mới nổi và đang phát triển. Như vậy, chính sách thuế tối thiểu toàn cầu

đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội đối với đầu tư công và đầu tư tư nhân trong

nước. Cụ thể, thay vì cạnh tranh thu hút FDI bằng chi phí sản xuất rẻ như trước đây,

các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển cần tập trung nâng cao chất lượng

lao động và chất lượng cơ sở hạ tầng thông qua chính sách đầu tư công. Tuy nhiên,

107

chính sách thu hút FDI trong bối cảnh mới cần chuyển đổi theo hướng thu hút số

lượng sang chất lượng, hướng tới tạo lập chuỗi sản xuất toàn cầu trong đó có sự tham

gia của doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, doanh nghiệp trong nước cần cải thiện

bằng việc đầu tư máy móc, quản trị cũng như cải tiến quy trình làm việc nhằm nâng

cao chất lượng sản phẩm để có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Chiến tranh thương mại Mỹ -Trung và sự thay đổi chính sách bảo hộ mậu dịch

trên thế giới cũng là yếu tố tác động tới đầu tư tư nhân trong nước và từ đó gián tiếp

ảnh hưởng tới đầu tư công.

Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung Quốc kéo dài được sự báo sẽ có ảnh hưởng

mạnh mẽ tới thương mại và đầu tư quốc yếu, làm gián đoạn nghiêm trọng đối với

chuỗi sản xuất toàn cầu (Cấn Văn Lực, 2022). Cùng với đó là sự xuất hiện của các

biện pháp bảo hộ mậu dịch mới liên quan tới các mặt hàng mới, tăng thuế hoặc tăng

cường các quy định hải quan và quy định về xuất xứ hàng hóa. Những sự kiện trên

đã đặt ra thách thức đối với đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư công. Cụ thể, đầu

tư tư nhân trong nước phải đối mặt với khó khăn liên quan tới hoạt động xuất khẩu

hàng hóa và dịch vụ do Mỹ và Trung Quốc là các thị trường xuất khẩu lớn nhất thế

giới. Hơn nữa, nguyên liệu sản xuất bị áp thuế cáo cũng sẽ tăng giá, từ đó chi phí sản

xuất tăng. Việc xuất hiện các biện pháp bảo hộ mới trên thế giới khiến các doanh

nghiệp trong nước lại càng gặp khó khăn hơn trong vấn đề thâm nhập thị trường nước

ngoài. Trong bối cảnh đó, vai trò của đầu tư công ngày càng quan trọng hơn khi cần

phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển Khoa học công nghệ nhằm

nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước nhằm ứng phó kịp thời

với ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ-Trung và xu hướng bảo hộ mậu dịch

mới trên thế giới.

6.1.2 Bối cảnh trong nước

6.1.2.1 Những thuận lợi

Nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi mạnh mẽ, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm

phát trong tầm kiểm soát. Đây chính là yếu tố thuận lợi góp phần thúc đẩy sự phục

hồi của khu vực tư nhân trong nước trước những thách thức lớn, biến động khó lường

của kinh tế thế giới.

Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê (2022), điểm sáng nổi bật của kinh tế

Việt Nam năm 2022 đó chính là GDP tăng trưởng đạt 8,02%, đạt mức cao nhất kể từ

năm 2011. Tất cả các khu vực trong nền kinh tế bao gồm nông, lâm thủy sản, công

108

nghiệp và dịch vụ đều có sự tăng trưởng đáng kể. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu

hàng hóa chính thức tăng 732,5 tỷ USD năm 2022. Có thể nói, sự phục hồi của nền

kinh tế tạo ra những động lực lớn cho sự phục hồi kinh tế tư nhân trong nước. Điều

này thể hiện rõ khi tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường tăng

30,3% so với năm 2021. Trong bối cảnh đó, vai trò của đầu tư công lại ngày trở nên

quan trọng hơn khi chính là “vốn mồi”, hỗ trợ đầu tư tư nhân tại các địa phương cả

nước trong quá trình phục hồi sau đại dịch và trước những biến động mạnh mẽ của

kinh tế thế giới.

Bên cạnh đó, uy tín và vị thế của Việt Nam được nâng cao nhờ thành công đạt

được trong công cuộc phòng chống dịch Covid-19 và nỗ lực thực hiện các cam kết

chuyển đổi sang nền kinh tế xanh gắn liền với đổi mới sáng tạo. Đây chính là yếu tố

gia tăng năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới từ đó thu hút được

nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo nguồn lực hỗ trợ đầu tư tư nhân trong nước và

thúc đẩy nhanh quá trình giải ngân vốn đầu tư công.

Trong bối cảnh thế giới có nhiều bất ổn về kinh tế và chính trị, rõ ràng Việt

Nam đang có nhiều lợi thế đối với thu hút đầu tư nước ngoài nhờ vào ổn định kinh tế

và chính trị trong nước. Trước hết, Chính phủ Việt Nam đã chủ động và linh hoạt để

đẩy lùi dịch bệnh, bảo đảm sự an toàn cho người dân và duy trì ổn định xã hội. Để

vực dậy kinh tế trong nước, Chính phủ đã đưa ra 3 nhóm giải pháp với 33 nhiệm vụ

cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và thúc đẩy giải ngân vốn đầu

tư toàn xã hội, đặc biệt là đầu tư công. Hơn nữa, Chính phủ đang có nhiều nỗ lực liên

quan tới hoàn thiện hệ thống luật pháp như thông qua Luật Đầu tư sửa đổi, Luật

Doanh nghiệp sửa đổi với nhiều điểm mới, bổ sung thêm nhiều có chế ưu đãi hơn cho

các nhà đầu tư, từ đó tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với thị trường thế giới. Đồng

thời, Việt Nam đang nỗ lực thực hiện hóa những cam kết mạnh mẽ từ hội nghị Thượng

đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26) về thu hút đầu tư chất

lượng cao hướng tới nền kinh tế trung hòa các-bon và tăng trưởng xanh (Hà Huy

Ngọc, 2023). Nhờ những chính sách kịp thời và hợp lý của Chính phủ trong bối cảnh

mới, Việt Nam đã củng cố được vị thế và gia tăng được năng lực cạnh tranh trên thị

trường quốc tế, thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn. Đây chính là nền tảng quan

109

trọng phục vụ cho quá trình phục hồi kinh tế tư nhân trong nước, đồng thời đẩy nhanh

quá trình đầu tư công vốn đã bị đình trệ trước tác động của Covid-19.

Mặt khác, nợ công của Việt Nam được kiểm soát an toàn. Đồng thời, ngân sách

Nhà nước thặng dư nhờ vào nhiều khoản thu vượt dự toán. Đây chính là yếu tố giảm

gánh nặng cho ngân sách Chính phủ khi thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư

tư nhân tại Việt Nam trong bối cảnh mới.

Theo Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2023), năm 2022, tổng chi

ngân sách Nhà nước đạt 87,5% dự toán và tăng 8,1% so với năm trước. Ngân sách

Nhà nước bội chi nhờ vào nhiều khoản thu vượt dự toán. Bên cạnh đó, áp lực nợ công,

nợ Chính phủ, nợ nước ngoài giảm bớt so với thời điểm trước và trong đại dịch Covid-

19. Ước tính đến cuối năm 2022, nợ công vào khoảng 43%-44%, nợ Chính phủ

khoảng 40%-41% và nợ nước ngoài khoảng 40%-41%. Như vậy, Chính phủ sẽ có

nhiều nguồn lực hơn để thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân. Đồng

thời, việc nhiều nguồn lực hơn để thực hiện đầu tư công giảm bớt gánh nặng vay nợ

để tài trợ đầu tư công, từ đó giảm khả năng xảy ra hiệu ứng lấn át trong đầu tư.

6.1.2.2 Những thách thức

Xung đột giữa Nga và Ukraine đã ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường xuất khẩu

của Việt Nam cũng như ảnh hưởng tới vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.

Trong bối cảnh đó, vai trò động lực của đầu tư tư nhân trong nước và vai trò “vốn

mồi” của đầu tư công lại càng trở nên quan trọng đối với việc phục hồi và phát triển

nền kinh tế trước biến động của kinh tế thế giới.

Xung đột giữa Nga và Ukraine là một trong những yếu tố khiến nền kinh tế biến

động bất thường và tính bất định trở nên cao hơn khi đây chính là nguyên nhân đẩy

giá năng lượng cao hơn và ảnh hưởng tới nền kinh tế của các nước trên thế giới. Trước

biến động đó, các ngân hàng Trung ương lớn từ Mỹ và châu  thực hiện chính sách

tiền tệ thắt chặt khiến kinh tế thế giới rơi vào suy thoái. Những sự kiện trên đã ảnh

hưởng nghiêm trọng tới tình hình xuất khẩu cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

Việt Nam. Trong bối cảnh đó, rõ ràng vai trò của đầu tư tư nhân trong nước lại càng

trở nên quan trọng hơn với nhiệm vụ là động lực thúc đẩy sự phục hồi tăng trưởng

kinh tế. Đồng thời, để có thể thu hút được vốn đầu tư tư nhân trong nước, đầu tư công

cần thực hiện vai trò “vốn mồi”, hỗ trợ khu vực tư nhân từ xây dựng, hoàn thiện cơ

sở hạ tầng tới hỗ trợ tín dụng đối với những hạng mục đầu tư quan trọng, thiết yếu

của nền kinh tế.

110

Mặt khác, việc tham gia vào các hiệp định thương mại (FTA), hiệp định thương

mại tự do thế hệ mới cũng như cam kết thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu cũng tạo ra

những ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế Việt Nam và đặt ra nhiều thách thức đối với

đầu tư công, đầu tư tư nhân trong nước.

Có thể nói, tham gia vàocác hiệp định thương mại (FTA), hiệp định thương mại

tự do thế hệ mới cũng như cam kết thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu một mặt tạo ra

cơ hội cho Việt Nam trong việc nâng cao năng lực thu hút đầu tư theo chiều sâu thì

cũng đặt ra nhiều áp lực, yêu cầu mới về cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh

doanh. Trên thực tế, với mức thuế suất thuế thu nhập bình quân áp dụng cho các

doanh nghiệp đa quốc gia hiện nay ở quanh ngưỡng 12%, thấp hơn so với quy định

chung cho thấy Việt Nam đang sử dụng ưu đãi thuế như một giải pháp để thu hút đầu

tư nước ngoài. Do đó, việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

và cam kết thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu có thể dẫn tới mất lợi thế cạnh tranh của

Việt Nam trong thu hút FDI, từ đó đặt ra thách thức đối với doanh nghiệp trong nước.

Do doanh nghiệp FDI đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ, đào

tạo nguồn lực trong nước, đồng thời trong lĩnh vực quan trọng là công nghiệp hỗ trợ,

kết nối doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, thuế

tối thiểu toàn cầu cũng đặt ra áp lực đối với đầu tư công trong nước. Cụ thể, thay vì

thu hút FDI bằng các ưu đãi về chính sách thuế như trước đây, Việt Nam cần phải

thay đổi chiến lược thu hút đầu tư nghiêng về chiều sâu thông qua những cải cách về

thủ tục hành chính, sửa đổi chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật có

liên quan, đồng thời tập trung đầu tư công cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng

nhằm tạo cải thiện môi trường kinh doanh.

Ngoài ra, thị trường tài chính trong nước đang có nhiều điểm nghẽn, đứt gãy

niềm tin gây khó khăn cho khu vực tư nhân trong việc tiếp cận vốn để đầu tư, từ đó

gián tiếp đặt ra thách thức cho đầu tư công.

Theo Nguyễn Thế Anh (2022), thị trường chứng khoán đang trải qua giai đoạn

đặc biệt khó khăn mặc dù tăng trưởng kinh tế tích cực, lạm phát được kiểm soát tốt.

Không chỉ thị trường chứng khoán, làn sóng các nhà đầu tư rút khỏi các sản phẩm tài

chính, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp đang khiến cả doanh nghiệp và các tổ chức

phân phối rơi vào khó khăn trong vấn đề thanh khoản. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ

cũng xảy ra đứt gãy thanh khoản nghiêm trọng. Sau sự cố ngân hàng SCB, các ngân

hàng bị mất niềm tin vào nhau nên hoạt động cho vay liên ngân hàng bị đứt gãy. Từ

111

sự khủng hoảng của hệ thống tài chính đã tạo ra nhiều rủi ro đối với hoạt động doanh

nghiệp khi đây chính là kênh dẫn vốn của doanh nghiệp cả nước. Do đó có thể thấy

số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới hoặc quay lại hoạt động tăng lên nhưng số

doanh nghiệp rút khỏi thị trường cũng tăng. Theo Tổng cục thống kê (2023), bình

quân một tháng năm 2022 có tới 11,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Ngoài những áp lực đến từ lạm phát gia tăng, chính sách tiền tệ thắt chặt thì nguyên

nhân quan trọng đến từ việc khó khăn về tiếp cận thị trường vốn.

Như vậy có thể thấy, thị trường tài chính khủng hoảng thanh khoản và đứt gãy

đã tạo ra áp lực rất lớn đối với sự duy trì hoạt động của doanh nghiệp trong bối cảnh

kinh tế trong nước và nước ngoài có nhiều biến động khó lường. Trước những khó

khăn về việc tiếp cận vốn của khu vực tư nhân, đầu tư công trong nước cần phải có

những chính sách hỗ trợ kịp thời. Trong đó hỗ trợ các ngân hàng chính sách xã hội

trong các dự án đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, góp phần

giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn đầu tư cho khu vực tư nhân trong bối cảnh hiện tại.

Tuy nhiên, trên thực tế, cơ chế lãi suất tín dụng đầu tư qua các ngân hàng chính sách

xã hội còn chưa linh hoạt do khả năng cấp bù lãi suất tín dụng của của vốn đầu tư

công từ NSNN có hạn nên lãi suất tín dụng từ các ngân hàng chính sách xã hội chậm

phản ứng với những biến đổi của lãi suất thị trường. Lãi suất thiếu hấp dẫn cũng là

một trong những cản trở đối với việc thu hút đầu tư của khu vực đầu tư tư nhân.

Xu hướng chuyển đổi số và tăng trưởng xanh cũng là một trong những nhân tố

tác động mạnh mẽ tới đầu tư tư nhân, từ đó tạo thách thức đối với đầu tư công.

Chuyển đối số và tăng trưởng xanh đang là con đường phát triển bền vững của nhiều

quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế đó. Một mặt, xu

hướng gắn liền với việc đầu tư vào công nghệ tiên tiến, kết cấu hạ tầng thông minh

và bền vững, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đầu tư của khu

vực tư nhân. Mặt khác, khu vực tư nhân cần phải có những sự thay đổi và thích ứng

với xu hướng mới. Tuy nhiên, với xu hướng này, hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng viễn

thông, hạ tầng giao thông và hạ tầng điện chính là yếu tố then chốt tạo đột phá. Trong

bối cảnh đó, đầu tư công chính là nguồn lực mang tính tiên phong và tạo nền tảng để

xây dựng hạ tầng, thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh thành công.

112

6.2 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các

vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam đến năm 2030

6.2.1 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân đối

với tổng thể các vùng KTTĐ

Chính phủ đã ban hành nghị quyết 128/NQ-CP 2020 về các nhiệm vụ đẩy mạnh

phát triển tổng thể các vùng KTTĐ, trong đó nhấn mạnh chính sách đầu tư công đối

với sự phát triển của các vùng KTTĐ, từ đó tạo động lực thúc đẩy đầu tư tư nhân.

Nội dung chính sách được cụ thể hóa như sau:

Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ đề xuất phân bổ nguồn lực đầu tư

công thích đáng cho các vùng KTTĐ trong trung hạn. Ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn

nhà nước tham gia trong các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Trong

bối cảnh nguồn vốn phục vụ cho đầu tư công đang dần trở nên khan hiếm và không

đủ phục vụ cho nhu cầu đầu tư tại các tỉnh thành trên cả nước, Luật đầu tư công 2019

đã chính thức ghi nhân hình thức đầu tư theo phương thức hợp tác công tư PPP là một

trong những dạng thức của đầu tư công. Theo đó, PPP là hình thức đầu tư được thực

hiện trên cơ sở hợp đồng dự án giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư,

doanh nghiệp dự án để xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình

hạ tầng, cung cấp dịch vụ công cộng. Vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện

dự án bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ, vốn trái phiếu

chính quyền địa phương, vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài. Quy

trình thực hiện dự án đầu tư và các điều khoản liên quan tuân theo các quy định của

Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020.

Đối với Bộ Tài chính, Chính phủ đề xuất ưu tiên cho phép các địa phương thuộc

vùng KTTĐ được tăng mức bội chi trong tổng mức bội chi ngân sách Nhà nước để

tăng mức vay lại của địa phương, từ đó có thêm nguồn vốn vay để đầu tư cho các dự

án quan trọng. Bên cạnh đó, điều tiết tỷ lệ nguồn thu để lại trong giai đoạn 2022-2025

cho các tỉnh, thành phố thuộc vùng KTTĐ, nhất là các thành phố đóng vai trò “đầu

tàu” của Vùng. Bên cạnh giải pháp tăng nguồn vốn hỗ trợ liên quan tới các dự án hợp

tác đầu tư công tư PPP, Chính phủ cũng hỗ trợ các đại phương thuộc vùng KTTĐ

bằng hình thức nới lỏng hơn đối với khoản thu-chi của các địa phương sao cho gia

tăng nguồn lực đầu tư công trong bối cảnh nguồn lực cho đầu tư công khan hiếm và

đặc biệt giảm mạnh trong bối cảnh hậu Covid-19. Cụ thể, các tỉnh và thành phố thuộc

vùng KTTĐ nằm trong mục các tiêu chí bổ sung được hưởng hệ số ưu tiên phân bổ

113

ngân sách, bao gồm: Thành phố đặc biệt (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh); Các

thành phố trực thuộc trung ương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ); Thành phố loại

I thuộc tỉnh (Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế); Các tỉnh, thành phố thuộc vùng

KTTĐ, các trung tâm phát triển của vùng và tiểu vùng.

Đối với Bộ Giao thông vận tải, ưu tiên phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước

để phát triển hạ tầng giao thông, đẩy nhanh tiến độ thực hiện một số dự án lớn mang

tính kết nối vùng và liên kết vùng KTTĐ (các công trình kết nối khu công nghiệp,

khu chế xuất, trục hướng tâm, vành đai, các đường kết nối cảng biển và hành lang

vận tải quốc tế). Đầu tiên là sự ưu tiên phân bổ ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu

tư phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng KTTĐ, thể hiện qua các quyết định về nguyên

tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn NSNN (Quyết

định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 cho giai đoạn 2007 - 2010 và Quyết định

số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 cho giai đoạn 2011 - 2015). Bên cạnh đó, gần

đây Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 19/7/2019 và 25/CT-TTg

ngày 11/10/2019 về thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững vùng KTTĐ phía

Nam và KTTĐ Bắc bộ, qua đó đưa ra nhiều nhiệm vụ cho các bộ, ngành, cơ quan có

thẩm quyền về phát triển cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, Chính phủ cũng có những chính

sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng của các hạt nhân kinh tế thuộc các vùng KTTĐ

như là khu kinh tế, khu công nghiệp. Một số ưu tiên, ưu đãi về phân bổ nguồn NSNN,

phát triển cơ sở hạ tầng đối với khu kinh tế, khu công nghiệp có thể kể đến: Các dự

án đầu tư hạ tầng cho các khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu sẽ được phân bổ

tối thiểu 70% tổng vốn đầu tư cho các địa phương có các khu kinh tế ven biển, khu

kinh tế cửa khẩu trọng điểm; đối với khu công nghiệp, cụm công nghiệp thì các địa

phương vùng Trung du, miền núi phía Bắc và Tây Nguyên hỗ trợ tối đa 170 tỷ

đồng/địa phương trong 5 năm, trong đó vốn hỗ trợ hạ tầng khu công nghiệp ít nhất là

120 tỷ đồng, trường hợp các địa phương khác hỗ trợ tối đa 150 tỷ đồng/địa phương,

trong đó vốn hỗ trợ hạ tầng khu công nghiệp ít nhất là 100 tỷ đồng (theo Quyết định

số 40/2015/QĐ-TTg ngày 14/9/2015). Bên cạnh đó, năm 2018, Chính phủ phê duyệt

chương trình mục tiêu đầu tư hạ tầng khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu, khu

công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công

nghệ cao giai đoạn 2016 - 2020 với số vốn thực hiện lên tới gần 21 tỷ đồng trong đó

gần 17 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương và hơn 4 nghìn tỷ đồng từ nguồn

ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác.

114

Đối với Ủy Ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐ, để đa dạng

nguồn vốn cho đầu tư công thì có thể huy động các nguồn lực, kết hợp giữa nguồn

vốn giữa trung ương và địa phương, tranh thủ nguồn vốn ODA, vốn tư nhân và các

nguồn vốn khác để thực hiện các dự án trọng điểm, có tính đột phá và thúc đẩy liên

kết vùng.

6.2.2 Định hướng chính sách về đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân đối

với từng vùng KTTĐ

Hiện nay, theo Nghị quyết 138/NQ-CP ngày 25/10/2022 của Chính phủ về

Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, các vùng

KTTĐ được xem là các vùng động lực, quyết định tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

Theo đó, đầu tư công sẽ được phân bổ theo hướng ưu tiên cho các vùng KTTĐ, từ đó

tạo động lực thúc đẩy đầu tư tư nhân và với mỗi vùng KTTĐ, đầu tư công sẽ tập trung

vào các thành phố/ tỉnh chủ chốt (Phụ lục 40). Cụ thể như sau:

Với vùng KTTĐ phía Bắc, đầu tư công tập trung vào Tam giác Hà Nội- Hải

Phòng- Quảng Ninh, dọc theo các hành lang quốc lộ 5 và quốc lộ 18. Trong đó, Thủ

đô Hà Nội đóng vai trò là cực tăng trưởng, nắm giữ vai trò quan trọng trong liên kết

khu vực phía Bắc và quốc tế. Lĩnh vực ưu tiên đầu tư sẽ tập trung vào xây dựng

CKHT hỗ trợ các ngành thế mạnh của Vùng bao gồm công nghiệp chế biến chế tạo

giá trị gia tăng cao, vận tải biển, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới.

Ngoài ra, chính sách đầu tư công cũng tập trung vào liên kết các địa phương trong

vùng cũng như liên kết giữa vùng KTTĐ phía Bắc với các địa ph ương lân cận. Cụ

thể, với liên kết nội vùng, chính sách tập trung xây dựng các tuyến đường cao tốc,

tiền cao tốc, các tuyến quốc lộ, càng hàng không. Xây dựng các tuyến đường sắt điện

khí hóa từ Lào Cai, Lạng Sơn về Hà Nội -Hải Phòng.

Với vùng KTTĐ phía Nam, đầu tư công tập trung vào Tứ giác TP. Hồ Chí Minh -

Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa -Vũng Tàu, trong đó TP. Hồ Chí Minh đóng vai trò

là cực tăng trưởng, liên kết phát triển khu vực phía Nam và kết nối quốc tế. Bên cạnh

đó, lĩnh vực đầu tư ưu tiên sẽ tập trung xây dựng CKHT hỗ trợ các ngành thế mạnh

của Vùng bao gồm khoa học, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, dịch vụ tài

chính, ngân hàng và logistics. Ngoài ra, chính sách đầu tư công cũng tập trung vào

liên kết các địa phương trong vùng cũng như liên kết giữa vùng KTTĐ phía Nam với

các địa phương lân cận. Cụ thể, xây dựng các tuyến đường bộ cao tốc kết nối Thành

phố Hồ Chí Minh với các địa phương trong và ngoài vùng, đường vành đai 3,4 Thành

115

phố Hồ Chí Minh. Xây dựng các tuyến đường sắt điện khí hóa kết nối trung tâm đô

thị đến các cảng biển, cảng hàng không quốc tế cửa ngõ. Tạo động lực liên kết, lan

tỏa và thúc đẩy hợp tác phý triển qua hành lang kinh tế Bắc-Nam và hành lang kinh

tế Tây Nguyên - TP. Hồ Chí Minh.

