VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU TRANG
THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN
VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU TRANG
THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN
VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9 38 01 07
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. NGUYỄN THỊ MƠ
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, số
liệu nêu trong Luận án là trung thực. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu của Luận án chưa từng được công bố ở các công trình nghiên cứu
trước đó.
Tác giả Luận án
Nguyễn Thị Thu Trang
i
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................ 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án .................................. 9 1.2. Cơ sở lý thuyết và hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu ........................................ 26 CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .............................. 32 2.1. Khái niệm và đặc điểm của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với trọng tài thương mại ................................................................................................................. 32 2.2. Sự cần thiết phải có quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thương mại...................................................................................... 44 2.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thương mại ........................................................................................... 52 CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ................................................................................................................. 66 3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án Việt Nam đối với Trọng tài Thương mại trước khi bắt đầu và trong quá trình tố tụng trọng tài66 3.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thương mại liên quan đến thi hành phán quyết trọng tài ......................... 94 CHƢƠNG 4. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ............................. 117 4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án Việt Nam đối với Trọng tài Thương mại ........................................................................... 117 4.2. Các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thương mại ......................................................................................... 125 4.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án Việt Nam đối với Trọng tài Thương mại ............................................................... 140 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 149 DANH MỤC CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Việt
BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam
BPKCTT Biện pháp khẩn cấp tạm thời
CHXHCN Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
ĐƯQT Điều ước Quốc tế
HĐTT Hội đồng Trọng tài
KD, KDTM Kinh doanh, Kinh doanh Thương mại
LTTTM Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam năm 2010
NCS Nghiên cứu sinh
NXB Nhà xuất bản
Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 03
Nghị quyết 01/2014 năm 2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân
Tối cao
PLQT Pháp luật quốc tế
PLTTTM Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003
PQTT Phán quyết Trọng tài
TA, TANDTC Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao.
TM, TMQT Thương mại; Thương mại quốc tế
TTTM; TTV Trọng tài Thương mại; Trọng tài viên
THADS Thi hành án dân sự
Tr. trang
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VIAC Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
iii
Tiếng nƣớc ngoài
Chữ viết tắt Tiếng nƣớc ngoài Nghĩa tiếngViệt
ước
Công New York Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành các quyết định Trọng tài nước ngoài
CPTPP Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương New York Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards in 1958 and Comprehensive The Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership
Investment EVIPA The EU-Vietnam Protection Agreement
EVFTA the EU-Vietnam Free Trade Agreement
FAA Federal Arbitration Act
FTA
Luật Mẫu UNCITRAL
International SIAC
UNCTAD
UNCITRAL Free Trade Agreement UNCITRAL Law 1985 on Commercial International Arbitration Singapore Arbitration Centre United Nations Conference on Trade and Development United Nations Commission on International Trade Law
ZPO Zivilprozessordnung
pg. Page Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam Luật Trọng tài Liên Bang của Hoa Kỳ Hiệp định Thương mại Tự do Luật Mẫu năm 1985 của UNCITRAL về TTTM Quốc tế (sửa đổi năm 2006) Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore Hội nghị Liên Hợp quốc về Thương mại và Phát triển Ủy ban Pháp luật Thương mại Quốc tế của Liên Hợp quốc Bộ Luật Tố tụng Dân sự của Đức trang
iv
Bảng 3.1: Số lượng yêu cầu liên quan việc Trọng tài Thương mại Việt Nam được các
Tòa án thụ lý và giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019 ..................................................... 93
Bảng 3.2: Kết quả giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài trong
giai đoạn 01/01/2012-30/09/2019 ........................................................................................ 105
DANH MỤC BẢNG
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án (TA) và trọng tài thương mại
(TTTM) là hai phương thức giải quyết tranh chấp mang tính tài phán [39, tr. 61]
cùng song hành tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Hai phương thức này có nhiều
điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau. Điểm khác nhau cơ bản thể
hiện ở chỗ TA là cơ quan tư pháp do Nhà nước thành lập, thực hiện quyền tư pháp
[48, khoản 1 Điều 102] với vai trò là cơ quan tài phán công. Trong khi đó, TTTM
không phải là cơ quan tài phán công mà do các bên thỏa thuận lựa chọn và các bên
đưa tranh chấp cho hội đồng trọng tài (HĐTT) giải quyết. Chính vì vậy, trong việc
giải quyết tranh chấp thương mại tại TTTM, theo quy định của pháp luật, thẩm
quyền của TTTM bị giới hạn, đặc biệt là giới hạn cả đối với những vấn đề liên
quan đến tố tụng tư pháp, ví dụ như giới hạn trong việc áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời (BPKCTT), giới hạn trong việc triệu tập người làm chứng, TTTM
không có bộ máy cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài (PQTT) riêng. Những
giới hạn về thẩm quyền của TTTM, nếu không được tháo gỡ, sẽ ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của chính các bên tranh chấp và từ đó, ảnh hưởng tiêu
cực đến việc giải quyết tranh chấp tại TTTM. Chính vì vậy, pháp luật các nước
cũng như pháp luật quốc tế đã ghi nhận thẩm quyền của TA trong việc hỗ trợ tư
pháp đối với TTTM. Mục tiêu của pháp luật trong vấn đề này là, một mặt, tháo gỡ
những hạn chế, những giới hạn mà bản thân các HĐTT không thể tháo gỡ nếu
không có quy định của pháp luật, mặt khác, tạo điều kiện để các bên tranh chấp yên
tâm khi đưa vụ việc ra giải quyết tại TTTM. Từ đó, thúc đẩy mối quan hệ tích cực
giữa cơ quan tài phán công- TA, với cơ quan tài phán tư- TTTM, nhằm tạo lập môi
trường kinh doanh phù hợp để phát triển hoạt động thương mại nói chung và thu
hút đầu tư nước ngoài nói riêng.
Tại Việt Nam, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với hoạt động trọng tài
đã được quy định trong Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 (LTTTM), trong
1
Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao (TANDTC)
hướng dẫn một số quy định của LTTTM (Nghị quyết 01/2014) và Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015). Tuy nhiên, các quy định trong các văn bản nêu
trên còn chưa thống nhất và cụ thể, vẫn rời rạc và chưa đồng bộ. Một số quy định
chưa phù hợp với Công ước New York mà Việt Nam đã gia nhập, cũng như chưa
tương thích với Luật Mẫu UNCITRAL. Chính điều này đã dẫn đến thực tế là các
TA Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn khi thực thi và áp dụng pháp luật về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM. Điều này không chỉ ảnh hưởng đén quyền, lợi
ích của các bên tranh chấp khi họ đưa vụ việc ra giải quyết tại TTTM, mà còn ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động của TA Việt Nam. Cụ thể, chỉ số xếp hạng của
Việt Nam liên quan đến chất lượng hoạt động xét xử của TA Việt Nam đối với
tranh chấp thương mại nói chung và các tranh chấp thương mại quốc tế nói riêng,
trong đó có hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM được đánh giá là chưa
cao [184], [207]. Điều này cho thấy hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối
với các vụ việc TTTM còn chưa hiệu quả. Đây là điều hết sức bất thường khi Việt
Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới với nhiều cam kết về việc tạo
lập môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của các hoạt động thương mại
quốc tế.
Ngày 02/10/2019, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án hoàn thiện
pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức TTTM
để nhằm khuyến khích và nâng cao chất lượng của TTTM ở Việt Nam. Tuy nhiên,
kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết và Đề án nói trên đến nay vẫn cho thấy còn
nhiều hạn chế.
Việc thực thi hiệu quả thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM sẽ
thúc đẩy TTTM phát triển tại Việt Nam và điều này sẽ có tác động tích cực đến
môi trường đầu tư của Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề về thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM nói chung và thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM nói riêng đóng vai trò quan trọng.
2
Vấn đề đặt ra là TA Việt Nam có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp như thế nào đối
với TTTM? Các quy định của pháp luật nước ta về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA Việt Nam đối với TTTM có những bất cập gì? Trên thực tế khi thực thi thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của đối với TTTM, TA Việt Nam gặp những khó khăn gì và
giải pháp nào để tháo gỡ? Để có câu trả lời, điều cần thiết là phải nghiên cứu vấn đề
này một cách cụ thể. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn được phân tích ở trên,
nghiên cứu sinh (NCS) đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề “Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA Việt Nam đối với TTTM” để làm để tài nghiên cứu của Luận án Tiến sĩ
Luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận
về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, phân tích và đánh giá thực
trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM, Luận án đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp
luật, và nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM nhằm thúc đẩy sự phát triển hiệu quả và lâu dài của
TTTM, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, cũng như phát
triển mối quan hệ giữa TTTM và TA trong việc giải quyết các tranh chấp thương
mại ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận án có nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Luận giải để làm rõ khái niệm, đặc điểm của về thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM; làm rõ các khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp
luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM;
- Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM; chỉ ra những bất cập của pháp luật và
những vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm
3
quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA Việt Nam đối với hoạt động TTTM, nhằm chỉ ra những thuận lợi, khó khăn và
yếu kém của TA trong việc áp dụng các quy định có liên quan của pháp luật Việt
Nam trong thời gian qua.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA đối với TTTM và rút ra bài học cho Việt Nam;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề liên quan đến thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, các quy định của pháp luật Việt Nam
về TTTM, về hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam và các quy định pháp luật của một
số nước về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm các quy định có liên quan
đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM được quy định trong Công
ước New York 1958, Luật Mẫu UNCITRAL và trong pháp luật của một số quốc
gia khác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là vấn đề rất
rộng, bao gồm cả quá trình từ khi trọng tài nhận đơn kiện cho đến khi các bên thực
thi PQTT. Trong phạm vi của Luận án này, nội dung nghiên cứu sẽ được giới hạn ở
việc phân tích các quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM
được ghi nhận trong LTTTM và BLTTDS 2015. Đó là thẩm quyền của TA Việt
Nam được quy định tại Điều 6, khoản 2 Điều 7 LTTTM và khoản 5 Điều 31
BLTTDS 2015, bao gồm 9 vấn đề. Đó là (i) Thẩm quyền của TA trong việc từ chối
4
thụ lý trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài; (ii) Thẩm quyền của TA đối với
việc chỉ định TTV để thành lập HĐTT vụ việc; (iii) Thẩm quyền của TA đối với
yêu cầu thay đổi TTV của HĐTT vụ việc; (iv) Thẩm quyền của TA đối với yêu cầu
thu thập chứng cứ; (v) Thẩm quyền của TA đối với yêu cầu TA áp dụng các
BPKCTT; (vi) Thẩm quyền của TA đối với yêu cầu triệu tập người làm chứng;
(vii) Thẩm quyền đăng ký PQTT đối với Trọng tài vụ việc; (viii) Thẩm quyền của
TA đối với yêu cầu hủy PQTT trong nước; và (ix) Thẩm quyền của TA đối với yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam PQTT của TTTM nước ngoài.
Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu từ năm 2003 - năm ban
hành PLTTTM - cho đến nay.
Về không gian: Luận án nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam, cụ
thể là LTTTM và BLTTDS. Luận án cũng nghiên cứu các quy định tương ứng của
Công ước New York 1958, Luật Mẫu của UNCITRAL và quy định pháp luật của
một số quốc gia như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Singapore và Hồng Kông v.v... Luận án
sẽ không xem xét đến các quy định trong các điều ước quốc tế song phương và đa
phương khác mà Việt Nam tham gia.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án
Luận án được trình bày dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lenin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, về Nhà nước và pháp luật và
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và
cải cách tư pháp. Ngoài ra, Luận án còn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu sau đây:
Phương pháp phân tích, phương pháp luận giải và tổng hợp: Được sử dụng
trong toàn bộ 4 chương của Luận án để tìm hiểu, phân tích, luận giải nhằm làm rõ
các quan điểm về TTTM, về mối quan hệ giữa TA và TTTM, về thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM. Từ đó, chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt
Nam và những vướng mắc trong quá trình áp dụng.
Phương pháp hệ thống hóa và phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu
5
tại Chương 1 nhằm tổng hợp và hệ thống hóa các công trình nghiên cứu, các Luận
án tiến sĩ ở Việt Nam và ở nước ngoài có nghiên cứu về vấn đề liên quan đến thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM nhằm chỉ ra những vấn đề đã được giải
quyết và vấn đề còn bỏ ngỏ. Tại Chương 2, phương pháp phân tích và luận giải
được sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM; về pháp luật và nội dung của pháp luật về thẩm quyền hxô trợ
tư pháp của TA đối với TTTM.
Phương pháp luật học so sánh: Được sử dụng ở Chương 2 nhằm phân tích có
so sánh các quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam
đối với TTTM trong nước và ngoài nước, cũng như so với thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA theo quy định của pháp luật một số quốc gia khác. Phương pháp này
cũng được sử dụng để làm nổi bật sự khác biệt giữa thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM với các thẩm quyền khác của TA.
Phương pháp phân tích tình huống được áp dụng nhằm phân tích và bình
luận về các vụ việc cụ thể liên quan đến hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM đã được giải quyết tại TA Việt Nam. Từ đó, rút ra những vài học kinh
nghiệm và giải pháp khắc phục những hạn chế, sai sót trong thực tiễn xét xử tại TA
Việt Nam hiện nay khi thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong giải
quyết các vụ việc liên quan đến TTTM.
Chương 3 và Chương 4 của Luận án sử dụng đồng thời các phương pháp
luận giải, phân tích và phương pháp luật học so sánh để chỉ ra những bất cập của
pháp luật Việt Nam cũng như bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật để trên cơ
sở đó luận giải cho các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện, cụ
thể và có hệ thống về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM,
cả trong nước và nước ngoài. Những đóng góp mới nổi bật của Luận án thể hiện ở
6
những nội dung sau:
- Luận án đã làm rõ khái niệm về thẩm quyền tư pháp, thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM và chỉ ra những đặc điểm, nội dung của thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến
pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, cũng như nhưng
nội dung cơ bản của nó.
- Luận án đã luận giải về sự cần thiết phải có các quy định của pháp luật
về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM và vai trò của việc thực thi
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA theo quy định của pháp luật đối với TTTM.
- Luận án đã phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM và đặt nó trong mối
quan hệ so sánh với các quy định có liên quan của Công ước New York và Luật
Mẫu UNCITRAL, cũng như phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến
các quy định này. Từ đó, Luận án chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp
luật cũng như những hạn chế trong việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM trên thực tế.
- Luận án đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM
và các giải pháp để thực thi hiệu quả thẩm quyền của TA Việt Nam đối với TTTM
một cách hiệu quả trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án đã góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM.
Kết quả nghiên cứu của Luận án là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên
cứu, giảng dạy và học tập về pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật TTTM nói
chung và pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giải
thích và áp dụng LTTTM và BLTTDS, cụ thể là các quy định liên quan đến thẩm
7
quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM.
Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, phát triển nguồn lực và xây dựng
các cơ chế thực thi được đưa ra trong Luận án còn là tài liệu tham khảo bổ ích cho
TA, TTV, cơ quan ban hành pháp luật và cả các bên tranh chấp khi họ đưa vụ việc
ra giải quyết tại TTTM.
7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
án gồm 4 chương.
Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết liên quan đến
đề tài Luận án
Chƣơng 2. Những vấn đề lý luận về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án
đối với trọng tài thương mại.
Chƣơng 3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của Tòa án Việt Nam đối với trọng tài thương mại.
Chƣơng 4. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án Việt Nam đối với trọng tài
thương mại.
8
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
Liên quan đến đề tài Luận án, trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu, NCS
sẽ tập trung phân tích tình hình nghiên cứu về hai vấn đề quan trọng. Thứ nhất là tình
hình nghiên cứu về TTTM nói chung. Thứ hai là các nghiên cứu về thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về trọng tài thương mại nói chung
Với ý nghĩa là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp tồn tại song
hành cùng TA, TTTM đã hình thành và phát triển khá lâu ở trên thế giới, đặc biệt là tại
một số quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ, Đức v... v [55, tr. 524], [103]; [199]. Do đó, có
một khối lượng khá đồ sộ các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến
TTTM nói chung cũng như liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ của TA đối với TTTM.
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về khái niệm và đặc điểm của trọng tài
thương mại
Khái niệm của TTTM đã được nêu trong một số công trình khoa học như
“Fouchard Gaillard Goldman on International Commercial Arbitration” (Fouchard
Gaillard Goldman về TTTM Quốc tế) của các tác giả E. Gaillard và J. Savage. Theo
đó, “trọng tài” được hiểu là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp tư
thay thế TA dựa trên thỏa thuận của các bên. Trong đó, tố tụng trọng tài được tiến
hành không công khai trừ khi các bên có thỏa thuận khác, đồng thời phán quyết do
HĐTT ban hành mang tính chung thẩm và ràng buộc các bên tranh chấp [125, tr. 7-
57]. Cùng quan điểm này, tác giả Gary B. Born cho rằng “Trọng tài là - chỉ là- một thủ
tục mà các bên đồng thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan không thuộc
chính phủ, được lựa chọn bởi hoặc cho các bên, để ban hành một quyết định ràng
buộc giải quyết tranh chấp đó theo một thủ tục công bằng, không thiên vị, cho phép
9
các bên được trình bày về vụ việc của mình” [101, tr. 4]; [102, tr. 3-5]. Đồng thời, các
công trình nghiên cứu cũng đều thống nhất và ủng hộ cách giải thích của thuật ngữ
“thương mại” theo chú thích 2 cho khoản 1 Điều 1 của Luật Mẫu UNCITRAL. Theo
đó, thương mại phải được giải thích theo nghĩa rộng, để chỉ những vấn đề liên quan
đến các quan hệ có tính chất thương mại, dù quan hệ đó phát sinh từ hợp đồng hay
ngoài hợp đồng [189, chú thích 2, khoản 1 Điều 1].
Một số các tài liệu tiêu biểu khác cũng bàn về đặc trưng của TTTM hay các thủ
tục trọng tài cụ thể như cuốn “A practical approach to arbitration law” (Tiếp cận
thực tế đối với pháp luật trọng tài) của hai tác giả Andrew Tweeddale and Keren
Tweeddale [186, tr. 3-22], hay bộ tài liệu “Course on Dispute Settlement” (Khoá học về giải quyết tranh chấp) của UNCTAD về việc ban hành PQTT và chấm dứt
tố tụng [193]; về áp dụng BPKCTT tại TA trong khi giải quyết tại TTTM [194],
và nhiều tài liệu khác [102, tr. 3-4], [100, tr. 4-5]. Theo các nghiên cứu này,
TTTM mang những đặc trưng điển hình so với các phương thức giải quyết tranh
chấp khác như TA, hòa giải thương mại v.v.. Đó là, trọng tài là một cơ quan tài
phán mang tính chất tư, thậm chí mối quan hệ giữa các bên và TTV có thể xem
xét dưới góc độ quan hệ hợp đồng; tố tụng trọng tài linh hoạt và dựa trên thỏa
thuận của các bên và không công khai; việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM có
tính chung thẩm và ràng buộc các bên tranh chấp.
Đáng lưu ý là, ở Việt Nam, có thể nói khái niệm “trọng tài” đã xuất hiện ở Việt
Nam từ những năm 1960. Tuy nhiên, trọng tài kinh tế khi đó là một cơ quan của Nhà
nước, có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế và xử lý các vi
phạm hợp đồng kinh tế. Chỉ đến khi có Nghị định số 116-CP ngày 05/09/1994, các
Trung tâm Trọng tài Kinh tế mới được coi là một tổ chức xã hội- nghề nghiệp có thẩm
quyền giải quyết một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn tách rời với chức năng
quản lý nhà nước như trước đây. Mặc dù vậy, cơ chế trọng tài kinh tế theo Nghị định
số 116-CP vẫn chưa thực sự phù hợp với những đặc trưng cơ bản của của TTTM như
được nêu tại Mục 2.2.2 của Luận án, đặc biệt là liên quan đến tính chung thẩm của
10
PQTT. Chính vì vậy, NCS chỉ tổng hợp các nghiên cứu về TTTM và thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM kể từ sau khi có PLTTTM cho đến nay.
