Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
TÁC ĐỘNG CỦA NGUỒN LỢI THỦY SẢN ĐẾN SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN DỄ BỊ<br />
TỔN THƯƠNG Ở TỈNH AN GIANG<br />
Phạm Xuân Phú1<br />
<br />
ABSTRACT<br />
The study was carried out in Phu Loc, Tan Chau district and Khanh An, An Phu district, An Giang province to<br />
assess impacts of aquatic resources on livelihood of vulnerable people. The study also sought solutions for<br />
sustainable livelihood of local people. The quantitative and qualitative methods were used for surveys: indepth interview (for local authorities and local people), focus group discussions, and questionnaires. The<br />
results showed that people who lived along the river are poor, education-low, landless, and dependent on<br />
natural resources that their income resources were from natural fish exploitation and hired work; therefore,<br />
fish reduction resulted in their reduction of employment opportunity and income that caused their life<br />
unstable. About 30.35% interviewed households in Khanh An commune, and 20.25% in Phu Loc wanted to<br />
change their job. Approximately 69.65% of interviewed households in Khanh An and 79.75% in Phu Loc<br />
maintained their current jobs due to familiarity to fish exploitation, unavailable funds, no land, and no<br />
production facilities.<br />
Keywords: An Giang, Khanh An, natural aquatic resources, Phu Loc, livelihood<br />
Title: Impact of aquatic resources on livelihood of vulnerable people in An Giang province<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Nghiên cứu được thực hiện ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang. Mục<br />
đích của nghiên cứu phân tích tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân dễ bị tổn thương ở 2<br />
xã Phú Lộc và Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang. Từ đó, đưa ra kiến nghị cho chiến lược<br />
sinh kế của người dân sống ở vùng nghiên cứu được hiệu quả và bền vững. Các thông tin được thu thập bằng<br />
cách kết hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân<br />
sống ven sông là những người nghèo, trình độ học vấn thấp, sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên;<br />
vì không có đất sản xuất nên thu nhập chủ yếu dựa vào khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên và đi làm thuê.<br />
Chính vì vậy, khi nguồn lợi thủy sản giảm đã ảnh hưởng đến sinh kế của họ như giảm cơ hội việc làm, giảm<br />
thu nhập, đời sống của họ trở nên bấp bênh. Có đến 30,35% hộ gia đình được phỏng vấn ở Khánh An và<br />
20,25% hộ gia đình được phỏng vấn ở Phú Lộc muốn thay đổi nghề nghiệp. Mặc dầu sinh kế phụ thuộc vào<br />
nguồn lợi thủy sản tự nhiên nhưng có đến 69,65% hộ được phỏng vấn ở xã Khánh An và 79,75% hộ ở xã Phú<br />
Lộc vẫn tiếp tục với nghề khai thác thủy sản tự nhiên. Nguyên nhân là do họ đã quen với việc kiếm sống từ<br />
khai thác thủy sản tự nhiên, thêm vào đó, điều kiện gia đình không có vốn, không đất đai và các phương tiện<br />
sản xuất khác làm cho họ không thể chuyển sang nghề khác.<br />
Từ khóa: An Giang, Khánh An, nguồn lợi thủy sản, Phú Lộc, sinh kế<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có vị trí và vai trò quan trọng, là vựa lúa lớn nhất của Việt<br />
Nam, không chỉ đảm bảo an toàn lương thực quốc gia mà còn đảm bảo hàng xuất khẩu, nhất là lúa<br />