Với vùng KTTĐ miền Trung, đầu tư công tập trung vào khu vực ven biển Thừa

Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi, trong đó thành phố Đà Nẵng được

xác định là cực tăng trưởng, giữ vai trò quan trọng trong liên kết và thúc đẩy dự phát

triển của vùng duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Bên cạnh đó, lĩnh vực ưu tiên

sẽ tập trung xây dựng CKHT hỗ trợ các ngành thế mạnh của Vùng bao gồm du lịch

biển, du lịch sinh thái, công nghiệp hóa dầu và công nghiệp ô tô- phụ trợ ngành cơ

khí. Ngoài ra, chính sách đầu tư công cũng tập trung vào liên kết các địa phương

trong vùng cũng như liên kết giữa vùng KTTĐ miền Trung với các địa phương lân

cận. Cụ thể, phát triển mạng lưới giao thông gắn với hình thành hành lang kinh tế Bắc

- Nam qua địa bàn vùng và các hành lang Đông - Tây kết nối các cửa khẩu quốc

tế, các đô thị và cảng biển lớn. Xây dựng các tuyến đường cao tốc kết nối vùng

với Tây Nguyên.

Với vùng KTTĐ đồng bằng sông Cửu Long, đầu tư công tập trung vào Tam

giác Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang, trong đó Cần Thơ được xác định là cực tăng

trưởng, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long và khu

vực lân cận. Bên cạnh đó, lĩnh vực ưu tiên phát triển là xây dựng CKHT hỗ trợ các

ngành thế mạnh của Vùng bao gồm công nghiệp chế biến lượng thực, thực phẩm,

nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao với việc tăng tỷ trọng thủy sản, trái cây và giảm

tỷ trọng lúa gạo một cách hợp lý, các dịch vụ phục vụ nông nghiệp và kinh tế biển

(Phú Quốc). Ngoài ra, chính sách đầu tư công cũng tập trung vào liên kết các địa

phương trong vùng cũng như liên kết giữa vùng KTTĐ ĐBSCL với các địa phương

lân cận. Cụ thể, tăng cường đầu tư hạ tầng kết nối Vùng với TP. Hồ Chí minh và vùng

Đông Nam Bộ, đầu tư hệ thống đường ven biển qua các tỉnh, phát triển kết cấu hạ

tâng đường thủy nội địa, nâng cao luông hàng hải cho các tàu biển trọng tải lớn.

6.3 Giải pháp thực hiện đầu tư công nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân tại các vùng

kinh tế trọng điểm của Việt Nam

Dựa trên kết quả mô hình ước lượng ở chương 5 về việc đánh giá tác động của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân với bộ dữ liệu bảng cân bằng tại 24 tỉnh/ thành phố

thuộc 4 vùng KTTĐ trong khoảng thời gian 2010-2021 thông qua kỹ thuật hồi quy

116

dạng bảng PMG, Luận án chỉ ra tác động khác biệt của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

tại mỗi vùng KTTĐ và tại từng địa phương thuộc các vùng KTTĐ trong ngắn hạn

cũng như trong dài hạn. Điều này hàm ý rằng các giơi ý chính sách phải tính đến sự

khác biệt của các vùng KTTĐ sao cho phù hợp với tính thực tiễn và hoàn cảnh của

từng Vùng. Cụ thể, bên cạnh dựa trên kết quả hồi quy về các yếu tố tác động tới đầu

tư tư nhân, giải pháp phải dựa trên đặc thù về tình hình phát triển kinh tế, thực trạng

đầu tư công, đầu tư tư nhân cũng như bối cảnh trong nước, quốc tế và định hướng

chính sách đầu tư công tại mỗi vùng KTTĐ, tại mỗi địa phương nội Vùng. Tựu trung

lại, các giải pháp đối với tổng thể các vùng KTTĐ và mỗi vùng KTTĐ được đề xuất

theo hướng gia tăng hiệu ứng bổ trợ và giảm thiểu hiệu ứng lấn át của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân.

Hình 6.1: Cơ sở xây dựng giải pháp

Nguồn: Tác giả thực hiện, 2022

6.3.1. Nhóm giải pháp chung cho các vùng kinh tế trọng điểm

6.3.1.1 Nhóm giải pháp thúc đẩy tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư

tư nhân

Thứ nhất, tăng cường vốn đầu tư công vào cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu thúc đẩy

đầu tư tư nhân.

a. Cơ sở đề xuất giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công có tác động bổ trợ đầu tư tư

nhân tại các vùng KTTĐ trong dài hạn. Hơn nữa, dựa vào kiểm đinh phi nhân quả,

117

đầu tư công cho CSHT có tác động tích cực tới đầu tư tư nhân, đặc biệt đối với khu

vực doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đối chiếu với thực trạng đầu tư công và đầu tư tư

nhân, đầu tư công cho CSHT ở các vùng KTTĐ chưa theo kịp với nhu cầu. Do đó

đầu tư công bổ sung là cần thiết và phải đi kèm với hiệu quả trong quy hoạch, tránh

trùng lặp, chậm trễ có thể làm kìm hãm đầu tư tư nhân và tăng trưởng của các địa

phương trong Vùng và các địa phương lân cận. Mặt khác, đối chiếu với bối cảnh

trong nước và quốc tế cũng như định hướng chính sách đầu tư công, đầu tư xây dựng

và hoàn thiện CSHT chính là một trong những ưu tiên hàng đầu tại các vùng KTTĐ-

vùng động lực của cả nước để thu hút đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài. Vậy

nên, tập trung đầu tư công vào cơ sở hạ tầng chính là một trong những giải pháp thúc

đẩy tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân.

b. Nội dung giải pháp

Về nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng, điểm chung về CSHT của các vùng KTTĐ

là chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các địa phương do thiếu nguồn lực để

hoàn thiện. Do đó, để có thể tăng cường vốn đầu tư công vào hoàn thiện và nâng cấp

cơ sở hạ tầng tại các địa phương thuộc các vùng KTTĐ, ngoài bổ sung và hoàn thiện

các quy định bằng văn bản mức ưu đãi về thu chi ngân sách, phần trăm ngân sách

được để lại nhằm mục đích phục vụ cho đầu tư công thì cần huy động nguồn vốn đầu

tư công ngoài ngân sách nhà nước. Một trong những giải pháp đó chính là tận dụng

hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư PPP. Luật đầu tư công 2019 cũng

quy định một trong những nội dung của đầu tư công đó chính là đầu tư cùng khu vực

tư nhân theo hình thức PPP. Tuy nhiên, hiện nay các quy định về hình thức đầu tư

PPP trong Luật đầu tư đối tác công tư 2020 trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đang có nhiều

chồng chéo và mâu thuẫn, từ đó hạn chế sự hỗ trợ của khu vực tư nhân trong hoạt

động đầu tư công (Bộ Tài chính, 2022). Hơn nữa, hiện nay chưa có một chính sách

ưu đãi nào liên quan tới hình thức đầu tư PPP trong lĩnh vực CSHT đối với các vùng

KTTĐ. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần xây dựng các cơ chế chính sách

nhằm tạo ưu đãi, đảm bảo đầu tư và hỗ trợ đầu tư nhằm tăng tính hấp dẫn của các dự

án PPP vào CSHT tại các vùng KTTĐ như: (i) bảo lãnh doanh thu tối thủ và bảo lãnh

vốn vay đối với các dự án CSHT trọng điểm tại các vùng KTTĐ; (ii) tăng cường cung

cấp thông tin, hướng dẫn thủ tục hành chính, hỗ trợ thao gỡ khó khắn trong quá trình

triển khai dự án tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ; (iii) điều chỉnh giá dịch vụ

118

CSHT và lộ trình tăng giá, điều kiện trợ giá , mức trợ giá và thời gian trợ giá theo

thông lệ quốc tế và có % ưu đãi đối với các dự án CSHT tại vùng KTTĐ.

Về các hạng mục CSHT của đầu tư công, đối với các vùng KTTĐ cần tập trung

phát triển đồng bộ hệ thống CSHT giao thông đường bộ, đường sắt, cảng biển, hàng

không. Theo phân tích của NCS ở chương 2, các vùng KTTĐ nhìn chung đã tập trung

sử dụng vốn đầu tư công từ NSNN cho xây dựng CSHT giao thông. Tuy nhiên, các

vùng KTTĐ đang có xu hướng hoàn thiện CSHT giao thông tại các địa phương nội

vùng mà chưa tập trung đầu tư CSHT giao thông đường bộ có tính chất kết nối giữa

các địa phương nội vùng, liên vùng và CSHT các cụm khu công nghiệp, khu kinh tế

(Trần Du Lịch, 2021). Các nghiên cứu trên thế giới của Ramirez (2000); Cavallo &

Daude (2011); Tchouassi & Ngangue (2014) và trong nước của Nguyễn Khắc Minh

(2015), Trần Thị Tuấn Anh (2017), và Nguyễn Minh Hải (2021) cho thấy, những địa

phương có tỷ lệ đầu tư công vào CSHT càng lớn thì thi khả năng “lan tỏa” tới các địa

phương lân cận càng cao. Trong khi đó, vấn đề liên kết vùng tại các vùng KTTĐ là một trong những nội dung trọng tâm trong chính sách phát triển vùng.16 Do đó, vấn

đề đầu tư vào CSHT để nâng cao khả năng liên kết vùng là một trong những vấn đề

trọng tâm mà các địa phương trong vùng KTTĐ cần quan tâm khi phân bổ vốn đầu

tư công. Trong đó, đặc biệt chú ý tới CSHT liên kết các cực tăng trưởng của mỗi

vùng. Đó chính là Tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh tại vùng KTTĐ Bắc

bộ; Ven biển Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi tại vùng KTTĐ

miền Trung; Tứ giác TP. Hồ Chí Minh - Bình Dương- Đồng Nai- Bà Rịa-Vũng Tàu

tại vùng KTTĐ phía Nam; Tam giác Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang tại vùng

KTTĐ ĐBSCL.

Bên cạnh đó, CSHT tại các KCN, KKT của các địa phương thuộc vùng KTTĐ

cũng là một trọng những hạng mục cần chú ý khi phân bổ đầu tư công. Tại các địa

phương thuộc vùng KTTĐ, số lượng KCN, KKT chiếm tới khoảng 3/4 số KCN, KKT

toàn nền kinh tế (Vụ Quản lý Các khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020).

16 Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng các vùng KTTĐ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải các vùng KTTĐ đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 17 Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng các vùng KTTĐ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

KCN, KKT cũng được nhận định là “xương sống” đối với sự phát triển kinh tế của các địa phương17.

119

Bảng 6.1: Tình hình phát triển các khu công nghiệp theo các vùng KTTĐ đến

cuối năm 2020

Vùng Số lượng So với cả nước (%)

Vùng KTTĐ Bắc bộ 24,39% 90

Vùng KTTĐ miền Trung 18,43% 68

Vùng KTTĐ phía Nam 31,71% 117

Vùng KTTĐ ĐBSCL 14, 91% 55

Tổng 74, 53% 330

Nguồn: Vụ Quản lý Các khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020

Tuy nhiên, CSHT của KCN, KKT tại hầu hết các địa phương thuộc vùng KTTĐ

nói riêng và cả nước nói chung đang bộc lộ dấu hiệu xuống cấp và chưa đáp ứng được

nhu cầu của doanh nghiệp (Vụ Quản lý Các khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

2020). Do đó, tập trung vốn đầu tư công vào hoàn thiện và phát triển CSHT tại KCN,

KKT của các địa phương thuộc vùng KTTĐ cũng là một trong những hạng mục cần

ưu tiên. Mặc dù trong Luật đầu tư 2020 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư 2020 đã nêu rõ các hạng mục

đầu tư công phân bổ cho CSHT KCN và KKT, tuy nhiên đối với vùng KTTĐ, đầu tư

CSHT nên theo hướng có thể kết nối các cụm CN trong các địa phương nội vùng và

liên vùng. Ưu tiên các KCN, KKT đang tập trung phát triển các ngành công nghiệp

mũi nhọn của toàn vùng.

Vê tổ chức thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện nay quy hoạch CSHT ở các địa

phương nội Vùng chưa có tính kết nối giữa các địa phương trong nội Vùng. Do đó,

trong quy hoạch về CSHT của các địa phương vùng KTTD cần tính tới yếu tố liên

kết giữa các địa phương nội vùng và các địa phương lân cận. Để thực hiện được mục

tiêu trên cần có sự hoạch định, thực thi và giám sát của Hội đồng Vùng. Tuy nhiên,

mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo, Hội đồng vùng kinh tế trọng

điểm giai đoạn 2015-2020 theo quyết định số 2059/QDD-TTg ngày 24/11/2015 song

bộ máy điều phối còn nhiều điểm bất hợp lý, cơ chế thực thi chưa hiệu quả (Nguyễn

Thị Cành, 2022). Cụ thể Hội đồng Vùng chỉ có chức năng tham mưu, đề xuất với Thủ

tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương

trình, đề án, nhiệm vụ, dự án có quy mô vùng và có tính chất liên kết vùng và phát

120

triển bền vững chứ không được quản lý điều hành trực tiếp các hoạt động của vùng

KTTĐ. Trong khi đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ không đưa ra quyết định được mà sẽ

giao lại cho Bộ, ngành xem xét, xử lý. Các Bộ, ngành khi đánh giá những đề xuất này

phải căn cứ trên các quy định pháp luật hiện hành mà theo đó hiện không có nhiệm

vụ chi cho cấp vùng nên đa phần các đề xuất của Vùng không giải quyết được. Một

số đề xuất nội dung liên vùng có thể được lồng ghép vào kế hoạch phát triển của các

Bộ, ngành làm nhưng trong bối cảnh nguồn lực công rất hạn chế nên khó thực hiện

được (Nguyễn Đình Cung, 2018). Do đó, việc quy hoạch CSHT không mang tính

đồng bộ và kết nối giữa các địa phương nội Vùng cũng như với các địa phương lân

cận, gây ra hiện tượng quy hoạch CSHT chồng chéo và nhiều bất cập như hiện nay

(Nguyễn Quỳnh Anh, 2019).

Để giải quyết được vấn đề trên, Chính phủ cần xem Hội đồng vùng như một cơ

quan chuyên trách, có tư cách pháp nhân độc lập, có con dấu riêng và được sử dụng

ngân sách (Nguyễn Thị Cành, 2022). Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ nên trao quyền

cho Hội đồng Vùng có thực quyền quyết định các bước sau dưới sự tham mưu, đề

xuất của Ủy ban nhân dân các Tỉnh/ thành phố, chuyên gia, nhà khoa học tiêu biểu

thuộc cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học cấp vùng, đại diện có uy tín của cộng đồng

doanh nghiệp của vùng: (i) Định hướng, xây dựng dự án và sàng lọc bước đầu, (ii)

Lựa chọn và lập ngân sách. Hội đồng vùng tổng hợp và lựa chọn dự án dựa tên cơ sở

quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội các quôc gia, vùng, quy hoạch vùng và

gửi Ban chỉ đạo điều phối phát triển các vùng KTTĐ ở cấp Trung ương (Phó Thủ

tướng- trưởng Ban, Bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường,

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Phó ban; Ủy viên, các thành viên là Thứ

trưởng hoạch tương đương ở 9 bộ và Văn phòng chính phủ) xem xét. Ban chỉ đạo sẽ

xem xét đề xuất cho tường vùng và xác định các dự án ưu tiên trên cơ sở triển khai

phù hợp với định hướng, chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội

các quốc gia. Hội đồng vùng tiếp tục thực hiện (iii) Triển khai dự án, (iv) Điều chỉnh

dự án (nếu có). Hiện nay tại các vùng KTTĐ nói riêng và các tỉnh thành tại Việt Nam

nói chung, Thủ tướng Chính phủ đang trực tiếp chỉ đạo cùng các Bộ ban ngành liên

quan thực hiện toàn bộ các bước trên và tạo ra những chồng chéo, trung lặp, thiếu

hiệu quả trong công tác thực hiện và quản lý đầu tư công đặc biệt với CSHT (Vũ

Thành Tự Anh, 2014). Do đó, phân cấp phân quyền về thực hiện và quản lý đầu tư

công cho Hội đồng Vùng chính là một trong những giải pháp nâng cao hiệu quả thực

121

hiện và quản lý các dự án đầu tư công đối với CSHT nói riêng và các dự án khác của

đầu tư công.

Thứ hai, tập trung vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia

đình trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh doanh hộ gia đình đủ lớn

thành mô hình doanh nghiệp tại các vùng KTTĐ trong dài hạn.

a. Cơ sở đề xuất giải pháp

Đối chiếu kết quả mô hình hồi quy, trong dài hạn, đầu tư công chỉ tác động bổ

trợ tới đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp chứ không tác động tới đầu tư tư nhân

từ khu vực hộ gia đình. Tuy nhiên trong ngắn hạn, tồn tại tác động bổ trợ của đầu tư

công tới đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn. Đối chiếu tình hình

phát triển kinh tế tại các vùng KTTĐ cũng như thực trạng đầu tư tư nhân, không thể

phủ nhận vai trò của kinh tế hộ gia đình trong vấn đề tạo công ăn việc làm và thu

nhập cho cư dân, đặc biệt tại khu vực nông thôn (Đỗ Thị Thanh Sơn, 2020). Đối chiếu

bối cảnh trong nước và quốc tế, vai trò của kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam ngày

càng quan trọng hơn do khu vực doanh nghiệp đang đối mặt với nhiếu thách thức từ

tình hình kinh tế trong nước và thế giới. Do đó, Chính phủ cần tăng cường tài trợ vốn

đầu tư công nhằm hỗ trợ đối với khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn nhằm thúc đẩy

tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực hộ gia đình.

b. Nội dung giải pháp

Đối với hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, tiền đề cho

phát triển là tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng vững mạnh, đồng bộ các yếu

tố điện, đường, thủy lợi, đê điều, bến bãi. Mặc dù Chính phủ đã cụ thể hóa thông qua

các văn bản pháp lý như thông tư 05/2022/TT-BNNPTNT, Nghị quyết số 08/NQ-CP,

Nghị định số 120/2020/NĐ-CP, Điều 6 Thông tư 05/2022/TT-BNNPTNT, Thông tư

05/2022/TT-BNNPTNT về hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho ngành nông-lâm- ngư nghiệp

tuy nhiên hiệu quả thực thi của cách chính sách chưa cao và thiếu hụt nguồn vốn đầu

tư là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Bên cạnh đó, lĩnh vực nông nghiệp là

một trong những lĩnh vực khó thu hút vốn đầu tư tư nhân hợp tác với đầu tư công

theo hình thức PPP do các chính sách chung về PPP trước đó chủ yếu tập trung vào

các dự án cung cấp hàng hóa công ích phi nông nghiệp nên toàn bộ các mô hình PPP

trong nông nghiệp cho đến nay chủ yếu mang tính tự phát, xuất phát từ nhu cầu của

doanh nghiệp, người dân và chính quyền địa phương hoặc là sáng kiến của một số tổ,

nhóm nông dân (Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, 2020). Do đó, cần linh hoạt tiếp cận nguồn

122

vốn hỗ trợ đầu tư công từ các nguồn khác như các nguồn vốn ODA, vốn tài trợ của

các tổ chức phi chính phủ. Mở rộng hợp tác với các tổ chức tài chính lớn như WB,

ADB, Keximbank, JICA, KOICA,... nhằm thu hút vốn đầu tư công xây dựng kết cấu

hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tại các địa phương thuộc vùng

KTTĐ mà đầu tư công có tác động tích cực tới đầu tư hộ gia đình.

Đối với hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực phi nông-lâm- ngư nghiêp, vấn đề

khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng là một trong những yếu tố hạn chế đầu tư của

đối tượng này để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại các vùng KTTĐ, hộ

kinh doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ (chiếm gần 85%),

đặc biệt lĩnh vực bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ

khác, dịch vụ lưu trú, ăn uống. Quy mô hộ kinh doanh chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Do

mô hình kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún nên việc tìm nguồn vốn đầu vào đối với hộ

gia đình trong linh vực phi-nông-lâm ngư nghiệp gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, chính

sách ưu đãi tín dụng cũng là một trong những giải pháp nhằm hỗ trợ cho các hộ gia

đình hoạt động trong lĩnh vực này. Do đó, cần mở rộng đối tượng ưu đãi của Chính

sách, thay vì chỉ tập trung vào doanh nghiệp, thì trong ngắn hạn, Chính phủ cũng cần

tập trung tới khu vực hộ gia đình với các khoản vay ưu đãi nhằm khuyến khích đầu

tư tư nhân từ khu vực này trong ngắn hạn.

Tuy nhiên, trong dài hạn, do hình thức hộ gia đình kinh doanh có nhiều bất cập

và đầu tư công không tạo tác động bổ trợ như ngắn hạn. Trong khi đó, hình thức kinh

doanh hộ gia đình, mặc dù góp phần giải quyết nhu cầu việc làm của nhiều lao động

và mô hình hoạt động tương đối đơn giản, tuy nhiên mô hình này đang cho thấy sự

mạnh mún, thiếu tổ chức và gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn khi hoạt động

(Lê Thị Thu Diễm, 2020). Do đó, Chính phủ nên xây dựng giải pháp chuyển đổi sang

hình thức kinh doanh doanh nghiệp nhằm thúc đẩy được tác động bổ trợ của đầu tư

công tới đầu tư tư nhân trong dài hạn. Một số giải pháp đã được Chính phủ cụ thể hóa

trong khoản 2 Điều 16 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017, Nghị định số

80/2021/NĐ-CP tuy nhiên chưa đủ sứcc để khuyến khích hộ kinh doanh chuyển sang

loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp (Nguyễn Thị Luyến, 2022).

Do đó, Chính phủ cần xây dựng chính sách chuyển đổi phải có lộ trình, có thể là 5

năm và hỗ trợ đảm bảo doanh nghiệp sau chuyển đổi duy trì và phát triển thông qua

việc hỗ trợ tiếp cận tín dụng, hỗ trợ xây dựng cơ sở sản xuất-kinh doanh từ nguồn

vốn đầu tư công (Lê Duy Bình, 2018).