Đối với nhóm công trình nghiên cứu trong giai đoạn từ khi có PLTTTM đến
trước khi LTTTM được ban hành, chủ yếu các công trình này tập trung phân tích
những thành tựu và hạn chế của PLTTTM, từ đó làm cơ sở cho những kiến nghị bổ
sung, sửa đổi cho LTTTM. Tiêu biểu như Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Minh Ngọc
có đề tài nghiên cứu về “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” [37] cho thấy một số quy định về
TTTM của pháp luật Việt Nam còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa tương thích với
pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế, ví dụ vấn đề về thẩm quyền của HĐTT, các
tranh chấp HĐTT có thể giải quyết v.v... Mặc dù vậy, một số vấn đề được quy định
trong PLTTTM về cơ bản đã phù hợp với pháp luật quốc tế như hiệu lực pháp lý của
PQTT, xác định vấn đề có thể giải quyết bằng TTTM, giá trị pháp lý của thỏa thuận
trọng tài, thẩm quyền của HĐTT.v…v. [11], [88]. Tuy nhiên, TTTM lại vẫn “trong
cảnh thất nghiệp”, vẫn chưa được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam, trái ngược với thực tế
là TA luôn trong tình trạng quá tải [86].
Sau khi LTTTM ra đời, nhiều công trình nghiên cứu đã phân tích bối cảnh ra
đời của LTTTM cũng như những điểm mới của LTTTM để cho thấy tinh thần chung
của LTTTM là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động của TTTM, mở
rộng thẩm quyền của TA trong việc hỗ trợ tố tụng trọng tài, giúp tố tụng trọng tài được
thuận lợi, tiết kiệm và hiệu quả hơn [22], [26]. Đồng thời, LTTTM đã tiếp thu được
những nguyên tắc cơ bản nhất về việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM trên thế giới
và trong Luật Mẫu UNCITRAL như nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên
(party autonomy), tính độc lập của thỏa thuận trọng tài (separability) và vấn đề thẩm
quyền của thẩm quyền, tức là quyền được tự xem xét vấn đề thẩm quyền của HĐTT
(competence-competence), tính chung thẩm của PQTT (finality), nguyên tắc tố tụng
công bằng (due process), và nguyên tắc bảo mật (confidentiality) [10]. Đặc biệt là
LTTTM đã đưa phạm vi “hoạt động thương mại” trong pháp luật TTTM Việt Nam đạt
11
đến tiêu chuẩn thế giới theo Luật Mẫu UNCITRAL [122, tr. 2]. Tuy nhiên, khái niệm
“thương mại” ở Việt Nam sẽ được diễn giải phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 3
Luật Thương mại năm 2005 và vẫn có một số ý kiến cho rằng tranh chấp ngoài hợp
đồng sẽ không giải quyết được bằng TTTM tại Việt Nam [90], [123].
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phân biệt trọng tài thương mại trong
nước và trọng tài thương mại nước ngoài
Do phạm vi thẩm quyền của TA đối với TTTM trong nước và nước ngoài khác
nhau, nên cần phải có các tiêu chí thích hợp để xác định khi nào thì TTTM đó được
xem là TTTM trong nước và khi nào là TTTM nước ngoài. Một số công trình tiêu
biểu nghiên cứu về vấn đề này như cuốn “The UNCITRAL Secretariat Guide on the
Convention on the recognition and enforcement of foreign arbitral awards” (Hướng
dẫn của Ban thư ký UNCITRAL về Công ước về công nhận và thi hành PQTT nước
ngoài) [190, tr.18-26], bài viết có tên “When Is an Arbitral Award Nondomestic Under
the New York Convention of 1958?” (Khi nào một PQTT không được coi là phán
quyết nội địa theo Công ước New York 1958?) của giáo sư Albert Jan van de Berg
[200]. Nghiên cứu các tài liệu trên cho thấy quy định tại Điều 1 của Công ước New
York 1958, tiêu chí chủ yếu dựa vào để xác định “quốc tịch” của PQTT là địa điểm
nơi PQTT được công bố. Ngoài ra, phụ thuộc vào quy định của pháp luật của từng
quốc gia, một PQTT được tuyên tại chính nước đó nhưng vẫn không được coi là
PQTT trong nước (“non-domestic” arbitration) [105, tr. 237], [117, tr. 102-103], [190,
tr.18-26]. Trong trường hợp đó, các PQTT không được coi là PQTT trong nước sẽ vẫn
phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành tại quốc gia nơi có tài sản cần thi hành.
Tuy nhiên trên thực tế, quy định này hầu như không được áp dụng vì các bên thường
chọn luật điều chỉnh tố tụng trọng tài thông qua việc chọn địa điểm giải quyết tranh
chấp và do đó, có quan điểm cho rằng trọng tài được tiến hành theo pháp luật tố tụng
trọng tài của quốc gia đó được xem là Trọng tài trong nước [200].
Tại Việt Nam, một số công trình nghiên cứu cũng luận giải về các tiêu chí để
xác định PQTT trong nước và PQTT nước ngoài theo cả BLTTDS 2004 [20]; [61]
12
cũng như theo quy định hiện hành của LTTTM và BLTTDS 2015 [9]. Theo đó, việc
xác định một PQTT là PQTT trong nước hay PQTT nước ngoài theo pháp luật Việt
Nam hiện nay lại dựa vào tiêu chí quốc tịch của trọng tài chứ không phải tiêu chí lãnh
thổ. Năm 2017, TANDTC và Tổ chức Tài chính Quốc tế, các chuyên gia quốc tế và
trong nước đã phối hợp cho ra đời cuốn “Sổ tay pháp luật về Trọng tài và Hòa giải”,
trong đó đưa ra hướng dẫn và làm rõ hơn cách xác định Trọng tài trong nước và Trọng
tài nước ngoài theo pháp luật Việt Nam [71, tr. 22-23]. Tuy nhiên, quan điểm chung
của các tác giả là việc căn cứ vào tiêu chí quốc tịch của trọng tài cũng còn nhiều bất
cập và không phù hợp với Công ước New York và thực tiễn TTTM quốc tế.
Như vậy, có thể thấy khái niệm về TTTM đã được hiểu tương đối thống nhất
trong các công trình nghiên cứu, đó là, một cơ quan tài phán tư được thành lập để giải
quyết các tranh chấp về thương mại và có nhiều ưu điểm so với các phương thức giải
quyết tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải v.v.. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có một quan điểm thống nhất về TTTM trong nước và TTTM nước ngoài bởi vì
luật pháp của các nước có quy định khác nhau trong việc phân định thế nào là TTTM
nước ngoài hay TTTM trong nước.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án
đối với trọng tài thương mại
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về thẩm quyền của Tòa án đối với trọng
tài thương mại nói chung
Thứ nhất, đối với vấn đề thẩm quyền tƣ pháp của TA quốc gia nói chung.
Đây là vấn đề đã được nghiên cứu trong nhiều tài liệu, như cuốn “Tinh thần pháp luật”
nổi tiếng của Montesquieu hay “Nhà nước pháp quyền” của Joef Thesing [56]. Ngoài
ra, có một số tài liệu tiêu biểu nghiên cứu chuyên sâu về thẩm quyền tư pháp của TA
trong hệ thống pháp luật của một quốc gia cụ thể và theo các thể chế chính trị khác
nhau. Ví dụ, đối với chính thể cộng hòa tổng thống của Mỹ có ấn phẩm the U.S
Constitution Annotate (Chú giải về Hiến pháp Hoa Kỳ) của Cơ quan nghiên cứu Quốc
Hội Hoa Kỳ [172], chính thể cộng hòa lưỡng tính của Pháp như bài viết “The
13
Judiciary and the Separation of Powers” của tác giả Jean-Marc Sauvé [162] v.v… Từ
đó, cho thấy sự đa dạng trong cách hiểu cũng như cách thực thi, áp dụng thẩm quyền
tư pháp của TA của các quốc gia này.
Liên quan đến vấn đề này, có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu tại Việt
Nam như công trình “Thể chế Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” của tác giả
Nguyễn Đăng Dung [8] hay bài viết “Về quyền tư pháp và chế độ tư pháp ở Việt
Nam” của tác giả Võ Khánh Vinh [94]. Một số tài liệu khác lại phân tích về thẩm
quyền xét xử của TA đối với các vụ việc kinh doanh thương mại nói chung theo pháp
luật tố tụng dân sự của Việt Nam [32]; [44]; [60]. Các công trình nghiên cứu này đều
thống nhất rằng quyền tư pháp là một trong những quyền lực quan trong trọng của
Nhà nước, được thực hiện thông qua TA. Thẩm quyền tư pháp của TA được quy định
trong Hiến pháp, gắn với việc được thực hiện hoạt động phân xử và phán xét tính đúng
đắn, tính hợp pháp của các hành vi, quyết định áp dụng pháp luật khi có sự tranh chấp
về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật. Đồng thời, thẩm quyền tư pháp
cũng là là thước đo đối với tính công bằng, hiệu quả của hệ thống tư pháp.
Thứ hai, các nghiên cứu chuyên sâu hơn về thẩm quyền của TA đối với
TTTM. Các nghiên cứu này cho thấy thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM
không chỉ thuộc về TA mà còn có cả sự hỗ trợ của các cơ quan khác như cơ quan
thi hành án dân sự, viện kiểm sát v.v… [88]; [95, tr. 49]. Hơn nữa, so với
PLTTTM, LTTTM quy định thẩm quyền tư pháp của TA đối với hoạt động TTTM
một cách đầy đủ và toàn diện hơn, cả về vai trò hỗ trợ (chỉ định, thay đổi TTV vụ
việc; áp dụng BPKCTT; thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng; đăng ký
PQTT vụ việc) lẫn vai trò giám sát (giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của HĐTT;
giải quyết yêu cầu hủy PQTT) [1]; [2, tr. 49-55]; [63]. Đặc biệt, bài viết “Thẩm
quyền của HĐTT và vai trò của TA trong quá trình tố tụng trọng tài” của tác giả
Đào Trí Úc còn cho rằng “về bản chất, những thẩm quyền của TA phát sinh từ yêu
cầu của HĐTT chính là thẩm quyền của HĐTT chứ không đơn thuần là thẩm quyền
của TA. Chẳng qua các thẩm quyền đó được chuyển hóa thành những thẩm quyền
14
có tính quyền lực của Nhà nước”. [89, tr. 272].
Đáng lưu ý là, có quan điểm khác nhau giữa một số nghiên cứu trong việc
phân chia thẩm quyền hỗ trợ tư pháp và thẩm quyền giám sát của TA Việt Nam đối
với TTTM. Cụ thể, tác giả Nguyễn Thị Yến cho rằng thẩm quyền xem xét hủy hay
không hủy PQTT cũng mang tính chất hỗ trợ TTTM mà không phải là giám sát vì
điều đó có thể khắc phục được những sai phạm (nếu có) của HĐTT khi giải quyết
tranh chấp, làm cho vụ tranh chấp được giải quyết thực sự khách quan, công bằng,
đúng pháp luật. Trong khi đó, nếu PQTT đã tuyên không rơi vào trường hợp bị hủy
thì quyết định của TA sẽ một lần nữa khẳng định rằng HĐTT đã làm việc công
tâm, đúng pháp luật; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên và phán quyết
đó cần được các bên tôn trọng và tự nguyện thi hành hoặc được cưỡng chế thi hành
[95, tr. 46-51]. Một số tác giả khác cũng có cùng quan điểm như vậy. Theo đó, mặc
dù thẩm quyền hủy PQTT là thẩm quyền giám sát của TA, nhưng trong quá trình
xem xét yêu cầu hủy đó, TA vẫn có thể hỗ trợ TTTM bằng việc loại bỏ căn cứ hủy
khi cho phép HĐTT khắc phục sai sót hoặc xem xét đến việc một bên đã bị mất yêu
cầu phản đối [18], [58] [13].
Ngược lại, một số tác giả lại cho rằng thẩm quyền của TA trong việc (i) Giải
quyết khiếu nại quyết định của HĐTT về thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không
thể thực hiện được và về thẩm quyền của HĐTT và (ii) Yêu cầu hủy PQTT quy
định tại điểm (e) và (f), khoản 1 Điều 7 LTTTM thể hiện sự giám sát của TA đối
với hoạt động TTTM. Các loại việc từ điểm (a) đến điểm (đ) và loại việc đăng ký
PQTT vụ việc thể hiện rõ vai trò hỗ trợ của TA [29, tr. 195-196]. Hiện nay, vấn đề
này vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Thứ ba, nhiều nghiên cứu đã đƣa ra lý giải về sự cần thiết phải có sự
tham gia của TA trong tố tụng trọng tài để hỗ trợ hay giám sát đối với TTTM.
Cụ thể, trong bài viết “A theoretical overview of the foundation of international
commercial arbitration” (Tổng quan lý thuyết về nền tảng của TTTM quốc tế), tác
giả Hong-lin Yu cũng đưa ra lý giải về cách thức tổ chức hoạt động của TTTM và
15
về thẩm quyền hỗ trợ hay giám sát của TA đối với TTTM dựa trên cơ sở bốn lý
thuyết là: (i) Lý thuyết về quyền tài phán (thẩm quyền của TA hay của Trọng tài
đều phải phù hợp với pháp luật của nước có địa điểm giải quyết tranh chấp bằng
TTTM), (ii) Lý thuyết về hợp đồng (xem xét mối quan hệ giữa TTTM và các bên
tranh chấp dưới góc độ pháp luật hợp đồng), (iii) Lý thuyết lai (the hybrid theory)
kết hợp cả lý thuyết về tài phán và lý thuyết về hợp đồng và cuối cùng là (iv) Lý
thuyết về quyền tự thỏa thuận của các bên (the autonomous theory) [138, tr. 255-
286]. Bài viết có nhan đề “Court Assistance in Arbitration- Some Observations on
the Critical Stand-by Function of the Courts” (Hỗ trợ của TA trong trọng tài – một
vài nhận định về chức năng quan trọng của TA) của tác giả Jan K. Schaefer cũng
phân tích và giải thích về việc tại sao sự hỗ trợ tư pháp của TA là cần thiết và cách
hiểu của vấn đề này dưới góc độ của bên yêu cầu hỗ trợ [163, tr. 251-240].
Tại Việt Nam, những nghiên cứu về thẩm quyền hỗ trợ của TA đối với
TTTM theo PLTTTM có bài viết “Pháp lệnh Trọng tài Thương mại- những thử
thách phía trước” của tác giả Trần Hữu Huỳnh [28] hay bài viết của tác giả
Nguyễn Thị Yến về “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của TTTM
theo PLTTTM 2003” đều có quan điểm rằng TA sẽ là trụ cột cho TTTM phát triển,
và TTTM sẽ không phát triển nếu không có sự hỗ trợ và giám sát có hiệu quả của
TA [95]. Tuy nhiên, cơ chế hỗ trợ của TA đối với TTTM theo PLTTTM chưa hiệu
quả, đặt TTTM vào vị trí bất lợi hơn nhiều so với TA [58]. Trong khi đó, LTTTM
đã khắc phục được nhiều bất cập của PLTTTM [22] và sự cần thiết phải có sự hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng đã được tác giả Phạm Thị Hồng Đào lý
giải dựa trên bản chất của TTTM, yêu cầu thực tiễn giải quyết tranh chấp và yêu
cầu quản lý của nhà nước [18].
Mặt khác, nhiều ý kiến trái chiều cũng được đưa ra liên quan đến vai trò của
TA đối với TTTM. Có ý kiến cho rằng nếu không có sự hỗ trợ tư pháp của TA thì
TTTM chỉ là vô nghĩa [83], [87]; TTTM không thể phát triển mà không có sự hợp
tác và kiểm soát cuối cùng của TA quốc gia [39, tr.24]. Có ý kiến lại cho rằng, sự
16
hỗ trợ của TA chỉ là giải pháp cần thiết trong những trường hợp nhất định để khắc
phục sự hạn chế liên quan đến thẩm quyền của TTTM với tư cách là một tổ chức
phi chính phủ [43], [44].
Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu đều thống nhất rằng vai trò của TA
đối với TTTM được thể hiện không giống nhau ở từng giai đoạn trong quá trình
giải quyết tranh chấp, mà cụ thể là trước khi tố tụng trọng tài bắt đầu, trong khi tiến
hành tố tụng trọng tài và sau khi phán quyết được ban hành, tức là kể cả sau khi kết
thúc tố tụng trọng tài [89, tr 275]. Trên cơ sở đó, trong phần nội dung dưới đây,
NCS sẽ tổng quan các công trình nghiên cứu về nội dung cụ thể của thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM dựa trên từng giai đoạn như đã nêu.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về nội dung cụ thể của thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của Tòa án đối với trọng tài thương mại trước khi bắt đầu và trong quá
trình tố tụng trọng tài
Thứ nhất, đã có nhiều nghiên cứu đi sâu phân tích cụ thể đối với từng thẩm
quyền nổi bật trong hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA quốc gia đối với TTTM trước
khi bắt đầu và trong quá trình tố tụng trọng tài. Cụ thể
Đối với việc thi hành thỏa thuận trọng tài. Căn cứ vào quy định tại khoản 3
Điều II của Công ước New York và khoản 1 Điều 8 của Luật Mẫu UNCITRAL,
hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất rằng TA có nghĩa vụ từ chối thụ lý đơn kiện
và hướng các bên tranh chấp ra trọng tài khi giữa các bên đã có một thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực [148, tr. 362], [187]. Đặc biệt, trong ấn phẩm “Bình luận Bộ
luật Tố tụng Dân sự, Luật Trọng tài Thương mại và thực tiễn xét xử”, khi phân tích
về nội dung thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong việc giải quyết khiếu nại đối
với quyết định về thẩm quyền của HĐTT, tác giả Tưởng Duy Lượng đã nhấn mạnh
rằng khi có đương sự khiếu nại quyết định về thẩm quyền của HĐTT thì TA cũng
chỉ xem xét trong phạm vi xác định TTTM có thẩm quyền hay không, chứ không
được giải quyết tranh chấp đó [29, tr. 220].
17
Đối với thẩm quyền của TA trong việc chỉ định và thay thế TTV Trọng tài vụ
việc. Nhiều công trình đã nghiên cứu cả quy định và thực tiễn áp dụng quy định của
pháp luật quốc tế liên quan đến ý nghĩa của thẩm quyền này [102, tr. 129], hay tiêu
chuẩn để lựa chọn, thay thế, chỉ định TTV [145], [149]. Tại Việt Nam, chưa có
nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề này mà mới chỉ có một số nghiên cứu dựa
trên một vài vụ việc thực tế của tác giả Đỗ Văn Đại trong ấn phẩm “Pháp luật
Trọng tài Thương mại Việt Nam- Bản án và bình luận bản án” (xuất bản năm
2017) hoặc được đề cập một phần trong bài viết “Giải quyết bằng Trọng tài
Thương mại adhoc ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” của tác giả Phan Thông
Anh. Còn lại các bài viết thường chỉ mới dừng lại ở việc diễn giải quy định của
pháp luật chứ chưa phân tích được thực tiễn áp dụng các quy định này trên thực tế
[29, tr. 209-219], [71, tr. 62-66].
Về thẩm quyền của TA trong việc áp dụng, thay đổi, hủy BPKCTT nhằm hỗ
trợ TTTM. Do đây là một trong những thẩm quyền hỗ trợ tư pháp quan trọng của
TA đối với TTTM nên đây có thể được xem là một trong những đề tài được nghiên
cứu nhiều nhất [33, tr. 70-80]; [36]; [59]. Cụ thể, nhiều bài viết đã phân tích sự cần
thiết của thẩm quyền này của TA đối với tố tụng trọng tài là vì có nhiều trường hợp
mà HĐTT không thể áp dụng BPKCTT ngay lập tức, do đó sẽ khó mà bảo vệ được
chứng cứ hay ngăn chặn thiệt hại [152, tr. 123], [157, tr. 108]; hay khi HĐTT
không có thẩm quyền áp dụng một biện pháp cụ thể nào đó [137]. Ngoài ra còn có
các nghiên cứu về trình tự thủ tục áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT, các
biện pháp mà TA có thể áp dụng đối với việc giải quyết tranh chấp tại TTTM, các
rủi ro và các yếu tố phải được chứng minh để TA chấp nhận áp dụng các BPKCTT
đó [59, tr. 84-85], [208].