gạo và thủy hải sản. Đặc điểm nổi bật của ĐBSCL là một vùng được hình thành bởi tác động của<br />
môi trường sông Mê Công và biển Đông, do đó là vùng sinh thái ngập nước có khí hậu nhiệt đới, gió<br />
mùa. Do đó, nơi đây hầu như năm nào cũng xảy ra lũ lụt, có những trận lũ với cường suất lớn, gây<br />
thiệt hại nặng nề về người và của (Nguyễn Đình Huấn, 2003). Lũ lụt ở ĐBSCL đã trải qua hàng<br />
1<br />
<br />
ThS. Khoa Nông nghiệp và Tài nguyên Thiên nhiên, Trường Đại Học An Giang<br />
Email: pxphu@agu.edu.vn<br />
<br />
1<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
ngàn năm, trở thành hiện tượng tự nhiên. Bên cạnh những thiệt hại về người và của, lũ lụt là lợi thế<br />
tự nhiên để tháo chua, rửa phèn, và bồi đắp phù sa, tạo ra sự màu mỡ cho vùng đất này (Đào Công<br />
Tiến, 2002). Vì vậy, “sống chung với lũ” vừa là đặc điểm riêng, vừa là nhu cầu tất yếu khách quan<br />
của người dân ĐBSCL (Oxfam, 2008). Khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt<br />
Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ khá cao và ổn định; trung bình năm khoảng<br />
270C, biên độ trung bình hằng năm 300C (Lê Văn Hạnh, 2013). Do địa hình của khu vực thấp và<br />
nằm ở vùng hạ nguồn sông Mê Công nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của lũ, xâm nhập mặn, hạn hán<br />
hàng năm do tác động của biến đổi khí hậu và việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn đã<br />
làm thay đổi lưu lượng dòng chảy và lượng nước lũ đổ về khu vực này ảnh hưởng đến tính quy luật<br />
của lũ, xâm nhập mặn, hạn hán hàng năm (Ủy ban liên minh chính phủ về biến đổi khí hậu, 2007).<br />
Tuy nhiên, từ sau năm 2000 trở lại đây, mực nước lũ đo được ở hai nhánh của sông Mê Công đổ vào<br />
Việt Nam là sông Tiền và sông Hậu thấp dần. Dù vậy, chưa năm nào mực nước lũ thấp ở mức kỷ lục<br />
như năm 2010, dưới 1m so với mức lũ trung bình hằng năm. Ảnh hưởng đầu tiên từ tình trạng lũ<br />
thấp là ngư dân vùng Đồng Tháp, An Giang đã không thể khai thác thuỷ sản vào mùa lũ để có tích<br />
luỹ cho các tháng khác trong năm. Tại An Giang, mỗi năm mùa nước nổi mang lại trên dưới 1.500 tỉ<br />
đồng thu nhập cho người dân từ các ngành nghề chăn nuôi, trồng trọt, dịch vụ, khai thác sản vật<br />
thiên nhiên, mang lại việc làm cho trên 650.000 lao động nông thôn trong tỉnh (Lê Anh Tuấn, 2010).<br />
Theo Ủy ban sông Mê Công (2010) cho thấy, một con số đáng kinh ngạc: khoảng 17% số cá đánh<br />
bắt được ở các vùng nước nội thủy trên khắp thế giới là từ con sông này và 90% cư dân của lưu vực<br />
sông Mê Công là nông dân lâu nay sống phụ thuộc chủ yếu vào những cánh đồng được cung cấp phù<br />
sa màu mỡ và đánh bắt nguồn lợi thủy sản từ dòng sông này. Như vậy, những tác động trên thượng<br />
nguồn sẽ tác động đến đời sống, kinh tế - xã hội, môi trường, sinh kế của người dân Đồng bằng sông<br />
Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, nhằm xác<br />
định các yếu tố tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân ở tỉnh An Giang nói riêng<br />
và ĐBSCL nói chung, đồng thời đưa ra kiến nghị cho chiến lược sinh kế của người dân vùng lũ<br />
được ổn định và bền vững. Do đó, đề tài “Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người<br />
dân dễ bị tổn thương vùng ven sông hạ lưu Mê Công - một tình huống nghiên cứu ở 2 xã Phú Lộc và<br />
Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang” đã được thực hiện.<br />
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU<br />
Phân tích tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân sống ở 2 xã Phú Lộc và<br />
Khánh An, huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang.<br />
Đưa ra kiến nghị cho chiến lược sinh kế của người dân sống ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An,<br />
huyện Tân Châu và An Phú, tỉnh An Giang.<br />
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Các thông tin được thu thập bằng cách kết hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính.<br />
Trong đó, phương pháp nghiên cứu định tính tham gia thảo luận 4 cuộc PRA cho 2 đối tượng: (i)<br />
nhóm tham gia khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên, (ii) nhóm không tham gia khai thác nguồn lợi<br />
thủy sản tự nhiên, bao gồm thực hiện đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRAParticipatory Rural Appraisal) và sử dụng các công cụ sau: Time Line; Seasonal Calendar; Venn<br />
Diagram; Problem Ranking Matrix; SWOT analysis và phỏng vấn sâu các cấp lãnh đạo ở địa<br />
phương (3 cuộc) và phỏng vấn sâu những nông hộ điển hình (3hộ). Phương pháp nghiên cứu định<br />
lượng như phỏng vấn nông hộ (60 hộ). Phương pháp xử lý số liệu: Tổng hợp thành bảng, biểu đồ, đồ<br />
thị và hộp thông tin bằng Microsoft word và Excel, sử dụng các hàm tính giá trị nhỏ nhất (Min), giá<br />
trị lớn nhất (Max), trung bình (Average), tính tổng (Sum), phần trăm, sử dụng hệ số tương quan R2<br />
đề thống kê. Thời gian thực hiện: 01/04/2010 đến 30/11/2010.<br />
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
2<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
4.1 Các nguyên nhân làm giảm lượng cá tự nhiên<br />
Theo số liệu thống kê của Chi cục bảo vệ thủy sản tỉnh An Giang (2009), sản lượng khai thác nguồn<br />
lợi thủy sản tự nhiên có khuynh hướng giảm dần từ năm 2001 - 2009. Theo ông Trần Anh Dũng, chi<br />
cục trưởng bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh An Giang cho biết những nguyên nhân do giảm sản lượng<br />
nguồn lợi thủy sản bới các nguyên nhân sau: (i) đánh bắt bằng điện, (ii) bao đê, (iii) sử dụng mắt<br />
lưới nhỏ, đông ngư dân, đánh bắt cá nhỏ, thuốc trừ sâu, đánh bắt cá bố mẹ.<br />
Các nguyên nhân làm giảm lượng cá tự nhiên<br />
3,33<br />
<br />
Đông ngư dân đánh bắt<br />
<br />
6,67<br />
<br />
Đánh bắt bằng điện<br />
Bao đê<br />
<br />
3,33<br />
<br />
Thuốc trừ sâu<br />
<br />
6,67<br />
36,67<br />
<br />
Sử dụng lưới mắt nhỏ<br />
<br />
43,33<br />
<br />
Nước lũ chảy về chậm…<br />
0<br />
<br />
10<br />
<br />
20<br />
Phần trăm<br />
Khánh An<br />
<br />
30<br />
<br />
40<br />
<br />
50<br />
<br />
Phú Lộc<br />
<br />
Biểu đồ 1. Các nguyên nhân làm giảm lượng cá tự nhiên<br />
Nguồn: Điều tra nông hộ, 2010<br />
<br />
Tuy nhiên, theo kết quả phỏng vấn nông hộ năm 2010, (biểu đồ 1) cho thấy có nhiều nguyên nhân<br />
làm giảm lượng cá tự nhiên như có đông ngư dân đánh bắt (theo 3,33% hộ được phỏng vấn ở xã<br />
Khánh An), đánh bắt bằng điện, bao đê, thuốc trừ sâu, sử dụng lưới mắt nhỏ và nước lũ chảy về<br />
chậm và ít. Trong đó, có đến 40% hộ ở xã Phú Lộc và 43,33% hộ ở xã Khánh An cho rằng sản lượng<br />
cá giảm là do nước lũ chảy về chậm và ít.<br />
4.2 Diễn biến sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên<br />