123

Thứ ba, thúc đẩy hoạt động đầu tư công hiệu quả tại các hạt nhân của mỗi vùng

KTTĐ để tạo tác động bổ trợ cho đầu tư tư nhân cũng như tạo hiệu ứng lan tỏa đối với

đầu tư tư nhân ở các địa phương lân cận.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với tính hình phát triển kinh tế cũng như định hướng chính sách đầu

tư công tại các vùng KTTĐ, mỗi vùng KTTĐ đều có một cực tăng trưởng với vai trò

dẫn dắt sự phát triển của các địa phương nội Vùng và đồng thời tạo sự lan tỏa tới các

địa phương lân cận. Đặc biệt với vùng KTTĐ phía Nam và Bắc bộ, vai trò quan trọng

của TP. Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội lại càng thể hiện rõ. Bên cạnh đó, đối chiếu với

kết quả hồi quy, trong ngắn hạn, hầu như các đầu tàu tăng trưởng còn lại không thể

hiện được vai trò dẫn đầu của mình trong việc thu hút đầu tư tư nhân. Trên thực tế,

do ảnh hưởng từ đầu tàu, hầu hết các địa phương nội vùng đều chưa cho thấy được

sự thu hút đầu tư tư nhân trong nội Vùng. Do đó, để thúc đẩy tác động bổ trợ từ đầu

tư công tới đầu tư tư nhân từ đó thúc đẩy tăng trưởng chung của vùng KTTĐ và cả

nước, cần nâng cao vai trò của các đầu tàu tại các vùng KTTĐ.

b. Nội dung giải pháp

Đối với Chính phủ, cần có chính sách ưu đãi và chế tài cụ thể đối với phân bổ

ngân sách với các cực tăng trưởng tại các vùng KTTĐ. Mặc dù quyết định số

210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 cho giai đoạn 2007 - 2010 và quyết định số

60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 cho giai đoạn 2011 - 2015 đã có quy định về hệ số

ưu đãi phân bổ ngân sách cho các thành phố và tỉnh là các cực tăng trưởng của từng

vùng KTTĐ nhưng quy định còn mang tính “cào bằng” và chưa có sự xem xét cụ thể

tới mức độ phát triển kinh tế và vai trò của từng địa phương. Do đó cần có sự tính

toán lại về hệ số ưu đãi phân bổ ngân sách cho các cực tăng trưởng tại các vùng KTTĐ

sao cho phù hợp với tình hình phát triển và nhu cầu đầu tư thực tế tại các địa

phương này.

Đối với Chính quyền địa phương, giải ngân vốn đầu tư công chính là yếu tố thúc

đẩy đầu tư tư nhân tại Việt Nam nói chung và các địa phương thuộc vùng KTTĐ nói

riêng (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2022). Kết quả hồi quy cũng cho thấy nhìn chung hầu

như những địa phương có tỷ lệ giải ngân đầu tư công cao thì trong cả ngắn hạn và dài

hạn, đầu tư công đều có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân. Trong khi đó, hầu hết các

địa phương hạt nhân thuộc vùng KTTĐ đều là những địa phương thuộc nhóm có tỷ

lệ giải ngân thấp (Bộ Tài chính, 2022). Các địa phương trong vùng KTTĐ có tỷ lệ

124

giải ngân vốn đầu tư công thấp hơn 50% (Bộ Tài chính, 2022). Theo đó, dựa vào kinh

nghiệm của các địa phương có tỷ lệ giải ngân cao, các hạt nhân trong vùng KTTĐ

nên tập trung vốn đầu tư công vào những dự án trọng điểm và không đầu tư dàn trải.

Bên cạnh đó, cần đưa ra tỷ lệ bố trí vốn thực hiện dự án theo nguyên tắc 100% chi

phí giải phóng mặt bằng và 80% chi phí xây lắp. Ngoài ra, thường xuyên rà soát, điều

chuyển vốn từ các dự án có tiến độ giải ngân chậm sang dự án có tiến độ giải ngân

tốt. Đồng thời, gắn vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các địa phương, đơn vị,

chủ đầu tư trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc giải ngân vốn đầu tư công. Song song

với đó, lập tổ công tác đặc biệt thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh

thường xuyên tổ chức kiểm tra thực tế hiện trường, kịp thời tháo gỡ ,xử lý các vướng

mắc có liên quan.

5.3.1.2 Nhóm giải pháp hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

Thứ nhất, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI vào lĩnh vực thế

mạnh của các địa phương nội Vùng

a. Cơ sở đề xuất giải pháp

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong dài hạn, vốn FDI có tác động tích cực tới

đầu tư tư nhân tại các địa phương thuộc các vùng KTTĐ. Hơn thế, trong bối cảnh cơ

cấu vốn đầu tư toàn xã hội tại vùng KTTĐ đang có xu hướng tăng dần tỷ trọng vốn

FDI thì rõ ràng đây cũng là động lực nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân, từ đó tạo động

lực tăng trưởng tại các vùng KTTĐ. Bên cạnh đó, dựa trên kết quả hồi quy của mô

hình ở chương 3, tại các địa phương có đầu tư FDI tác động tích cực tới đầu tư tư

nhân thì trong ngắn hạn đầu tư công có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân. Do đó, cần

xây dựng chính sách đối với thu hút FDI hợp lý có xét tới yếu tố ngắn hạn và dài hạn

để FDI có thể trở thành nhân tố hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới tư tư nhân

tại các vùng KTTĐ.

b. Nội dung giải pháp

Đối với Chính phủ, cần tạo điều kiện ưu đãi cho các dòng vốn FDI chảy vào các

địa phương thuộc vùng KTTĐ. Đặc biệt, trong bối cảnh dòng vốn FDI trở nên cạnh

tranh hơn thời kỳ hậu Covid-19. Ngoài ra, nhiều quốc gia đang dự kiến áp dụng mức

thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024, thách thức mới đối với Việt Nam là điều chỉnh

chính sách phù hợp để có thể thu hút được FDI mạnh mẽ hơn. Cụ thể, cần nghiên cứu

đề xuất điều chỉnh các chính sách thuế, kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, cũng

như phù hợp với quy định trong Hiệp định mà Việt Nam đã cam kết trước khi Hiệp

125

định có hiệu lực. Bên cạnh đó, cần có những đánh giá ảnh hưởng của các quy tắc trên

bởi mức độ ảnh hưởng lên các chính sách ưu đãi là khác nhau đối với từng quốc gia,

tập đoàn đa quốc gia, nhà đầu tư và chính sách ưu đãi thuế. Ngoài ra, nâng cao năng

lực cạnh tranh từ các yếu tố như môi trường đầu tư kinh doanh, lao động, CSHT, hệ

thống doanh nghiệp vệ tinh...

Đối với Chính quyền các địa phương thuộc vùng KTTĐ, cần có sự chọn lọc

dòng vốn FDI sao cho phù hợp với từng thế mạnh của địa phương mình. Các địa

phương cần tránh tình trạng thu hút dòng vốn FDI một cách ồ ạt mà không cần quan

tâm tới chất lượng dòng vốn và sự phù hợp của dòng vốn FDI với cơ cấu ngành nghề

tại địa phương.

Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, kết quả hồi quy cho thấy trong ngắn hạn

dòng vốn FDI không có tác động tới đầu tư tư nhân hoặc có tác động ngược chiều tới

đa số các địa phương nội Vùng. Chính vì vậy, để có thể hạn chế được tác động tiêu

cực của dòng vốn FDI trong ngắn hạn cần phải có những chính sách hợp lý của các

địa phương nội Vùng. Tại Việt Nam, việc các doanh nghiệp FDI độc quyền trong một

số lĩnh vực như nước uống có ga, thức ăn gia súc, chất tẩy rửa… đã tác động mạnh

tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Đôi khi, những công ty

100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá,

loại trừ đối thủ cạnh tranh khác, độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn áp các doanh nghiệp trong nước18. Do đó, cần gắn chặt thu hút FDI với quá trình tái cấu trúc

nền kinh tế, phù hợp với từng ngành, hướng vào những ngành nghề, sản phẩm cụ thể,

phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm lôi cuốn các doanh nghiệp nội địa

tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đồng thời khai thác tối đa tiềm năng và hiệu quả

mà nguồn vốn FDI mang lại. Khi đó các doanh nghiệp nội địa sẽ là một trong những

mắt xích của chuỗi giá trị do ngồn vốn FDI tạo ra thay vì là đối thủ cạnh tranh trên

thị trường và phải chịu tác động lấn át.

Thứ hai, hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng trên cơ sở khuyến khích

các thành phần tham gia và đa dạng hóa các công cụ tín dụng.

a. Cơ sở đề xuất giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, lãi suất trong ngắn hạn và dài hạn có tác

động lấn át đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ và tạo hiệu ứng lấn át tới đầu tư tư

18 Báo cáo của Sở Tài chính Tỉnh Thừa Thiên Huế, 2015.

nhân. Bên cạnh đó, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế cũng như thực trạng đầu

126

tư tư nhân tại các vùng KTTĐ, có thể thấy phần lớn các doanh nghiệp thuộc các vùng

KTTĐ là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hoặc là các hộ gia đình kinh doanh

nhỏ lẻ. Đây là đối tượng khó tiếp cận thị trường vốn vay và chịu ảnh hưởng đáng kể

khi lãi suất biến động. Đối chiếu với bối cảnh trong nước và quốc tế, khu vực tư nhân

đang gặp nhiểu khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn vay. Do đó, cần phải xây

dựng và hoàn thiện thị trường tín dụng với hướng đa dạng hóa các công cụ và các

thành phần tham gia nhằm giải quyết vấn đề liên qua tới sự thiếu hụt vốn trên thị

trường vốn vay tại các vùng KTTĐ trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Từ đó,

giải pháp này có thể hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân.

b. Nội dung giải pháp

Trước hết, cần phát triển và hoàn thiện các định chế tài chính - tín dụng phí

ngân hàng nhằm khuyến khích nhiều thành phần tham gia vào thị trường tín dụng

thay vì chỉ phụ thuộc phần lớn vào NHTM như hiện nay… Các định chế tài chính này

là những công cụ để tập hợp các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, bao gồm vốn trong

công chúng, vốn đầu tư tài chính của các doanh nghiệp, vốn của các tổ chức bảo…

Đồng thời, cũng xây dựng các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ đầu tư

và chức năng chính là tham gia vào thị trường vốn trung dài hạn, có cơ chế khác với

các NHTM hiện nay là tham gia vào thị trường tiền tệ.

Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa hơn nữa các công cụ tín dụng. Cụ thể, cần phát

triển mạnh thị trường trái phiếu trên cơ sở tăng cung cầu trên thị trường bằng các mở

rộng cho nhiều thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ hơn, nghiên cứu

đưa ra các khuôn khổ pháp lý thông thoáng cho việc mua bán, cầm cố các trái phiếu

chính phủ, cho phép trái phiếu chính phủ được chiết khấu tại NHNN. Mặt khác, phát

triển thị trường thương phiếu (hối phiếu và lệnh phiếu) mà hiện nay hầu như chúng

ta chưa triển khai thực hiện. Nếu thị trường thương phiếu phát triển, không chỉ làm

lành mạnh hóa tình trạng chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp, mà là điều kiện

phát triển các dịch vụ chiết khấu và tái chiết khấu, thu nhập dịch vụ của các tổ chức

tín dụng. Đặc biệt chia sẻ và giảm áp lực thị trường tín dụng ngắn hạn cho các tổ chức

tín dụng đang khá nóng hiện nay.

6.3.2. Nhóm giải pháp cụ thể đối với từng vùng kinh tế trọng điểm

Từ kết quả nghiên cứu của Luận án, có thể thấy tác động của đầu tư công cũng

như tới tổng đầu tư tư nhân và đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp, đầu tư tư

nhân từ khu vực hộ gia đình tại mỗi địa phương thuộc vùng KTTĐ là có sự khác nhau

127

trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, các vùng KTTĐ cũng có sự khác biệt về tình hình phát

triển kinh tế, tình hình đầu tư công và đầu tư tư nhân. Vì vậy, Luận án sẽ phân tích

một số giải pháp cụ thể đối với từng vùng KTTĐ bên cạnh những chính sách định

hướng chung cho tất cả vùng KTTĐ. Đồng thời, với mỗi giải pháp, Luận án sẽ chỉ rõ

nhằm thúc đẩy hiệu ứng bổ trợ hay hạn chế hiệu ứng lấn át của đầu tư công tới đầu

tư tư nhân.

6.3.2.1. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ

Thứ nhất, tập trung vốn đầu tư công xây dựng CSHT giao thông hỗ trợ hình

thành cơ cấu đô thị hạt nhân, đô thị vệ tinh nhằm thúc đẩy hiệu ứng bổ trợ của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.

a. Cơ sở đề xuất giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công tạo ra hiệu ứng bổ trợ cho

đầu tư tư nhân trong dài hạn, đặc biệt là đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp. Đối

chiếu với cơ cấu vốn đầu tư từ khu vực tư nhân tại các địa phương nội Vùng, đầu tư

từ khu vực doanh nghiệp cũng chiếm 53,45% với việc tập trung nhiều KCN, KKT

của cả nước (24,34%). Bên cạnh đó, đối chiếu với thực trạng đầu tư công, tại vùng

KTTĐ Bắc bộ, trong cơ cấu đầu tư công cho CSHT thì đầu tư cho CSHT giao thông

chiếm tỷ trọng chủ yếu. Đối chiếu với định hướng chính sách đầu tư công thông qua

Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, các đô thị

Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hạ Long, Hải Dương đóng vai trò là các vực phát triển trong

hệ thống đô thị của Vùng. Các địa phương Sơn Tây, Từ Sơn, Xuân Mai, Chí Linh,

Cẩm Phả, Uông Bí, Móng Cái phát triển thành các đô thị vệ tinh. Như vậy, không

gian phát triển vùng KTTĐ Bắc bộ sẽ gồm hai tiểu vùng là tiểu vùng Thủ đô Hà Nôi

và tiểu vùng Duyên hải. Trong đó, tiểu vùng Thủ đô Hà Nội bao gồm Thủ đô và các

tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Binh, Hưng Yên và Hải Dương. Tiểu vùng ven biển gồm thành

phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh. Do đó, một trong những vấn đề trong phân bổ

đầu tư công mà các địa phương nội Vùng cần chú ý đó chính là tạo điều kiện cho sự

hoạt động thuận lợi của khu vực doanh nghiệp thông qua hoàn thiện CSHT, đặc biệt

là CSHT giao thông gắn liền với quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế- xã hôi của

toàn Vùng.

b. Nội dung giải pháp

Trước hết, tại tiểu vùng Thủ đô, hoàn thành việc xây dựng hệ thống các trực

đường cao tốc nhằm liên kết các tỉnh/thành phố trong tiểu vùng. Bên cạnh đó, cần

128

chú ý tới các đường vành đai kết nối Hà Nội với các địa phương trong tiểu vùng và

các địa phương nội vùng. Các tuyến đường vành đai sẽ giảm tải áp lực giao thông nội

đô và hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông của tiểu vùng và khu vực. Hơn nữa, các

tuyến đường vành đai sẽ đẩy mạnh kết nối nhiều khu, cụm công nghiệp, khu đô thị,

các tỉnh, thành phố trong vùng giao thương. Hiện tại, đường vành đai 3,5 hơn 45 kim

đi qua Đại lộ Thăng Long đến Quốc lộ 32 với tổng số vốn đầu tư 25.000 tỷ đồng và

đường vành đai 4 đi qua Hà Nội- Hưng Yên- Bắc Ninh có tổng vốn đầu tư 94.000 tỷ

đồng. Vai trò của đầu tư công lại càng quan trọng hơn khi do ảnh hưởng của đại dịch

Covid-19 khiến nguồn nhân công bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là công tác

giải phóng mặt bằng đang bị chậm nên các dự án vẫn chưa được hoàn thành đúng

tiến độ.

Bên cạnh đó, tăng cường vốn đầu tư công vào CSHT nhằm kết nối tốt hơn vùng

duyên hải Hải Phòng - Quảng Ninh cũng là một trong những mục tiêu ưu tiên. Hiện

tại, Hải Phòng và Quảng Ninh đang kết nối với nhau thông qua tuyến đường giao

thông đường bộ là Quốc Lộ 10, 2 tuyến phà Rừng, Lại Xuân, cao tốc Hạ Long-Hải

Phòng. Tuy nhiên, theo quy hoạch phát triển đô thị của Quảng Ninh thì phía Tây

Quảng Ninh sẽ có thêm thành phố Đông Triều và Quảng Yên. Trong khi đó, huyện

Thủy Nguyên cũng đang hoàn thiện hồ sơ thành lập thành phố Thủy Nguyên. Như

vậy các địa phương phía Tây Quảng Ninh và Thủy Nguyên, Hải Phòng vẫn khó khăn

trong việc di chuyển. Do đó, hành lang đường bộ thứ 3 của Quảng Ninh- Hải Phòng

là cầu Bến Rừng nối Quảng Yên với Thủy Nguyên qua sông Đá Bạch được khởi công

tháng 5/2022 và dự kiến hoàn thành cuối 2023 đóng vai trò rất quan trọng. Bên cạnh

đó, hành lang đường bộ thứ 4 là Lại Xuân cũng đang được xây dựng và dự kiến hoàn

thành cuối năm 2024. Tuy nhiên, cũng do dư địa của đại dịch covid-19 và ảnh hưởng

của chiến tranh Nga- Ucraina khiến giá vật liệu tăng cao, hai dự án cũng có dấu hiệu

chậm thi công hơn so với tiến độ. Vì vậy, vốn đầu tư công nên tập trung vào dự án

hành lang đường bộ thứ 3 và thứ 4 nhằm gia tăng kết nối giữa Hải Phòng- Quảng

Ninh nhằm giả quyết bài toán về vấn đề di chuyển giữa hai địa phương, từ đó thực

hiện đúng với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm

Bắc Bộ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 của vùng KTTĐ Bắc bộ.

Thứ hai, tăng cường vốn đầu tư công hỗ trợ hộ kinh doanh làng nghề trong

ngắn hạn nhằm mục tiêu chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp trong dài hạn

gia tăng tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại vùng.

129

a. Cơ sở đề xuất giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công tạo tác động bổ trợ rõ rệt

cho đầu tư tư nhân thuộc khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn tại một số địa phương

thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ. Mặc dù về dài hạn, đầu tư công không tác động tới đầu tư

thuộc khu vực hộ gia đình và hình thức hộ gia đình kinh doanh trở nên không phù

hợp với bối cảnh mới, tuy nhiên, để thúc đẩy sự chuyển đổi trong dài hạn, trong ngắn

hạn, Chính phủ nên phân bổ vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ đầu tư khu vực hộ gia đình

tại vùng KTTĐ Bắc bộ. Đối chiếu với thực trạng đầu tư tư nhân tại các địa phương

thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ, một trong những hình thức kinh doanh điển hình của hộ

gia đình tại khu vực vùng KTTĐ Bắc bộ trong ngắn hạn đó chính là làng nghề. Do

đó, trước hết, Chính phủ cần phân bổ vốn đầu tư công cho khu vực này nhằm hướng

các hộ gia đình làng nghề tới đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên cứu tạo ra sản phẩm

mới, đồng thời đơn giản hóa thủ tục vay vố tăng cường khả năng tiếp cận của các cơ

sở đến nguồn vốn ưu đãi.

b. Nội dung giải pháp

Trước hết, để có thể hỗ trợ kinh doanh của làng nghề, vốn đầu tư công cần tập

trung tới các khía cạnh sau: (i) Về mặt bằng sản xuất và đầu tư kết cấu hạ tầng: Các

dự án đầu tư ngành nghề truyền thống được ưu tiên bố trí vào các cụm TTCN, các

điểm TTCN và các điểm TTCN làng nghề theo quy hoạch, được hưởng các chính

sách và thuế đất và phí sử dụng hạ tầng theo quy định của tỉnh; (ii) Đối với các dự án

phải di dời theo quy hoạch, được hưởng các chính sách theo Quyết định số 74/QĐ-

TTg ngày 06/4/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc sử dụng tiền chuyển quyền sử

dụng đất, tiền bán nhà xưởng và các công trình khác khi tô chức kinh tế phải di dời

trụ sở, cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy hoạch.

Tuy nhiên về dài hạn, bản thân hình thức làng nghề cũng xuất hiện nhiều yếu tố

bất cập (Bạch Thị Lan Anh, 2010) và theo xu thế phát triển của thế giới, các hộ kinh

doanh tại làng nghề nên có sự chuyển đổi thành hình thức doanh nghiệp. Nguồn vốn

đầu tư công trong dài hạn nên tập trung vào các cá nhân, tổ chức, các cơ sở sản xuất

đăng ký kinh doanh mới và dự kiến đầu tư phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền

thống. Theo đó, các đối tượng này nên được hỗ trợ một phần kinh phí khởi sự doanh

nghiệp, tham gia các lớp học khởi sự doanh nghiệp, lập kế hoạch kinh doanh, tăng

cường khả năng kinh doanh, theo kế hoạch khuyến công và khuyến nông hàng năm

của tỉnh. Đồng thời, chính quyền nên tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm đối tượng này

130

đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư.

Thứ ba, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI vào lĩnh vực công

nghiệp chế biến chế tạo nhằm hạn chế tác động lấn át và gia tăng tác động bổ trợ

của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.

a. Cơ sở đề xuất giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, FDI có tác động thúc đẩy đầu tư tư nhân

các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm trong dài hạn. Bên cạnh đó, đối chiếu

với tính hình phát triển kinh tế xã hội vùng KTTĐ Bắc bộ và định hướng đầu tư công

của vùng, phát triển công nghiệp chế biến chế tạo có vai trò quan trọng trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Số lượng vốn huy động cho phát triển công

nghiệp chế biến chế tạo đặc biệt là các ngành có hàm lượng và giá trị công nghệ cao

như chế tạo điện tử, linh kiện điện tử, máy tính, cơ khí, sản phẩm phục vụ ngành ô

tô... ở vùng KTTĐ Bắc Bộ hiện nay đang tăng lên nhanh chóng. Hơn nữa với lợi thế

là vùng tập trung nhiều KCN của cả nước, thu hút FDI vào lĩnh vực thế mạnh là công

nghiệp chế biến chế tạo là một trong những giải pháp phù hợp với bối cảnh hiện tại

của vùng.

b. Nội dung giải pháp

Về lĩnh vực đầu tư, trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, các địa

phương nội vùng nên ưu tiên thu hút FDI vào Công nghiệp điện tử, cơ khí chính xác,

công nghiệp chế tạo khuôn mẫu, dụng cụ y tế, công nghiệp dược, hoá mỹ phẩm. Theo

quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tầm nhìn

đến năm 2030, đây là những ngành được ưu tiên phát triển nhanh hơn các ngành khác

nhằm tạo tiền đề phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo.

Về phương thức đầu tư, các địa phương cần xác định phát triển công nghiệp chế

biến chế tạo sẽ gắn với phát triển KCN bền vững theo mô hình “ 3 trong1”. Đó chính

là KCN-khu đô thị-khu dịch vụ với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội đồng

bộ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, các địa phương cần ban hành

chính sách phát triển cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ, khuyến

khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ theo hướng tiên tiến, hiện

đại, công nghệ cao, phát triển xanh nhằm tham gia vào mắt xích của chuỗi giá trị toàn

cầu cùng doanh nghiệp FDI. Mặt khác, nên thành lập Tổ công tác về xúc tiến đầu tư

của tỉnh chỉ đạo việc tiếp cận, xúc tiến các dự án lớn, động lực ngành công nghiệp

chế biến chế tạo do các nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước nghiên cứu.

131

6.3.2.2 Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung

Thứ nhất, tập trung vốn đầu tư công hoàn thiện tuyến cao tốc Bắc-Nam và

tuyến đường ven biển, đẩy mạnh hơn nữa sự liên kết về “trục ngang” nhằm gia

tăng hiệu ứng bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công và đầu tư công cho CSHT

có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ miền Trung. Đối chiếu với định

hướng chính sách đầu tư công thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-

2030, tầm nhìn đến năm 2050, hoàn thiện tuyến cao tốc Bắc-Nam, tuyến đường ven

biển và gia tăng kết nối với khu vực Tây Nguyên là một trong những giải pháp quan

trọng để phát huy các lợi thế, gia tăng năng lực cạnh tranh của các địa phương nội

vùng KTTĐ miền Trung.

b. Nội dung giải pháp

Trước hết, để hoàn thiện tuyên cao tốc Bắc- Nam, vốn đầu tư công cần tập trung

hoàn thiện tuyến cao tốc kết nối Bình Định với các địa phương còn lại trong vùng.