Về việc thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng. Hầu hết các nghiên
cứu đều chỉ ra rằng chỉ có TA của quốc gia nơi giải quyết tranh chấp bằng TTTM
mới có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM trong việc thu thập chứng cứ và
triệu tập người làm chứng [102, tr. 177-13]. Tuy nhiên, thủ tục tiến hành và điều
18
kiện để TA chấp nhận yêu cầu thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng ở
mỗi quốc gia sẽ khác nhau [180, tr. 131]. Tác giả Tưởng Duy Lượng khi nghiên
cứu về vấn đề này cũng nhận định rằng việc TA thu thập tài liệu, chứng cứ, triệu
tập người làm chứng theo yêu cầu của HĐTT là một hoạt động tố tụng của TA theo
BLTTDS 2015, là chức năng nhiệm vụ do luật định. Do đó, TA phải có trách
nhiệm tích cực hỗ trợ trong phạm vi pháp luật quy định [29, tr. 229].
Thứ hai, các công trình nghiên cứu chỉ ra các khó khăn, vướng mắc trong
thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM trước khi bắt
đầu và trong quá trình tố tụng trọng tài. Cụ thể, nhiều bài viết đã phân tích những
bất cập, vướng mắc và đưa ra một số giải pháp để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
các quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM
Việt Nam, ví dụ bài viết “Thẩm quyền của HĐTT và vai trò của TA trong quá trình
tố tụng trọng tài” của tác giả Đào Trí Úc [89, tr. 270-276], hay bài viết “Về việc TA
hỗ trợ trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp thương mại- Một số khó khăn,
vướng mắc và kiến nghị” của tác giả Ngô Huyền [27] và một số công trình nghiên
cứu khác [10]; [12]; [13]. Ngoài ra, mặc dù hình thức Trọng tài vụ việc (ad hoc)
còn chưa xuất hiện và phát triển nhiều ở Việt Nam nhưng cũng đã có bài viết phân
tích một vài vụ việc tiêu biểu để từ đó, tìm hiểu những giới hạn, khiếm khuyết của
pháp luật Trọng tài đối với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài vụ việc tại Việt
Nam, trong đó có bất cập về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với
Trọng tài vụ việc [2, tr. 49-55].
Thứ ba, sau khi Nghị quyết số 01/2014 hướng dẫn một số quy định của
LTTTM được ban hành, đã làm rõ hơn thẩm quyền của TA Việt Nam không chỉ
giới hạn ở giai đoạn công nhận và cho thi hành PQTT mà còn cả trong quá trình
TTTM nước ngoài tiến hành giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Tuy nhiên, số
lượng các công trình nghiên cứu về vấn đề này còn chưa nhiều mà chỉ thể hiện
trong một số bài viết phân tích khái quát về quy định có liên quan tại khoản 5 Điều
5 của Nghị quyết 01/2014 [15]. Điều này cho thấy ở Việt Nam trong thời gian vừa
19
qua cũng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, cụ thể về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM nước ngoài.
Thứ tư, nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài tiếp cận và nghiên cứu về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM theo quy định của pháp luật quốc
tế, cụ thể là theo Luật Mẫu UNCITRAL, Công ước New York [187, tr. 13-15],
[108, tr. 20-23]. Một số công trình nghiên cứu còn phân tích các quy định của pháp
luật của một số quốc gia có nền trọng tài phát triển và thực tiễn thi hành liên quan
đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM tại quốc gia đó như Thụy Sĩ
[97], Thụy Điển [135], Đức [98], [165, tr. 55], Trung Quốc [156], [170], và thậm
chí là các nước ở Châu Phi [104] ..v…v…. Điển hình như công trình có tên gọi
“Pháp luật và thực tiễn Trọng tài Pháp” (French Arbitration law and Practice) của
hai tác giả Jean-Louis Delvolvé và Gerald H. Pointon, trong đó phân tích sự hình
thành và phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp tại TTTM từ lúc mới
hình thành cho đến khi TTTM Pháp phát triển thành một cơ chế giải quyết tranh
chấp năng động, độc lập với hoạt động xét xử của TA nhưng vẫn dựa vào và được
hưởng những lợi ích từ sự hỗ trợ tư pháp của TA trong những trường hợp cần thiết
[118, tr. 91-122]. Hay công trình nghiên cứu có tên “Arbitration in England”
(Trọng tài tại Anh Quốc) của Lew, Mistellis và các tác giả khác cũng đưa ra những
phân tích về pháp luật và về thực tiễn trọng tài tại Anh, Scotland và Ireland, một
trong những nước có nền trọng tài lâu đời, đa dạng và tiêu biểu cho hệ thống
common law [99, tr. 1-29]. Đặc biệt, ấn phẩm “The Developing World of
Arbitration: A comparative Study of Arbitration Reform in Asia Pacific” (Sự phát
triển của thế giới trọng tài: Nghiên cứu so sánh về sư thay đổi của trọng tài tại Châu
Á Thái Bình Dương) do các tác giả người Hồng Kông là Anselmo Reyes và Weixia
Gu công bố. Trong đó, các tác giả bình luận về sự thay đổi của pháp luật và thực
tiễn giải quyết bằng TTTM nói chung, cũng như về thẩm quyền tư pháp của TA
quốc gia trong việc hỗ trợ TTTM của lần lượt mười hai quốc gia trong khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương như Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, và cả
20
Việt Nam [161].
1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu về về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa
án liên quan đến thi hành phán quyết trọng tài
Về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong việc thi hành PQTT trong
nước, các công trình nghiên cứu nước ngoài cho thấy theo quy định của Công ước
New York, Luật Mẫu UNCITRAL [101, đoạn 2562-63] và pháp luật của nhiều
quốc gia thì TA có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM thông qua việc công
nhận hiệu lực pháp lý đương nhiên của PQTT [97], [98], [99, tr. 1-29], [118, tr. 91-
122]. Mặt khác, TA không được xem xét lại nội dung vụ tranh chấp đã được HĐTT
giải quyết và nên loại bỏ các căn cứ để hủy PQTT bằng cách cho phép HĐTT được
sửa chữa và bổ sung trong phán quyết là các lỗi hiển nhiên, các nội dung chưa rõ
ràng hoặc thiếu sót [144], [192].
Ở phạm vi các công trình nghiên cứu trong nước, chưa có công trình nào
xem xét các quy định này dưới góc độ liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA Việt Nam đối với TTTM, mà thường chỉ đơn thuần phân tích thực trạng pháp
luật về trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu hủy PQTT cũng như các căn cứ để TA
hủy PQTT [3], [13]. Các nghiên cứu này cũng làm rõ được những bất cập trong
quy định của pháp luật, đặc biệt về căn cứ hủy dựa trên “các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam” và một số những vướng mắc trong quá trình TA xem xét yêu
cầu hủy PQTT [29]. Mặc dù vậy, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên
cứu đầy đủ, cụ thể về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM
trong việc thi hành PQTT.
Về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM liên quan đến thi
hành PQTT nước ngoài, các công trình khoa học chủ yếu tập nghiên cứu các quy
định của Công ước New York để làm rõ về sự cần thiết, nghĩa vụ của TA, trình tự,
thủ tục liên quan tới thẩm quyền này. Trong số đó, không thể không kể đến cuốn
sách có tên gọi “Hướng dẫn của Ban thư ký UNCITRAL về Công ước New York
1958”. Đây có thể coi là hướng dẫn chính thức của UNCITRAL về Công ước New
21
York nhằm thúc đẩy việc áp dụng Công ước New York 1958 một cách thống nhất
và hiệu quả theo yêu cầu của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc [190]. Hội đồng Quốc
tế về TTTM cũng đưa ra hướng dẫn để hỗ trợ các TA quốc gia trong việc giải thích
và áp dụng Công ước New York 1958 theo hướng ủng hộ khả năng thi hành của
PQTT [139]. Đây được xem là những công trình nghiên cứu cơ bản, cung cấp cách
giải thích thống nhất và đầy đủ về Công ước New York 1958, và là căn cứ để xem
xét, đánh giá các vấn đề pháp lý có liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM, bao gồm cả vấn đề về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối
với TTTM nước ngoài. Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác phân
tích, đánh giá, bình luận về vấn đề này. Trong số đó, nổi bật là các công trình
nghiên cứu của tác giả Albert J.V de Berg như cuốn “Công ước New York 1958”
(The New York Convention 1958) và bài viết “Bình luận các quyết định của TA
liên quan đến Công ước New York” (Commentaries on court decisions on the New
York Convention) [202, tr. 307-644]; “Niên giám TTTM” (Yearbook Commercial
Arbitration) của Hội đồng Trọng tài Thương mại quốc tế [140], và một số tác phẩm
khác [116], [157], [158];[162].
Đối với các nghiên cứu ở Việt Nam, các công trình khoa học tập trung phân
tích về quy định của pháp luật và thực tiễn của TA Việt Nam trong việc giải quyết
các đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài tại Việt Nam [20];
[107, tr. 496]; [185, tr. 317- 321], [78]. Trong số các công trình đó, tiêu biểu phải
kể đến bài viết của các tác giả đăng trong “Chuyên đề về khoa pháp luật về công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của TA nước ngoài,
quyết định của Trọng tài nước ngoài” của TANDTC [92]. Bên cạnh đó, không thể
không kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu xuất hiện từ khá sớm như bài viết
“Những vấn đề thực tiễn về Công nhận và thi hành quyết định Trọng tài nước
ngoài đã bị hủy tại nước gốc theo Công ước New York về công nhận và thi hành
quyết định của Trọng tài nước ngoài” của tác giả Đặng Hoàng Oanh [41, tr. 56-
64]. Hay các nghiên cứu của tác giả Nguyễn Trung Tín về “Công nhận và thi hành
22
tại Việt Nam bản án, quyết định của TA nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước
ngoài” [61]. Gần đây, sau khi BLTTDS 2015 có hiệu lực, cũng đã có nhiều bài viết
phân tích về thẩm quyền của TA Việt Nam trong việc công nhận và cho thi hành
PQTT nước ngoài theo các quy định mới của BLTTDS, như vấn đề về thời hiệu
yêu cầu công nhận và cho thi hành; việc gửi tài liệu cho các bên, nghĩa vụ chứng
minh của các bên và các căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành [29, tr. 87-88, tr.
113-124]; [57, tr. 45-51]. Một số công trình khác lại đi sâu phân tích từng trường
hợp cụ thể của các căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài
[123], [124]. Nhìn chung, các nghiên cứu này đều cho thấy một số quy định của
pháp luật Việt Nam về vấn đề này vẫn chưa phù hợp với Công ước New York và
thông lệ quốc tế. và thực tiễn xét xử tại các TA địa phương cũng chưa có sự thống
nhất và còn nhiều vướng mắc. Trên cơ sở đó, các công trình nghiên cứu này đã
cung cấp cơ sở lý luận và làm rõ một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử liên quan
đến việc áp dụng pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với
TTTM. NCS sẽ kế thừa những nội dung này và phát triển thêm trong các chương
tiếp theo của Luận án.
1.1.2.4. Các công trình nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với trọng tài
thương mại
Nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả nêu ở trên cũng đã có đề xuất
giải pháp về việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luât liên quan thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM, ví dụ như bài viết của tác giả Vũ Ánh Dương có
nhan đề “Những thuận lợi và khó khăn về áp dụng LTTTM tại VIAC- Một số đề
xuất- kiến nghị” [12] hay vài viết “Về việc TA hỗ trợ trọng tài trong việc giải quyết
tranh chấp thương mại- Một số khó khăn, vướng mắc và kiến nghị” của tác giả
Ngô Huyền [27].
Tùy theo từng đề tài cụ thể mà các tác giả đưa ra những giải pháp liên quan
đến hoàn thiện pháp luật đối với một thẩm quyền hỗ trợ tư pháp cụ thể hoặc các
23
kiến nghị để nâng cao chất lượng thực thi thẩm quyền tư pháp đó trên thực tế. Ví
dụ đối với việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong
việc áp dụng BPKCTT, luận văn thạc sĩ của tác giả Đặng Thị Minh Ngọc về Biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng TTTM - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
[36] cũng như bài viết “Sự hỗ trợ của TA đối với hoạt động TTTM” của tác giả
Phan Gia Quý- Nguyên Chánh tòa Kinh tế TAND thành phố Hồ Chí Minh đều có
quan điểm rằng cần mở rộng phạm vi hỗ trợ của TA đối với TTTM trong việc áp
dụng BPKCTT [54].
Trong khi đó, đối với vấn đề hủy PQTT, tác giả Đỗ Văn Đại cũng đã đưa ra
một số kiến nghị sửa đổi Điều 68 LTTTM và loại bỏ các căn cứ hủy PQTT trong
bài viết “Hủy Phán Quyết Trọng Tài: Thực trạng và kiến nghị” [13]. Bên cạnh đó,
Luận án tiến sĩ của tác giả Phan Thông Anh về đề tài “Hủy Phán Quyết Trọng Tài”
cũng có những giải pháp để giải quyết những bất cập của pháp luật liên quan đến
hệ quả pháp lý của hủy PQTT, từ đó, tránh tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu hủy
PQTT trong thực tế [3; mục 5.2]. Nhiều công trình nghiên cứu cũng đưa ra giải
pháp để hoàn thiện pháp luật và kiến nghị để nâng cao chất lượng giải quyết các
yêu cầu công nhận và cho thi hành của PQTT nước ngoài tại Việt Nam [9], [10],
[12], ví dụ, bài viết “Thực tiễn giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài của Tòa án Nhân dân- Kiến nghị và
giải pháp hoàn thiện” của Viện Khoa học xét xử- TANDTC [93].
Tuy nhiên, có thể thấy phần lớn các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật
tập trung vào một số hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM như thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA liên quan đến việc thi hành PQTT hoặc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ BPKCTT để hỗ trợ tố tụng trọng tài. Rất ít công trình nghiên
cứu đưa ra được các giải pháp cụ thể, và đầy đủ về việc hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với
TTTM và giải pháp nâng cao chất lượng thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA Việt Nam đối với TTTM, đặc biệt là đối với TTTM nước ngoài có địa
24
điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
1.1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
1.1.3.1. Những vấn đề đã được giải quyết trong các công trình nghiên cứu
trước mà Luận án kế thừa và tiếp tục phát triển
Trên cơ sở phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu cả ở nước ngoài và ở
Việt Nam, có thể thấy, liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài Luận án, các tác
giả đi trước đã dày công nghiên cứu, phân tích và luận giải để làm rõ các vấn đề
sau đây:
Liên quan đến lý luận chung về TTTM: Các công trình nghiên cứu đã giải
quyết cơ sở lý luận, phân tích và làm rõ về khái niệm, đặc điểm và vai trò của
TTTM với ý nghĩa là phương thức giải quyết các tranh chấp thương mại có nhiều
ưu điểm; về thẩm quyền của TTTM nói chung và thẩm quyền của HĐTT khi giải
quyết tranh chấp cũng như phạm vi giải quyết tranh chấp của TTTM; về mối quan
hệ giữa TA và TTTM và đặc biệt là cơ sở của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
đối với TTTM;
Liên quan đến nội dung và phạm vi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối
với TTTM thì về cơ bản, đã có những nghiên cứu đơn lẻ liên quan đến mối quan hệ
giữa thẩm quyền hỗ trợ và giám sát của TA nói chung và của TA Việt Nam nói
riêng đối với TTTM trong nước và TTTM nước ngoài; Các công trình nghiên cứu
cũng nêu ra một số loại hoạt động thuộc hoạt động hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM như áp dụng các BPKCTT, thu thập chứng cứ v.v...;
Đã có những nghiên cứu chỉ ra những bất cập của pháp luật và đề xuất một
số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM.
1.1.3.2. Các vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết thấu đáo và cần
được tiếp tục nghiên cứu
Những vấn đề còn bỏ ngỏ và cần được tiếp tục nghiên cứu liên quan đến đề
tài Luận án là những vấn đề sau đây:
25
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đề cập ở trên chưa nghiên cứu, phân
tích một cách đầy đủ đặc điểm của TTTM, về các yếu tố để phân định giữa TTTM
trong nước, TTTM nước ngoài theo pháp luật trọng tài Việt Nam để từ đó lý giải
được vai trò hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM; chưa xác định và phân định
được thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM trong nước và
TTTM nước ngoài.
Thứ hai, chưa có công trình nghiên cứu hay Luận án tiến sĩ nào phân tích để
làm rõ cơ sở lý luận về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với
TTTM. Cụ thể chưa có công trình nào nghiên cứu để làm rõ khái niệm về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM; đặc điểm và nội dung của thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp cũng như sự cần thiết phải có quy định của pháp luật về thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM và vai trò trong hỗ trợ tư pháp của TA Việt
Nam đối với TTTM trong nước và nước ngoài;
Thứ ba, các công trình nghiên cứu nói trên chưa nghiên cứu một cách đầy đủ
và toàn diện thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp đối với TTTM cũng như về thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA Việt Nam đối với TTTM, kể cả TTTM Việt Nam và TTTM nước ngoài
nhằm chỉ ra bất cập của pháp luật và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
pháp luật.
Thứ tư, chưa đề xuất giải pháp có tính tổng thể và toàn diện để hoàn thiện
các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt
Nam đối với TTTM và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi về thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM.
Những vấn đề còn bỏ ngỏ trên đây cũng là những vấn đề mà Luận án tiến sĩ
này phải làm rõ. Và đây chính là nhiệm vụ cụ thể của Luận án này.
1.2. Cơ sở lý thuyết và hƣớng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết nghiên cứu
Về lý thuyết nghiên cứu, Luận án dựa trên cơ sở của các lý thuyết, học
26
thuyết pháp lý sau đây:
- Lý thuyết về quyền tự do thỏa thuận của các bên (party-autonomy). Nội
dung của lý thuyết này được ghi nhận trong Luật Mẫu UNCITRAL, theo đó, về
nguyên tắc, các bên có quyền được thỏa thuận, tùy theo quy định của pháp luật, về
trình tự thủ tục mà HĐTT phải tuân thủ khi tiến hành giải quyết tranh chấp [160, tr.
315]. Lý thuyết này được Luận án sử dụng để luận giải vì sao có nhiều vấn đề mà
chỉ có TA- cơ quan tư pháp công mới có thẩm quyền mà TTTM- cơ quan tư pháp
tư thì không có, vì sao TTTM vẫn có những giới hạn không thể vượt qua và khi đó
phải có sự hỗ trợ tư pháp của TA. Lý thuyết này cũng được sử dụng để phân tích
các nội dung cụ thể về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM tại
chương 2 của Luận án như áp dụng các BPKCTT trong tố tụng trọng tài, chỉ định
hay thay thế TTV Trọng tài vụ việc v.v...
- Lý thuyết về quyền tài phán của TA quốc gia (jurisdictional theory): Theo
lý thuyết này, tố tụng trọng tài sẽ được điều chỉnh bởi luật pháp của nước nơi có địa
điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (seat of arbitration). Lý thuyết này được
Luận án sử dụng để luận giải về bản chất của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
đối với hoạt động TTTM, vì sao TA quốc gia có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với
hoạt động TTTM trên lãnh thổ quốc gia đó, cũng như luận giải về nội dung và
phạm vi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM của TA.
- Lý thuyết về nguyên tắc xét xử một lần (res judicata): Theo nguyên tắc
này, PQTT là chung thẩm, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo, kháng nghị
bởi một HĐTT khác hay bởi bất kỳ một cơ quan nào khác, trừ khi pháp luật trọng
tài hoặc quy tắc tố tụng trọng tài cho phép. Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng
trọng tài so với TA. Nó xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý
chí và quyền định đoạt của các bên đương sự. Vì các bên đã lựa chọn trọng tài nên
nếu PQTT không phải là cuối cùng và chung thẩm thì sẽ không còn đảm bảo được
ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM [101, tr. 2880]. Lý thuyết này
được sử dụng trong Luận án để một mặt, lý giải vì sao các TA sẽ không có quyền
27
xét xử lại nội dung tranh chấp mà HĐTT đã giải quyết, mặt khác, lý giải về bản
chất thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong việc thi hành các PQTT.
Các lý thuyết nói trên được NCS áp dụng trong Luận án nhằm luận giải
những vấn đề trọng điểm của Luận án như vì sao cần có sự hỗ trợ tư pháp của TA
đối với TTTM? Căn cứ để TA thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM? Có giới hạn nào đối với thẩm quyền này hay không? Trên cơ sở đó, các lý
thuyết này giúp cho NCS phát hiện và lý giải những hạn chế, những điểm còn chưa
phù hợp của quy định pháp luật cũng như việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA Việt Nam đối với TTTM trên thực tế.