100<br />
<br />
96.57<br />
91.13<br />
<br />
90<br />
79.06<br />
<br />
80<br />
<br />
67.47<br />
<br />
70<br />
<br />
58.06<br />
<br />
Tấn<br />
<br />
60<br />
<br />
51.33<br />
<br />
53.40<br />
<br />
52.04<br />
<br />
50<br />
<br />
40.07<br />
<br />
40.13<br />
<br />
2008<br />
<br />
2009<br />
<br />
40<br />
30<br />
20<br />
10<br />
0<br />
2000<br />
<br />
2001<br />
<br />
2002<br />
<br />
2003<br />
<br />
2004<br />
<br />
2005<br />
<br />
2006<br />
<br />
2007<br />
<br />
Năm<br />
<br />
Biểu đồ 2. Diễn biến sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên ,An Giang<br />
Nguồn: Trạm khí tượng thủy văn, tỉnh An Giang, 2009<br />
<br />
3<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
6<br />
<br />
Mực nước (m)<br />
<br />
5<br />
4<br />
3<br />
2<br />
1<br />
0<br />
2000<br />
<br />
2001<br />
<br />
2002<br />
<br />
2003<br />
<br />
2004<br />
<br />
2005<br />
<br />
2006<br />
<br />
2007<br />
<br />
2008<br />
<br />
2009<br />
<br />
Năm<br />
<br />
Biểu đồ 3. Mực nước lũ qua các năm tại Tân Châu, An Giang<br />
Nguồn: Chi cục bảo vệ thủy sản tỉnh An Giang, 2009<br />
<br />
120<br />
100<br />
<br />
Đĩnh lũ<br />
<br />
80<br />
<br />
Sản lượng cá tự nhiên<br />
<br />
60<br />
40<br />
<br />
R² = 0,9034<br />
<br />
Linear (Sản lượng cá<br />
tự nhiên)<br />
<br />
20<br />
0<br />
1998<br />
<br />
2000<br />
<br />
2002<br />
<br />
2004<br />
<br />
2006<br />
<br />
2008<br />
<br />
2010<br />
<br />
Biểu đồ 4. Mối quan hệ giữa mực nước lũ và sản lượng cá tự nhiên<br />
<br />
Điều này cũng phù hợp khi so sánh diễn biến của lũ và sản lượng cá hằng năm ở biểu 2 và biểu 3,<br />
kết quả cho thấy khi mực nước giảm thì sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên cũng giảm theo, khi<br />
mực nước lũ tăng lên thì sản lượng khai thác thủy sản cũng tăng. Theo kết quả nghiên cứu của Lê<br />
Xuân Sinh (2007) trong vòng 10 năm sản lượng cá tự nhiên ở khu vực Ô Môn - Xa No của ĐBSCL<br />
giảm 50%, kết quả này cũng phù hợp với kết quả điều tra nông hộ ở 2 xã Phú Lộc và Khánh An năm<br />
2010. Kết quả điều tra cho thấy, sản lượng thủy sản khai thác bình quân/hộ/năm giảm đáng kể, từ<br />
bình quân 1.120, 52 kg cá/hộ vào năm 2000 đã giảm xuống còn 563,73 kg cá/hộ vào năm 2010,<br />
tương đương với mức giảm 49,69% trong vòng 10 năm. Theo tính toán của ngành nông nghiệp tỉnh<br />
An Giang cho thấy, trung bình mỗi năm tỉnh An Giang có giá trị tăng thêm 2.000 tỷ đồng từ việc<br />
khai thác lợi thế do mùa nước nổi đem lại. Năm nay lũ nhỏ và về chậm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến<br />
đời sống hàng chục ngàn hộ nông dân sống bằng nghề đánh bắt tôm cá đồng thời làm cho tỉnh An<br />
Giang mất đi nguồn thu đáng kể này. Bên cạnh đó, theo kết quả biểu 4 cho thấy xu hướng mực nước<br />
giảm qua các năm và sản lượng cá cũng giảm qua các năm và có hệ số R2 = 0.903 thì tương quan<br />
tuyến tính về ý nghĩa mặt thống kê cho thấy giữa mực nước và sản lượng cá tự nhiên có mối quan hệ<br />
chặt với nhau.<br />
<br />
4.3 Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân sống ở vùng hạ lưu Mê Công<br />
4<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 1 – 7<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
4.3.1 Cơ hội việc làm<br />