Hiện tại tuyến cao tốc này chưa được xây dựng và vì thế, giảm tính kết nối giữa Bình

Định và các địa phương nội Vùng. Bên cạnh đó, để thúc đẩy sự liên kết dọc tại các

địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung, Chính phủ nên tăng cường vốn đầu tư

công nhằm hỗ trợ dự án đường cao tốc Quảng Ngãi- Hoài Nhơn.

Ngoài ra, với đặc thù hơn 1.000km chiều dài bờ biển, vùng duyên hải miền

Trung có tiềm năng lớn trong việc phát triển vận tải ven biển cũng như du lịch biển.

Tuy nhiên, tại vùng KTTĐ miền Trung, vận tải đường bộ vẫn là chủ yếu (Lê Văn

Đính và cộng sự, 2022). Hiện tại, đường ven biển Võ Chí Công bắt đầu từ TP. Hội

An đến sân bay Chu Lai (huyện Núi Thành) dài 69 km, được xây dựng với tổng vốn

đầu tư 1.479 tỷ đồng và Tuyến ven biển tỉnh Bình Định đoạn từ Cát Tiến - Diêm Vân

(tổng mức đầu tư hơn 2.674 tỷ đồng) đã được tỉnh Bình Định tiến hành khởi công vào

giữa tháng 4/2022 đang là tuyến đường ven biển kết nối các địa phương thuộc vùng

KTTĐ miền Trung. Cùng với đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi và Quốc lộ 1A,

hai tuyến đường này là trục giao thông huyết mạch kết nối liên vùng, tạo động lực

phát triển lan tỏa kinh tế ven biển miền Trung (Lê Văn Đính và cộng sự, 2022). Do

đó, để mở rộng hơn nữa liên kết “dọc” các địa phương nội, cần phân bổ đầu tư công

cho các dự án về xây dựng các tuyến đường ven biển.

132

Đặc biệt, bên cạnh kết nối “dọc”, có thể tạo kết nối “ngang” bằng cách liên kết

giữa vùng KTTĐ miền Trung và các tỉnh Tây Nguyên. Hiện nay, vùng KTTĐ miền

Trung mới chỉ liên kết các tỉnh ven biển theo trục dọc mà chưa liên kết với các tỉnh

Tây Nguyên. Tuy nhiên trong bối cảnh các đại phương trong vùng có tiềm năng thế

mạnh khá tương đồng thì dễ dẫn tới áp lực cạnh tranh. Liên kết với các tỉnh Tây

Nguyên có thế mạnh khác biệt vừa hỗ trợ liên kết vùng ven biển bởi miền Trung là

cửa ngõ ra vào của vùng Tây Nguyên, kết nối tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây.

Thứ hai, hỗ trợ đầu tư tư nhân từ khu vực doanh nghiệp nhằm hạn chế tác

động lấn át của đầu tư công trong ngắn hạn.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu kết quả mô hình hồi quy, trong ngắn hạn đầu tư công lấn át đầu tư tư

nhân khu vực doanh nghiệp tại hầu hết các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung.

Điều này cho thấy đầu tư công tác động mạnh tới đầu tư tư nhân tại các địa phương

nội vùng trong ngắn hạn so với các vùng KTTĐ khác tuy nhiêu chiều hướng tác động

lại là lấn át. Đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế cũng như thực trạng đầu tư

công, đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ, khu vực doanh nghiệp với các KCN, KKT đóng

vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế khu vực KTTĐ miền Trung. Do đó

để hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp

tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung thì cần thực hiện các giải pháp

như sau.

b. Nội dung giải pháp

Trước hết, tăng cường vốn đầu tư công cho cơ sở hạ tầng của các KCN, KKT

tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Miền Trung nhằm hỗ trợ khu vực doanh nghiệp.

Cơ cấu đầu tư tư nhân cho thấy đầu tư khu vực doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chủ đạo

so với đầu tư khu vực hộ gia đình tại các địa phương nội vùng. Kết quả hồi quy cũng

minh chứng cho tác động rõ rệt của đầu tư công tới đầu tư tư nhân khu vực doanh

nghiệp so với khu vực hộ gia đình tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung.

Tuy nhiên, mặc dù được xác định là “xương sống” của các địa phương thuộc vùng

KTTĐ miền Trung tuy nhiên các KCN, KTT đang bộc lộ rất nhiều hạn chế (Đặng

Đình Đức, 2019). Cụ thể, trong quá trình phát triển, hoạt động của các KCN của vùng

còn tiềm ẩn nhiều hạn chế và một trong những nguyên nhân đó chính là hệ thống kết

cấu hạ tầng xuống cấp và thiếu đồng bộ (Trần Đình Thiên, 2021). Do đó, để thúc đẩy

đầu tư tư nhân, đối với mỗi địa phương nội Vùng, Chính phủ cần hỗ trợ vốn đầu tư

công hỗ trợ các KCN, KKT nhằm nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, từ đó thúc

133

đẩy đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ miền Trung. Vì vậy, Chính phủ cần ưu tiên vốn

đầu tư công để cải tạo cơ sở hạ tầng của KCN, KKT lớn đã xuống cấp tại mỗi địa

phương nội Vùng. Cụ thể, đó là khu KKT Dung Quất (Quảng Nam), KKTM Chu Lai

(Quảng Nam), KCN Đà Nẵng (Đà Nẵng). Sau đó, vốn đầu tư công có thể hỗ trợ các

KCN, KKT mới tại các địa phương nội vùng hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Cụ thể, (KCN)

Becamex VSIP (Bình Định), Khu công nghiệp Hoà Khánh mở rộng (Đà Nẵng), KCN

Quảng Vinh và Phú Đa (Thừa Thiên Huế).

Bên cạnh đó, cân đối ngân sách của các địa phương nội vùng, tăng tỷ lệ đầu tư

CSHT (chi XDCB) nhiều hơn. Từ số liệu của đầu tư XDCB của các địa phương thuộc

vùng KTTĐ cho thấy, chủ yếu ngân sách sử dụng cho chi thường xuyên nhiều hơn là

cho các khoản chi đầu tư XDCB (bình quân trên 40%). Trong khi đó, các khoản chi

thường xuyên là các khoản khó điều chỉnh. Điều này dẫn tới tiết kiệm cho ngân sách

đầu tư công thấp, gây ra vòng xoáy vay nợ bù đắp thâm hụt ngân sách và từ đó gây

sức ép lên thị trường vốn trong nước theo chiều hướng bất lợi cho kinh doanh của

doanh nghiệp (Đỗ Thị Thanh Huyền, 2021). Trên thực tế, ngoại trừ Đà Nẵng, các địa

phương còn lại thương xuyên đối mặt với vấn đề thâm hụt ngân sách do bội chi từ đó

dẫn tới nhu cầu vay vốn ngày càng tăng đối với khu vực công. Trong khi đó, theo cơ

cấu đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng, khu vực doanh nghiệp - đối tượng có

nhu cầu vay vốn lớn để triển khai các hoạt động đầu tư chiếm tới 65%. Do đó, sức

ép của thị trường vốn vay tác động rõ rệt tới các doanh nghiệp thuộc các địa phương

50

40

30

20

10

-

Đà Nẵng

Quảng Nam

Quảng Ngãi

Thừa Thiên Huế

Bình Định

Thu NS

Chi NS

nội vùng.

Hình 6.2: Tình hình thu chi bình quân từ NS địa phương trong giai đoạn 2010-

2021 tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Niên giám thống kê các tỉnh thuộc vùng KTTĐ

Miền Trung

134

Ngoài ra, tại một số địa phương nội Vùng như Huế (8,81%) có tỷ trọng doanh

nghiệp nhà nước cao hơn rất nhiều so với mức bình quân chung cả nước (0,3%). Việc

doanh nghiệp nhà nước tham gia hoạt động đầu tư cũng là một trong những nguyên

nhân tạo sự lấn át cho doanh nghiệp tư nhân khi cùng tham gia đầu tư vào một số lĩnh

vực mà khu vực tư nhân đầu tư hiệu quả hơn (Phạm Đình Khôi và cộng sự, 2019).

Để tránh hiện tượng chèn ép của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tới các địa phương

nội Vùng trong ngắn hạn, cần phải điều chỉnh lại cơ cấu chi NSNN, tập trung nhiều

hơn tới XBCD và quản lý tốt hơn các khoản chi thường xuyên.

Thứ ba, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI vào lĩnh vực nghỉ

dưỡng bất động sản nhằm gia tăng tác động bổ trợ và hạn chế tác động lấn át của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, trong ngắn hạn đầu tư công có tác động

lấn át đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng. Do đó, để hạn chế tác động lấn át

của đầu tư công trong ngắn hạn, các tỉnh trong vùng KTTĐ miền Trung cần tăng

cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bởi lẽ từ kết quả nghiên cứu,

FDI có tác động thúc đẩy đầu tư tư nhân tại một số các địa phương trong vùng kinh

tế trọng điểm miền Trung. Đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế và định hướng

chính sách đầu tư công, du lịch-dịch vụ là ngành kinh tế mũi nhọn của vùng. Mặt

khác, đối chiếu với bối cảnh trong nước và quốc tế, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài đang ngày càng trở nên cạnh tranh hơn giữa các quốc gia trước tác động của

các cú sốc kinh tế và chính trị. Do đó, các địa phương cần xây dựng giải pháp khôi

phục và phát triển dịch vụ - du lịch cũng như thu hút FDI vào dịch vụ - du lịch.

b. Nội dung giải pháp

Về lĩnh vực đầu tư, với lợi thế về địa hình bờ biển dài đẹp, các địa phương nội

vùng KTTĐ miền Trung nên nắm bắt được xu thế của dòng vốn FDI, từ đó xây dựng

giải pháp nhằm thu hút dòng vốn FDI chảy vào lĩnh vực BĐS nghỉ dưỡng. Số liệu từ

Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy, tính đến ngày 20/9/2022,

tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt 18,7 tỷ USD,

giảm 15,3% so với cùng kỳ năm 2021.Trong đó, lĩnh vực kinh doanh BĐS vẫn tiếp

tục ở vị trí thứ 2 trong danh sách các ngành thu hút vốn đầu tư FDI trong 9 tháng qua

với hơn 3,5 tỷ USD, chiếm gần 19% tổng vốn đầu tư đăng ký. Có thể nói, xu hướng

chính của nhà đầu tư hiện nay là đầu tư những dự án giá trị, xây dựng những điểm

135

đến có giá trị và việc khai thác đầu tư theo dòng tiền hiện nay ở Việt Nam cực kỳ cao.

Các loại hình bất động sản nghỉ dưỡng hấp dẫn vốn FDI là khách sạn nội đô, khu nghỉ

dưỡng dài hạn, dịch vụ quản lý bất động sản nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí.

Về phương thức thu hút dòng vốn đầu tư, trước hết các địa phương nội vùng cần

dành nguồn lực đầu tư công tập trung vào cơ sở hạ tầng du lịch bao gồm cải thiện hệ

thống giao thông, xây dựng các khu du lịch, khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi, giải trí và

các tiện ích liên quan khác. Bên cạnh đó, để thu hút FDI vào BĐS nghỉ hướng, cần

chú ý tới đào tạo và phát triển nhân lực cho ngành du lịch. Mặt khác, các địa phương

nội vùng cần có sự hợp tác với các đối tác trong nước và nước ngoài nhằm bổ sung

thêm nguồn lực thúc đẩy du lịch nội vùng và từ đó thu hút khách du lịch quốc tế.

6.3.2.3 Vùng KTTĐ phía Nam

Thứ nhất, tập trung vốn đầu tư công xây dựng hạ tầng số hiện đại, thuộc

nhóm đầu các nước trong khu vực và hoàn thiện cơ sở hạ tầng KCN nhằm gia

tăng tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công cho CSHT tác động bổ trợ

tới đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ phía Nam. Đối chiếu với tình hình phát triển kinh

tế xã hội cũng như định hướng chính sách đầu tư công thông qua Quy hoạch tổng thể

quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, các địa phương nội Vùng được

định hướng phát triển các KCN sinh thái hiện đại và thành phố Hồ Chí Minh được

định hướng pháp triển thành trung tâm tài chính thế giới. Đối chiếu bối cảnh trong

nước và quốc tế, đầu tư công cho CSHT chính là một trong những giải pháp quan

trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của các địa phương và thu hút đầu tư tư nhân.

b. Nội dung giải pháp

Về xây dựng hạ tầng số, trong chiến lược phát triển các vùng kinh tế trọng điểm

tại nghị quyết 128, vùng KTTĐ phía Nam được định hướng là trung tâm dịch vụ kinh

tế, tài chính, thương mại và khoa học-công nghệ của cả nước và cả khu vực. Trong

bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang chuyển sang xu hướng kinh tế số, Chính quyền

các địa phương thuộc vùng KTTĐ cần hướng đến chính sách phát triển cơ sở hạ tầng

dành cho công nghệ số bên cạnh các vấn đề liên quan tới chất lượng nhân lực hay thể

chế. Theo nghiên cứu của Huỳnh Thị Tuyêt Ngân và cộng sự (2021), chuyển đổi số

có tác động tích cực tới đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại các tỉnh thuộc vùng

KTTĐ phía Nam. Trong đó, chỉ số hạ tầng công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan

136

trọng đối với tác động tích cực này. Mặt khác, theo báo cáo của Hiệp hội Thương mại

điện tử Việt Nam, hiện trong tốp 5 các tỉnh, thành dẫn đầu bảng xếp hạng Chỉ số

thương mại điện tử (EBI), có 2 tỉnh, thành nằm trong Vùng KTTĐ phía Nam là TP.Hồ

Chí Minh dẫn đầu và Bình Dương xếp thứ 5. Ngoài ra, Bình Dương còn được Cộng

đồng Thành phố thông minh thế giới (ICF) bình chọn là một trong 21 thành phố, khu

vực có chiến lược phát triển thành phố thông minh tiêu biểu của thế giới và là địa

phương đầu tiên của Việt Nam, cùng với Singapore trở thành thành viên chính thức

của ICF. Tuy nhiên, hạ tầng CNTT tại Vùng hiên nay còn ở tình trạng tiêng rẽ, độc

lập, do đó chưa đảm bảo tính liên tục của dịch vụ số. Hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin còn chậm về tốc độ, chưa đáp ứng các yêu cầu về phát triển của kinh tế số19.

Do đó, bên cạnh phân bổ vốn đầu tư công cho cơ sở hạ tầng giao thông, cơ sở hạ tầng

đô thị như các vùng KTTĐ khác, chính phủ cần tăng cường nguồn lực đầu tư công

cho việc xâu dựng và phát triển hạ tầng công nghệ số tại vùng KTTĐ phía Nam nói

riêng và tiến tới phổ cập cả nước nói chung. Đặc biệt, thành phố Hồ Chí Minh cần

phải đi đầu trong thực hiện chuyển đổi số, trong phát triển hạ tầng về công nghệ thông

tin, hạ tầng số để hỗ trợ quá trình chuyển đổi số nhanh chóng.

Hiện nay, Chính phủ đã giao Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp

với các cơ quan liên quan triển khai phát triển hạ tầng số hiện đại, ưu tiên triển khai

hạ tầng mạng 5G trong các khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung để

triển khai các công nghệ số đổi mới sáng tạo mang tính đột phá; hướng dẫn các địa phương xây dựng, phát triển chính quyền số gắn liền với đô thị thông minh20. Đối với

TP. Hồ Chí Minh, UBND TPHCM vừa ban hành kế hoạch triển khai Chương trình

“Chuyển đổi số của TPHCM” và Đề án “Xây dựng TPHCM trở thành đô thị thông

minh”. Theo đó, TP tục mở rộng, hoàn thiện nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của

TP để chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của các cơ quan tại TP và kết nối

liên thông thành công với nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia. Ngoài ra, xây

dựng kiến trúc mạng viễn thông băng rộng dùng riêng cho đô thị thông minh. Đồng

thời, tăng cường vùng phủ sóng và chất lượng dịch vụ viễn thông băng rộng di động

(3G, 4G, hường đến 5G) và mạng băng rộng cố định (cáp quang) đến cấp xã, khu

19 Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị. 20 Thông báo số 207/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ.

phố ấp.

137

Tuy nhiên, đặc điểm kinh tế TP.HCM là hơn 95% là các doanh nghiệp nhỏ và

vừa cùng với hơn 300 ngàn hộ sản xuất kinh doanh cá thể. Mặc dù chuyển đổi số sẽ

nâng cao hiệu quả, năng suất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, hộ kinh doanh

trong mọi ngành kinh tế, nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức, trong đó nổi bật là yếu

tố nhân lực kể cả hai khía cạnh: nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và nhân lực

dôi dư do không đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong từng doanh nghiệp (động lực

và trở lực đang đan xen nhau). Có lẽ quá trình chuyển đổi số vấn đề công nghệ quan

trọng, nhưng quan trọng hơn là yếu tố con người. Do đó, vấn đề đặt ra là vai trò Nhà

nước hay nói cách khác là đầu tư công cho phát triển nguồn lực đủ trình độ đáp ứng

chuyển đổi số.

Về hoàn thiện CSHT KCN, xu thế biến đổi cấu trúc giao thông kết nối vùng và

lãnh thổ quốc gia thông qua hình thành hệ thống đường cao tốc, ga hàng không, cảng

biển sẽ tạo ra những xu thế dịch chuyển về phân bố địa bàn hệ thống các KCN “mới”

trong giai đoạn tới. Do đó, chiến lược tích hợp hệ thống KCN với hệ thống đô thị mới

và các điểm dân cư công nghiệp cần được thể hiện rõ định hướng Quy hoạch tổng thể

Quốc gia, Quy hoạch hệ thống đô thị - nông thôn để tạo ra sức mạnh tổng hợp giữa

phát triển sản xuất và nguồn nhân lực; gắn kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào

kỹ thuật; gắn kết giữa phát triển đô thị và hệ thống điểm dân cư hiện đại và hệ thống

KCN. Đẩy mạnh nghiên cứu, đổi mới quy hoạch nhằm xây dựng các mô hình đô thị

- công nghiệp, khu dịch vụ - công nghiệp - đô thị, KCN sinh thái (tiết kiệm năng

lượng, phát thải thấp). Xây dựng mô hình KCN sinh thái, KCN đô thị dịch vụ đồng

bộ kết cấu hạ tầng KCN.

Thứ hai, quản lý hiệu quả vốn vay trong đầu tư công nhằm hạn chế tác động

lấn át đối với đầu tư tư nhân trong ngắn hạn.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, trong ngắn hạn, đầu tư công có tác động

lấn át đầu tư doanh nghiệp tới một số địa phương thuôc vùng KTTĐ phía Nam trong

khi đó lại có tác động bổ trợ tại một số địa phương. Đối chiếu với thực trạng đầu tư

công tại các địa phương vùng KTTĐ, hiệu ứng lấn át đều là những địa phương có tỷ

trọng vốn vay trong cơ cấu đầu tư công lớn nhất trong nội Vùng. Cụ thể, Bình Phước

với tỷ lệ vốn vay 31,42%, Tiền Giang với 28,37%. Trong khi đó hầu hết các địa

phương còn lại tỷ lệ vốn vay chỉ dưới 10% trong cơ cấu đầu tư công.

138

b. Nội dung giải pháp

Trước hết, để hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại một

số địa phương thuộc vùng KTTĐ, trước hết Chính phủ cần trao quyền cho Hội đồng

Vùng và Chính quyền địa phương rà soát danh mục các chương trình, dự án đầu tư

sử dụng vốn vay, kiên quyết cắt giảm các chương trình, dự án không đảm bảo hiệu

quả, chưa thực sự cần thiết. Bên cạnh đó, Hội đồng Vùng và Chính quyền địa phương

đặc biệt là các địa phương đang có tỷ trọng vốn vay cao cần nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn vay, từng bước thu hẹp phạm vi sử dụng nợ, chỉ tập trung cho các công

trình, dự án trọng điểm, thực sự có hiệu quả, đảm bảo khả năng cân đối nguồn trả nợ.

Theo Đỗ Thị Thanh Huyền và cộng sự (2021), một trong những nguyên nhân dẫn tới

đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân đó chính là đầu tư công dựa nhiều vào nguồn vay

nợ, đặc biệt là vay nợ trong nước. Các ngân hàng thương mại nắm giữ hầu hết trái

phiếu Chính phủ và do đó chèn ép đầu tư tư nhân trong nước, từ đó phải dựa nặng

nề vào việc vay nợ từ các ngân hàng thương mại. Tình trạng này kết hợp với số lượng

lớn các khoản vay không hiệu quả và sức ép liên quan tới tính thanh khoản của hệ

thống ngân hàng đã đẩy Chính phủ đến khó khăn trong việc trả nợ của Chính phủ. Và

vòng xoáy đầu tư công, thâm hụt ngân sách, vay nợ, lấn át đầu tư tư nhân lại tiếp diễn.

Thứ ba, phát triển thị trường vốn nhằm giảm áp lực đối với tín dụng ngân

hàng nhằm hạn chế tác động lấn át của đầu tư công trong ngắn hạn.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, trong ngắn hạn tại TP. Hồ Chí Minh,

đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân tư khu vực doanh nghiệo cũng như

hộ gia đình. Nguyên nhân xuất phát từ yếu tố tại thành phố Hồ Chí Minh có thị trường

vốn tương đối phát triển so với các địa phương khác. Hơn nữa, trong chiến lược phát

triển các vùng kinh tế trọng điểm tại nghị quyết 128, vùng KTTĐ phía Nam được

định hướng là trung tâm dịch vụ kinh tế, tài chính, thương mại và khoa học-công nghệ

của cả nước và cả khu vực. Kết quả hồi quy lại cho thấy yếu tố lãi suất có tác động

ngược chiều tới đầu tư tư nhân và đầu tư công tại Việt Nam phụ thuộc nhiều vào việc

vay vốn từ NHTM (Đỗ Thị Thanh Huyền và cộng sự, 2021). Đối chiếu với thực trạng

đầu tư tư nhân tại vùng KTTĐ phía Nam nói riêng và tại các vùng KTTĐ nói chung,

khi vực hộ gia đình cũng gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn từ hệ thống NHTM

do không có tài sản đảm bảo. Do đó, đa dạng hóa công cụ tín dụng chính là giảm

gánh nặng đối với thị trường vốn hiện nay đang dựa nhiều vào hệ thống ngân hàng

139

thương mại và từ đó sẽ giảm tình trạng vay vốn tín dụng ngân hàng để tài trợ đầu tư

công. Đối chiếu với định hướng chính sách đầu tư công tại vùng cũng như bối cảnh

trong nước và quốc tế, TP.HCM đang được định hướng trở thành trung tâm tài chính

quốc tế, từ đó tạo động lực dẫn dắt các địa phương còn lại phát triển thị trường vốn.

b. Nội dung giải pháp

Trước hết, Chính phủ, Hội đồng Vùng cũng như chính quyền địa phương vùng

KTTĐ phía Nam cần nghiên cứu về vấn đề phát triển và hoàn thiện các định chế tài

chính-tín dụng phi ngân hàng như các công cụ quỹ đầu tư , công ty đầu tư , công ty

tàu chính...Các định chế này là công cụ để tập hợp các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội,

từ đó giảm áp lực cho tín dụng ngân hàng, cũng như tạo điều kiện cho các thành phần

đầu tư tư nhân có thể tiếp cận được vốn để mở rộng đầu tư.