- Học thuyết Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật và lý thuyết pháp luật
(Legal theory) [30, tr. 26]: Đây là học thuyết của Mác, Ănghen và Lê-nin về bản
chất, chức năng và vai trò của Nhà nước và pháp luật. Theo học thuyết này, pháp
luật do Nhà nước ban hành nhưng pháp luật cũng do kinh tế quyết định. Luận án sử
dụng học thuyết này nhằm luận giải những vấn đề lý luận quan trọng thuộc đối
tượng nghiên cứu của Luận án như: thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM là gì? Phạm vi, nội dung của thẩm quyền này như thế nào? Pháp luật về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM có vai trò như thế nào
trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong tiến trình tự do hóa
thương mại và hội nhập quốc tế?
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là gì?
Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM có đặc điểm và nội dung
như thế nào? Vì sao cần có quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM?
Câu hỏi 2: Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định như thế nào về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM trong nước và nước
ngoài? Quy định đó có phù hợp với Công ước New York và Luật Mẫu
UNCITRAL không?
28
Câu hỏi 3: Thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM trong nước và TTTM nước ngoài
hiện nay như thế nào? Đâu là những bất cập và đâu là những khó khăn vướng mắc
trong quá trình thực hiện thẩm quyền tư pháp này?
Câu hỏi 4: Cần có những giải pháp nào để bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với
TTTM và nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt
Nam đối với TTTM và cơ sở khoa học nào để luận giải cho các giải pháp đó?
1.2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Quan niệm về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM còn chưa rõ
ràng, chính xác nhưng có thể xác định rằng thẩm quyền hỗ trợ tư pháp là thẩm
quyền của TA trong việc giải quyết các yêu cầu của một bên hoặc của HĐTT liên
quan đến TTTM và nhằm trợ giúp cho hoạt động TTTM trong nước và nước ngoài
trong quá trình giải quyết tranh chấp tại TTTM. Nội dung thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA Việt Nam đối với TTTM còn chưa được quy định một cách rõ ràng,
dẫn đến việc thực thi thẩm quyền này của TA còn nhiều khó khăn. Cần có quy định
của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM để ấn định các
nguyên tắc, quy tắc, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hỗ
trợ tư pháp với TA cũng như để giảm thiểu những hạn chế của TTTM, với tư cách
là một phương thức giải quyết tranh chấp tư, trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM về cơ bản đã có sự phụ hợp với Công ước New York và
Luật Mẫu UNCITRAL, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập vì quy định chưa cụ thể, rõ
ràng. Vì vậy, giải pháp là phải bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện các quy định về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM.
Thực trạng thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với cả
TTTM trong nước và nước ngoài còn nhiều vướng mắc, khó khăn.
Chưa có biện pháp hiệu quả để khắc phục những hạn chế trong thực tiễn
29
thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với cả TTTM trong
nước và nước ngoài.
1.2.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của Luận án thuộc ngành Luật học, chuyên ngành Luật
Kinh tế, do đó, khi nghiên cứu vấn đề về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt
Nam đối với TTTM, Luận án chú trọng phân tích các quy phạm pháp luật Việt
Nam về TTTM, về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA, về tố tụng trọng tài và vai
trò của TA đối với TTTM nhằm làm rõ ý nghĩa của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM. Những nội dung này không chỉ liên quan đến ngành Luật học
và chuyên ngành Luật Kinh tế mà nó còn liên quan đến lĩnh vực kinh doanh thương
mại và tố tụng dân sự.
Nói cách khác, hướng tiếp cận của Luận án là hướng tiếp cận đa ngành (ngành
Kinh tế, Thương mại và Luật học), đa lĩnh vực (lĩnh vực Kinh tế và lĩnh vực Luật
học), và liên ngành (giữa chuyên ngành kinh doanh thương mại và ngành tư pháp).
Liên quan đến lĩnh vực kinh tế, Luận án cũng phân tích cả cơ sở lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này từ góc độ kinh tế quốc tế và thương mại
quốc tế. Đồng thời, đề tài của Luận án còn phân tích các quy định của pháp luật
hiện hành của Việt Nam trong mối tương quan so sánh với các văn bản pháp luật
quốc tế quan trọng có liên quan như Luật Mẫu UNCITRAL, Công ước New York,
và pháp luật của một số quốc gia có nền trọng tài phát triển như Anh, Mỹ, Pháp
v.v…và cả thực tiễn áp dụng tại các nước đó để có cơ sở đánh giá về thực trạng
pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM.
Kết luận Chƣơng 1
Từ những kết quả nghiên cứu ở Chương 1 cho thấy đã có nhiều công trình
nghiên cứu ở nước ngoài đề cập đến TTTM nói chung và thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM trong nước và nước ngoài. Sau 10 năm LTTTM được
ban hành, số lượng công trình nghiên cứu ở trong nước về TTTM đã có khá nhiều,
nhưng lại chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể về thẩm quyền
30
hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM. Một số công trình nghiên cứu thực
chất mới chỉ tập trung phân tích đơn lẻ về một số thẩm quyền hỗ trợ tư pháp cụ thể
như về áp dụng BPKCTT để hỗ trợ tố tụng trọng tài, hủy PQTT trong nước, công
nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài v.v… Những thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
khác của TA đối với TTTM như triệu tập người làm chứng, thu thập chứng cứ, chỉ
định TTV, hỗ trợ tư pháp đối với việc thi hành thỏa thuận trọng tài v.v… vẫn chưa
được chú trọng nghiên cứu. Hơn nữa, quan điểm về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA Việt Nam đối với TTTM, đặc biệt liên quan đến vấn đề giải quyết khiếu nại
quyết định về thẩm quyền của HĐTT, hủy PQTT trong nước, công nhận và cho thi
hành PQTT nước ngoài trong các nghiên cứu này vẫn chưa có sự thống nhất.
Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích các công trình nghiên cứu ở trong và
ngoài nước có liên quan đến đề tài của Luận án, Luận án đã chỉ ra bốn vấn đề còn
bỏ ngỏ hoặc chưa được làm rõ và xác định đây chính là nhiệm vụ nghiên cứu của
Luận án. Luận án cũng đặt ra bốn nhóm câu hỏi và bốn nhóm giả thuyết nghiên cứu
liên quan đến nội dung của Luận án và chỉ ra các lý thuyết nghiên cứu mà Luận án
dựa vào để thực hiện nội dung của Luận án, cũng như khẳng định rõ hướng tiếp cận
đa ngành, đa lĩnh vực và liên ngành của Luận án tiến sĩ này.
Như vậy, có thể khẳng định là chưa có công trình nghiên cứu hay Luận án
tiến sĩ Luật học nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu và cụ thể về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM (kể cả đối với TTTM trong
nước và TTTM nước ngoài). Đây là Luận án tiến sĩ Luật học đầu tiên nghiên cứu
vấn đề này.
31
CHƢƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP
CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
2.1. Khái niệm và đặc điểm của thẩm quyền hỗ trợ tƣ pháp của Tòa án
đối với trọng tài thƣơng mại
2.1.1. Khái niệm về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với trọng tài
thương mại
Để làm rõ khái niệm về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM,
trước hết cần làm rõ khái niệm về thẩm quyền tư pháp của TA đối với TTTM.
2.1.1.1. Thẩm quyền tư pháp của Tòa án đối với trọng tài thương mại
Thẩm quyền (jurisdiction) là đặc tính quan trọng và trung tâm của chủ quyền
quốc gia [203, tr. 645] Thuật ngữ thẩm quyền có nhiều nghĩa, nhưng thông thường
nhất được hiểu là quyền lực của một quốc gia thực thi đối với cá nhân, pháp nhân, tài
sản hay vụ việc nhất định [205, tr. 109]. Thẩm quyền có thể được phân chia theo các
nhánh quyền lực của một Nhà nước thành thẩm quyền lập pháp, thẩm quyền hành
pháp và thẩm quyền tư pháp.
Theo định nghĩa của từ điển Black’s Law Dictionary, khái niệm thẩm quyền tư
pháp hay quyền lực tư pháp (judicial power) là “thẩm quyền được trao cho TA và các
thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và đưa ra quyết định có giá trị bắt buộc
thi hành đối với các vụ việc ấy; thẩm quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có
tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật
điều chỉnh việc ấy” [126]. Theo định nghĩa này thẩm quyền tư pháp là quyền lực của
TA trong việc giải quyết tranh chấp, giải thích, áp dụng pháp luật có liên quan đến
tranh chấp và ban hành các quyết định, bản án có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các
bên tranh chấp.
Điều này cũng phù hợp với cách hiểu về quyền tư pháp trong lịch sử nhân loại.
Theo đó, khái niệm quyền tư pháp lần đầu tiên được sử dụng trong Bộ luật
32
Hammurabi – được ban hành từ 1.700 năm trước Công nguyên, với nghĩa là quyền lực
xét xử (phân xử, phán xét) [94]. Trải qua sự phát triển của các Nhà nước, sự phân
quyền trong ba nhánh quyền lực của Nhà nước là quyền hành pháp, quyền lập pháp và
quyền tư pháp càng thể hiện rõ nét. Nhưng phải đến khi được ghi nhận trong cuốn
“Tinh thần pháp luật” của Charles de Montesquieu, sự phân quyền này mới được giải
thích một cách cụ thể là: “ Quyền Tư pháp là quyền trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân” [31, tr. 105-106].
Quan niệm trên cũng được thừa nhận ở nhiều quốc gia và bởi nhiều nhà nghiên
cứu luật học trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Ví dụ, ở Mỹ, theo khoản 1 Điều III
của Hiến pháp Hoa Kỳ thì quyền lực tư pháp có hiệu lực đối với tất cả các vụ việc trên
phương diện luật pháp và công lý, theo quy định của Hiến pháp này và các điều luật
của Hoa Kỳ, các hiệp ước đã hoặc sẽ ký dưới thẩm quyền của Chính phủ; đối với các
trường hợp liên quan tới các đại sứ, công sứ và lãnh sự, đối với các trường hợp liên
quan tới luật pháp hàng hải và hải quân; đối với các tranh tụng mà Hoa Kỳ là một bên
tranh chấp, đối với các cuộc tranh chấp giữa hai bang trở lên, (giữa một bang với các
công dân của bang khác), giữa các công dân của các bang khác nhau, giữa các công
dân trong một bang tranh chấp đất đai do các bang khác nhau cấp, giữa một bang hoặc
các công dân của bang đó với với ngoại quốc (hoặc với công dân và thần dân ngoại
quốc). Ngoài ra, chú thích của quyền giải quyết “các vụ việc nảy sinh từ Hiến pháp
này” của các TA liên bang là cơ sở cho quyền của TA Tối cao có thể tuyên bố các bộ
luật của Quốc hội là không phù hợp với Hiến pháp [16, tr. 41]. Như vậy ở Mỹ, ngoài
quyền xét xử thông thường, quyền tư pháp của TA còn bao gồm cả việc tuyên bố các
đạo luật của Quốc hội không phù hợp với Hiến pháp. Tuy nhiên, việc mở rộng quyền
lực tư pháp của TA Mỹ như vậy chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp Mỹ.
Trong khi đó, ở Pháp, quyền tư pháp thực hiện chức năng xét xử đảm bảo trừng
phạt các vi phạm pháp luật và căn cứ vào pháp luật để giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong quá trình thực thi pháp luật và áp dụng pháp luật. Theo tư tưởng của người
Pháp, quyền tư pháp có tất cả tại những nơi mà ở đó quyền tự do của cá nhân cần được
33
bảo vệ. Theo Điều 66 Hiến pháp năm 1958 của nước Pháp, các cơ quan tư pháp được
xem như người canh gác bảo vệ tự do cá nhân, đảm bảo sự tuân thủ nguyên tắc này
theo các điều kiện do pháp luật quy định.
Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, quyền tư pháp là quyền xét xử các vụ
án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính [91, tr. 657]; xét
xử các hành vi vi phạm hiến pháp, vi phạm pháp luật từ phía công dân và các cơ quan
nhà nước; bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân và trật tự an toàn xã hội [53,
tr. 60]; phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết
định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”
[8, tr. 11]. Và “TA nhân dân là cơ quan xét xử… thực hiện quyền tư pháp” [48, khoản
1 Điều 102]. Nói tóm lại, tại Việt Nam, “quyền tư pháp được hiểu là khả năng và năng
lực riêng có của TA trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử và các thẩm quyền khác
theo phương thức nhất định để tác động đến hành vi của con người và các quá trình
phát triển xã hội” [94].
Như vậy, khái niệm về quyền tư pháp, quyền lực tư pháp hay thẩm quyền tư
pháp cũng như phạm vi quyền Tư pháp ở các quốc gia trên thế giới còn có nhiều
điểm chưa thống nhất. Tại những nước thuộc thông luật (common law) như Anh,
Mỹ, án lệ được tạo ra từ các diễn giải luật của TA. Trong khi đó, ở các quốc gia có
hệ thống pháp luật theo mô hình dân luật (civil law), TA có quyền diễn giải luật
nhưng không được "tạo ra luật" [30]. Tuy nhiên, điểm chung và cách hiểu phổ biến
về quyền tư pháp là quyền xét xử nên về bản chất, thẩm quyền tư pháp vẫn là thẩm
quyền xét xử, là việc nhân danh nhà nước giải quyết tranh chấp, giải quyết xung đột
xã hội trên cơ sở pháp luật và lẽ công bằng, thông qua xét xử, theo các thủ tục tố tụng
luật định. Mặc dù theo quan điểm một số nước trên thế giới, thẩm quyền tư pháp sẽ
không chỉ giới hạn ở chức năng xét xử thuần túy mà còn mở rộng phạm vi chức năng
bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, lẽ công bằng thông qua quyền giải thích
pháp luật để phục vụ việc giải quyết vụ việc ấy, hoặc quyền tuyên vi hiến các hành vi
của cơ quan nhà nước và quyền tạo ra án lệ v.v... Tuy nhiên, NCS cho rằng cách hiểu
34
phổ biến về thẩm quyền tư pháp là cách hiểu hẹp, giới hạn ở thẩm quyền tư pháp của
TA liên quan đến thẩm quyền xét xử các tranh chấp và giải quyết các khiếu nại, liên
quan đến tố tụng tư pháp.
Trong phạm vi của Luận án này, thẩm quyền tư pháp của TA sẽ chỉ được hiểu
theo nghĩa hẹp tức là việc TA nhân danh Nhà nước thực hiện thẩm quyền xét xử và
các thẩm quyền khác theo phương thức nhất định trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền
con người, công lý và lẽ công bằng theo đúng tinh thần tại Điều 102 của Hiến pháp
năm 2013. Nói cách khác, thẩm quyền tư pháp của TA là thẩm quyền xét xử các tranh
chấp, các xung đột, các vụ việc theo thủ tục tố tụng do pháp luật quy định.
Các thẩm quyền của TAND được quy định cụ thể tại Điều 2 của Luật Tổ chức
TAND năm 2014, trong đó bao gồm việc xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại và
“giải quyết các việc khác” theo quy định của pháp luật; xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ để giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại, và thực hiện các quyền
hạn khác theo quy định của luật tố tụng; xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị
của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp
luật; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; và thực hiện quyền hạn khác
theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở lý luận về quyền tư pháp và thẩm quyền tư pháp của TA, NCS cho
rằng rằng thẩm quyền tư pháp của TA đối với TTTM là việc TA nhân danh Nhà nước
thực hiện thẩm quyền xét xử và các thẩm quyền khác để giải quyết các yêu cầu liên
quan đến hoạt động TTTM với ý nghĩa là phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật, ví dụ như giải quyết khiếu
nại quyết định về thẩm quyền của HĐTT, giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi
hành PQTT, thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng v.v...
Theo quy định của BLTTDS 2015, các yêu cầu liên quan đến hoạt động TTTM
được coi là các yêu cầu về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của
TA, tức là cũng thuộc thẩm quyền tư pháp của TA. Cụ thể, khi giải quyết các yêu cầu
35
này, TA cũng sẽ phải thực hiện quyền xét xử của mình, tức là xem xét có chấp nhận
hay không chấp nhận yêu cầu đó dựa trên các tài liệu, chứng cứ mà bên yêu cầu đưa
ra; xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các yêu cầu đó theo đúng trình
tự thủ tục được quy định trong pháp luật, đồng thời bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật trong xét xử. Cũng chính vì vậy, thẩm quyền tư pháp của TA đối với TTTM sẽ
bao gồm cả chức năng hỗ trợ và chức năng giám sát như sẽ được làm rõ dưới đây.
2.1.1.2. Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp và thẩm quyền giám sát của Tòa án đối với
trọng tài thương mại
Với cách hiểu về thẩm quyền tư pháp của TA đối với TTTM như trên, có thể
cho rằng thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là việc TA nhân danh Nhà
nước thực hiện quyền xét xử và các quyền khác của mình nhằm mục đích trợ giúp, hỗ
trợ tư pháp đối với TTTM. Điều quan trọng trong khái niệm này là phải làm rõ nghĩa
của “hỗ trợ” và “hỗ trợ tư pháp”.
Để làm rõ thế nào là thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, cần lưu
ý rằng trong pháp luật quốc tế cũng như pháp luật nước ngoài thì các thuật ngữ như
“judicial support”, “judicial assistance”, “assistant jurisdiction”, “assistant authority”,
“auxiliary jurisdiction” (dịch ra tiếng Việt là hỗ trợ tư pháp, giúp đỡ tư pháp, trợ giúp
tư pháp, thẩm quyền hỗ trợ, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp) đều được sử dụng với ý nghĩa
là “hỗ trợ tư pháp” hay “thẩm quyền hỗ trợ tư pháp” và được giải thích theo từ điển
Black’s Law với ý nghĩa là “sự hỗ trợ của TA theo pháp luật khi công lý đòi hỏi tố
tụng và các chế tài công bằng và hợp pháp” [126]. Ở đây, hai từ “hỗ trợ” cho thấy TA
chỉ giúp đỡ TTTM theo đúng quy định của pháp luật khi mà quá trình tố tụng trọng tài
gặp khó khăn hoặc bị hạn chế mà HĐTT không thể tháo gỡ do việc xét xử tại TTTM
có những giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, TA không
xét xử, giải quyết tranh chấp mà các bên đưa ra thay cho TTTM mà TA chỉ xem xét và
giải quyết yêu cầu của một bên để hỗ trợ cho TTTM về tố tụng cũng như trợ giúp
HĐTT để việc xét xử tại TTTM được hiệu quả. Nói cách khác, sự hỗ trợ của TA là sự
hỗ trợ, giúp đỡ về thủ tục tố tụng.
36
Cũng cần lưu ý rằng, theo quy định tại Điều 6 của Luật Mẫu UNCITRAL,
thẩm quyền của TA đối với TTTM bao gồm hai chức năng là hỗ trợ và giám sát
TTTM. Cụ thể quy định như sau:
Điều 6: Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác để thực hiện chức năng
nhất định trong việc hỗ trợ và giám sát trọng tài.
Những chức năng được đề cập tới tại các điều 11(3), 11(4), 13(3), 14,
16(3) và 34(2) sẽ được thực hiện bởi ... (Mỗi quốc gia thông qua Luật Mẫu
này ghi rõ toà án, các toà án hoặc những cơ quan có thẩm quyền khác thực
hiện những chức năng này trong toà án).
Như vậy, theo quy định trên của Luật Mẫu UNCITRAL, TA không làm thay
HĐTT hay tự ý can thiệp vào quy trình tố tụng TTTM mà chỉ giúp đỡ hay trợ giúp
HĐTT hoặc kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của TTTM nhằm bảo đảm cho quá
trình tố tụng trọng tài được thực hiện một cách công bằng, hợp lý và phù hợp với quy
định của pháp luật khi có yêu cầu của một bên hoặc yêu cầu của HĐTT. Tuy nhiên,
Luật Mẫu UNCITRAL lại không quy định một cách rõ ràng những thẩm quyền nào
của TA là để hỗ trợ TTTM và những thẩm quyền nào của TA là để giám sát TTTM,
ngoại trừ Điều 27 của Luật Mẫu quy định rõ về “sự giúp đỡ của TA trong việc thu thập
chứng cứ”. Tương tự, Công ước New York 1958 cũng không quy định một cách rõ
ràng thế nào là thẩm quyền hỗ trợ tư pháp hay thế nào là thẩm quyền giám sát tư pháp
của TA đối với TTTM trong việc công nhận và thi hành PQTT nước ngoài.