Theo Huỳnh Văn Thành, phó chủ tịch UBND xã Khánh An (2010), mùa nước nổi là mùa đánh bắt<br />
thủy sản của người dân, chính vì thế đã có nhiều ngành nghề liên quan phát triển và tạo công ăn việc<br />
làm cho khoảng gần 80% người dân nơi đây. Cũng theo Theo Huỳnh Văn Thành, phó chủ tịch<br />
UBND xã Khánh An (2010) cho biết mùa lũ năm 2010 các ngành nghề này gặp rất nhiều khó khăn<br />
do lũ về chậm, do đó ảnh hưởng đến thu nhập và công ăn việc làm của người dân nơi đây.<br />
<br />
Phần trăm<br />
<br />
4.3.2 Nguồn thu nhập của người dân sống ven sông<br />
50<br />
40<br />
30<br />
20<br />
10<br />
0<br />
<br />
40,00<br />
<br />
43,33<br />
<br />
33,33<br />
26,67<br />
20,00<br />
<br />
16,67<br />
6,67<br />
<br />
6,67 6,67<br />
0<br />
<br />
Đánh bắt cá tự Làm thuê nông<br />
nhiên<br />
nghiệp và phi<br />
nông nghiệp<br />
<br />
Làm ruộng<br />
<br />
Phú Lộc<br />
<br />
Từ người đi lao<br />
động xa<br />
<br />
Vận chuyển<br />
hàng thuê<br />
<br />
Khánh An<br />
<br />
Biểu đồ 4. Nguồn thu nhập của hộ dân<br />
Nguồn: Điều tra nông hộ, 2010<br />
<br />
Kết quả từ biểu đồ 4 cho thấy, nguồn thu nhập chính của người dân ở 2 xã nghiên cứu năm 2010 chủ<br />
yếu nhờ vào việc đánh bắt cá tự nhiên (33,33% ở xã Phú Lộc và 40% ở xã Khánh An), kế đến là làm<br />
thuê hoặc vận chuyển hàng thuê (xã Khánh An với 26,67% hộ được phỏng vấn). Thu nhập từ làm<br />
ruộng có nhưng không cao do đa số những hộ tham gia đánh bắt thủy sản tự nhiên thường là những<br />
hộ nghèo, có ít hoặc không có đất canh tác. Ngoài ra, có một số ít hộ có nguồn thu nhập từ những<br />
người đi làm xa (chiếm 6,67% ở mỗi xã).<br />
4.4 Chiến lược sinh kế của người dân vùng ven sông<br />
Flordeliz (2006) và Võ Hồng Tú (2012) cho rằng sinh kế người nghèo đánh bắt nguồn lợi thủy sản<br />
tự nhiên vùng ngập lũ dễ bị tổn thương do tác động của lũ. Theo kết quả phỏng vấn nông hộ, người<br />
dân cho biết do trước đây sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, nguồn thu nhập<br />
chính của gia đình chủ yếu từ khai thác nguồn lợi thủy sản nhưng hiện nay các vùng thượng nguồn<br />
ngăn đập, cá tự nhiên không còn nữa nên có 30,35% hộ được phỏng vấn ở xã Khánh An và 20,25%<br />
hộ được phỏng vấn ở xã Phú Lộc muốn chuyển đổi nghề như chuyển sang chăn nuôi, trồng trọt,<br />
buôn bán nhỏ, làm thợ hồ. Bên cạnh đó, khả năng ứng phó và phục hồi kém của người nghèo cũng là<br />
kết quả của quá trình tổn thương (Võ Văn Tuấn, 2010)<br />
Hộp thông tin 1: Chuyển đổi nghề<br />
Ông: Nguyễn Văn Ba, xã Phú Lộc, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang cho biết những năm trước đây tới tháng 7 âm lịch là<br />
nước lũ đã tràn ngập cả cánh đồng, cá đồng rất nhiều, người dân nghèo tranh thủ khai thác cá tự nhiên và đem ra bán ở chợ,<br />
có thu nhập ổn định, giải quyết được lao động nhàn rỗi trong mùa nước nổi. Nhưng năm nay, chờ hoài vẫn không thấy lũ<br />
về. Nếu tình hình kéo dài lũ không về, gia đình ông sẽ phải lên Thành Phố Hồ Chí Minh hay Bình Dương làm thuê để kiếm<br />
sống (Phỏng vấn sâu hộ đánh bắt cá năm 2010).<br />
<br />
Tuy nhiên, do trình độ học vấn thấp nên họ chỉ có thể đi làm thuê trong nông nghiệp và phi nông<br />
nghiệp hoặc di cư lên thành phố lớn tìm việc làm. Bên cạnh đó, phần lớn các hộ được phỏng vấn ở<br />
xã Khánh An và Phú Lộc ﴾69,65% hộ ở xã Khánh An và 79,75% hộ ở xã Phú Lộc﴿ cho rằng họ<br />
5<br />
<br />