Bên cạnh đó, thành phố Hồ Chí Minh cần chứng minh vai trò dẫn dắt của mình

thông qua việc tiên phong phát triển thị trường vốn. Đến nay, TP Hồ Chí Minh là địa

phương duy nhất của cả nước được tổ chức Z/Yen - London đánh giá xếp hạng so với

các trung tâm tài chính toàn cầu. Các cấu phần thị trường bao gồm thị trường cổ

phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán phái sinh đều đạt tốc độ tăng

trưởng cao, là cơ sở để thị trường tiếp tục phát triển trong giai đoạn 2020 đến năm 202521. Đây chính là cơ sở để thúc đẩy việc hình thành Trung tâm tài chính quốc tế

tại TP Hồ Chí Minh. Do đó, thành phố hoàn toàn có đủ khả năng để trở thành hạt

nhân dẫn dắt các địa phương còn lại phát triển thị trường vốn. Để phát triển TP.HCM

trở thành trung tâm tài chính quốc tế, cần hoàn thiện 3 trụ cột cốt lõi. Thứ nhất, với

trụ cột thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng, hiện chỉ mới có hệ thống ngân hàng

thương mại mà thiếu ngân hàng đầu tư. Thứ hai, với trụ cột thị trường vốn thì còn

manh nha, sơ khai và mới hình thành dạng trái phiếu ở một số lĩnh vực nhất định,

trong đó chủ yếu là ngành bất động sản. Cần hoàn thiện hệ thống pháp lý để thị trường

này hoạt động đầy đủ cho tất cả ngành nghề. Thứ ba, là trụ cột về thị trường hàng hoá

phái sinh. Trụ cột này hoàn toàn chưa có, thậm chí sàn giao dịch điện tử hàng hoá sơ

cấp nhất cũng chưa hình thành.

Thứ tư, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI công nghệ cao theo

hướng tự động hóa, ứng dụng robot và trí tuệ nhân tạo nhằm gia tăng tác động bổ

trợ và hạn chế tác động lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa

21 Tọa đàm “Giải pháp hình thành trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM”, Báo Sài Gòn giải phóng, 9/2/2023.

phương nội vùng.

140

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ

phía Nam có vốn FDI có rác động tích cực tới đầu tư tư nhân thì đầu tư công tạo hiệu

ứng bổ trợ tới đầu tư công ngay cả trong ngắn hạn. Đối chiếu với tình hình phát triển

kinh tế, mặc dù là vùng KTTĐ có nhiều KCN, KKT nhất trong số 4 vùng KTTĐ

nhưng giá trị gia tăng của sản phẩm, hiệu quả sử dụng tài nguyên, thâm dụng lao động

phổ thông chính là những hạn chế mà các địa phương nội vùng đang phải đối mặt.

Do đó, định hướng phát triển của Vùng là chuyển hướng thu hút đầu tư FDI có chiều

sâu. Hay nói cách khác, vùng định hướng thu hút FDI công nghệ cao, tập trung hỗ trợ

các dự án đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng tự động hóa, ứng dụng robot và trí

tuệ nhân tạo trong sản xuất và quản lý, điều hành.

b. Nội dung giải pháp

Trước hết, để hướng tới mục tiêu thu hút vốn đầu tư FDI vào các dự án công

nghệ cao đòi hỏi các địa phương nội Vùng cần phải cân đối và điều chỉnh cơ cấu vốn

đầu tư công cho CSHT KHCN với mức hợp lý hơn. Do ngoại trừ TP. Hồ Chí Minh,

các địa phương nội vùng có tỷ trọng đầu tư CSHT cho KHCN tương đối thấp (1,13%).

Bên cạnh đó, TP.Hồ Chí Minh với vai trò là thành phố đầu tàu cần tiên phong phát

triển CSHT cho KHCN trong cơ cấu vốn đầu tư công. Mặt khác, TP.HCM cần ban

hành Bộ tiêu chí thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và có kế hoạch, lộ trình, chính

sách cho việc chuyển đổi công nghệ trong phát triển công nghiệp trên địa bàn TP. Từ

đó, hình thành điểm sáng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư có mong muốn chuyển đến

tìm kiếm cơ hội làm ăn, phát triển tại TP.HCM nói riêng, vùng KTTĐ phía Nam và

cả nước nói chung trong bối cảnh dòng vốn đầu tư trên thế giới đang có sự chuyển

dịch mạnh mẽ từ Tây sang Đông, nhất là Đông Nam Á trong đó có VN. Qua đó, tạo

sức mạnh lan tỏa tới các địa phương nội vùng nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn

FDI công nghệ cao.

6.3.2.4 Vùng KTTĐ ĐBSCL

Thứ nhất, tập trung vốn đầu tư công vào cơ sở hạ tầng giao thông đường thủy

nhằm gia tăng tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa

phương nội vùng.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công có tác động bổ trợ đầu tư tư

nhân trong dài hạn. Đặc biệt đầu tư công cho CSHT theo phương pháp phi nhân quả

141

Granger có tác động bổ trợ tới đầu tư tư nhân. Do đó, tập trung đầu tư công vào cơ

sở hạ tầng chính là một trong những giải pháp lan tỏa tác động dài hạn của đầu tư

công tới đầu tư tư nhân. Mặt khác, đối chiếu với thực trạng đầu tư công tại các địa

phương vùng KTTĐ ĐBSCL, đầu tư công cho cơ sở hạ tầng giao thông ở vùng KTTĐ

ĐBSCL chưa theo kịp với nhu cầu, do đó đầu tư công bổ sung là cần thiết và phải đi

kèm với hiệu quả trong quy hoạch, tránh trùng lặp, chậm trễ… làm kìm hãm sự phát

triển cơ sở hạ tầng trong khu vực (UNDP, 2022). Ngoài ra, đối chiếu với bối cảnh

trong nước và quốc tế, đầu tư công cho CSHT chính là một trong những giải pháp

quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của các địa phương và thu hút đầu tư tư

nhân trong nước cũng như nước ngoài.

b. Nội dung giải pháp

Tại Vùng KTTĐ ĐBSCL, phương thức vận tải hàng hóa bằng đường bộ đang

chiếm ưu thế so với đường thủy (thủy nội địa và vận tải biển ven bờ). Tuy nhiên, hạ

tầng giao thông đường bộ hiện tại vẫn bộc lộ rất nhiều yếu kém, một phần do địa hình

của Vùng (ngập mặn, sạt lở, địa chất kém…) khó thực thi các dự án đường bộ, mặt

khác do thiếu nguồn lực đầu tư. Trong bối cảnh ngân sách đang bị thu hẹp do đại dịch

Covid-19, ngân sách Chính phủ không thể đầu tư dàn trải cho tất cả các hạng mục

liên quan tới các dự án đường bộ tại các địa phương do đó Chính phủ cần hỗ trợ

nguồn vốn đầu tư công tập trung vào các tuyến liên kết nội vùng như tuyến cao tốc

Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Cà Mau, tuyến tránh Quốc lộ 1 qua

TP. Cà Mau…Bên cạnh đó, để hỗ trợ hoạt logistics cho các doanh nghiệp Chính phủ

cũng nên tập trung vào hệ thống đường bộ cao tốc khi mà hệ thống đường bộ cao tốc

tại Vùng chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải với khối lượng lớn, tốc độ nhanh, an

toàn và chi phí đường bộ cao tốc tại khu vực ĐBSCL cao hơn 1,3-1,5 lần so với các

khu vực khác. Hiện nay mới chỉ có tuyến Cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ đang bắt đầu

được thi công vào năm 2021 và đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.22

Tuy nhiên, nếu tính đầy đủ các chi phí ngoại tác (ví dụ hệ quả gây ra cho biến

đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, tai nạn, tắc nghẽn giao thông, các chi phí khác…)

thì chi phí vận tải đường bộ sẽ cao gấp năm lần so với vận tải đường thủy nội địa;

22 Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030

phát thải khí nhà kính cũng cao gấp 3,5 lần. Vận tải thủy còn có nhiều lợi thế như giá

142

cước thấp, tải được nhiều loại hàng có khối lượng lớn, hàng hóa siêu trường, siêu

trọng, lại là phương thức vận chuyển mang tính xã hội hóa. Vì vậy, việc đầu tư hạ

tầng giao thông thủy một cách đồng bộ đang là vấn đề cấp thiết (Vũ Thành Tự Anh,

2022). Trong bối cảnh vận tải container ở Việt Nam đang ngày càng phát triển và vận

tải đường bộ đang quá tải thì việc chuyên chở và trung chuyển hàng container bằng

đường thủy nội địa là một trong những giải pháp vận tải hợp lý trong việc kết nối với

các cảng biển. Ngoài ra, còn góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát

thải khí CO2. Do đó, đầu tư công tại vùng KTTĐ ĐBSCL cần hướng mục tiêu vào

phát triển hạ tầng giao thông đường thủy. Trong đó, cần ưu tiên đầu tư tuyến đường

thủy kết nối các địa phương nội vùng như Rạch Giá - Cà Mau, Mộc Hoa - Hà Tiên,

Quản Lộ - Phụng Hiệp, cảng Tân Châu, An Giang, cảng Bình Long, An Giang, cảng

Tắc Cậu, Kiên Giang và cảng Ông Đốc, Cà Mau hoặc tuyến đường thủy kết nối với

thành phố Hồ Chí Minh và Vùng Đông Nam Bộ như tuyến Thành phố Hồ Chí Minh

- Kiên Lương.

Thứ hai, tăng cường đầu tư công vào hỗ trợ chuyển đổi mô hình sản xuất

nông nghiệp theo hướng bền vững và có sự liên kết với doanh nghiệp nhằm gia

tăng tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, đầu tư công có tác động tích cực tới đầu

tư tư nhân khu vực hộ gia đình tại một số địa phương nội Vùng trong ngắn hạn và

khu vực doanh nghiệp trong dài hạn. Mặt khác, đối chiếu với thực trạng đầu tư tư

nhân và tình hính phát triển kinh tế tại các địa phương nôi vùng, đầu tư tư nhân tại

vùng KTTĐ ĐBSCL phụ thuộc vào cả hộ gia đình và doanh nghiệp với tỷ trọng gần

tương đương nhau. Trong đó, nông nghiệp chính là ngành sinh kế chủ đạo của hộ gia

đình tại các địa phương nội Vùng và cũng là thế mạnh của vùng KTTĐ ĐBSCL. Tuy

nhiên, hiệu quả đầu tư tư nhân của khu vực này chưa cao do thiếu hụt lượng vốn lớn.

Bên cạnh đó, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp chưa thực sự có sự gắn kết.

b. Nội dung giải pháp

Để hỗ trợ chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, chính sách đầu tư công cần

tập trung hỗ trợ khu vực hộ gia đình tham gia sản xuất nông nghiệp theo hướng bền

vững và có sự liên kết với doanh nghiệp. Một trong những mô hình tiêu biểu mà khu

vực hộ gia đình tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL có thể triển khai và

phát triển đó chính là mô hình cánh đồng lớn.

143

Bảng 6.2: Thông tin chung về kết quả xây dựng cánh đồng lớn tại vùng KTTĐ

ĐBSCL năm 2020 so với năm 2016

Tổng số cánh đồng lớn Số hộ tham gia Diện tích gieo trồng Địa phương (Cánh đồng) (Hộ) trong 12 tháng trước

2016 2020 2016 2020 2016 2020

6 599 2 091 39 954 6 453 24 An Giang 140

6 161 4 855 23 005 15 321 93 Kiên Giang 151

26 593 18 473 35 002.9 39 308 44 Cần Thơ 36

998 4 193 2 456 3 695 18 Cà Mau 8

Nguồn: Cuộc điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 và 2016, Tổng

cục thống kê

Trên thực tế, cánh đồng lớn là mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân

để sản xuất lúa hàng hóa quy mô lớn. Khởi phát ở An Giang, cánh đồng mẫu lớn là

mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để sản xuất lúa hàng hóa quy mô

lớn, tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngành hàng lúa

gạo Việt Nam. Đây được xem là mối liên kết nhà nông - nhà doanh nghiệp trong sản

xuất - tiêu thụ lúa gạo. Mô hình này được kỳ vọng sẽ giúp lúa gạo dễ tiêu thụ, nâng

cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững và tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế của ngành hàng lúa gạo. Tuy nhiên, tổng số cánh đồng, số

hộ tham gia và diện tích gieo trồng có xu hướng sụt giảm mạnh trong những năm gần

đây. Một trong những nguyên nhân được cho là doanh nghiệp khó khăn trong tiếp

cận nguồn vốn (Đặng Hiếu, 2016).

Những năm gần đây, nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi dành cho nông nghiệp đã

được đưa ra để thúc đẩy sự phát triển của chương trình cánh đồng lớn tại ĐBSCL nói

chung và vùng KTTĐ ĐBSCL nói triêng. Tuy vậy nguồn vốn đầu tư trực tiếp đủ

mạnh, tạo đột phá cho cánh đồng lớn lại là vấn đề nan giải. Liên kết giữa doanh

nghiệp và nông dân chủ yếu vẫn ở phần ngọn là bao tiêu thu mua lúa. Do đó cánh

đồng lớn ngày càng bị thu nhỏ và chững lại trong những năm gần đây tại các địa

phương từng là đầu tàu của chương trình cánh đồng lớn như An Giang, Kiên Giang.

Mặc dù hai địa phương còn lại là Cần Thơ và Cà Mau đều có sự gia tăng về số lượng

cánh đồng lớn, số hộ tham gia và diện tích gieo trồng nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ.

Do đó, Nhà nước cần tập trung đầu tư và tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp

tiếp cận vốn để mô hình này tiếp tục lan tỏa và phát huy hiệu quả trong thời gian tới.

144

Trong đó, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nòng cốt thì cần được Chính phủ

hỗ trợ cùng Ngân hàng chính sách xã hội cho vay đủ vốn để đầu tư xây dựng cánh

đồng lớn liên kết theo từng dự án được các tỉnh, thành phố phê duyệt dựa trên các

tiêu chí, quy định của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Thứ ba, tăng cường thu hút và chọn lọc các dự án FDI vào nông nghiệp ứng

dụng công nghệ cao nhằm gia tăng tác động bổ trợ và hạn chế tác động lấn át của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa phương nội vùng.

a. Cơ sở xây dựng giải pháp

Đối chiếu với kết quả mô hình hồi quy, trong dài hạn FDI có tác động bổ trợ đầu

tư tư nhân tại các địa phương nội vùng. Do đó, để hạn chế tác động lấn át của đầu tư

công trong ngắn hạn, các tỉnh trong vùng KTTĐ ĐBSCL cần tăng cường thu hút vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế tại các

địa phương nội vùng, nông, lâm nghiệp, thủy sản là những ngành kinh tế mũi nhọn

của vùng nên các địa phương cần tìm giải pháp khôi phục cũng như thu hút FDI vào

các ngành mũi nhọn trên. Mặt khác, đối chiếu với bối cảnh trong nước và quốc tế, xu

hướng đầu tư mới của vốn FDI trên quy mô toàn cầu cho thấy dòng vốn vào lĩnh vực

sản xuất đang giảm dần. Thay vào đó, vốn FDI vào các lĩnh vực năng lượng tái tạo,

nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao hơn

(UNCTAD, 2021).

b. Nội dung giải pháp

Theo Dương Thị Trang (2018), các chính sách quan trọng để có thể thu hút FDI

vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam bao gồm có chính sách hỗ trợ

tín dụng, chính sách đất đai và chính sách cơ sở hạ tầng. Với trường hợp của vùng

KTTĐ ĐBSCL, các chính sách trên nên được thực hiện theo hướng như sau:

Đối với chính sách hỗ trợ tín dụng, ngoài gói tín dụng từ các ngân hàng thương

mại cho vay phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo nghị quyết số 30/2017/NQ,

các cá nhân doanh nghiệp sản xuất công nghiệp công nghệ cao có thể tiếp cận tín

dụng với lãi suất ưu đãi tại các ngân hàng chính sách xã hội. Mặc dù vậy, tại vùng

KTTĐ ĐBSCL, nguồn vốn mà các NHTM cho vay còn thiếu hụt khoảng 20% nhu

cầu (Nguyễn Thị Tuyết Nga, 2021). Do đó, Chính phủ nên sử dụng một phần vốn đầu

tư công nhằm cấp bù chênh lệch lãi suất tín dụng cho các cá nhân doanh nghiệp vay

vốn cho các dự án nông nghiệp công nghệ cao.

Đối với chính sách đất đai, tại vùng KTTĐ ĐBSCL, quy mô đất đai nông hộ

nhỏ lẻ, manh mún và không có diện tích lớn (VCCI, 2022). Điều này dẫn đến khó

145

khăn trong việc áp dụng đồng bộ khoa học kỹ thật. Do đó, Chính phủ cần sử dụng

vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ tài chính cho người nông dân nhằm vận động chuyển

quyền sử dụng đất, từ đó đẩy nhanh quá trình triển khai tích tụ, tập trung đất đai cho

các dự án nông nghiệp công nghệ cao.

Đối với chính sách cơ sở hạ tầng, do đặc thù tại vùng KTTĐ ĐBSCL, địa chất

yếu nên triển khai các dự án liên quan tới xây dựng CSHT đòi hỏi nguồn vốn lớn

(VCCI, 2022). Do đó, Chính phủ nên ưu tiên nguồn lực vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ

xây dựng CSHT nhằm hỗ trợ thu hút FDI vào nông nghiệp công nghệ cao. Các công

trình CSHT để phục vụ cho nông nghiệp công nghệ cao cần tập trung hoàn thiện là

hệ thống điện lưới, hệ thống thủy lợi, hệ thống công nghệ thông tin và hệ thống thủy lợi.

TỔNG KẾT CHƯƠNG 6

Chương 6 Luận án tập trung đề xuất giải pháp sử dụng đầu tư công nhằm thúc

đẩy đầu tư tư nhân tại các vùng KTTĐ.

Cụ thể, Luận án đề xuất giải pháp chung cho các vùng KTTĐ, đồng thời đưa ra

các giải pháp riêng biệt cho từng vùng KTTĐ. Các giải pháp đều tập trung vào gia

tăng hiệu ứng bổ trợ và giảm hiệu ứng lấn át của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân

tại các vùng KTTĐ. Đối với giải pháp chung, Luận án đề xuất các giải pháp như sau:

Thứ nhất, tăng cường vốn đầu tư công vào cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu thúc đẩy đầu

tư tư nhân trong dài hạn; Thứ hai, tập trung vốn đầu tư công nhằm hỗ trợ đầu tư tư

nhân từ khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh

doanh hộ gia đình đủ lớn thành mô hình doanh nghiệp tại các vùng KTTTĐ trong dài

hạn; Thứ ba, thúc đẩy hoạt động đầu tư công hiệu quả tại các hạt nhân của mỗi vùng

KTTĐ để tạo tác động bổ trợ cho đầu tư tư nhân cũng như tạo hiệu ứng lan tỏa đối

với đầu tư tư nhân ở các địa phương lân cận. Đối với giải pháp cụ thể, Luận án đề

xuất các giải pháp cho từng vùng KTTĐ trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế, thực

trạng đầu tư công, đầu tư tư nhân, kết quả mô hình hồi quy cũng như định hướng đầu

tư công trong giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2050 của các vùng KTTĐ.

Ngoài ra, Luận án cũng đề xuất các giải pháp liên quan tới (i) Tăng cường thu

hút và chọn lọc các dự án FDI vào các lĩnh vực thế mạnh của địa phương nội Vùng

và (ii) Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng nhằm hạn chế tác động lấn át của

đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn, từ đó khuyến khích đầu tư tư nhân tại

các vùng KTTĐ.

146

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh nền kinh tế sau đại dịch Covid-19, vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài trở nên cạnh tranh hơn, đầu tư công trở thành lực đẩy, thu hút vốn đầu tư tư

nhân trong nước và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam nói chung và

vùng KTTĐ nói riêng. Nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại

các vùng KTTĐ tại Việt Nam, Luận án đã làm rõ các khái niệm về đầu tư công, đầu

tư tư nhân, chỉ ra kênh tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân trong ngắn hạn và

dài hạn tại các vùng KTTĐ. Theo đó, trong ngắn hạn, đầu tư công tạo ra tác động lấn

át hoặc không tác động tới đầu tư tư nhân nhưng trong dài hạn, đầu tư công lại tạo ra

tác động bổ trợ đầu tư tư nhân. Cụ thể hơn, trong ngắn hạn, đầu tư công tạo ra tác

động lấn át hoặc không tác động tới đầu tư tư nhân khu vực doanh nghiệp, tuy nhiên

tại một số địa phương thuộc vùng KTTĐ, đầu tư công tạo tác động bổ trợ tới đầu tư

tư nhân khu vực hộ gia đình.

Luận án sử dụng ước lượng trung bình nhóm gộp PMG nhằm phân tách tác động

ngắn hạn và dài hạn của đầu tư công tới đầu tư tư nhân. Phương pháp này cho phép

các tham số ngắn hạn khác biệt giữa các nhóm trong khi ràng buộc các tham số dài

hạn đồng nhất giữa các đơn bị bảng. Vì vậy ưu điểm của PMG là nó cho phép phân

biệt tính động trong ngắn hạn (khác nhau giữa các nhóm) và dài hạn (đồng nhất giữa

các nhóm). Đây là một trong những điểm mới về phương pháp nghiên cứu của Luận

án so với những công trình nghiên cứu đi trước.

Từ kết quả mô hình hồi quy, kết hợp với tình hình thực hiện đầu tư công, đầu

tư tư nhân cũng như chính sách đầu tư công tại vùng KTTĐ, Luận án đề xuất các giải

pháp nhằm sử dụng hợp lý đầu tư công, từ đấy thúc đẩy đầu tư tư nhân chung cho

toàn bộ các vùng KTTĐ và tại mỗi vùng KTTĐ. Cụ thể, đối với giải pháp chung cho

tất cả các vùng KTTĐ, thứ nhất, tăng cường vốn đầu tư công vào cơ sở hạ tầng nhằm

mục tiêu thúc đẩy đầu tư tư nhân trong dài hạn. Thứ hai, tập trung vốn đầu tư công

nhằm hỗ trợ đầu tư tư nhân từ khu vực hộ gia đình trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển

đổi mô hình kinh doanh hộ gia đình thành mô hình doanh nghiệp tại các vùng KTTTĐ

trong dài hạn. Thứ ba, thúc đẩy hoạt động đầu tư công hiệu quả tại các hạt nhân của

mỗi vùng KTTĐ để tạo tác động bổ trợ cho đầu tư tư nhân cũng như tạo hiệu ứng lan

tỏa đối với đầu tư tư nhân ở các địa phương lân cận. các vùng KTTĐ cũng có sự khác

biệt về tình hình phát triển kinh tế, tình hình đầu tư công và đầu tư tư nhân. Vì vậy,

147

Luận án sẽ phân tích một số giải pháp cụ thể đối với từng vùng KTTĐ bên cạnh

những chính sách định hướng chung cho tất cả vùng KTTĐ.