Trong khi đó, theo cách hiểu phổ biến hiện nay, thẩm quyền giám sát đối với
TTTM của TA là việc TA với tư cách là cơ quan tư pháp công, đại diện cho quyền lực
Nhà nước để thực hiện việc kiểm tra, giám sát đối với TTTM để bảo đảm cho HĐTT
ngay từ khi bắt đầu thành lập và trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp sẽ không
vượt quá thẩm quyền được giao, sẽ thực hiện đúng đắn, vô tư, khách quan, trung lập
các trách nhiệm của mình, do đó hiệu lực của các PQTT cũng sẽ được bảo đảm, hiệu
quả việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM được nâng cao [4]. Như vậy, trong trường
hợp có vi phạm về tố tụng trọng tài, hoặc TTV không tuân thủ các trách nhiệm nghĩa
37
vụ của mình thì TA, bằng việc giải quyết những yêu cầu của một bên tranh chấp liên
quan đến TTTM, sẽ “vô hiệu hóa” các thủ tục, hành vi của HĐTT hoặc của TTV trong
tố tụng trọng tài mà không phù hợp với pháp luật, từ đó, đảm bảo tính công bằng và
hợp pháp của việc giải quyết tranh chấp tại TTTM cũng như của PQTT. Nói cách
khác, TA sẽ không xem xét, giám sát hành vi vi phạm pháp luật hay vi phạm tố tụng
của các bên tham gia giải quyết tranh chấp tại TTTM mà chỉ xem xét, kiểm tra việc
thành lập HĐTT, việc tiến hành tố tụng của HĐTT có phù hợp với các quy định của
pháp luật hay không khi một hoặc các bên tranh chấp nộp khiếu nại hay yêu cầu phản
đối với hành vi đó lên TA có thẩm quyền.
Để đảm bảo cho quyền lợi của các bên tranh chấp, việc kiểm tra, giám sát này
của TA có thể được thực hiện trong khi tố tụng trọng tài đang diễn ra hoặc kể cả sau
khi tố tụng trọng tài đã chấm dứt và PQTT đã được ban hành. Ví dụ, TA được coi là
thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát của mình khi xem xét lại quyết định của HĐTT
về thẩm quyền của HĐTT, về giá trị của thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô
hiệu hay không thực hiện được. Tức là, TA sẽ xem xét, đối chiếu liệu quyết định đó
của HĐTT có phù hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn của vụ việc hay không.
Nếu thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu hay không thực hiện được, hoặc HĐTT không có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó nhưng HĐTT lại ra quyết định là mình có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp thì TA sẽ “vô hiệu hóa” quyết định đó của HĐTT bằng
cách ban hành quyết định rằng HĐTT không có thẩm quyền và yêu cầu HĐTT phải
đình chỉ việc giải quyết tranh chấp. Tương tự, đối với việc công nhận và cho thi hành
PQTT nước ngoài, TA một mặt thực hiện chức năng hỗ trợ của mình thông qua việc
công nhận giá trị của PQTT đó, làm cho PQTT đó có thể được cưỡng chế thi hành tại
quốc gia được yêu cầu. Mặt khác, TA thực hiện chức năng giám sát của mình bằng
việc từ chối công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài đó sau khi xem xét và nhận
thấy PQTT thuộc các trường hợp bị từ chối công nhận theo quy định của pháp luật như
tố tụng trọng tài hoặc việc thành lập HĐTT không đúng với quy định của pháp luật và
thỏa thuận của các bên [148, tr. 375].
38
Như vậy, thẩm quyền giám sát và thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM đều giống nhau ở điểm TA sẽ chỉ thực hiện các thẩm quyền này khi có yêu cầu
của một bên, và việc thực hiện phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục theo quy
định của pháp luật TTTM và pháp luật tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp và thẩm quyền giám sát của TA đối với
TTTM có một số khác biệt cơ bản như sau. Thứ nhất, khi thực hiện thẩm quyền giám
sát, TA có thể chủ động xem xét, xác minh liệu việc giải quyết tranh chấp của HĐTT
hay PQTT có phù hợp với các quy định của pháp luật hay không. Ví dụ theo điểm đ,
khoản 2 Điều 68 LTTTM, khi xem xét hủy PQTT, TA sẽ phải chủ động xác minh thu
thập chứng cứ để xem xét PQTT có trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam hay không. Trong khi đó, khi thực hiện thẩm quyền hỗ trợ, TA sẽ chỉ thực hiện
theo đúng yêu cầu của các bên mà không chủ động hay tự ý có quyết định vượt ngoài
phạm vi yêu cầu của các bên đó. Ví dụ, các bên yêu cầu TA áp dụng BPKCTT là
phong tỏa tài khoản, thì TA sẽ không ra quyết định áp dụng một BPKCTT khác mà
chỉ xem xét có áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản. Thứ hai, chủ thể yêu cầu TA
thực hiện thẩm quyền giám sát chỉ là các bên tranh chấp, trong khi đó, cả các bên tranh
chấp cũng như HĐTT đều có thể yêu cầu TA thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp, ví
dụ HĐTT có thể yêu cầu TA hỗ trợ thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng
theo quy định tại khoản 6 Điều 46 và khoản 2 Điều 47 LTTTM. Thứ ba, hậu quả của
việc thực hiện thẩm quyền giám sát thường gây ảnh hưởng “tiêu cực” đến tố tụng
trọng tài, làm “vô hiệu hóa” hay “hủy bỏ” kết quả giải quyết của HĐTT, hay khiến cho
tố tụng trọng tài bị đình chỉ. Ví dụ, khi TA ra quyết định hủy PQTT thì TA đã hủy bỏ
kết quả giải quyết tranh chấp của HĐTT.
Với cách hiểu như trên, một số thẩm quyền nhất định của TA sẽ vừa mang tính
hỗ trợ và vừa mang tính giám sát đối với TTTM. Ví dụ, đối với việc TA thay thế TTV
Trọng tài vụ việc theo yêu cầu của một bên khi TTV không tuân thủ nghĩa vụ về độc
lập, khách quan của TTV thì một mặt, TA đang thực hiện chức năng giám sát của
mình bằng cách xem xét liệu TTV đó có thực sự vi phạm nghĩa vụ độc lập, khách
39
quan vô tư hay không và theo đó, sẽ “vô hiệu hóa” việc chỉ định TTV đó thông qua
việc thay thế một TTV khác. Mặt khác, đây cũng có thể xem như là TA đang thực
hiện chức năng giúp đỡ, hỗ trợ đối với TTTM vì việc thay thế một TTV đã vi phạm
nghĩa vụ độc lập khách quan sẽ đảm bảo sự công bằng, hiệu quả và đúng pháp luật về
tố tụng trọng tài cũng như PQTT được tuyên sau này.
Nhiều học giả cũng thừa nhận rằng việc phân định một cách rõ ràng khi nào TA
được coi là thực hiện chức năng giám sát và khi nào được coi là thực hiện chức năng
hỗ trợ không phải là một vấn đề đơn giản [160, mục 7.13]. Mặc dù vậy, theo hai chức
năng này thì rõ ràng chức năng hỗ trợ khác với chức năng giám sát.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, Luận án không nghiên cứu về giám sát
mà chỉ nghiên cứu về hỗ trợ tư pháp nói chung, tức là thẩm quyền của TA trong việc
giúp đỡ hoặc trợ giúp về tố tụng cho TTTM.
Theo nhận định về Điều 5 của Luật Mẫu UNCITRAL về phạm vi can thiệp của
TA đối với tố tụng trọng tài thì quy định này chỉ hạn chế việc can thiệp của TA đối với
tố tụng trọng tài chứ không giới hạn các trường hợp TA có thể hỗ trợ cho HĐTT [187,
tr. 20-21]. Như đã đề cập tại Mục 1.1.1, vì TTTM là một phương thức giải quyết tranh
chấp tư, không phải là cơ quan do Nhà nước thành lập nên [79, tr. 20], do đó, thẩm
quyền của HĐTT sẽ bị hạn chế trong một số trường hợp và nếu không tháo gỡ các hạn
chế này thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên tranh chấp. Do đó, cần phải
có sự trợ giúp, hỗ trợ của TA trong các trường hợp này để tố tụng trọng tài có thể tiếp
tục diễn ra một cách hiệu quả và công bằng. Công ước New York 1958 cũng có quy
định về nghĩa vụ đương nhiên của TA trong việc công nhận khả năng thi hành của
thỏa thuận trọng tài và PQTT hay nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa PQTT nước
ngoài và PQTT trong nước [101, đoạn 2714–17], [198, Điều III, Điều V.1 và Điều
VII]. Việc TA tuân thủ và thi hành các nghĩa vụ, các nguyên tắc đó trong quá trình
thực hiện thẩm quyền xét xử hay các thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật
cũng được xem là thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM.
Từ những phân tích trên đây, NCS cho rằng thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
40
đối với TTTM là quyền lực của TA với vai trò cơ quan tư pháp của Nhà nước thực
hiện việc giúp đỡ, trợ giúp, hỗ trợ TTTM thông qua việc giải quyết các yêu cầu liên
quan đến hoạt động TTTM theo các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định để một mặt
đảm bảo tố tụng trọng tài diễn ra một cách công bằng và hiệu quả, mặt khác, bảo đảm
giải quyết yêu cầu chính đáng của các bên khi mà TTTM không thể đáp ứng. Thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng chính là quyền lực của TA. Quyền
lực này do pháp luật quy định và chỉ có TA, với tư cách là cơ quan tài phán công mới
có. TTTM không thể có quyền lực này vì TTTM chỉ là cơ quan tài phán tư. Thực thi
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng chính là nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp khi các bên thỏa thuận và đưa tranh chấp ra
giải quyết tại TTTM.
2.1.2. Đặc điểm của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với trọng tài
thương mại
Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM có bốn đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, TA sẽ chỉ thực thi quyền lực của mình, tức là thực thi thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp đối với TTTM khi đương sự hoặc của HĐTT có yêu cầu TA trợ giúp,
hoặc giúp đỡ trong quá trình tố tụng trọng tài và hỗ trợ cho việc công nhận và cho thi
hành thỏa thuận trọng tài cũng như PQTT, để khắc phục những hạn chế của việc giải
quyết tranh chấp bằng TTTM. Do HĐTT không có thẩm quyền đương nhiên mà thẩm
quyền xét xử của HĐTT về bản chất, phát sinh từ sự đồng thuận của các bên tranh
chấp chứ không phải được trao bởi pháp luật hay quốc gia giống như TA, nên còn
nhiều hạn chế. Ví dụ, vì TTTM là một cơ quan giải quyết tranh chấp tư do các bên tự
thỏa thuận, nên thẩm quyền của HĐTT cũng xuất phát từ sự đồng thuận của các bên.
Chính vì vậy, HĐTT không có thẩm quyền để ban hành BPKCTT đối với các bên thứ
ba. Điều này đặc biệt quan trọng khi tài sản liên quan đến vấn đề tranh chấp đang bị
quản lý bởi bên thứ ba, ví dụ như ngân hàng [137, tr. 504]. Trong khi đó, TA là cơ
quan công quyền, là cơ quan tài phán do Nhà nước thành lập để giải quyết tranh
chấp. Vì vậy, chỉ có TA mới có quyền lực ban hành các lệnh, quyết định tạm thời có
41
hiệu lực hạn chế quyền của người thứ ba [34].
Hơn nữa, trong một số trường hợp, khi HĐTT chưa được thành lập nhưng các
bên lại có những yêu cầu cấp bách cần phải được giải quyết thì để đảm bảo quyền lợi
của các bên trong trường hơp này cũng như đảm bảo tính công bằng, hiệu quả của việc
giải quyết tranh chấp tại TTTM sau này, TA sẽ cần tham gia để hỗ trợ giải quyết các
yêu cầu đó của các bên. Việc hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM vừa là quyền lực,
vừa là nghĩa vụ của TA. Ví dụ, khi các bên có yêu cầu thay thế TTV duy nhất trong
Trọng tài vụ việc hay khi một bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT ngay sau khi nộp đơn
khởi kiện ra TTTM nhưng HĐTT vẫn chưa được thành lập. Chính vì vậy, việc hỗ trợ
tư pháp của TA là để khắc phục những hạn chế trong thẩm quyền của HĐTT. Cũng
theo đó, bất cứ sự tham gia nào khác ngoài mục đích trên trong quá trình tố tụng trọng
tài sẽ được xem là không hợp pháp, bao gồm cả các hành động để bảo vệ công dân của
một quốc gia cụ thể, đe dọa TTV, bảo vệ lợi ích thương mại hoặc quyền tài phán của
một quốc gia, hoặc đơn giản hơn là TA cho rằng TA mới là cơ quan phù hợp thay vì
HĐTT để quyết định về một vấn đề nào đó [147].
Thứ hai, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM không phải là vô
hạn. Ngược lại, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng bị giới hạn
theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, cơ chế thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM dựa trên cơ sở các quy định cụ thể của pháp luật. Cụ thể,
về mặt không gian, chỉ có TA ở quốc gia nơi PQTT được tuyên hoặc ở nước nơi
được yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTT mới có thẩm quyền tham gia hỗ trợ
TTTM [147]. Ngoài ra, TA của quốc gia nơi có tài sản liên quan đến vụ tranh chấp
của các bên cũng có thể có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp trong một số trường hợp theo
quy định của pháp luật nước đó [194, tr. 5-6]. Về mặt thời gian, TA có thể tham gia
hỗ trợ TTTM cả trước, trong và sau khi vụ kiện trọng tài được tiến hành [147], tùy
thuộc vào yêu cầu của một bên tranh chấp hay thậm chí là của HĐTT cũng như pháp
luật của quốc gia có liên quan. Như vậy, không có quy định thống nhất nào theo
pháp luật TTTM quốc tế liên quan đến vấn đề này. Để xác định liệu TA của một
42
nước có những thẩm quyền hỗ trợ tư pháp nào đối với TTTM, và khi nào TA có
thẩm quyền đó thì phải xem xét theo quy định của pháp luật tại quốc gia nơi cần yêu
cầu TA hỗ trợ tư pháp. Về mặt nội dung thẩm quyền cụ thể, tức là xem xét xem TA
có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM ở những vấn đề cụ thể nào, vấn đề này
cho đến nay chưa có sự thống nhất mà do pháp luật của từng nước quy định và do
đó, phạm vi nội dung hỗ trợ tư pháp của mỗi TA cũng khác nhau tùy theo pháp luật
của từng nước đó. Mục 2.3 dưới đây sẽ làm rõ hơn các nội dung thuộc thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp TA đối với TTTM.
Thứ ba, việc TA hỗ trợ tư pháp sẽ không chỉ đem lại lợi ích đối với hoạt động
TTTM nói chung mà còn đối với cả các bên tranh chấp và các TTV nói riêng [153].
Rõ ràng, pháp luật TTTM không cho phép TA được can thiệp vào tố tụng trọng tài trừ
khi có yêu cầu của một bên tranh chấp, ví dụ yêu cầu TA áp dụng BPKCTT hay thu
thập chứng cứ. Nhưng do hạn chế về thẩm quyền của HĐTT như đã phân tích ở trên,
quyền và lợi ích của bên yêu cầu sẽ có thể được bảo đảm thông qua sự hỗ trợ của TA.
Trong khi đó, TA cũng có thể hỗ trợ TTTM trong trường hợp HĐTT tự mình yêu cầu
TA. Từ đó đảm bảo được tính công bằng, hiệu quả của tố tụng trọng tài. Trong trường
hợp này, TA không chỉ hỗ trợ các bên tranh chấp mà còn hỗ trợ HĐTT hoàn thành
nhiệm vụ của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp, bởi vì để HĐTT có thể “bảo
đảm giải quyết tranh chấp vô tư, nhanh chóng, kịp thời” như quy định tại Điều 21
LTTTM thì HĐTT cũng cần có những chứng cứ, lời chứng mà TA hỗ trợ thu thập.
Thứ tƣ, vì thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là để nhằm hỗ trợ
tố tụng trọng tài diễn ra một cách hiệu quả và thuận lợi nên việc giải quyết các yêu cầu
liên quan đến hỗ trợ tư pháp đối với TTTM cũng thường phải đảm bảo không ảnh
hưởng tới tố tụng trọng tài. Ví dụ, ở nhiều nước, thời gian để TA giải quyết các yêu
cầu này thường khá ngắn, không có nhiều cấp xét xử như đối với các vụ kiện thông
thường để tránh kéo dài tố tụng trọng tài, gây thiệt hại cho các bên tranh chấp. Mặt
khác, HĐTT vẫn có thể tiến hành giải quyết tranh chấp trong quá trình TA thực thi
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM để không làm ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu
43
quả giải quyết vụ việc của HĐTT. Ví dụ, theo khoản 5 Điều 44 LTTTM thì trong khi
TA giải quyết khiếu nại đối với quyết định về thẩm quyền của HĐTT, HĐTT vẫn có
thể tiếp tục giải quyết tranh chấp. Riêng đối với việc xem xét hủy PQTT hoặc công
nhận và cho thi hành PQTT thì ở một số nước vẫn cho phép có nhiều cấp xét xử, tức là
cho phép xem xét lại quyết định sơ thẩm đối với vấn đề này theo thủ tục phúc thẩm
hay giám đốc thẩm như Pháp [175, Điều 1500], Ý [176, Điều 840] v.v... Tuy nhiên, vì
sau khi PQTT được ban hành thì tố tụng trọng tài cũng chấm dứt nên về bản chất, việc
quy định nhiều cấp xét xử cũng không làm ảnh hưởng đến tố tụng trọng tài.
2.2. Sự cần thiết phải có quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ
tƣ pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thƣơng mại
Những phân tích về khái niệm và đặc điểm của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM cho thấy việc hỗ trợ này là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, để việc
hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM thực sự có ý nghĩa trong thực tiễn thì đòi hỏi cả
TA, các TTV và các bên tranh chấp phải am hiểu vấn đề này để có thể thực thi tốt các
quyền và nghĩa vụ của mình. Muốn như vậy thì pháp luật phải “vào cuộc”, tức là phải
có sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ phát sinh từ hoặc liên quan đến việc
hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM trong cả quá trình giải quyết tranh chấp tại
TTTM. Sự cần thiết phải có quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM được lý giải bởi hai lý do sau đây:
2.2.1. Cần có quy định của pháp luật để ấn định các nguyên tắc, quy tắc, quy
định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong quan hệ hỗ trợ tư pháp của
Tòa án đối với Trọng tài Thương mại
Thứ nhất, xuất phát từ khái niệm và các đặc trưng cơ bản của pháp luật về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, NCS cho rằng pháp luật về thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, mà cụ thể là quan hệ
giữa TA đối với các bên tranh chấp tại TTTM và quan hệ giữa TA và các TTV hay
các HĐTT trong quá trình tố tụng trọng tài. Tổng thể các quy phạm pháp luật này bao
44
gồm các nguyên tắc, các chế định, các quy định về TTTM, về giải quyết tranh chấp tại
TTTM, về tố tụng TTTM, về thẩm quyền hỗ trợ của TA trong quá trình giải quyết
tranh chấp tại TTTM, và về các trình tự, thủ tục tố tụng để thực thi thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM trên thực tế. Do vậy, cần có quy định của pháp luật về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM để ấn định các nguyên tắc, quy tắc,
quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các TA, các bên tranh chấp và TTTM
trong mối quan hệ này.
Thứ hai, xuất phát từ các đặc trưng cơ bản của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM, có thể thấy rằng, các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM được quy định rải
rác trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, kể cả trong pháp luật quốc tế,
pháp luật quốc gia của từng nước về TTTM, về giải quyết tranh chấp tại TTTM, về tố
tụng TTM và về thẩm quyền của TA.
Hơn nữa, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước khác nhau là không
giống nhau, các quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM ở mỗi nước là khác nhau. Ví dụ, các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn
đề này khác với quy định có liên quan của Anh, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc v.v…
Song có một thực tế là mặc dù phương thức giải quyết tranh chấp bằng TTTM có khá
nhiều ưu việt nhưng lại vẫn còn khá nhiều hạn chế. Do đó, pháp luật TTTM của các
nước đều quy định rằng TA có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp cho TTTM. Như vậy, các
quy định của pháp luật về vấn đề này là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ
thống pháp luật nói chung và giải quyết tranh chấp bằng TTTM nói riêng.
Bên cạnh đó, mặc dù trong pháp luật quốc tế và trong pháp luật quốc gia đều có
quy định về nguyên tắc, quy tắc điều chỉnh quan hệ giữa TA, TTTM và các bên tranh
chấp để TA hỗ trợ TTTM về tố tụng, nhưng những quy định này chưa được hệ thống,
còn rời rạc, thậm chí chưa rõ ràng. Bất cập này sẽ làm cho quá trình hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM gặp nhiều khó khăn.
45
Chính vì vậy, việc điều chỉnh, hoàn thiện pháp luật đối với vấn đề này cần phải
được xây dựng, tiếp tục sửa đổi, bổ sung, nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về TTTM nói chung và làm cho phương thức giái quyết tranh chấp bằng TTTM ngày
càng phát huy hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
2.2.2. Quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối
với Trọng tài Thương mại nhằm giảm thiểu những hạn chế của Trọng tài Thương
mại trong giải quyết tranh chấp
Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM cũng
có những hạn chế nhất định. Cụ thể, xét về bản chất của TTTM, “trọng tài” là một
phương thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên đồng ý rằng một bên thứ ba
trung lập (TTV hay HĐTT) sẽ ban hành một quyết định có căn cứ pháp lý sau khi
các bên đã có cơ hội trình bày vụ tranh chấp của mình [126]. Theo các tác giả E.
Gaillard và J. Salvage thì “trọng tài” được hiểu là một trong những phương thức
giải quyết tranh chấp tư thay thế TA, mà thẩm quyền của TTTM có được là dựa
trên thỏa thuận của các bên. Trong đó, tố tụng trọng tài được tiến hành không công
khai trừ khi các bên có thỏa thuận khác, đồng thời phán quyết do HĐTT ban hành
mang tính chung thẩm và ràng buộc các bên tranh chấp [125, tr. 7-57]. Tương tự,
tác giả Gary B. Born, một trong những chuyên gia hàng đầu về trọng tài cũng đưa
ra định nghĩa rằng “trọng tài là - và chỉ là - một thủ tục mà các bên đồng thuận đưa
tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan không thuộc Chính phủ, được lựa chọn
bởi hoặc cho các bên, để ban hành một quyết định ràng buộc giải quyết tranh chấp
đó theo một thủ tục công bằng, không thiên vị, cho phép các bên được trình bày về vụ việc của mình” [102, tr. 4]. Như vậy, có thể thấy những đặc trưng cơ bản của
phương thức giải quyết tranh chấp bằng TTTM là:
- Là một phương thức giải quyết tranh chấp mang tính tài phán tư theo thủ tục
tố tụng trọng tài do pháp luật mà các bên thỏa thuận lựa chọn quy định;
- Do các bên cùng thỏa thuận đưa tranh chấp ra TTTM để giải quyết;
- Quá trình giải quyết mang tính bí mật;
46
- Đưa ra một phán quyết có tính chung thẩm và ràng buộc về quyền và nghĩa vụ
của các bên tranh chấp [192, tr. 7].
Mặc dù thuật ngữ “TTTM” cũng chưa được giải thích trong pháp luật trọng tài
của Việt Nam, tuy nhiên, LTTTM Việt Nam có giải thích TTTM “là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này”. Về cơ bản, cách giải thích này cũng đã nêu được các đặc trưng của TTTM là (i)
Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp; (ii) Do các bên thỏa thuận lựa chọn và
(ii) Được tiến hành theo một thủ tục nhất định theo quy định của pháp luật về TTTM.
Như vậy, cách giải thích này của LTTTM cũng thống nhất với quan điểm của các học
giả trong nước và quốc tế về vấn đề này.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên của TTTM, có thể thấy cần có quy định
của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM để khắc phục
những hạn chế sau đây:
Thứ nhất, TTTM là một phương thức giải quyết tranh chấp tư. Trọng tài không
phải là cơ quan do Nhà nước thành lập nên và cũng không hoạt động bằng ngân sách
nhà nước [79, tr. 20]. Khi xét xử, HĐTT cũng không nhân danh Nhà nước để ra các
phán quyết, quyết định. Các TTV trong HĐTT là do các bên tự lựa chọn và bầu ra mà
không phải do Nhà nước bổ nhiệm. Tính chất “tư” của TTTM còn thể hiện ở điểm các
TTV không được hưởng lương từ tổ chức trọng tài hay từ ngân sách Nhà nước mà chỉ
nhận thù lao đối với việc giải quyết từng vụ tranh chấp cụ thể, và thù lao này, thực chất
là được chi trả bởi các bên tranh chấp. Vì vậy, mối quan hệ giữa TTV, tổ chức TTTM
và các bên tranh chấp trên thực tế có thể xem là quan hệ hợp đồng. Nói cách khác nếu
các bên không có thỏa thuận lựa chọn TTTM thì TTTM không thể giải quyết tranh
chấp. Cũng chính vì vậy, các quyết định và phán quyết của HĐTT sẽ chỉ có thể ràng
buộc các bên tranh chấp trên cơ sở tự nguyện, mà không tự động được cưỡng chế thi
hành giống như các bản án, quyết định của TA.
Trong khi đó, TA là cơ quan tài phán công nhân danh Nhà nước để giải quyết
tranh chấp, hưởng lương từ ngân sách của Nhà nước để giải quyết các yêu cầu, khiếu
47
nại của các bên tranh chấp. Do đó, quyết định, bản án của TA được đảm bảo thi hành
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước [17]. Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia tố tụng trọng tài và khắc phục hạn chế nói trên của
TTTM, pháp luật ghi nhận quyền lực cho TA trong việc hỗ trợ đối với TTTM, đặc biệt
là trong trường hợp cần cưỡng chế thi hành BPKCTT hay khi bên thua kiện không tự
nguyện thi hành phán quyết thì PQTT cũng sẽ cần có sự hỗ trợ của TA để được thừa
nhận về tính cưỡng chế thi hành thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành. Đây
cũng là lý do mà trong một số trường hợp nhất định, việc yêu cầu TA áp dụng
BPKCTT để hỗ trợ tố tụng trọng tài sẽ thuận tiện hơn và thậm chí có hiệu quả hơn đối
với một bên so với việc yêu cầu HĐTT. Một số ý kiến còn cho rằng yêu cầu TA áp
dụng BPKCTT là thiết yếu nhờ khả năng thi hành các biện pháp này ở bất cứ đâu và
bất cứ lúc nào trên lãnh thổ của nước có TA được yêu cầu [152, tr. 108]. Đặc biệt tại
một số quốc gia chưa có cơ chế cho phép TA hỗ trợ thi hành BPKCTT mà HĐTT
nước ngoài ban hành [160, tr. 395].
Không chỉ vậy, theo nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong pháp luật
quốc tế thì các phán quyết, quyết định của TTTM nước ngoài chỉ có hiệu lực thi hành
trong phạm vi lãnh thổ của nước mà phán quyết, quyết định đó được tuyên. Bởi vậy,
muốn thi hành một phán quyết, quyết định TTTM ở nước khác thì về mặt nguyên tắc
phải được cơ quan có thẩm quyền (tức Tòa án) của nước đó ra quyết định công nhận
và cho thi hành trên lãnh thổ nước đó [84]; [85]. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia tố tụng trọng tài, đặc biệt là trong trường hợp bên thua
kiện không tự nguyện thi hành thì PQTT nước ngoài cần có sự hỗ trợ của TA để được
thừa nhận về tính cưỡng chế thi hành thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành.
Ngoài ra, về mặt pháp lý, chỉ có TA mới có quyền lực này, tức là chỉ TA mới có thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM và quyền lực này do pháp luật quy định.
Thứ hai, PQTT không có hiệu lực đối với bên thứ ba. Khác với TA, TTTM chỉ
được tiến hành khi có thỏa thuận của các bên (tức là khi có thỏa thuận trọng tài). Theo
đó, HĐTT chỉ được thành lập và có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp cụ thể nào
48
đó khi các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận lựa chọn TTTM để giải quyết. Điều đó
không chỉ có nghĩa là các bên đồng thuận về việc đưa tranh chấp phát sinh giữa họ ra
giải quyết bằng TTTM mà còn có nghĩa là mỗi HĐTT chỉ được thành lập đối với mỗi
từng vụ kiện cụ thể và chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp mà các bên đã thỏa
thuận. Khi giải quyết xong thì HĐTT sẽ tự giải tán. Cũng chính vì vậy, HĐTT sẽ
không có thẩm quyền đối với bên thứ ba không tham gia thỏa thuận trọng tài và các
quyết định hay phán quyết của HĐTT cũng không ràng buộc bên thứ ba này.
Điều này đặc biệt quan trọng khi tài sản liên quan đến vấn đề tranh chấp đang
bị quản lý bởi bên thứ ba, ví dụ như ngân hàng [137, tr. 504]. Trong khi đó, TA là cơ
quan tư pháp công, có thẩm quyền tài phán nhân danh Nhà nước để giải quyết tranh
chấp. Vì vậy, chỉ có TA mới có thẩm quyền ban hành các lệnh, quyết định tạm thời có
hiệu lực hạn chế quyền của người thứ ba [34]. Trong một báo cáo của Tổng thư ký
Liên hợp quốc có chỉ ra rằng:
Các báo cáo từ các luật sư và trung tâm trọng tài cho thấy số lượng các vụ
kiện mà các bên tranh chấp yêu cầu áp dụng BPKCTT đang tăng lên. Xu
hướng này và việc thiếu các chỉ dẫn rõ ràng đối với HĐTT về phạm vi của
BPKCTT có thể được áp dụng và điều kiện để ban hành các biện pháp này
có thể ảnh hưởng đến hiệu quả và hiệu suất của TTTM quốc tế. Việc HĐTT
không chắc chắn về việc ban hành các BPKCTT và do dự trong việc ban
hành các biện pháp cần thiết có thể là nguyên nhân dẫn đến những hậu
qủa không lường trước được ví dụ như các thiệt hại không cần thiết có thể
xảy ra hoặc một bên có thể trốn tránh việc thực thi phán quyết bằng việc
tẩu tán tài sản ngoài tầm kiểm soát của nguyên đơn. Đây cũng là một trong
những trường hợp khiến các bên muốn yêu cầu TA áp dụng BPKCTT thay
vì HĐTT kể cả trong những trường hợp các BPKCTT này được ban hành
bởi HĐTT sẽ thích hợp hơn. [142, đoạn 104]
Thứ ba, HĐTT chỉ được thành lập khi có tranh chấp xảy ra chứ không phải là
một cơ quan thường trực như TA, do đó, có nhiều trường hợp các bên phải cần đến sự
49
hỗ trợ của TA khi HĐTT chưa được thành lập, nhất là trong trường hợp có bất đồng
về sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài, hay cần áp dụng BPKCTT ngay lập tức để bảo
vệ chứng cứ hay ngăn chặn thiệt hại [152, tr. 123]. Ví dụ, theo quy định của LTTTM
thì bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải gửi đơn đến HĐTT. Tuy nhiên lúc làm đơn thì
HĐTT chưa thành lập. Thời gian để thành lập một HĐTT, nếu bị đơn có chiến lược trì
hoãn, có thể tốn tới 1-2 tháng. Thời gian ấy đủ dài để bị đơn, nếu muốn, có thể tẩu tán
đáng kể các tài sản tranh chấp. Chính vì vậy, đối với việc áp dụng BPKCTT trong tố
tụng trọng tài, pháp luật các nước thường có quy định cho phép một bên có quyền yêu
cầu TA áp dụng một hoặc một số BPKCTT sau khi đã nộp đơn khởi kiện ra TTTM để
ngăn chặn thiệt hại ngay lập tức [157, tr. 108].
Thứ tƣ, thẩm quyền của HĐTT theo pháp luật tại nước nơi có địa điểm giải
quyết tranh chấp bằng TTTM vẫn có những hạn chế nhất định. Ví dụ, HĐTT không có
thẩm quyền áp dụng các BPKCTT hoặc chỉ có TA mới có thẩm quyền áp dụng một số
BPKCTT cụ thể. Trước đây theo PLTTTM, HĐTT cũng không có thẩm quyền áp
dụng BPKCTT và các bên tham gia tố tụng trọng tài chỉ có thể yêu cầu TA hỗ trợ áp
dụng BPKCTT. Tương tự, theo pháp luật tố tụng của Hy Lạp và Ý, TTV không có
thẩm quyền ban hành, sửa đổi hay hay thu hồi các BPKCTT [176, Section 818]. Một
số quốc gia khác cũng có quy định tương tự là Trung Quốc, Quebec và Argentina
[102, tr. 204]. Trong khi đó, ở Anh, chỉ TA mới được phép áp dụng BPKCTT có tên
gọi Mareva (tương tự như biện pháp phong tỏa tài sản, theo đó, tài sản của bị đơn sẽ bị
“đóng băng” để tránh bị tẩu tán trước khi bản án được tuyên) và Anton Piller (là biện
pháp cho phép bên yêu cầu được đến cơ sở của Bị đơn để tìm, kiểm tra và/ hoặc lấy
các chứng cứ liên quan đến khiếu nại của bên yêu cầu) [99].
Thứ năm, việc TA hỗ trợ tư pháp đối với TTTM là cần thiết để đảm bảo công
lý, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. Cụ thể, PQTT là chung thẩm và
việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM mặc dù được tiến hành theo thỏa thuận của các
bên nhưng vẫn chịu sự điều chỉnh của pháp luật TTTM, mà thường là pháp luật của
nước nơi có địa điểm giải quyết tranh chấp bằng TTTM. Khác với các phương thức
50
giải quyết tranh chấp lựa chọn khác như hòa giải hay thương lượng, TTTM là phương
thức giải quyết tranh chấp mang tính tài phán. Phán quyết của HĐTT là sự kết hợp
giữa ý chí, sự thỏa thuận cả các bên và tính tài phán của một tổ chức có thẩm quyền
xét xử. Phán quyết của HĐTT có tính chất ràng buộc pháp lý đối với các bên tranh
chấp như một bản án của TA bởi chính các bên đã thỏa thuận và lựa chọn như vậy khi
tham gia vào thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, theo nhiều quy tắc tố tụng trọng tài thì
PQTT của HĐTT là cuối cùng và không thể bị kháng cáo. Trong khi đó, bản án của
TA lại có thể bị kháng cáo, thậm chí là giám đốc thẩm.
Với nhiệm vụ của một cơ quan tài phán công, TA cũng có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, trong đó bao gồm các bên tham gia TTTM theo
đúng quy định tại Điều 2 Luật Tổ chức TAND 2014. Chính vì vậy, pháp luật TTTM
cũng trao cho TA thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM ở một mức độ nhất định
để đảm bảo rằng việc giải quyết tranh chấp thông qua TTTM sẽ đảm bảo nguyên tắc
xét xử công bằng, phù hợp với các quy định của pháp luật. Ví dụ, trong trường hợp
TTV nhận hối lộ của một bên trong quá trình giải quyết tranh chấp và bị khiếu nại bởi
bên còn lại, TA có thể xem xét và ra quyết định thay thế TTV khác hoặc theo yêu cầu
của một bên hủy PQTT đó để đảm bảo tố tụng trọng tài diễn ra công bằng, khách
quan. Nếu không, sẽ không có cơ chế nào để kiểm soát tính hợp lệ của tố tụng trọng tài
và khó có thể đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi họ đưa ra tranh chấp
ra giải quyết tại TTTM.
Tóm lại, như đã nói ở trên, vì TTTM là một phương thức giải quyết tranh chấp tư
và trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không phải do Nhà nước thành lập nên
tiến trình tố tụng trọng tài cũng có nhiều điểm hạn chế. Vì vậy, chính pháp luật về
trọng tài cũng ghi nhận thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM để đảm bảo
tố tụng trọng tài diễn ra thuận lợi, hiệu quả, phù hợp với các quy định của pháp luật.
Thứ sáu, về phương diện kinh tế, chính sách khuyến khích sử dụng TTTM
đều xuất phát từ nhận thức chung là bảo đảm hệ thống tài phán thương mại thực sự là
51
một trong những yếu tố quan trọng của thị trường và mức độ hiệu quả của nó là biểu
hiện của mức độ hấp dẫn của thị trường [89, tr. 270-276]. Chính vì vậy, việc thực thi
hiệu quả thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM trong nước và nước ngoài
tại Việt Nam sẽ thúc đẩy thị trường thương mại giữa các bên trong nước cũng như đối
với các đối tác nước ngoài, đồng thời tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi để thu
hút đầu tư nước ngoài. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Thứ bảy, về phương diện hợp tác quốc tế, việc hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM, đặc biệt là trong vấn đề công nhận và thi hành thỏa thuận trọng tài, PQTT
cũng là một nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam phải tuân thủ trên cơ sở các điều ước quốc
tế song phương và đa phương đã ký kết. Cụ thể, theo các cam kết khi gia nhập Công
ước New York thì đây là nghĩa vụ được ghi nhận rõ tại Điều I và Điều III của Công
ước, và chỉ khi các PQTT nước ngoài thuộc các trường hợp quy định tại Điều V của
Công ước New York thì mới bị xem là ngoại lệ của nghĩa vụ này, tức là chỉ trong
những trường hợp đó Việt Nam mới được phép từ chối thực hiện nghĩa vụ công nhận
và cho thi hành các PQTT nước ngoài là đối tượng điều chỉnh của Công ước New
York. Ngoài ra việc hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng góp phần tăng cường
sự phối hợp giữa Việt Nam và các quốc gia khác trong việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp, đặc biệt là là thẩm quyền hỗ trợ thi hành PQTT nước ngoài trên cơ sở tương
trợ tư pháp, có đi có lại.
2.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tƣ
pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thƣơng mại
Về nội dung, các quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư háp của TA
đối với TTTM đề cập đến các vấn đề liên quan đến thẩm quyền của TA trong việc hỗ
trợ tư pháp đối với TTTM, các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của TA khi thực thi thẩm
quyền này, các vấn đề về thủ tục để yêu cầu TA hỗ trợ tư pháp đối với TTTM, các vấn
đề về mối quan hệ giữa TA và TTTM liên quan đến hỗ trợ tư pháp; nguyên tắc hỗ trợ,
52
thủ tục hỗ trợ tư pháp v.v… Trong thực tế, pháp luật của các nước chưa có sự thống
nhất trong việc quy định về những vấn đề này. Để có cái nhìn cụ thể về nội dung của
pháp luật trong vấn đề này, Luận án phân tích hai nội dung cụ thể, đó là các quy định
của pháp luật về các yêu cầu thuộc thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM
và các nội dung cụ thể của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM trong các giai
đoạn tố tụng trọng tài.
2.3.1. Các yêu cầu thuộc thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với
Trọng tài Thương mại
Theo quy định của Luật Mẫu UNCITRAL, TA có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
đối với TTTM trong các trường hợp sau [187, tr. 22-23]: Chỉ định, thay đổi hoặc chấm
dứt nhiệm vụ của TTV (Điều 11 về chỉ định TTV; Điều 13 về thay thế TTV; Điều 14
về trường hợp TTV không thể tham gia giải quyết tranh chấp); Xem xét lại quyết định
về thẩm quyền của HĐTT (Điều 16) và hủy PQTT (Điều 34); Thu thập chứng cứ
(Điều 27); Công nhận và thi hành thỏa thuận trọng tài (Điều 8); Áp dụng BPKCTT
(Điều 9 và Điều 17 J); Công nhận và cho thi hành BPKCTT do HĐTT ban hành (Điều
17 H và Điều 17 I); Và công nhận và cho thi hành PQTT (Điều 35 và 36).
Liên quan đến những yêu cầu trên, vẫn chưa có sự thống nhất khi một số ý kiến
cho rằng việc TA xem xét lại quyết định về thẩm quyền của HĐTT (Điều 16) và hủy
PQTT (Điều 34) thuộc thẩm quyền giám sát của TA hơn là thẩm quyền hỗ trợ đối với
TTTM. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng bốn mục tiêu cơ bản của Luật Mẫu UNCITRAL là
tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên, giảm sự tham gia của TA, tăng cường thẩm
quyền của HĐTT và đối xử công bằng trong tố tụng trọng tài [204, tr. 137-180]. Xem
xét Điều 5 của Luật Mẫu UNCITRAL có thể thấy rằng quy định tại Điều 5 giới hạn
các trường hợp mà TA có thể can thiệp vào hoạt động của TTTM, theo đó, “đối với
những vấn đề do Luật này điều chỉnh, không có Toà án nào sẽ can thiệp vào trừ khi
những trường hợp được Luật này qui định.”. Theo NCS, mặc dù cách quy định như
vậy có thể tạo cảm giác rằng việc tham gia của TA mang tính tiêu cực và cần phải
được hạn chế tối đa, quy định này không có nghĩa là ngăn cấm vai trò thích hợp của
53
TA trong trường hợp cần thiết. Ngược lại, quy định này chỉ yêu cầu rằng các trường
hợp mà TA có thể can thiệp vào tố tụng trọng tài phải được nêu trong Luật Mẫu. Vì
vậy, hiệu lực của nó sẽ loại trừ bất kỳ thẩm quyền chung hay thẩm quyền theo lãnh thổ
nào của TA quốc gia theo hệ thống pháp luật trong nước mà không được đề cập đến
trong Luật Mẫu, đảm bảo sự hỗ trợ tư pháp hay giám sát của TA đều đem lại lợi ích
cho TTTM [180].