Bên cạnh những đóng góp mới, Luận án vẫn còn những hạn chế như sau:

Thứ nhất, số liệu về đầu tư tư nhân tập trung ở góc độ doanh nghiệp và hộ gia

đình nói chung. Luận án chưa bóc tách được cụ thể các hình thức đầu tư từ khu vực

doanh nghiệp và hộ gia đình. Đồng thời với hình thức đầu tư hộ gia đình, Luận án

mới tập trung phân tích hộ gia đình kinh doanh trong lĩnh vực nông -lâm- ngư nghiệp

và phi nông-lâm-ngư nghiệp chính thức. Số liệu khu vực phi chính thức chưa được

khai thác trong Luận án.

Thứ hai, giải pháp liên quan tới vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chưa có

những đánh giá chi tiết từ nghiên cứu định tính nên chưa thực sự toàn diện.

NCS hy vọng những hạn chế này sẽ mang đến một số hướng nghiên cứu mới

trong tương lai như sau:

Thứ nhất, Luận án điều tra, khảo sát hộ gia đình cũng như khu vực doanh nghiệp

thức theo cơ cấu ngành nghề tại các vùng KTTĐ để có số liệu chi tiết hơn, từ đó sử

dụng mô hình ước lượng tác động cụ thể của đầu tư công tới lĩnh vực kinh doanh của

gia đình và doanh nghiệp.

Thứ hai, Luận án thu thập và tổng hợp các số liệu chi tiết về vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài đối với các lĩnh vực đầu tư tại các vùng KTTĐ thông qua nguồn từ Sở Kế

hoạch và Đầu tư tại các địa phương nội vùng. Từ đó, Luận án có thể đề xuất các giải

pháp chi tiết và toàn diện hơn đối với vấn đề sử dụng vốn FDI hợp lý nhằm gia tăng

hiệu ứng bổ trợ và giảm hiệu ứng lấn át của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa

phương nội vùng KTTĐ.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

TT Tên công trình Nơi công bố Vai trò

Năm công bố 2022 Tác giả thứ 1

Hội thảo quốc tế VEAM

of

1 The direct and spill - over effect of public investment on economic growth and convergence in the Southern Key Economic Region: An spatial application regression model

2022 Tác giả thứ 1

private investment

Hội thảo quốc tế CIEMB ISBN: 978-604- 330-515-9

2 The impact of public investment on in Vietnam’s Central Key Economic Region and the Mekong Delta Key Economic Region: a PMG approach

2023 Tác giả độc lập

3 Analyzing the impact of public investment on private investment in the Central Key Economic Region

2022 Tác giả độc lập

4 Tình hình vốn đầu tư thực hiện tại vùng KTTĐ Đồng bằng sông Cửu Long

2022 Tác giả độc lập

2022 Tác giả thứ 1

Hội thảo quốc tế ICSEED ISBN: 978-604- 79-3740-0 Tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam Tạp chí Kinh tế và Quản lý

Tác giả thứ 1

investment private

Được chấp nhận bài vào ngày 20/7/2023

Thailand and The World Economy Journal (Scopus Q4)

5 Nghiên cứu tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 6 Tác động trực tiếp và lan tỏa của đầu tư công tới tăng trưởng và hội tụ tại vùng KTTĐ phía Nam 7 The impact of public investment in on Vietnam’s Central Key Economic Region and the Mekong Delta Key Economic Region: a PMG approach

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu Tiếng Việt

1. Nguyễn Quỳnh Anh, Phát triển liên kết vùng kinh tế trọng điểm còn vướng mắc,

Báo Kiểm toán, số 36, 2019.

2. Hoàng Thế Anh, Nâng cao hiệu quả đầu tư công cho phát triển kinh tế huyện

3. Hiệp Hòa- Tỉnh Bắc Giang, Luận án Tiễn sĩ, Đại học Thái Nguyên, 2014.

4. Nguyễn Xuân Anh, Phân vùng kinh tế - xã hội và bài toán đánh thức tiềm lực

phát triển của địa phương, Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn Quốc gia, 2021.

5. Hoàng Dương Việt Anh, Đánh giá hiệu quả đầu tư công tại vùng Bắc Trung Bộ,

Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền Tệ; Số: 18(363)/ 2013.

6. Bạch Thị Lan Anh, Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế

trọng điểm Bắc bộ, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, 2011.

7. Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự, Tác động phi tuyến của phát triển tài chính

lên tăng trưởng kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, Số

10, pp.54-80, 2020.

8. Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16/7/2021 về tình hình, kết quả thực hiện Kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2020 và dự kiến Kế hoạch 5 năm 2021 -

2025.

9. Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm

2021 - 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ Bắc bộ.

10. Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm

2021 - 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ miền Trung.

11. Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm

2021 - 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ phía Nam.

12. Báo cáo kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm

2021 - 2025 của các địa phương nội Vùng KTTĐ ĐBSCL.

13. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực của Việt Nam giai đoạn 2010-2021

14. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng

KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021.

15. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng

KTTĐ miền Trung giai đoạn 2010-2021.

16. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng

KTTĐ phía Nam giai đoạn 2010-2021.

17. Báo cáo Quyết toán chi NSNN theo lĩnh vực tại các địa phương thuộc vùng

KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021.

18. Báo cáo tình hình KT-XH quý III và 9 tháng năm 2022, Tổng cục thống kê TP.

Cần Thơ

19. Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, Chính phủ, 2018

20. Nghi quyết số 15-NQ/TW, Bộ Chính trị, 2022.

21. Nguyễn Thị Cành & cộng sự, Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư

nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học, Số 13(2)/2018.

22. Nguyễn Thị Chinh, Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân trong phát

triển kinh tế tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, 2017.

23. Trần Kim Chung & cộng sự, Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản, Số

962(3)/2021.

24. Huỳnh Thế Du & cộng sự, Hệ thống tài chính Việt Nam, Chương trình Giảng

dạy Kinh tế Fullbright, 2013.

25. Lê Văn Đính & cộng sự, Liên kết vùng - Đòn bẩy phát triển vùng KTTĐ miền

Trung, Hội thảo Quốc gia “Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Liên kết tạo

động lực phát triển”, 7/2022.

26. Trần Thanh Hà, Một số vấn đề phân vùng kinh tế Việt Nam, Viện Việt Nam học

và khoa học phát triển, 2018.

27. Trần Trọng Hanh, Quy hoạch vùng, NXB Xây dựng, 2015.

28. Ngô Văn Hải, Phát triển các nguồn lực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong

tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sĩ,

Đại học Kinh tế-Luật, TP.Hồ Chí Minh, 2014.

29. Đoàn Thị Hân & cộng sự, Thu hút vốn đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông

thôn ở Viênt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học và công nghệ lâm nghiệp, số 1,

2019

30. Nguyễn Xuân Hưng và cộng sự, Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới

tăng trưởng kinh tế tỉnh Bắc Ninh, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 276, tháng

06, 2020, tr. 79-92.

31. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của Việt Nam giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.

32. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng KTTĐ Bắc bộ

giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.

33. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng KTTĐ miền Trung

giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.

34. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng KTTĐ phía Nam

giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.

35. Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các địa phương nội Vùng KTTĐ ĐBSCL

giai đoạn 2011-2015, 2016-2020.

36. Nguyễn Đức Kiên, Kinh tế Việt Nam - Nhìn lại sau 35 năm đổi mới, Viện chiến

lược và Chính sách, Bộ Tài Chính, 2021.

37. Phạm Ngọc Khanh, Nâng cao chất lượng tăng trưởng của vùng kinh tế trọng

điểm phía Nâm nhìn từ góc độ kinh tế, Tạp chí Khoa học Đại học mở Thành phố

Hồ Chí Minh, Vol.14(3), pp.84-105, 2019.

38. Nguyễn Thế Khang, Tác động của đầu tư công tới đầu tư tư nhân tại các địa

phương ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing, Số 67 - Tháng

02 Năm 2022.

39. Phan Đình Khôi & cộng sự, Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh

tế Việt Nam, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, Số tháng 12/2019.

40. Đinh Cao Khuê & cộng sự, Tổng quan một số chính sách hỗ trợ sản xuất, chế

biến và xuất khẩu nông sản, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 18(9), 2020.

41. Nguyễn Thị Thùy Liên, Vai trò của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng

trưởng qua các hệ số thu hút và lan tỏa, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính-

Marketing, Số tháng 7- tháng 2 năm 2022.

42. Trần Du Lịch, Tọa đàm: Đột phá hạ tầng thúc đẩy vùng kinh tế TP.HCM - Đồng

Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu, Báo Giao thông, 2021.

43. Vũ Thị Lộc, Xây dựng chiến lược phát triển thương mại vùng kinh tế trọng điểm

Bắc Bộ đến năm 2030, Luận án Tiễn sĩ, Đại học Thương mại, 2020.

44. Nguyễn Đình Luận, Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt

Nam, Tạp chí phát triển và hội nhập, Số 25(35) - Tháng 11-12/2015.

45. Diệp Gia Luật, Nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư công tại Việt Nam đến

năm 2020, Tạp chí Phát triển Kinh tế, Số 11/2015, tr. 2-24.

46. Luật Đầu tư công 2019, truy cập tại: www.moj.gov.vn/pages/vbpq.aspx.

47. Luật Đầu tư 2020, truy cập tại:https://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tl-pbgdpl/Pages/de-

cuong.aspx?ItemId=314.

48. Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1998, truy cập tại https://moit.gov.vn/van-

ban-phap-luat/van-ban-phap-quy/-luat-khuyen-khich-dau-tu-trong-nuoc.html.

49. Luật ngân sách nhà nước 2015, truy cập tại

https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=180627.

50. Nguyễn Thị Luyến, Một số vấn đề trong chính thức hóa hộ kinh doanh ở Việt

Nam, Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, Bộ kế hoạch và Đầu tư,

2022.

51. Nguyễn Đức Minh, Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu trường hợp

của thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí

Minh, 2014.

52. Hà Thị Tuyết Minh, Nâng cao hiệu quả đầu tư công để giảm nghèo ở Việt Nam,

Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia số 174 (12/2016).

53. Niên giám thống kê Việt Nam giai đoạn 2010-2021

54. Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021.

55. Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn

2010-2021.

56. Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn

2010-2021.

57. Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn

2010-2021.

58. Vũ Phương Nhi, Đẩy nhanh việc triển khai các công trình, dự án trọng điểm

ngành giao thông, 2023, truy cập tại https://baochinhphu.vn/day-nhanh-viec-

trien-khai-cac-cong-trinh-du-an-trong-diem-nganh-giao-thong-

102230215150316629.htm.

59. Hà Hữu Nga, Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong

phát triển bền vững vùng kinh tế, Đề tài cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng

Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2008.

60. Nguyễn Quỳnh Nga, Quảng Ninh: Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, Tạp chí Công

thương, số tháng 11 năm 2019.

61. Nguyễn Thị Thanh Nga, Tác động đầu tư công và đầu tư tư nhân đến tăng trưởng

kinh tế: bằng chứng thực nghiệm từ các quốc gia đang phát triển ở Châu Á, Đại

học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, 2016.

62. Nguyễn Thị Tuyết Nga, Tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế nông

nghiệp vùng KTTĐ Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Tài chính, Kỳ 1 tháng

6/2021.

63. Huỳnh Thị Tuyết Ngân & cộng sự, Tác động của chuyển đổi số đến tăng trưởng

kinh tế tại các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Tạp chí Nghiên cứu

Tài chính - Marketing, số 63, 2021.

64. Trần Đình Khôi Nguyên & cộng sự, Ảnh hưởng của các chính sách hỗ trợ và cơ

sở hạ tầng đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng,

Tạp chí Kế toán và Kiểm toán (ISSN 1859 - 1914), số 212, Tháng 5/2021.

65. Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP, Chính phủ, 2016.

66. Nghị quyết 35/NQ-CP, Chính phủ, 2019.

67. Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng các vùng KTTĐ

đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

68. Phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải các vùng KTTĐ đến năm

2020 và định hướng đến năm 2030

69. Lê Gia Phong, Kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng giai đoạn 2016-2020 tạo

đà và bứt phá, Tạp chí Con số- Sự kiện, số tháng 3 năm 2022.

70. TrầnVũ Phong, Nâng cao hiệu quả đầu tư công tại huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh

Long, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Trà Vinh, 2018.

71. Nguyễn Hà Phương và Nguyễn Tiến Huy, Đóng góp của ba vùng kinh tế trọng

điểm vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, Tạp chí Kinh tế và

Dự báo, 12, 2009.

72. Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng

sông Cửu Long đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

73. Tọa đàm “Giải pháp hình thành trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM”, Báo Sài

Gòn giải phóng, 9/2/2023

74. Sử Đình Thành, Đầu tư công chèn lấn hay thúc đẩy đầu tư khu vực tư nhân ở

Việt Nam,Tạp chí phát triển kinh tế,Số 251 tháng 9/2011, tr. 37-45.

75. Nguyễn Đức Thành, Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư trong lĩnh vực nông

nghiệp: Tổng quan những vấn đề lý luận cơ bản, Trung tâm nghiên cứu kinh tế

và chính sácg, Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.

76. Tô Trung Thành, Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình

thực nghiệm VECM, Tạp chí Tài chính, Số 560 tháng 6/2014, tr. 01-17

77. Nguyễn Hồng Thắng, Nâng cao chất lượng đầu tư công,Tạp chí phát triển kinh

tế,Số 221 tháng 3/2009, tr. 08-12.

78. Nguyễn Thị Thọ, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đẩy mạnh liên kết để phát triển

bứt phá, Tạp chí Con số sự kiện, Số kỳ I tháng 9 năm 2019.

79. Thông cáo báo chí về kết quả điều tra nông thông, nông nghiệp giữa kỳ năm

2020, Tổng cục thống kê.

80. Đinh Văn Thông, Di dân ngoại tỉnh vào thành phố Hà Nội: Vấn đề đặt ra và giải

pháp, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và kinh doanh 26(2010), 173-180.

81. Nguyễn Đình Thu & cộng sự, Đầu tư công với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Tạp chí Tài chính vĩ mô, Số 1(222), 2022.

82. Trần Ngọc Anh Thư và Lê Hoàng Phong, Tác động của đầu tư công đối với tăng

trưởng kinh tế ở Việt Nam: Góc nhìn thực nghiệm từ mô hình ARDL, Tạp chí

Phát triển và Hội nhập, Số19/2014, tr. 03-10.

83. Lê Đức Tiến, Một số vấn đề về tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh,

bảo vệ Tổ quốc, Tạp chí Quốc phòng Toàn dân số tháng 3 (2022).

84. Dương Thị Trang, Thu hút nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ

cao ở Việt Nam, Tạp chí Công thương, số 9-tháng 6/2018.

85. Nguyễn Đoan Trang, Tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế tại Việt

Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, 2018.

86. Nguyễn Ngọc Trân, Đồng bằng sông Cửu Long: Quy hoạch phải vượt lên trên

lợi ích cục bộ địa phương, Báo cáo tại Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến

đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thời kỳ 2021-2030, 21/6/2022.

87. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc, Thống kê ứng dụng trong kinh tế - xã

hội. NXB Lao Động - Xã hội, 2011.

88. Sally P. Marsh & cộng sự, Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt

Nam: Tóm tắt chính sách, ACIAR Tài liệu nghiên cứu số 126, 2007.

89. Đỗ Thị Thanh Sơn, Kinh tế hộ gia đình và những vấn đề đặt ra đối với chính

sách tài chính, Đề tài cấp Bộ, Mã số: 2020-25, Bộ Tài chính.

90. VCCI, Báo cáo thường niên Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh giai đoạn 2010-

2022

91. VCCI, Chuyển đổi mô hình phát triển và Quy hoạch tích hợp, Báo cáo thường

niên đồng bằng sông Cửu Long, 2022, truy cập tại

https://fsppm.fulbright.edu.vn/cache/TomTatBaoCao-2022-08-1615473462.pdf

92. VERP, Báo cáo nghiên cứu giải pháp thuận lợi hóa hoạt động sản xuất kinh

doanh cho hộ kinh doanh ở Việt Nam, 2021, truy cập tại

https://www.freiheit.org/sites/default/files/2021-11/2021-bao-cao-nghien-cuu-

ho-kinh-doanh-fnf-vietnam.pdf.

93. Viện Chiến lược phát triển (2004), Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội: Một số

vấn đề lý luận và thục tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

94. Viện nghiên cứu TP. Hồ Chí Minh, Một số tồn tại của sự quản lý phát triển vùng

KTTÐPN, Đề tài cấp Viện, 2023.

95. Vụ Quản lý Các khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo tình hình thành

lập và phát triển KCN, KKT năm 2020.

B. Tài liệu tiếng Anh

96. Abbas, A., Abbas, Z., & Mustifa, G., (2022), An empirical analysis of sector-

wise private investment for a small open economy, Development Studies

Research, Vol.9(1), pp.21-50, 2022.

97. ADB (The Asian Development Bank), Asian Development Outlook Update

Report 2021

98. Alaev, E. B., Socio-economic geography: conceptual and terminological

dictionary, p.48-50, 1983.

99. Ang, J. B., Private investment and financial sector policies in India and

Malaysia, World Development, Vol.37(7), pp.1261-1273, 2009

100. Argimón, I., González-Páramo, J.M. and Roldán, J.M., Evidence of public

spending crowding-outfrom a panel of OECD countries, Journal of Applied

Economics, Vol. 29 No. 8/1997, pp. 1001-1010.

101. Altin Gjini et al., Crowding-Out Effect Of Public Investment On Private

Investment: An Empirical Investigation, Volume 10, Number 5, Journal of

Business & Economics Research – May 2012.

102. Auschauer, D. A., Is public expenditure productive? Journal of Monetary

Economics, Vol. 23 No.2/1989, 177-200.

103. Awad, I. M., Al-Jerashi, G. K., & Alabaddi, Z. A., Determinants of private

domestic investment in Palestine: Time series analysis, Journal of Business and

Socio-economic Development, Vol.1(1), pp.71-86, 2021.

104. Bachmann, R., et al., Confidence and the Transmission of Government

Spending Shocks”, Journal of Monetary Economics, 59 (3): 235–49, 2012.

101. Barro, R., Government spending in a simple model of economic growth, Journal

of Political Economy, Vol. 98 No. 5/1990, S103-S125.

102. Batini, N., et al., Building Back Better: How Big Are Green Spending

Multipliers ?, IMF Working Paper 2021/087.

103. Berg, et al., Some Misconceptions about Public Investment Efficiency and

Growth, Economica, 86(342):409–30, 2009.

104. Bilgili, Faik., Dynamic implications of fiscal policy: Crowding-out or crowding-

in? METU-ERC, International Conference in Economics VII, "F5 Fiscal Policy,

Public and Private Expenditures" Middle East Technical University, Ankara,

Turkey, September 8, 2003.

105. Binh, P.T., Public investment and Vietnam business cycle: A Bayesian DSGE

Analysis, International conference, September 3 , 2020

106. Bénassy-Quéré, A., Fontagne, L., & Lahreche-Revil, A., How does FDI react to

corporate taxation? International Tax and Public Finance, Vol. 12 No.5/2005,

pp.583-603.

107. Bilas, V., FDI and Economic Growth in EU13 Countries: Cointegration and

Causality Tests, Journal of Competitiveness, 12(3), pp.47-63, 2020,

https://doi.org/10.7441/joc.2020.03.03,

108. Blejer, M.I. and Khan, M.S., Private investment in developing countries,

Finance and Development, 2015, pp. 26-29.

109. Breitung, J., The local power of some unit root tests for panel data, Advances

in Econometrics, Vol. 15/2002, pp.161-178.

110. Buiter, W., Crowding out and the effectiveness of fiscal policy, Journal of Public

Economics, Vol. 7 No. 3/1997, pp. 309-328.

111. Bukhari, S. A., Ali, L., & Saddaqat, M., Public investment and economic growth

in the Three Little Dragons: Evidence from heterogeneous dynamic panel data

112. Cruz, BO & Teixeira, R.J, The impact of public investment on private

international, Journal of Business and Information, Vol. 2 No.1/2007, pp.57-79.

investment in Brazil, 1947-1990, CEPAL Review, Vol. 67/1999, pp. 75 - 84

113. Cullison, E.W., Public investment and economic growth, Federal Reserve Bank

of Richmond Economic Quarterly, Vol. 79 No.4/1993, pp. 19-33.

114. Dehn, J., Private Investment in Developing Countries: The Effects of Commodity

Shocks and Uncertainty, CSAE Working Paper series, 2000.

115. D. O. Olayungbo & Ahmod Quadri, Remittances, financial development and

economic growth in sub-Saharan African countries: evidence from a PMG-

ARDL approach, Financial Innovation volume 5, Article number: 9 (2019).

116. Demetriades, P., & Siong, H. L., Finance, institutions and economic growth,

International Journal of Finance and Economics, 11(3), pp.245-260, 2006.

117. Dixit, A.K. & Pindyck, R.S., Investment Under Uncertainty, Princeton

University Press, Princeton, 1994

118. Dreger, C., & Reimers, H., Does public investment stimulate private investment?

Evidence for the euro area, Economic Modelling, Vol. 58/2016, pp.154-158.

119. Emran, S., Shilpi, F., & Alam, I., Economic Liberalization and the Price

Response of Aggregate Private Investment: Time Series Evidence from India,

Canadian Journal of Economics, Vol.40(3), pp. 914-934, 2007.

120. Erden, L. & Holcombe, R., The effects of public investment on private

investment indeveloping economies, Public Finance Review, Vol. 33

No.5/2005, pp. 575-602.

121. Erden, L. & Holcombe, R., The linkage between public and private investment:

aco-integration analysis of a panel of developing countries, Eastern Economic

Journal, Vol. 3No.3/2006, pp. 479-492.

122. Faisal, S., et al., Impact of Public Infrastructure Investment on Private

Infrastructure Investment, available at

https://reads.spcrd.org/index.php/reads/article/view/395/340

123. Favara, G., An Empirical Reassessment of the Relationship between Finance

and Growth, IMF Working Paper No. 03/123, 2003.

124. Ferreira, Public versus private provision of infrastructure in a neoclassical

growth model, Graduate School of Economics, 1994.

125. Fischer, S., The Role of Macroeconomic Factors in Growth, Journal of

Monetary Economics, Vol.32(3), pp.485-512, 1993.

126. Forni, M. and Gambetti, L., Fiscal Foresight and the Effects of Government

Spending, CEPR Discussion Papers 7840, 2010.

127. Frimpong, J. M., & Marbuah, G., The determinants of private sector investment

in Ghana: An ARDL approach, European Journal of Social Sciences, Vol.15(2),

pp.250-261, 2010.

128. Gérard Tchouassi et al., Private and Public Investment in Africa: A Time-Series

Cross-Country Analysis, International Journal of Economics and Finance, Vol.

6, No. 5 (2014).

129. Ghani, E. and Din, M., The impact of public investment on economic growth in

Pakistan”, The Pakistan Development Review, Vol. 45 No. 1/2006, pp. 87-98.

130. Gjini, A. and Kukeli, A., Crowding-out effect of public investment on private

investment: an empirical investigation, Journal of Business & Economics

Research, Vol. 10 No. 5)/2012, pp. 269-276.

131. Greene, W.H., Econometric Analysis, Ardl investment model of Tunisia,

Theoretical and Applied Economics, Vol. 20 No.2/2008, pp. 57-68.

132. Hamaaki, Junya., Investment responses to Japanese tax reforms: a cross-

industry comparison, Japan and the World Economy 20 (4)/2008, pp.542–

562.Harrison, A. and McMillan, M., Does Direct Foreign Investment Affect

Domestic Credit Constraints? Journal of International Economics, 61, pp.73-

100, 2003.