Chính vậy, trong quá trình TA quốc gia xem xét yêu cầu của một bên liên quan
đến khiếu nại đối với quyết định về thẩm quyền của HĐTT hay yêu cầu hủy một
PQTT thì về một số phương diện nhất định, TA cũng có thể thực hiện thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp đối với TTTM vì rõ ràng, trong trường hợp TA bác bỏ khiếu nại hoặc yêu
cầu hủy PQTT đó thì TA được xem là đang đảm bảo hiệu lực thi hành của thỏa thuận
trọng tài và PQTT [109, tr. 565, 576–77]. Trên thực tế, các nước có quy định không
thống nhất về vấn đề này. Một số nước lại có quy định cho phép hủy PQTT dựa trên
các căn cứ khác ngoài các căn cứ được quy định trong Luật Mẫu UNCITRAL. Tuy
nhiên, xu hướng xét xử chung hiện nay của các quốc gia trên thế giới là càng ngày
càng giới hạn các căn cứ để hủy PQTT theo tinh thần của Luật Mẫu UNCITRAL,
không cho phép xem xét lại nội dung phán quyết và các nhận định mà HĐTT dựa vào
đó để đưa ra phán quyết [102, tr. 331]. Từ đó, khuyến khích TA thực hiện thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp đối với TTTM thông qua việc công nhận khả năng thi hành đương
nhiên của PQTT trong nước.
Tương tự, Công ước New York cũng quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA trong việc công nhận khả năng thi hành đương nhiên (presumptive
enforceability) của PQTT nước ngoài. Cụ thể, Công ước New York đặt ra một nghĩa
vụ bắt buộc đối với các quốc gia thành viên là phải công nhận và cho thi hành PQTT
nước ngoài. Theo đó, “Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận các PQTT có giá trị
ràng buộc và thi hành chúng theo quy tắc về thủ tục của lãnh thổ nơi phán quyết sẽ
được thi hành […]” [172, Điều III]. Đồng thời, việc công nhận và cho thi hành sẽ chỉ
bị từ chối chỉ trong một số trường hợp ngoại lệ tại Điều V của Công ước. Đây được
54
xem là một trong những quy định cốt yếu của Công ước New York, đảm bảo mục đích
khi soạn thảo Công ước là tạo nên một cơ chế “ủng hộ việc công nhận” (“pro-
enforcement”) đối với PQTT nước ngoài [101, đoạn 2714–17] để ủng hộ hoạt động
của TTTM và khả năng thi hành của PQTT [130]; [150]. Luật Mẫu UNCITRAL cũng
tiếp thu cách tiếp cận này của Công ước New York và có quy định tương tự tại Điều
35 và 36. Cụ thể, các PQTT, bất kể được tuyên ở đâu đều sẽ được công nhận có tính
ràng buộc và khi có đơn yêu cầu được lập thành văn bản gửi đến toà án có thẩm quyền
[185, Điều 35] và việc công nhận hay thi hành PQTT, bất kể PQTT này được tuyên ở
nước nào, chỉ có thể bị từ chối các trong trường hợp đã quy định tại Điều 36 của Luật
Mẫu UNCITRAL [189, Điều 36].
Một trong những TTV nổi tiếng thế giới, đồng thời là tác giả của nhiều ấn
phẩm về TTTM là Gary B. Born cũng cho rằng về bản chất, việc giám sát hay hỗ trợ
tư pháp đều nhằm mục đích khuyến khích cho quá trình tố tụng trọng tài [102, tr. 147-
176]. Trên cơ sở đó, khó có thể phân định một cách rạch ròi đâu là thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp và đâu là thẩm quyền giám sát đối với TTTM mà cần phải căn cứ vào mục
đích áp dụng và cách thức TA thực thi thẩm quyền đó để xác định khi nào TA đang
thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của mình. Do vậy, nội dung của thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM theo tinh thần của Luật Mẫu UNCITRAL và Công
ước New York sẽ bao gồm tất cả các thẩm quyền tư pháp của TA đối với TTTTM
nhằm đảm bảo khuyến khích quá trình tố tụng trọng tài và đảm bảo hiệu lực thi hành
của PQTT, cụ thể là bảy thẩm quyền sau:
(i) Thi hành thỏa thuận trọng tài;
(ii) Chỉ định hoặc thay thế TTV;
(iii) Áp dụng các BPKCTT;
(iv) Thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng;
(v) Các thẩm quyền hỗ trợ tư pháp khác trong quá trình tố tụng trọng tài theo
pháp luật quốc gia;
(vi) Công nhận khả năng thi hành đương nhiên của PQTT trong nước thông
55
qua việc chỉ xem xét hủy PQTT dựa trên các căn cứ được quy định và cho phép
HĐTT sửa chữa, bổ sung PQTT hoặc xét xử lại;
(vii) Công nhận và thi hành PQTT nước ngoài thông qua việc chỉ xem xét từ
chối công nhận và thi hành PQTT nước ngoài dựa trên các căn cứ được quy định và
công nhận và cho thi hành một phần PQTT nước ngoài
Tại Việt Nam, Điều 414 BLTTDS 2015 quy định rõ những việc dân sự liên
quan đến hoạt động TTTM tại Việt Nam mà TA Việt Nam có thẩm quyền giải quyết
bao gồm tám (08) nội dung sau:
a) Chỉ định, thay đổi TTV.
b) Giải quyết khiếu nại đối với quyết định của HĐTT về thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của HĐTT.
c) Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT.
d) Thu thập chứng cứ.
e) Triệu tập người làm chứng.
f) Đăng ký PQTT.
g) Hủy PQTT.
h) Các việc dân sự khác mà pháp luật về TTTM Việt Nam có quy định.
Khoản 2 Điều 7 LTTTM cũng quy định bảy (07) trường hợp mà TA có
thẩm quyền đối với hoạt động của TTTM trên lãnh thổ Việt Nam như từ mục (a)
đến (g) nêu trên. Đáng lưu ý là theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Nghị quyết
01/2014 thì TA Việt Nam còn “có thẩm quyền đối với hoạt động của Trọng tài
nước ngoài theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 2 Điều 7 LTTTM”.
Tức là, chỉ trừ thẩm quyền hủy PQTT và đăng ký PQTT vụ việc thì TA Việt Nam
cũng có các thẩm quyền hỗ trợ tư pháp khác đối với TTTM nước ngoài trên lãnh
thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, để hỗ trợ tư pháp về vấn đề thi hành PQTT nước
ngoài, TA Việt Nam cũng có thẩm quyền xem xét và giải quyết yêu cầu công
nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài ở Việt Nam theo quy định tại khoản 5
Điều 31 BLTTDS 2015 [39]. Ngoài ra, đối với hỗ trợ tư pháp liên quan đến vấn
56
đề thi hành PQTT trong nước thì so với Luật Mẫu UNCITRAL, TA Việt Nam
còn có thêm thẩm quyền hỗ trợ TTTM trong việc đăng ký PQTT vụ việc để hỗ trợ
khả năng thi hành của phán quyết đó như quy định tại Điều 62 LTTTM.
Như vậy, những quy định của pháp luật Việt Nam về nội dung liên quan
đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM, cả Trọng tài
trong nước và Trọng tài nước ngoài, đều khá tương thích với Luật Mẫu
UNCITRAL và Công ước New York. Trong quá trình xây dựng LTTTM, Ban
soạn thảo cũng đã tiếp thu tinh thần của Luật Mẫu UNCITRAL, trong đó có vấn
đề liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM. Đồng thời, vì
Việt Nam đã là thành viên của Công ước New York kể từ năm 1995, nên các quy
định của pháp luật trọng tài Việt Nam cũng phải tuân thủ quy định của Công ước
này. Do đó có thể thấy rằng các nội dung cơ bản liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM trong pháp luật Việt Nam cũng không
có nhiều sự khác biệt so với các quy định của Luật Mẫu UNCITRAL và Công
ước New York như đã phân tích ở trên.
2.3.2. Các nội dung cụ thể của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối
với Trọng tài Thương mại trong các giai đoạn tố tụng trọng tài
Vai trò hỗ trợ của TA đối với TTTM được thể hiện khác nhau tương ứng
với các giai đoạn trong tố tụng trọng tài [89, tr 275]. Do vậy, việc phân loại thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp có thể căn cứ vào quá trình tố tụng trọng tài. Theo đó, thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM sẽ bao gồm các thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp trước khi tố tụng trọng tài bắt đầu (trước khi một bên nộp đơn khởi kiện ra
trọng tài), trong quá trình tố tụng trọng tài, và sau khi kết thúc tố tụng trọng tài
(sau khi HĐTT ban hành phán quyết cuối cùng và chấm dứt tố tụng trọng tài).
2.3.2.1. Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM ở giai đoạn
trước khi bắt đầu và trong quá trình tố tụng trọng tài
Ở giai đoạn này, TA có các thẩm quyền hỗ trợ tư pháp sau:
(i) Thi hành thỏa thuận trọng tài: TA thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
57
trong việc thi hành thỏa thuận trọng tài thông qua việc trả lại đơn khởi kiện hoặc
đình chỉ giải quyết tranh chấp nếu giữa các bên đã có thỏa thuận trọng tài và
hướng dẫn các bên đưa vụ tranh chấp ra TTTM. Ngoài ra, việc TA giải quyết
khiếu nại đối với quyết định về thẩm quyền của HĐTT theo yêu cầu của một bên
cũng được xem như là một nội dung cơ bản của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA trong giai đoạn này.
Thực tế cho thấy, khi có tranh chấp, một bên có thể khởi kiện tại TA thay
vì kiện ra TTTM như đã thỏa thuận vì bên đó có thể tin rằng việc xét xử tại TA sẽ
đem lại ưu thế lớn hơn cho họ hoặc vì họ muốn phản đối hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài. Công ước New York và Luật Mẫu UNCITRAL đều có quy định rằng
TA các quốc gia thành viên sẽ yêu cầu các bên đưa tranh chấp ra TTTM để giải
quyết trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài [185, khoản 1 Điều 8], [198,
khoản 3 Điều II]. Đây cũng là một trong những thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia như Anh [179, Điều 32],
Đức [174, Mục 1032 (2)] , [148, tr. 362]. Theo đó, khi các bên trong vụ tranh
chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên vẫn đưa tranh chấp đó ra TA giải
quyết, TA có nghĩa vụ trả lại đơn kiện hoặc, trong trường hợp TA đã thụ lý thì TA
sẽ đình chỉ giải quyết tranh chấp và yêu cầu các bên đưa tranh chấp đó ra giải
quyết tại TTTM. TA có thẩm quyền sẽ là tất cả các TA nhận được được đơn kiện
hay nhận được yêu cầu giải quyết vụ tranh chấp đó. Thẩm quyền này của TA có
thể được áp dụng không chỉ giới hạn đối với TTTM trong nước mà sẽ được áp
dụng chung cho cả TTTM nước ngoài. Như vậy, theo Luật Mẫu UNCITRAL và
Công ước New York thì thẩm quyền này là thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA để
giúp cho việc thi hành thỏa thuận trọng tài mà các bên đã xác lập nhưng một bên
lại cố tình không tuân thủ thỏa thuận đó. Nói cách khác, vì HĐTT không có
quyền yêu cầu TA từ chối việc giải quyết một tranh chấp mà các bên đã có thỏa
thuận trọng tài, nên Luật Mẫu UNCITRAL và Công ước New York đã ghi nhận
thẩm quyền của TA trong việc hỗ trợ thực thi thỏa thuận trọng tài khi TA trả lại
58
đơn kiện hoặc đình chỉ giải quyết tranh chấp trong trường hợp đó.
Mặt khác, việc TA xem xét lại quyết định về thẩm quyền của HĐTT cũng
tức là TA đã thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM. Theo nguyên tắc
“thẩm quyền của thẩm quyền” (the competence- competence principle), tức là
HĐTT sẽ có quyền tự xem xét và quyết định trước liệu HĐTT có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu của các bên hay không, thỏa thuận trọng tài có vô hiệu hay không
thể thực hiện được hay không.
Chính vì vậy, các quy định này đặt ra cho TA một nghĩa vụ là thực thi
thẩm quyền tư pháp của mình để hỗ trợ khả năng thi hành của thỏa thuận trọng tài
và đây chỉ là hỗ trợ đối với tố tụng trọng tài, tức là hỗ trơ tư pháp để thỏa thuận
trọng tài được thực thi trên thực tế. Khi đó, một bên có thể yêu cầu TA xem xét
lại quyết định về thẩm quyền này của HĐTT [189, Điều 16.3].
(ii) Chỉ định và thay thế TTV Trọng tài vụ việc: Thông thường, khi các
bên đã đồng ý giải quyết tranh chấp tại trọng tài quy chế thì chính trung tâm trọng
tài mà các bên đã lựa chọn, ví dụ như VIAC, sẽ có thẩm quyền hỗ trợ và quyết
định nếu có bất kỳ khó khăn nào phát sinh từ việc chỉ định và thay thế TTV trong
trường hợp HĐTT chưa được thành lập. Hoặc, các bên sẽ có thỏa thuận về thủ tục
chọn TTV và tự mình chọn TTV để thành lập nên HĐTT vụ việc. Tuy nhiên,
trong trường hợp Trọng tài vụ việc và các bên không có thỏa thuận một trung tâm
hay một cơ quan nào đó hành động như là một cơ quan chỉ định TTV
(“appointing authority”), thì TA có thể hỗ trợ TTTM bằng cách trở thành cơ quan
chỉ định được mặc định (“default appointing authority”) hoặc xem xét và giải
quyết về yêu cầu thay thế TTV của một bên trong một số trường hợp được pháp
luật về TTTM quy định như khi TTV đó vi phạm nghĩa vụ về đạo đức TTV, về
tính độc lập, khách quan hoặc không phù hợp với thỏa thuận của các bên. Thẩm
quyền của TA trong việc chỉ định và thay thế TTV Trọng tài vụ việc là một cơ
chế mặc định để đảm bảo tố tụng trọng tài có thể tiến hành bất kể những khó khăn
trong việc thành lập HĐTT [102, tr. 129].
59
(iii) Áp dụng các BPKCTT: Pháp luật về TTTM của nhiều quốc gia hiện
nay đều cho phép một bên có quyền yêu cầu TA hoặc HĐTT áp dụng các
BPKCTT trong trường hợp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, trên thực tế, kể cả ở những quốc gia mà
HĐTT được phép áp dụng các BPKCTT thì TA vẫn là đóng vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ các bên tranh chấp cũng như hỗ trợ HĐTT để áp dụng và thi
hành quyết định áp dụng BPKCTT của HĐTT. Đây cũng là một trong những
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp quan trọng của TA đối với TTTM. Tuy nhiên, mỗi
quốc gia lại có những quy định khác nhau về nội dung cụ thể của thẩm quyền này,
cụ thể ở ba nội dung chính là phạm vi thẩm quyền của TA trong việc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ BPKCTT để hỗ trợ TTTM, các biện pháp cụ thể mà TA có thể áp
dụng để hỗ trợ TTTM và điều kiện cụ thể để TA áp dụng BPKCTT. Mục 3.1.3 tại
Chương 3 của Luận án sẽ làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam quy định cụ thể
về các nội dung này như thế nào.
(iv) Thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng: Mặc dù pháp luật
về TTTM của các nước đều quy định rằng HĐTT có thẩm quyền thu thập chứng
cứ và triệu tập người làm chứng, trong một số trường hợp việc TA hỗ trợ tư pháp
trong loại việc này là hết sức cần thiết, ví dụ trong trường hợp cần thu thập chứng
cứ từ một bên thứ ba hoặc thậm chí của một bên trong thỏa thuận trọng tài. Đối
với vấn đề này, Điều 27 của Luật Mẫu UNCITRAL quy định rằng “HĐTT hoặc
một bên với sự đồng ý của HĐTT có thể yêu cầu TA có thẩm quyền của nước này
trợ giúp thu thập chứng cứ. Toà án có thể thực hiện yêu cầu đó trong phạm vi
thẩm quyền của mình và theo nguyên tắc về thu thập chứng cứ của TA”. Theo
Luật Mẫu UNCITRAL, các bên không được loại trừ thẩm quyền của TA trong
việc thu thập chứng cứ. Thêm vào đó, yêu cầu hỗ trợ tư pháp này của bên tranh
chấp phải có sự đồng ý của HĐT, và như vậy, thẩm quyền của HĐTT trong việc
thu thập chứng cứ vẫn không hề bị ảnh hưởng [102, tr. 177-193]. Khi thực hiện
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp này, TA có thể tự thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu
60
chứng cứ sẽ được cung cấp trực tiếp cho HĐTT. Trong trường hợp đó, sự tham
gia của TA chỉ giới hạn ở việc đưa ra một yêu cầu bắt buộc để hỗ trợ tố tụng trọng
tài theo yêu cầu của HĐTT [180].
2.3.2.2. Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM ở giai đoạn sau
khi tố tụng trọng tài kết thúc
Ở giai đoạn này, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM liên
quan đến việc thi hành PQTT, bao gồm các nội dung sau:
(i) Công nhận khả năng thi hành đương nhiên của PQTT trong nước: Thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA được thể hiện thông qua việc TA sẽ chỉ xem xét việc hủy
PQTT dựa trên các căn cứ được pháp luật quy định; TA cho phép HĐTT sửa chữa, bổ
sung PQTT và TA thực hiện hỗ trợ tư pháp trong việc đăng ký PQTT vụ việc.
Theo quy định của Luật Mẫu UNCITRAL, PQTT sẽ có hiệu lực pháp lý
đương nhiên. Điều này thể hiện thông qua việc TA các quốc gia cũng như chính
cách hành văn của Điều 34 Luật Mẫu UNCITRAL đều quy định rằng các căn cứ
chi tiết để hủy PQTT chỉ là các trường hợp ngoại lệ để phản đối hiệu lực của PQTT
[101, đoạn 2562–63]. Tức là, PQTT sẽ được thực thi trừ khi phán quyết đó thuộc
các trường hợp ngoại lệ đó. Chính vì vậy, sự hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM
ở giai đoạn này thể hiện ở chỗ TA sẽ công nhận hiệu lực pháp lý đương nhiên của
PQTT thông qua việc chỉ xem xét hủy PQTT khi có yêu cầu của một bên và chỉ
xem xét hủy PQTT theo các quy định của pháp luật. Nhiều nước trên thế giới cũng
có quy định tương tự như vậy, như Nhật Bản [177, Điều 44], Bỉ [171, Điều 1704],
Pháp [175, Điều 1520], Ý [176, Điều 829], Hà Lan [173, Điều 1065], và Mỹ [183,
mục 9]. Do đó, một khi HĐTT đã ban hành phán quyết về tranh chấp thì TA sẽ
không có thẩm quyền giải quyết hay xem xét lại các tranh chấp đó. Kể cả trong
trường hợp khi TA xem xét yêu cầu hủy PQTT trong nước hay công nhận và cho
thi hành phán quyết của TTTM nước ngoài thì TA vẫn phải tuân thủ nguyên tắc
không xem xét lại nội dung vụ việc mà chỉ dựa trên các căn cứ được pháp luật giới
hạn (thường là về mặt tố tụng) để giải quyết các yêu cầu đó.