133. Hashmat Khan, et al., Consumer Confidence and Household Investment,

Carleton Economics Working Papers, Carleton University, 2020.

134. Haque, Effect of public and private investment on economic growth in

Bangladesh: an econometric analysis, Research Study Series No-FDRS Vol.

5/2013, pp. 105-136.

135. Hassan F Gholipour et al., Dutch Disease phenomenon and demand for

international business travels: Panel ARDL/PMG estimation, Journal of

Tourism Economy, Volume 28, Issue 5, 2021.

136. Hatano, T., Crowding-in effect of public investment on private investment,

Public PolicyReview, 6 (1)/2010, pp. 105-120.

137. Hsieh, E. and Lai, K.N, Government spending and economic growth: the G-7

experience, Review of Applied Economics, Vol. 26/1994, pp. 535-542.

138. Inna L. Litvinenko & cộng sự, The Economic Space in the Region: The

Theoretical Approaches, International Review of Management and Marketing,

Vol.6(S1), pp.119-124, 2016.

139. Im, K. S., Pesaran, M. H., & Shin, Y., Testing for unit roots in heterogeneous

panels, Journal of Econometrics, Vol. 115/2003, pp.53-74.

140. Johansen, Statistical analysis of cointegrating vectors, Econometric Reviews,

Vol. 12/1988, 231-254.

141. Jorgenson, D. W., Capital Theory and Investment Behaviour. American

Economic Review, 53 (2), 2pp.47–259, 1963.

142. Jorgensen, D., The Theory of Investment Behaviors, in Determinants of

Investment. National Bureau of Economic Research, pp.129–155, 1967.

143. Jorgenson, D. W., Econometric studies of investment behaviour: A Survey.

Journal of Economic Literature, pp. 1111–1147, 1971.

144. Jungho Baek, Environmental Kuznets curve for CO2 emissions: The case of

Arctic countries, Energy Economics, vol. 50, issue C, 13-17, 2015.

145. Jongwanich, J., & Kohpaiboon, A., Private investment: Trends and determinants

in Thailand, World Development, Vol.36(10), pp.1709-1724, 2008.

146. Osephine Ofosu -Mensah, A. et al, Foreign and domestic private investment in

developing and emerging economies: A review of literature, Cogent Economics

& Finance, Vol.10(1), 2022.

147. Juodis, A. et al., A homogeneous approach to testing for Granger non-causality

in heterogeneous panels, Empirical Economics, volume 60, pp. 93–112, 2021.

148. Khan, M., Government investment and economic growth in the developing

world, The Pakistan Development Review, Vol. 35 No.4/1996, pp. 419-439.

149. Khan, M. and Kumar, M., Public and private investment and the growth process

in developingcountries, Oxford Bulletin of Economics and Statistics, Vol. 59

No.1/1997, pp. 305-9049.

150. Kokko et al., The internationalization of Vietnamese small and medium-sized

enterprises, Asian Economic Papers, Vol.4(1), 2005.

151. Kollamparambil, U. and Nicolaou, M., Nature and association of public and

private investment: public policy implications for South Africa, Journal of

Economics and International Finance, Vol. 3 No.2/2011, pp. 98-108.

152. Kripfganz, D., & Schneider, D. C., Ardl: Estimatiing autogregressive

distributed lag and equilibrium correction models, Proceedings of the 2018

London Stata Coference. Retrieved from

http://repec.org/usug2018/uk18_Kripfganz.pdf.

153. Kumo, W., Infrastructure investment and economic growth in South Africa: a

granger causalityanalysis, Working Paper Series, Vol. 160/2012, African

Development Bank, Tunis.

154. Le, The effects of FDI and public expenditure on economic growth: from

theoreticalmodel to empirical evidence, GSICS Working Paper, Vol. 2/2015.

155. Lee, G., Long run equilibrium relationship between inward FDI and

productivity, Journal of Economic Development, Vol. 32 No.2/2007, pp.183-

192.

156. Levin, A., Lin, C. F., & Chu, C. S. J., Unit root tests in panel data: Asymptotic

and finite-sample properties, Journal of Econometrics, Vol. 108/2002, pp.01-24.

157. Loayza, N. V., & Ranciere, R., Financial development, financial fragility, and

growth, Journal of Money, Credit and Banking, 38(4), pp.1051-1076, 2006.

158. Lucas, On the mechanics of economic development, Journal of Monetary

Economics, Vol. 22/1988, pp. 3-42.

159. Masih, Mansur and Majid, Hamdan Abdul, Stock Price and Industrial

Production in Developing Countries: A Dynamic Heterogeneous Panel

Analysis, MPRA Paper No. 58308, posted 04 Sep 2014 00:37 UTC.

160. McKinnon, R. I., In Money and capital in economic development, Brookings

Institution Press, 1973.

161. Mehrara and Musai, Granger causality between economic growth in oil

exporting countries, Interdisciplinary Journal of Research in Business, Vol.

1No.08/2011, pp. 103-108.

162. Molapo, S., & Damane, M., DETERMINANTS OF PRIVATE INVESTMENT IN

LESOTHO, European Scientific Journal, ESJ, 11(34), 2015, Retrieved from

https://eujournal.org/index.php/esj/article/view/6743.

163. Nahla, S. et al., Is the Relationship between Financial Development and

Economic Growth Monotonic? Evidence from a Sample of Middle - Income

Countries, CESIFO WORKING PAPER NO. 4743, 2014

164. NJ.Dreger, C. and Reimers, H, On the relationship between public and private

investment in theEuro area, discussion papers, DIW Berlin, German Institute

for Economic Research, Berlin, 2014.

165. Cruz, B.O and Teixeira, J.R., The Impact of Public Investment on Private

Investment in Brazil: 1947- 1990, Cepal Review, Vol. 67, pp. 75-84, 1999.

166. Ofosu-Mensah Ababio, J., Sarpong-Kumankoma, E., & Osei, K. A., Financing

cost and private investment in Ghana, Advances in Economics and Business,

Vol.6(2), pp.99-113, 2018.

167. Omitogun,O., Investigating the Crowding Out Effect of Government

Expenditure on Private Investment, Journal of Competitiveness, 10(4), 136–

150, 2018.

168. Omojolaibi et al., Fiscal Policy and Private Investment in Selected West African

Countries, CBN Journal of Applied Statistics (JAS), Vol.7(1), pp.277-309, 2016.

169. Pedroni, P., Critical values for cointegration tests in heterogeneous panels with

multiple regressors, Oxford Bulletin of Economics and Statistics, Vol. 61/1999,

pp. 653-670.

170. Pereira, A. M., Is All Public Capital Created Equal? Review of Economics and

Statistics, Vol. 82, No. 3, 2000, pp. 513– 518.

171. Pereira, A. M. and J. M. Andraz, On the Impact of Public Investment on the

Performance of US Industries”, Public Finance Review, Vol. 31, No. 1, 2003,

pp. 66– 90.

172. Pesaran, M.H. and Shin, Y., Cointegration and speed of convergence to

equilibrium”, Journal ofEconometrics, Vol. 71No.2/1996, pp. 117-143.

173. Pesaran, M.H. and Shin, Y., An autoregressive distributed lag modelling

approach tocointegration analysis, Cambridge University Press, 1999.

174. Pesaran, M.H., Shin, Y. and Smith, R. Bounds testing approaches to the

analysis of level relationships, Journal of Applied Econometrics, Vol. 16/2001,

pp. 289-326.

175. Phetsavong, K., & Ichihashi, M., The impact of public and private investment

on economic growth: Evidence from developing Asian countries, 2012.

176. Radulović Dejan & cộng sự, Region as a Basic Territorial Unit of Regional

Development, Economic Analysis, Vol. 48, No. 3-4, pp.69-80, 2015.

177. Ram, Government size and economic growth: a new framework and some

evidence fromcross-section and time-series data, The American Economic

Review, Vol. 76 No.1/1986, pp. 191-203.

178. Ramirez, M.D. and Nazmi, N., Public investment and economic growth in Latin

America: an empirical test, Review of Development Economics, Vol. 7

No.1/2003, pp. 115-126.

179. Rufaro, G., and Paul-Francois M., A panel ARDL analysis of Productivity of key

economic sectors contributing to local economic growth in an emerging

country, Studia Universitatis Babes-Bolyal Oeconomica, Volume 65 (1), 2020,

pp. 39-53.

180. Rebelo, S., Long-run policy analysis and long-run growth, Journal of Political

Economy, Vol. 99 No.3/1991, pp. 500-521.

181. Reungsri, T, The impact of public infrastructure investment on economic

growth in Thailand, Doctoral dissertation, School of Economics and Finance,

Victoria University, Australia, 2010.

182. Samargandi, N., J. Fidrmuc, and S. Ghosh, Is the Relationship between

Financial Development and Economic Growth Monotonic? Evidence from a

Sample of Middle-Income Countries, World Development, 68, pp. 66-81, 2015.

183. Solihin et al., Do government policies drive economic growth convergence?

Evidence from East Java, Indonesia, Cogent Economics & Finance, 9:1,

1992875, DOI: 10.1080/23322039.2021.1992875, 2021.

184. Solow, R., A contribution to the theory of economic growth, The Quarterly

Journal of Economics, Vol. 70 No.1/1956, pp. 65-94.

185. Stuart Meck, Model Statutes for Planning and the Management of Change,

American Planning Association, 2002, available at

https://www.planning.org/publications/document/9148731/

186. Sundararajan, V. and Thakur, S., Public investment, crowding out and growth:

a dynamicmodel applied to India and Korea, staff papers, International

Monetary Fund, Washington, 1980.

187. Swaby, R., Public investment and growth in Jamaica, Fiscal and Economic

ProgrammeMonitoring Department, Bank of Jamaica, 2007.

188. Tingting Li et al., Environmental Kuznets Curve in China: New evidence from

dynamic panel analysis, Energy Policy, vol. 91, issue C, 138-147, 2016.

189. UN, Investment policy review series, 2009.

190. UNIO, Economic zones in the ASEAN, 2015.

191. Van, H. et al., Does foreign investment crowd in domestic investment? Evidence

from Vietnam, International Economics, Volume 171, October 2022, pp. 18-19.

192. Van, N. et al., Oil Price Shocks, Environmental Pollution, Foreign Direct

Investment, and Renewable Energy Consumption: An Empirical Analysis in

East Asian Countries, CRC Press, 2021, pp.177-202, ISBN 9781003098591.

192. Vedder, R. K., & Gallaway, L. E., Government size and economic growth, G-01

Dirksen building, Washington, DC, 1998.

193. World Bank Report, www.worldbank.org/ruralstrategy, 2001.

PHỤ LỤC Phụ lục 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Nhóm 1: Đầu tư công tạo hiệu ứng lấn át đối với đầu tư tư nhân

Pradhan, Ratha và Ấn Độ CGE Đầu tư công có tác

Sarma (1990) 1970-1986 động lấn át lên đầu

tư tư nhân. Mức độ

lấn át càng lớn khi

Chính phủ vay nợ

trên thị trường vốn

vay.

Bilgili (2003) Thổ Nhĩ Kỳ VECM Đầu tư công có tác

động lấn át tới đầu 1988-2003

tư tư nhân. Đầu tư

công tăng 1% sẽ

làm đầu tư tư nhân

giảm 0,68%

Nazmi & Ramirez Mexico 2 SLS Đầu tư công tác

động lấn át tới đầu (1997) 1940-1991

tư tư nhân. Đầu tư

công tăng 1% sẽ

làm đầu tư tư nhân

giảm 0,56%.

Bahal & cộng sự Ấn Độ VECM Đầu tư công lấn át

đầu tư tư nhân giai (2015) 1950-2012

đoạn 1980-2012

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Devarajan và cộng Nhóm 43 nước đang POLS Đầu tư công có tác

sự (1996) phát triển động lấn át đến

1970-1990 đầu tư tư nhân.

Các khoản đầu tư

công được tài trợ

bởi thuế sẽ lấn át

đầu tư tư nhân ít

hơn các khoản đầu

tư công được tài

trợ bởi nợ vay.

Đầu tư công tạo Everhart và 63 nước đang phát triển

tác động lấn át đến Sumlinski (2001) 1970-2000

đầu tư tư nhân tại

các quốc gia có thể

chế kém.

Cavallo và Daude 116 quốc gia đang phát GMM Mức độ lấn át của

đầu tư công tới đầu (2008) triển

tư tư nhân giảm 1980 – 2006

bớt ở những quốc

gia có độ mở cao

hơn.

Erden và Holcom 12 quốc gia phát triển POLS, FE và Đầu tư công tạo

tác động lấn át tại (2005) 19 quốc gia đang phát RE

nhóm các quốc gia triển

phát triển. 1980-1997

Mahmoudzadeh và 23 nước phát triển PVAR Đầu tư công lấn át

đầu tư tư nhân tại cộng sự (2013) 15 nước đang phát triển

các nước phát 2000-2009

triển.

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Pereira (2000) Hoa Kỳ VAR Đối với tác động 1956-1997 của từng loại đầu

tư công đối với

từng loại đầu tư tư

nhân,trong khoảng

1/3 trường hợp,

đầu tư công lấn át

đầu tư tư nhân.

Đầu tư công cho Rahman và cộng sự Pakistan

dịch vụ cộng đồng (2015) 1974-2010

và quốc phòng có

tác động lấn át tới

đầu tư tư nhân

Dada (2013) Nigeria VECM Đầu tư công cho

hành chính, xây 1980-2011

dựng, nông

nghiệp, thông tin

tạo hiệu ứng lấn át

tới đầu tư tư nhân

Omitogun & cộng Nigeria ARDL Đầu tư công cho

dịch vụ kinh tế và sự (2018) 1981-2015

dịch vụ xã hội có

tác động lấn át tới

đầu tư tư nhân.

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Pereira and Andraz Hoa Kỳ VAR Đầu tư công tạo

(2003) 1956-1997 tác động lấn át tới

đầu tư tư nhân

trong ngành nông

nghiệp, khai

khoảng, truyền

thông và bán buôn

Saeed và cộng sự Pakistan SVAR Đầu tư công lấn át

(2006) 1974-2006 đầu tư tư nhân

trong lĩnh vực

công nghiệp

Annala và cộng sự Nhật Bản VAR/ECM Đầu tư công tạo

(2008) 1970-1998 tác động lấn át tới

đầu tư tư nhân

ngoại trừ các

ngành nông

nghiệp, tiện ích,

thương mại và

dịch vụ, tài chính,

bảo hiểm và bất

động sản

Fujii và cộng sự Nhật Bản FAVAR Ngoại trừ ngành

(2013) quý 2/1983 – quý nông nghiệp và

1/2008 ngành tiện ích, đầu

tư công tạo tác

động lấn át tới đầu

tư tư nhân của các

ngành còn lại

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Tô Trung Thành Việt Nam VECM Hiện tượng đầu tư

(2012) 1986-2010 công lấn át đầu tư

tư nhân được thể

hiện rõ nét. Sau

một thập niên, đầu

tư công tăng 1% sẽ

khiến đầu tư tư

nhân bị thu hẹp

0.48%.

Hoàng Dương Việt vùng Trung Bộ Việt VAR Đầu tư công cũng

Anh (2013) Nam có thể lấn át đầu tư

1986-2011 tư nhân trong việc

sử dụng nguồn lực

khan hiếm.

Phạm Thị Linh Việt Nam VAR Đầu tư tư nhân bị

(2016) qúy 3/ 2004 - quý 4 / lấn át bởi đầu tư

2015 công ở ba khía

cạnh: hoạt động,

vốn và cơ hội.

Nguyễn Thị Chinh Việt Nam VECM Đầu tư công Hùng

(2017) 1995-2016 Thanh và cộng sự

(2021) có tác động

lấn át lớn hơn tác

động bổ trợ đầu tư

tư nhân ở Việt

Nam

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Phạm Thái Bình Việt Nam DSGE / RBC Tác động lấn át

(2020) của đầu tư công tới

đầu tư tư nhân

trong ngắn hạn.

Nguyễn Thị Cành Việt Nam FOLS Đầu tư công từ

& cộng sự (2020) 1990-2016 ngân sách nhà

nước lấn át đầu tư

tư nhân của 16

ngành

Nguyễn Thị Thùy Việt Nam FOLS, DOLS Kết quả lấn át của

Liên (2022) 2000-2020 đầu tư công từ vốn

ngân sách nhà

nước tới đầu tư tư

nhân

Nhóm 2: Các nghiên cứu về tác động bổ trợ của đầu tư công tới đầu tư tư nhân

Hatano (2010) Nhật Bản ECM Sau năm đầu tiên,

1953-2004 đầu tư công bắt

đầu tạo tác động

bổ trợ đối với đầu

tư tư nhân

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Girish Bahal & Ấn Độ SVECM Đầu tư công tạo

cộng sự (2015) Q2/1996-Q1/2015 tác động bổ trợ tới

đầu tư tư nhân giai

đoạn 1980-2012

do các cải cách của

nền kinh tế Ấn Độ

trong những năm

đầu thập niên 80.

hiệu ứng bổ trợ

cũng được phát

hiện trong nghiên

cứu khi sử dụng số

liệu theo quý

(Q2/1960-

Q1/2015)

Mario Alloza và Tây Ban Nha SVAR Đầu tư công tăng

cộng sự (2022) quý 1 / 1995 - quý 4 / có xu hướng tạo ra

2019 tác động tích cực

đến đầu tư tư nhân.

Đặc biệt, khi đầu

tư công tăng 1% sẽ

thúc đẩy sự gia

tăng tương đương

đầu tư tư nhân

trong ngắn hạn

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Oshikoya (1994) Nhóm 7 nước châu Phi OLS Đầu tư công bổ trợ

(Cameroon, Mauritius, đầu tư tư nhân ở cả

Morocco, Tunisi, hai nhóm nước có

Kenya, Malawi, và thu nhập trung

Tanzani) bình và nhóm thu

1970-1988 nhập thấp. Bằng

chứng về sự bổ trợ

giữa đầu tư công

và đầu tư tư nhân

rõ ràng hơn đối với

các nước có thu

nhập trung bình.

Kamps (2004b) 22 nước OECD VAR Đầu đầu tư công

1960-2001 và đầu tư tư nhân

là bổ sung cho

nhau trong dài hạn

Afonso và Aubyn 14 nước châu Âu, VAR Trong hầu hết

(2008) Canada, Mỹ và Nhật trong các trường

Bản hợp hiệu ứng

khuyến khích đầu

tư tư nhân của đầu

tư công.

Altin Gjini và Các nền kinh tế chuyển POLS Đầu tư công tác

Agim Kukeli đổi ở khu vực Đông Âu động bổ trợ tới đầu

(2012) 1991-2009 tư tư nhân với mức

độ tin cậy 1%.

Hiệu ứng bổ sung

lẫn nhau này mạnh

hơn ở nhóm các

nước kém phát

triển hơn.

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Mahmoudzadeh và 23 phát triển và 15 nước PVAR Đầu tư công bổ trợ

cộng sự (2013) đang phát triển đầu tư tư nhân ở

2000 - 2009 các nước đang

phát triển.

Rasmané 44 nước châu Phi thuộc VECM Đầu tư công vào

Ouédraogo và cộng khu vực hạ Sahara cơ sở hạ tầng bổ

sự (2019) 1991 - 2009 trợ đầu tư tư nhân.

Sử Đình Thành Việt Nam SVAR Đầu tư công không

(2011) 1990-2010 gây chèn lấn đầu

tư khu vực tư nhân

mà trái lại tạo ra

hiệu ứng thúc đẩy

trong dài hạn, đặc

biệt là đầu tư tư

nhân trong nước

Hoàng Dương Việt vùng Trung Bộ Việt VAR Đầu tư công vào

Anh (2013) Nam cơ sở hạ tầng và

1986-2011 vào việc nâng cao

chất lượng nguồn

nhân lực có thể

làm tăng năng suất

vốn tư nhân

Trần Nguyễn Ngọc Việt Nam ARDL Có tác động thúc

Anh Thư và Lê 1988-2012 đẩy đầu tư tư nhân

Hoàng Phong và tăng trưởng

(2014) kinh tế trong dài

hạn

Phương Phạm vi và thời gian Tác giả pháp nghiên Kết luận nghiên cứu cứu

Nguyễn Thế 63 tỉnh/thành của Việt FMOLS và Đầu tư công tác

Khang (2022) Nam DOLS động thúc đẩy tích

2000 - 2020 cực cho đầu tư tư

nhân trên cả hai

phương pháp ước

lượng

Nguyễn Thị Cành Việt Nam FOLS và đầu tư công vào cơ

và cộng sự (2018) 1990-2016 DOLS sở hạ tầng được

xem như là vốn

mồi để thu hút đầu

tư tư nhân trong và

ngoài nước vào

sản xuất kinh

doanh 22 ngành

kinh tế cấp 1.

Nguyễn Thị Thùy Việt Nam Tính toán hệ Đầu tư công vào

Liên (2022) 2001-2005 số liên kết các ngành hạ tầng

ngược (BL), như xây dựng, vận

liên kết xuôi tải, kho bãi, viễn

(FL) thông và ngành

điện có tác động

kích thích ngành

phát triển và kéo

theo sự phát triển

của các ngành

khác.

Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022

Phụ lục 2: Cơ sở hình thành vùng KTTĐ

Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022

Phụ lục 3: Kiểm định sự phù hợp của các biến đưa vào mô hình

df

F

R2

ΔR2

286

31.71

0.0998

285

1.8

0.1055

0.0057

284

1.62

0.1105

0.0051

Nhóm các biến 1 2 3

283

7.32

0.1329

0.0224

14.31

0.1748

0.0419

4 5

282

LL

LR

AIC

BIC

-338.591

30.28

681.182

688.508

-337.683

1.82

681.3664

692.3552

-336.865

1.64

681.73

696.3819

Nhóm các biến 1 2 3

-333.19

7.35

676.3794

694.6942

4

-326.061

14.26

664.1228

686.1006

5

Note: Phương pháp hồi quy từng bước (Stepwwise Regression) được sự dụng để kiểm định sự phù

hợp của các biến đưa vào mô hình. Độ phù hợp của các biến sẽ thể hiện ở giá trị R bình phương

ngày càng tăng lên và AIC , BIC đặt giá trị nhỏ nhất có thể (Hair và cộng sự, 2014).

Nguồn: Tác giả thực hiện trên Stata 15

Phụ lục 4: Tổng quan quá trình hình thành và phát triển của các vùng KTTĐ

Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022

Phụ lục 5: Quy mô GRDP của các địa phương vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn

2010-2021 theo giá so sánh 2010

800000

700000

600000

500000

400000

300000

200000

100000

0

2010

2011

2013

2014

2015

2016

2018

2020

2021

Hưng Yên

2019 Hải Dương

2012 TP. Hà Nội

2017 Hải Phòng

Bắc Ninh

Vĩnh Phúc

Quảng Ninh

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 6: Quy mô GRDP của các địa phương vùng KTTĐ miền Trung

giai đoạn 2010-2021 theo giá so sánh 2010

120000

100000

80000

60000

40000

20000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Huế

Quảng Nam

Quảng Ngãi

Bình Định

Đà Nẵng

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 7: Quy mô GRDP của các địa phương vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn

2010-2021 theo giá so sánh 2010

1200000

1000000

800000

600000

400000

200000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Bình Dương

TP. Hồ Chí Minh

Bà Rịa- Vũng Tàu

Đồng Nai

Bình Phước

Tây Ninh

Long An

Tiền Giang

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ phía Nam

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 8: Quy mô GRDP các địa phương vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-

2021 theo giá so sánh 2010

120000

100000

80000

60000

40000

20000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Cần Thơ

An Giang

Kiên Giang

Cà Mau

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống tại các địa phương thuộc Vùng KTTĐ ĐBSCL

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 9: Cơ cấu ngành của các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm

Bắc bộ các năm 2010, 2015, 2021

Đơn vị: %

2010

2015

2021

Nông

Nông

Nông

nghiệp,

nghiệp,

nghiệp,

Công

Công

Công

Địa

lâm

lâm

lâm

nghiệp

Dịch

nghiệp

Dịch

nghiệp

Dịch

phương

nghiệp

nghiệp

nghiệp

và xây

vụ

và xây

vụ

và xây

vụ

dựng

dựng

dựng

thủy

thủy

thủy

sản

sản

sản

4,44

32,31 63,24

2,88

23,54 73,58

2,55

27,30 70,15

Hà Nội

Hưng

18,23

52,59 29,18

12,18

61,89 25,92

9,27

68

22,72

Yên

Hải

9,65

37.34 53,01

8,10

39,41 52,50

4,22

56,12 39,66

Phòng

Quảng

9,35

56,80 33,85

8,80

56,42 34,78

6,28

60,10 33,61

Ninh

Hải

Dương

18,98

45,48 35,54

13,65

52,27 34,09

10,31

61,87 27,81

Bắc

10,44

56,78 32,78

10,31

61,87 27,81

2,81

80,47 16,72

Ninh

Vĩnh

13,68

53,75 32,57

10,54

57,47 31,98

7,83

63,74 28,43

Phúc

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 10: Cơ cấu ngành của các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm

miền Trung các năm 2010, 2015, 2021

Đơn vị: %

2010

2015

2021

Nông

Nông

Nông

nghiệp,

Công

nghiệp,

Công

nghiệp,

Công

lâm

nghiệp

Dịch

lâm

nghiệp

Dịch

lâm

nghiệp

Dịch

Địa phương

nghiệp

và xây

vụ

nghiệp

và xây

vụ

nghiệp

và xây

vụ

và thủy

dựng

và thủy

dựng

và thủy

dựng

sản

sản

sản

Thừa

Thiên

24,07

30,90

45,03

15,07

33,98

50,94

12,82

36,27 50,92

Huế

Quảng

41,53

25,31

33,16

22,01

29,76

48,24

17,27

42,52 40,22

Nam

Quảng

40,19

22,96

36,85

18,87

59,34

21,79

21,88

48,40 29,72

Ngãi

Bình

42,26

22,58

35,16

33,42

22,89

43,69

30,73

31,05 38,22

Định

Đà Nẵng

7,86

41,26

50,88

3,10

24,16

72,74

2,45

23,04 74,51

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ miền Trung

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 11: Cơ cấu ngành của các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam các năm 2010, 2015, 2021

Đơn vị: %

2010 2015 2021

Nông Nông Nông

nghiệp, Công nghiệp, Công nghiệp, Công

lâm nghiệp Dịch lâm nghiệp Dịch lâm nghiệp Dịch Địa phương

nghiệp và xây vụ nghiệp và xây vụ nghiệp và xây vụ

và thủy dựng và thủy dựng và thủy dựng

sản sản sản

TP. Hồ

0,78 32,06 67,17 0,84 28,61 70,56 0,72 25,91 72,36 Chí

Minh

Bà Rịa-

Vũng 3,39 86,56 10,05 5,28 81,44 13,28 3,36 73,55 23,08

Tàu

Bình 5,92 71,97 22,11 3,57 72,88 23,55 7,04 77,06 15,90 Dương

Đồng 15,57 58,57 25,86 12,93 63,35 23,72 11,50 65,09 23,41 Nai

Tây

38,52 26,16 35,32 29,04 34,83 36,13 23,26 46,21 30,53 Ninh

Bình

Phước 43,39 23,27 33,34 36,71 24,79 38,05 24,29 44,01 31,07

Long

30,74 32,68 36,58 23,76 42,07 34,17 17,17 54,73 28,10 An

Tiền

Giang 50,57 18,82 30,61 48,07 20,90 31,03 40,99 28,58 30,43

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ phía Nam

giai đoạn 2010 -2021

Phụ lục 12: Cơ cấu ngành của các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL các

năm 2010, 2015, 2021

Đơn vị: %

2010 2015 2021

Nông Nông Nông

nghiệp, nghiệp, nghiệp, Công Công Công Địa lâm lâm lâm nghiệp Dịch nghiệp Dịch nghiệp Dịch phương nghiệp nghiệp nghiệp và xây vụ và xây vụ và xây vụ và và và dựng dựng dựng thủy thủy thủy

sản sản sản

An 48,60 12,90 38,50 43,3 14,00 42,70 38,90 15,90 45,20 Giang

Kiên 42,60 24,40 33,00 41,50 18,60 39,90 33,80 22,00 44,20 Giang

Cần 16,90 35,00 48,10 14,20 33,80 52,00 12,40 34,00 53,60 Thơ

Cà Mau 39,20 36,60 24,10 32,30 31,00 37,7 34,60 32,30 33,10

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 13: Quy mô đầu tư công tại các địa phương vùng KTTĐ Bắc bộ theo

giá so sánh 2010 giai đoạn 2010-2021

150000

100000

50000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Hưng Yên

Hải Dương

Hà Nội

Hải Phòng

Bắc Ninh

Vĩnh Phúc

Quảng Ninh

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 14: Quy mô đầu tư công tại các địa phương vùng KTTĐ miền Trung

theo giá so sánh 2010 giai đoạn 2010-2021

15000

10000

5000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Thừa Thiên-Huế

Quảng Nam

Quảng Ngãi

Bình Định

Đà Nẵng

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung

giai đoạn 2010-2021.

Phụ lục 15: Quy mô đầu tư công tại các địa phương vùng KTTĐ phía Nam

theo giá so sánh 2010 giai đoạn 2010-2021

60000 50000 40000 30000 20000 10000 0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Bình Dương

TP. Hồ Chí Minh

Bà Rịa - Vũng Tàu

Đồng Nai

Bình Phước

Tây Ninh

Long An

Tiền Giang

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 16: Quy mô đầu tư công theo giá so sánh 2010 tại các địa phương

vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021

15000

10000

5000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Cần Thơ

An Giang

Kiên Giang

Cà Mau

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 17: Tỷ trọng đầu tư CSHT trong tổng đầu tư công tại các địa phương

Cả nước

Vĩnh Phúc

Bắc Ninh

Hải Dương

Quảng Ninh

Hải Phòng

Hưng Yên

Hà Nội

0%

20%

40%

60%

80%

100%

Hạng mục khác

CSHT

vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2015-2021

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ

giai đoạn 2015-2021

Phụ lục 18: Các hạng mục đầu tư công cho CSHT tại các địa phương nội Vùng

Vĩnh Phúc

Bắc Ninh

Hải Dương

Quảng Ninh

Hải Phòng

Hưng Yên

Hà Nội

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

Giao thông

Giáo dục

KHCN

Y tế

Các hoạt động khác

KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2015-2021

Nguồn: Niên giám thống kê, Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước tại các

địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2015-2021

Phụ lục 19: Tỷ trọng đầu tư CSHT trong tổng đầu tư công tại các địa phương

Cả nước

Bình Định

Quảng Ngãi

Quảng Nam

Đà Nẵng

Thừa …

0.00%

20.00%

40.00%

60.00%

80.00%

100.00%

120.00%

Hạng mục khác

CSHT

nội vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2015-2021

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung

giai đoạn 2015-2021

Phụ lục 20: Các hạng mục đầu tư công cho CSHT tại các địa phương nội Vùng

Bình Định

Quảng Ngãi

Quảng Nam

Đà Nẵng

Thừa Thiên-Huế

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

Giao thông

Giáo dục

KHCN

Y tế

Các hoạt động khác

KTTĐ miền Trung giai đoạn 2015-2021

Nguồn: Niên giám thống kê, Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước tại các

địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2015-2021

Phụ lục 21: Tỷ trọng đầu tư CSHT trong tổng đầu tư công tại các địa phương

vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn 2015-2021

Cả nước Tiền Giang Long An Bình Phước Tây Ninh Đồng Nai

Bà Rịa-… Bình … T.P. Hồ Chí …

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

Hạng mục khác

CSHT

Đơn vị: %

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam

giai đoạn 2015-2021

Phụ lục 22: Các hạng mục đầu tư công cho CSHT tại các địa phương nội Vùng

KTTĐ phía Nam giai đoạn 2015-2021

Tiền Giang Long An Bình Phước Tây Ninh Đồng Nai Bà Rịa-Vũng Tàu Bình Dương T.P. Hồ Chí Minh

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

Giao thông

Giáo dục

KHCN

Y tế

Các hoạt động khác

Đơn vị: %

Nguồn: Niên giám thống kê, Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước tại các

địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn 2015-2021

Phụ lục 23: Tỷ trọng đầu tư CSHT trong tổng đầu tư công tại các địa phương

vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2015-2021

Cả nước

Cà Mau

Kiên Giang

An Giang

Cần Thơ

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

Hạng mục khác

CSHT

Đơn vị: %

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2015-2021

Phụ lục 24: Các hạng mục đầu tư công cho CSHT tại các địa phương vùng

KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2015-2021

Cà Mau

Kiên Giang

An Giang

Cần Thơ

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

Giao thông

Giáo dục

KHCN

Y tế

Các hoạt động khác

Đơn vị: %

Nguồn: Niên giám thống kê, Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước tại các

địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2015-2021

Phụ lục 25: Quy mô vốn đầu tư tư nhân theo giá so sánh 2010 tại các địa

phương vùng KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021

250000

200000

150000

100000

50000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Hưng Yên

Hải Dương

Hà Nội

Hải Phòng

Bắc Ninh

Vĩnh Phúc

Quảng Ninh

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 26: Quy mô vốn đầu tư tư nhân theo giá so sánh 2010 tại các địa

phương vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2010-2021

30000

25000

20000

15000

10000

5000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Thừa Thiên-Huế

Quảng Nam

Quảng Ngãi

Bình Định

Đà Nẵng

Đơn vị: Tỷ VNĐ

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 27: Quy mô vốn đầu tư tư nhân theo giá so sánh 2010 tại các địa

phương vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn 2010-2021

300,000.00

250,000.00

200,000.00

150,000.00

100,000.00

50,000.00

0.00

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Bình Dương

TP. Hồ Chí Minh

Bà Rịa - Vũng Tàu

Đồng Nai

Bình Phước

Tây Ninh

Long An

Tiền Giang

Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 28: Quy mô vốn đầu tư tư nhân theo giá so sánh 2010 tại các địa

phương vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021

30000

20000

10000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Cần Thơ

An Giang

Kiên Giang

Cà Mau

Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL

giai đoạn 2020-2021

Phụ lục 30: Cơ cấu vốn đầu tư tư nhân tại các địa phương vùng KTTĐ miền

Trung trong giai đoạn 2010-2021

ĐÀ NẴNG

QUẢNG NGÃI

BÌNH ĐỊNH

16,86

39,03

43,64

60,97

56,36

83,14

Vốn của DN Vốn của hộ gia đình

Vốn của DN Vốn của hộ gia đình

Vốn của DN Vốn của hộ gia đình

THỪA THIÊN HUẾ

QUẢNG NAM

22,42

38,39

61,61

77,58

Vốn của DN Vốn của hộ gia đình

Vốn của DN

Vốn của hộ gia đình

Đơn vị: %

Nguồn: Niên giám thống kê các địa phương vùng KTTĐ miền Trung

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 31: Cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn tại các địa phương vùng

KTTĐ phía Nam giai đoạn 2010-2021

TP.HỒ CHÍ MINH

BÌNH DƯƠNG

BÀ RỊA-VŨNG TÀU

14.32 %

14.10 %

24.60 %

85.68 %

Các doanh nghiệp

75.40 %

85.90 %

Hộ gia đình

Các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp

ĐỒNG NAI

TÂY NINH

BÌNH PHƯỚC

42.79 %

60.44 %

30.84 %

39.56 %

57.21 %

69.16 %

Các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp

LONG AN

TIỀN GIANG

39.91 %

41.25 %

58.75 %

60.09 %

Các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp

Đơn vị: %

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 32: Cơ cấu đầu tư tư nhân theo nguồn vốn tại các địa phương thuộc

KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021

CẦN THƠ

KIÊN GIANG

38.29%

49.98%

52.02%

61.71%

Các doanh nghiệp

Hộ gia đình

Các doanh nghiệp

Hộ gia đình

CÀ MAU

AN GIANG

38.01%

61.99%

Đơn vị: %

59.47%

Các doanh nghiệp

Hộ gia đình

Các doanh nghiệp

Hộ gia đình

40.53%

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ ĐBSCL

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 33: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tại các địa phương vùng

QUẢNG NINH

HÀ NỘI

14.20%

9.82%

37.44%

39.17%

46.63%

52.74%

Đầu tư công Đầu tư tư nhân

Vốn FDI

Đầu tư công Đầu tư tư nhân

Vốn FDI

HƯNG YÊN

HẢI DƯƠNG

17.35%

14.35%

27.85%

30.56%

55.08%

54.80%

Đầu tư công Đầu tư tư nhân

Vốn FDI

Đầu tư công Đầu tư tư nhân

Vốn FDI

VĨNH PHÚC

BẮC NINH 7.65%

23.75%

31.06%

32.19%

60.20%

45.19%

Đầu tư công Đầu tư tư nhân

Đầu tư công Đầu tư tư nhân

Vốn FDI

Vốn FDI

HẢI PHÒNG

29.60%

KTTĐ Bắc bộ giai đoạn 2010-2021

18.02%

Đầu tư công Đầu tư tư nhân

Vốn FDI

52.38%

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc bộ

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 34: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tại các địa phương nội

vùng KTTĐ miền Trung giai đoạn 2010-2021

QUẢNG NGÃI

ĐÀ NẴNG

Đơn vị: %

BÌNH ĐỊNH

34,7 4

37,6 6

44,3 6

47,9 9

61,7

51,5 2

3,56

7,65

10,8 2

Đầu tư công

Đầu tư công

Đầu tư công

FDI

FDI

Đầu tư tư nhân

Đầu tư tư nhân

Đầu tư tư nhân

FDI

THỪA THIÊN HUẾ

36,8 9

46,8

45,1 1

47,0 5

7,84

16,3 1

Đầu tư công

FDI

Đầu tư tư nhân

Đầu tư công FDI Đầu tư tư nhân

QUẢNG NAM

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 35: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tại các địa phương vùng

KTTĐ phía Nam giai đoạn 2010-2021

TP.HỒ CHÍ MINH

BÌNH DƯƠNG

BÀ RỊA-VŨNG TÀU

12,95

16,19

15,64

29,15

50,56

55,59

36,49

15,26

68,17

Đầu tư công

Đầu tư công

Đầu tư công

Đầu tư tư nhân

Đầu tư tư nhân

Đầu tư tư nhân

FDI

FDI

FDI

BÌNH PHƯỚC

TÂY NINH

ĐỒNG NAI 14,92

12,39

15,41

21,6

32,9

45,7

39,38

51,69

66,01

Đầu tư công

Đầu tư công

Đầu tư công

Đầu tư tư nhân

Đầu tư tư nhân

Đầu tư tư nhân

FDI

FDI

FDI

TIỀN GIANG

LONG AN

16,14

16,54

19,73

21,51

76,33

58,76

Đầu tư công

Đầu tư công

Đầu tư tư nhân

Đầu tư tư nhân

FDI

FDI

Đơn vị: %

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ phía Nam

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 36: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội bình quân tại các địa phương

nội Vùng KTTĐ ĐBSCL giai đoạn 2010-2021

KIÊN GIANG

AN GIANG

Đầu tư công

Đầu tư tư nhân

FDI

Đầu tư công

Đầu tư tư nhân

FDI

2,11

1,33

31,02

32,63

66,87

66,04

CẦN THƠ

CÀ MAU

Đầu tư công

Đầu tư tư nhân

FDI

Đầu tư công

Đầu tư tư nhân

FDI

3,18

1,39

41,91

43,91

54,7

54,91

Nguồn: Niên giám thống kê tại các địa phương thuộc Vùng KTTĐ ĐBSCL

giai đoạn 2010-2021

Phụ lục 37: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị dữ liệu bảng

Biến số

CIPS

Giá trị tới hạn

Bậc

Giá trị

Sai phân

10%

5%

1%

dừng

ban đầu

bậc 1

PI

-2,202**

-2,755***

-2,07

-2,17

-2,34

I(0)

PIE

-2,774***

-3,465***

-2,07

-2,17

-2,34

I(0)

-2,07

-2,17

-2,34

PIH

-3,164***

I(0)

-2,623***

PU

-1,829

-3,389***

-2,07

-2,17

-2,34

I(1)

PUCSHT

-2,111

-3,180***

-2,07

-2,17

-2,34

I(1)

FDI

-2,670***

-3,077***

-2,07

-2,17

-2,34

I(0)

GRDP

-1,277

-3,514***

-2,07

-2,17

-2,34

I(1)

IR

-4,352***

-5,018***

-2,07

-2,17

-2,34

I(0)

INF

-3,674***

-4,758***

-2,07

-2,17

-2,34

I(0)

Ghi chú: Giá trị p-value được trình bày trong dấu ngoặc đơn. ***, **, * thể hiện mức ý nghĩa lần lượt là 1%, 5%, 10%. Giả thuyết H0 là biến không dừng (có nghiệm đơn vị).

Nguồn: Tác giả thực hiện trên phần mềm Stata-15

Phụ lục 38: Kết quả kiểm định đồng liên kết

Kiểm định Kao Giá trị P-value

Modified Dickey–Fuller t 2,6102*** 0,0045

Dickey- Fuller t 1,5202* 0,0642

Augmented Dickey–Fuller t -1,5523* 0,0603

Unadjusted modified Dickey–Fuller t -5,1602*** 0,0000

Unadjusted Dickey–Fuller t -4,872*** 0,0000

Kiểm định Pedroni

Modified Phillips-Perron t 6,7900*** 0,0000

Phillips-Perron t -4,6334*** 0,0000

Augmented Dickey -Fuller t -2,9567*** 0,0016

Kiểm định Westerlund

Ghi chú: *** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%. Giả

thuyết H0 là không có đồng liên kết.

Variance ratio 0.6105** 0,0038

Nguồn: Tác giả thực hiện trên phần mềm Stata-15

Phụ lục 39: Kiểm tra tính vững của mô hình hồi quy

PMG MG DFE

Biến phụ thuộc PI Hệ số Hệ số Hệ số Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn

0,032 0,368*** 0,020 0,248** 0,029 0,099*** -0,308** 0,463 -0,044*** 0,005 -0,316*** 0,089 288 PU GRDP FDI INF IR EC Số quan sát 0,249 0,274*** 0,096 0,022 0,089 0,153 2,737 -3,065 0,028 -0,030 -0,610*** 0,061 288

Ghi chú: (1) ** thể hiện mức ý nghĩa 1%, ** thể hiện mức ý nghĩa 5%, *thể hiện mức ý nghĩa 10%.

Độ trễ của 3 mô hình thường được lựa chọn dựa trên kỹ thuật của Kripfganz và Schinerder (2018). Tuy nhiên,

trên thực tế do chuỗi thời gian tương đối ngắn nên dựa vào các nghiên cứu đi trước của Loayza và Ranciere (2006), Demetriades và Siong (2006), Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự (2020), tác giả chọn độ trễ tối ưu cho tất cả các biến trong mô hình là 1.

(2) Phương pháp nhóm trung bình MG (Mean Group), các hệ số hồi quy trong ngắn hạn và dài hạn

được cho phép khác nhau. Ngược lại, phương pháp ảnh hưởng cố định động DFE (Dynamic Fixed Effect) giả định các hệ số hồi quy trong dài hạn và ngắn hạn là đồng nhất (Pesaran & cộng sự, 1999).

(3) Để lựa chọn giữa 3 phương pháp PMG, MG, DEF, kiểm định được sử dụng là kiểm định Hausman

(Pesaran và cộng sự, 1999). Giả thuyết H0 chính là không có sự khác biệt giữa phương pháp MG và PMG (hoặc PMG và DEF). Nếu giả thuyết này bị bác bỏ, điều này có nghĩa là phương pháp PMG là phù hợp và

ngược lại, phương pháp MG hoặc DEF sẽ phù hợp hơn.

0,954 0,255** 1,077 0,525 1,017 0,857** 2,012 0,749 0,070 -0,014 -0,513** 0,252 288 Hausman test: H0: PMG hiệu quả hơn MG (h-test =2.80; P-value =0.423) Hausman test: H0: PMG hiệu quả hơn DFE (h-test =9.22; P-value=0.101)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên phần mềm Stata-15

Phụ lục 40: Chính sách đầu tư công tại các vùng KTTĐ giai đoạn 2021-2030

Chính sách đầu tư công

Vùng KTTĐ ĐBSCL (công nghiệp chế biến lượng thực, thực phẩm, nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao) *

Vùng KTTĐ phía Nam (khoa học, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, dịch vụ tài chính, ngân hàng và logistics) *

Vùng KTTĐ miền Trung (du lịch biển, du lịch sinh thái, công nghiệp hóa dầu và công nghiệp ô tô- phụ trợ ngành cơ khí) *

Vùng KTTĐ Bắc bộ (công nghiệp chế biến chế tạo giá trị gia tăng cao, vận tải biển, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới) *

Cực tăng trưởng: TP. Hà Nội

Cực tăng trưởng: TP. Đà Nẵng

Cực tăng trưởng: TP. Hồ Chí Minh

Cực tăng trưởng: TP. Cần Thơ

Khu vực ưu tiên đầu tư: Tam giác Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang

Khu vực ưu tiên đầu tư: Tam giác Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh

Khu vực ưu tiên đầu tư: Ven biển Thừa Thiên Huế- Đà Nẵng – Quảng Nam – Quảng Ngãi

Khu vực ưu tiên đầu tư: Tứ giác TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương- Đồng Nai- Bà Rịa-Vũng Tàu

Lĩnh vực ưu tiên đầu tư: CSHT cho các ngành thế mạnh, gia tăng liên kết nội vùng và các khu vực lân cận (Lào Cai, Lạng Sơn)

Lĩnh vực ưu tiên đầu tư: CSHT cho các ngành thế tăng mạnh, gia liên kết nội vùng và các khu vực lân cận (mạng lưới giao thông gắn với hình thành hành lang kinh tế Bắc- Nam qua địa bàn vùng và các hành lang Đông-Tây, Tây Nguyên)

Lĩnh vực ưu tiên đầu tư: CSHT cho các ngành thế mạnh, gia tăng liên kết nội vùng và các khu vực lân thống (hệ cận đường ven biển qua các tỉnh, phát triển kết cấu hạ tâng đường thủy nội địa liên kết Vùng với TP. Hồ Chí minh và vùng Đông Nam Bộ)

Lĩnh vực ưu tiên đầu tư: CSHT cho các ngành thế mạnh, gia tăng liên kết nội vùng và các khu vực lân cận (đường bộ cao tốc kết nối Thành phố Hồ Chí Minh với địa các phương trong và vùng, ngoài đường vành đai 3,4 Thành phố Hồ Chí Minh hành lang kinh tế Bắc- Nam và hành lang kinh Tây tế Nguyên-TP. Hồ Chí Minh)

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ Nghị quyết 138/NQ-CP, Quyết định số 198/QĐ-TTg, Quyết

định số 1874/QĐ-TTg, Quyết định số 2631/QĐ-TTg