61
Mặt khác, pháp luật của nhiều quốc gia đều ghi nhận thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA trong việc “chuyển lại” phán quyết cho HĐTT để sửa chữa, bổ sung
sau khi một bên nộp đơn yêu cầu TA hủy PQTT. Cụ thể, Điều 34 Luật Mẫu
UNCITRAL quy định rằng: “TA khi được yêu cầu hủy bỏ một phán quyết, có thể,
nếu thấy thích hợp và theo yêu cầu của một bên, tạm đình chỉ trình tự hủy bỏ
phán quyết trong một thời gian do TA quyết định để HĐTT có cơ hội tiếp tục tiến
hành tố tụng trọng tài hoặc tiến hành các hoạt động khác theo ý kiến cuả HĐTT
sẽ loại trừ cơ sở để hủy bỏ quyết định”. Bằng cách đó, TA có thể loại trừ việc hủy
PQTT một cách không cần thiết, đảm bảo hiệu lực và khả năng thi hành trên thực
tế của PQTT đó, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích của bên được thi hành.
Đối với thẩm quyền của TA trong việc đăng ký PQTT vụ việc, đây là điểm
khác biệt của LTTTM của Việt Nam so với Luật Mẫu UNCITRAL. Về bản chất,
thẩm quyền này cũng nhằm hỗ trợ việc thi hành PQTT. NCS sẽ phân tích cụ thể
nội dung này tại Mục 3.2.1.3 trong Chương 3 của Luận án.
(ii) Công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài: Tương tự như đối với
việc hỗ trợ thi hành PQTT trong nước, TA cũng có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối
với việc công nhận và thi hành PQTT nước ngoài thông qua việc chỉ từ chối thi
hành PQTT nước ngoài trong các trường hợp được pháp luật quy định và cho
phép công nhận và cho thi hành một phần PQTT nước ngoài.
Cụ thể, Công ước New York cũng quy định về thẩm quyền của TA trong
việc công nhận khả năng thi hành đương nhiên (presumptive enforceability) của
PQTT nước ngoài. Theo đó, Công ước New York đặt ra một nghĩa vụ bắt buộc
đối với các quốc gia thành viên là phải công nhận và cho thi hành PQTT nước
ngoài tại Điều III của Công ước và việc công nhận và cho thi hành sẽ chỉ bị từ
chối chỉ trong một số trường hợp ngoại lệ tại Điều V của Công ước. Đây được
xem là một trong những quy định cốt yếu của Công ước New York, đảm bảo mục
đích khi soạn thảo Công ước là tạo nên một cơ chế “ủng hộ việc công nhận”
(“pro- enforcement”) đối với PQTT nước ngoài [101, đoạn 2714–17] để hỗ trợ
62
hoạt động TTTM và khả năng thi hành của PQTT [130]. Luật Mẫu UNCITRAL
cũng tiếp thu cách tiếp cận này của Công ước New York và có quy định tương tự
tại Điều 35 và 36.
Mặt khác, để ủng hộ khả năng thi hành của PQTT, Công ước New York
quy định TA nơi phán quyết được yêu cầu thi hành có thẩm quyền hỗ trợ TTTM
thông qua việc công nhận một phần PQTT. Điều này được quy định tại đoạn
cuối Điều V(1)(c), theo đó, "nếu các quyết định về các vấn đề được yêu cầu giải
quyết bằng trọng tài có thể tách rời khỏi các quyết định về các vấn đề không được
yêu cầu, thì phần của PQTT gồm các quyết định về vấn đề được yêu cầu có thể
được công nhận và cho thi hành". TA sẽ có thẩm quyền cho thi hành một phần
PQTT nếu chỉ có một phần phán quyết nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của
HĐTT, với điều kiện là phần quyết định không thuộc thẩm quyền của HĐTT đó
có thể được tách riêng [139, tr. 93-94]. Việc thi hành một phần PQTT có thể được
thực hiện nếu phần tranh chấp vượt quá thẩm quyền của HĐTT không quá quan
trọng và việc từ chối thi hành gây ra khó khăn cho bên được thi hành [196].
Như vậy, nếu như khi tố tụng trọng tài chưa bắt đầu, TA thực hiện thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp thông qua việc trả lại đơn kiện hoặc đình chỉ giải quyết tranh
chấp khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài, và hướng dẫn các bên đưa tranh chấp
ra giải quyết tại TTTM. Còn trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp tại TTTM,
TA lại có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp cụ thể để hỗ trợ tố tụng trọng tài diễn ra một
cách hiệu quả, thuận lợi như chỉ định và thay thế TTV Trọng tài vụ việc, áp dụng,
thay đổi hay hủy bỏ các BPKCTT, thu thập chứng cứ và triệu tập người làm
chứng v.v…Sau khi PQTT được ban hành và tố tụng trọng tài chấm dứt, thì các
bên sẽ cần TA hỗ trợ trong việc công nhận và cho thi hành PQTT.
Dựa trên các nội dung đã phân tích ở trên, Chương 3 của Luận án sẽ
phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM theo
các nội dung này.
63
Kết luận Chƣơng 2
Mặc dù việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM có những ưu việt nhất định
so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, tố tụng trọng tài vẫn có một số
hạn chế nhất định bởi chính những đặc điểm của phương thức này. Do đó, để tố
tụng trọng tài có thể diễn ra một cách thuận lợi và đảm bảo khả năng thi hành của
PQTT thì cần có sự hỗ trợ tích cực của TA quốc gia. Chính vì vậy pháp luật
TTTM của các nước trên thế giới cũng như pháp luật TTTM Việt Nam đều có
những quy định cụ thể về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với cả TTTM
trong nước và nước ngoài.
Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là quyền lực của TA,
nhân danh Nhà nước trong việc trợ giúp, giúp đỡ TTTM khi các bên hoặc HĐTT
có yêu cầu liên quan đến hoạt động trọng tài theo các thủ tục tố tụng do pháp luật
quy định để một mặt, đảm bảo tố tụng trọng tài diễn ra một cách công bằng và
hiệu quả, mặt khác, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp
khi họ đưa tranh chấp ra giải quyết tại TTTM. Do đó, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA đối với TTTM có những đặc điểm cụ thể, đó là TA chỉ hỗ trợ TTTM khi
có yêu cầu của một trong các bên hoặc của HĐTT để tránh can thiệp vào tố tụng
trọng tài. TA có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM bao gồm TA ở quốc
gia nơi PQTT được tuyên hoặc ở nước nơi được yêu cầu công nhận và cho thi
hành PQTT mới có thẩm quyền hỗ trợ TTTM, hoặc TA nơi có tài sản liên quan
đến việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM. Hỗ trợ tư pháp của TA sẽ đem lại lợi
ích không chỉ đối với hoạt động của TTTM nói chung mà còn bao gồm cả việc hỗ
trợ cho chính các bên tranh chấp và cho cả HĐTT nói riêng. Việc giải quyết các
yêu cầu liên quan đến hỗ trợ tư pháp đối với TTTM cũng thường phải đảm bảo
không ảnh hưởng tới tố tụng trọng tài.
Việc quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là hết
sức cần thiết vì xuất phát từ khái niệm và các đặc trưng cơ bản của pháp luật về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, cần có quy định của pháp luật
64
để ấn định các nguyên tắc, quy tắc, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM. Trong khi đó, xuất phát từ
bản chất của TTTM, việc quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM sẽ khắc phục được các hạn chế của TTTM và mang lại lợi ích về kinh tế
và hợp tác quốc tế của mỗi quốc gia đó, trong đó có Việt Nam. Cụ thể, thứ nhất,
vì bản chất “tư” của trọng tài nên các quyết định, phán quyết của TTTM cần có
sự hỗ trợ tư pháp của TA để có thể đảm bảo hiệu lực cưỡng chế thi hành. Thứ
hai, HĐTT sẽ không có thẩm quyền đối với bên thứ ba không tham gia thỏa
thuận trọng tài nên trong một số trường hợp nhất định, các bên trong TTTM
hoặc HĐTT sẽ cần tới sự hỗ trợ của TA khi cần hạn chế quyền của bên thứ ba.
Thứ ba, có nhiều trường hợp mà các bên phải cần đến sự hỗ trợ của TA khi
HĐTT chưa được thành lập. Thứ tư, thẩm quyền của HĐTT theo pháp luật tại
nước nơi có địa điểm giải quyết tranh chấp bằng TTTM vẫn có những giới hạn
nhất định. Thứ năm, TA với vai trò là cơ quan tư pháp công, có chức năng và
nhiệm vụ hỗ trợ tư pháp đối với TTTM để đảm bảo công lý, quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tranh chấp. Thứ sáu, xem xét dưới phương diện kinh tế
và phương diện hợp tác quốc tế thì việc TA hỗ trợ tư pháp đối với TTTM trong
nước và nước ngoài tại Việt Nam sẽ thúc đẩy thị trường thương mại, tạo ra một
môi trường pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, và góp phần tăng
cường sự phối hợp giữa Việt Nam và các quốc gia khác trong việc thực thi
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp nói chung.
Chính vì vậy, trong Chương 3 của Luận án, NCS sẽ phân tích thực trạng
quy định của pháp luật Việt Nam để chỉ ra những bất cập, cũng như những khó
khăn, yếu kém trong việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam
đối với cả TTTM trong nước và TTTM nước ngoài.
65
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
THẨM QUYỀN HỖ TRỢ TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tƣ
pháp của Tòa án Việt Nam đối với Trọng tài Thƣơng mại trƣớc khi bắt đầu
và trong quá trình tố tụng trọng tài
3.1.1. Về Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án trong việc thi hành thỏa
thuận trọng tài
3.1.1.1. Tòa án trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết tranh chấp nếu
giữa các bên đã có thỏa thuận trọng tài
Tại Việt Nam, thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM liên quan đến
việc thi hành thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 6 LTTTM, theo đó, “trong
trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại TA
thì TA phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận
trọ ng tài không thể thực hiện được”
Về bản chất, quy định này ghi nhận thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM khi một bên khởi kiện ra TA dù đã có thỏa thuận trọng tài. Điểm khác biệt với
Luật Mẫu UNCITRAL và Công ước New York chỉ là ở cách dùng từ ngữ. Cụ thể,
LTTTM sử dụng các từ TA “phải từ chối thụ lý” chứ không sử dụng cách diễn đạt là
TA “phải trả lại đơn kiện cho các bên để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết” hay
“yêu cầu các bên ra trọng tài” như quy định tại Điều 8 của Luật Mẫu UNCITRAL và
Điều II của Công ước New York. Để hướng dẫn áp dụng Điều 6 của LTTTMM, Điều
2 Nghị quyết 01/2014 cũng quy định rằng khi nhận được một đơn khởi kiện, TA cần
kiểm tra, xem xét để xác định trong vụ tranh chấp đó, các bên có thỏa thuận trọng tài
hay không. Nếu đã có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó không vô hiệu thì
TA phải trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
66
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án TA mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thoả thuận
trọng tài và thỏa thuận trọng tài không bị vô hiệu thì TA sẽ ra quyết định đình chỉ việc
giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện cho
người khởi kiện [23, Điểm b khoản 2 Điều 2]. Như vậy, Nghị quyết 01/2014 đã sử
dụng các từ “trả lại đơn khởi kiện” và đình chỉ giải quyết vụ án theo đúng tinh thần của
Công ước New York và Luật Mẫu UNCITRAL. NCS cho rằng việc sử dụng các từ
như Nghị quyết 01/2014 là phù hợp hơn.
Nội dung này và cách sử dụng từ như vậy cũng được áp dụng đối với cả trường
hợp các đương sự đã thỏa thuận lựa chọn TTTM nước ngoài để giải quyết. Theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 472 BLTTDS thì “TA Việt Nam phải trả lại đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu vụ
việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của TA Việt Nam nhưng …a) Các đương sự được
thỏa thuận lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật
áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và đã lựa chọn trọng tài hoặc TA
nước ngoài giải quyết vụ việc đó”.
NCS cho rằng quy định trong LTTTM, BLTTDS và sự hướng dẫn cụ thể trong
Nghị quyết 01/2014 cho thấy pháp luật Việt Nam đã ghi nhận thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM khi một bên không thực thi thỏa thuận trọng tài đã được
xác lập. Quy định này của pháp luật Việt Nam về cơ bản, phù hợp với các quy định
của Luật Mẫu UNCITRAL và Công ước New York 1958. Điểm bất cập là ở chỗ có sự
không thống nhất khi sử dụng thuật ngữ giữa LTTTM với BLTTDS. NCS cho rằng sự
không thống nhất này cần phải được loại bỏ để một mặt, tạo sự thống nhất trong cách
quy định của các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề, mặt khác, để tạo
cách hiểu đúng, thống nhất và tạo sự dễ dàng cho TA khi thực thi quy định của pháp
luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM.
Ngoài ra, cũng cần nhấn mạnh rằng các quy định trên cũng phù hợp với quy
định tại khoản 1 Điều 8 của Luật Mẫu UNCITRAL, theo đó, điều kiện cần để TA thực
hiện thẩm quyền này là có tồn tại một thỏa thuận trọng tài đối với tranh chấp được yêu
67
cầu giải quyết, và điều kiện đủ của nó là TA phải nhận thấy rằng thỏa thuận trọng tài
đó không bị vô hiệu và có thể thực hiện được. Nói cách khác, thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA liên quan đến thi hành thỏa thuận trọng tài chỉ được thực hiện khi thỏa
thuận trọng tài đó không bị vô hiệu và có thể thực hiện được. Nghĩa là, pháp luật Việt
Nam đã lưu ý cả TA, TTV và các bên tranh chấp về hiệu lực của một thỏa thuận trọng
tài và TA chỉ hỗ trợ khi thỏa thuận trọng tài đó hợp pháp, có hiệu lực theo quy định
của pháp luật. NCS cho rằng, bằng quy định như vậy, sự hỗ trợ tư pháp của TA đã tạo
điều kiện để việc giải quyết tranh chấp tại TTTM được thực hiện theo đúng pháp luật,
công bằng và minh bạch. Ngoài ra, thẩm quyền này cũng sẽ gắn với thẩm quyền của
TA trong việc xem xét về hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài.
Việc xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong trường hợp này, theo quy
định của pháp luật TTTM Việt Nam hiện nay, sẽ được thực hiện một cách sơ bộ tại
giai đoạn thụ lý thay vì được giải quyết một cách đầy đủ như một yêu cầu dân sự thông
thường. Tức là TA Việt Nam không cần mở phiên họp để xem xét và ban hành một
quyết định chính thức về hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài mà chỉ cần từ chối
thụ lý và trả lại đơn kiện cho nguyên đơn khi nhận thấy đã có một thỏa thuận trọng tài
có hiệu lực ràng buộc các bên. Ngoài ra, trong trường hợp các bên vừa có thỏa thuận
chọn trọng tài, vừa có thỏa thuận chọn TA và một bên đã khởi kiện ra TTTM để giải
quyết tranh chấp trước khi yêu cầu TA hoặc trước khi TA thụ lý thì TA cũng sẽ ủng hộ
việc giải quyết tại TTTM thông qua việc trả lại đơn khởi kiện hay đình chỉ việc giải
quyết vụ án. Thậm chí, kể cả trong trường hợp TA nhận thấy tranh chấp không thuộc
thẩm quyền của TTTM, không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, nhưng HĐTT đã đang tiến hành giải quyết vụ tranh chấp thì TA vẫn sẽ trả lại
đơn kiện cho người khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án nếu TA
đã thụ lý [23, điểm c khoản 2 Điều 2]. Đây cũng là cách tiếp cận của nhiều nước như
Hồng Kông, Ấn Độ hay Canada [187, tr. 44-45] và là một trong những thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA Việt Nam liên quan đến việc thi hành thỏa thuận trong tài thông
qua việc ưu tiên quyền tự quyết về thẩm quyền của HĐTT (competence- competence)
68
và ủng hộ khả năng thi hành của thỏa thuận trọng tài trong trường hợp thỏa thuận trọng
tài không rõ ràng.
3.1.1.2. Tòa án hướng dẫn các bên đưa vụ tranh chấp ra Trọng tài để
giải quyết
Như đã trình bày ở trên, Công ước New York và Luật Mẫu UNCITRAL còn
quy định một thẩm quyền hỗ trợ tư pháp khác của TA liên quan đến việc thi hành thỏa
thuận trọng tài. Đó là hướng dẫn các bên đưa tranh chấp ra TTTM giải quyết trong
trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài [189, khoản 1 Điều 8], [198, khoản 3 Điều II].
Thẩm quyền này không chỉ thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận về phương thức giải quyết
tranh chấp của các bên mà còn thể hiện sự ủng hộ của TA đối với việc giải quyết tranh
chấp bằng TTTM. Hơn nữa, theo quy định của khoản 3 Điều II Công ước New York
thì đây còn đồng thời là nghĩa vụ bắt buộc của TA quốc gia thành viên, và được TA
của nhiều quốc gia tuân thủ trên thực tế như Canada, Hà Lan, Ý v.v...[190, tr. 57-59].
Tuy nhiên, LTTTM hiện nay không có quy định về thẩm quyền này của TA và
đây là một trong những bất cập của pháp luật Việt Nam hiện nay. Trong khi đó, Luật
tổ chức TAND mặc dù không có quy định cụ thể nhưng có ghi nhận chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của TAND tại Điều 2 có bao gồm “bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật trong xét xử” và “thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của pháp luật”.
Hơn nữa, theo quy định tại khoản 3 Điều 2 của BLTTDS 2015 thì “trường hợp điều
ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác
thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”. Như vậy, các TA Việt Nam có thể
viện dẫn để áp dụng quy định tại khoản 3 Điều II của Công ước New York. Nói cách
khác, các quy định của pháp luật Việt Nam không cấm hay loại trừ thẩm quyền của
TA trong việc hướng dẫn các bên ra TTTM trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận
trọng tài. Ngược lại, TA hoàn toàn có thể dựa vào “độ mở” của các quy định của pháp
luật hiện hành để thực hiện thẩm quyền này.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi nhận thấy thỏa thuận trọng tài liên quan đến tranh
chấp giữa các bên có hiệu lực, TA Việt Nam thường chỉ cần đơn thuần trả lại đơn khởi
69
kiện hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án, mà không có nghĩa vụ hướng dẫn các bên
đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại TTTM. NCS cho rằng, sự thiếu khuyết quy định
này cũng chính là một bấp cập của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA đối với TTTM trong việc thi hành thỏa thuận trọng tài và cũng chính là
nguyên nhân khiến cho các TA Việt Nam không hướng dẫn các bên tranh chấp đưa vụ
việc ra giải quyết tại TTTM.
Mặc dù vậy, trong những năm gần đây cũng đã có một số TA chủ động hướng
dẫn các bên đưa tranh chấp ra giải quyết tranh chấp tại TTTM. Ví dụ, năm 2006, trong
vụ án liên quan đến hợp đồng gia công sản xuất giày giữa một Công ty Việt Nam với
một Công ty của Trung Quốc, các bên đã có thỏa thuận đưa mọi tranh chấp ra VIAC
để giải quyết. Vì vậy, TA sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn
(công ty Trung Quốc) và yêu cầu phản tố của Bị đơn (Công ty Việt Nam). Bị đơn sau
đó đã kháng cáo quyết định trên của TA sơ thẩm. Khi giải quyết yêu cầu này của Bị
đơn, Tòa Phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định rằng vì các
bên đã có thỏa thuận trọng tài nên “yêu cầu này không thuộc thẩm quyền giải quyết
của TA về dân sự [….]. Bị đơn có thể khởi kiện ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam để được xem xét giải quyết” [77], [14, tr. 209].
Tuy nhiên, năm 2012, trong một vụ kiện khác liên quan đến hợp đồng thuê nhà
[66]; [14, tr. 211-212], các bên đã thỏa thuận rằng “…Trong trường hợp các bên
không tự giải quyết được tranh chấp thì việc tranh chấp buộc phải đưa ra Trọng tài
Kinh tế có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp…”. Có
thể thấy, đây là trường hợp thỏa thuận trọng tài không nêu rõ tên tổ chức trọng tài cụ
thể. Theo quy định tại khoản 5 Điều 43 LTTTM thì trong trường hợp này, các bên
phải thỏa thuận lại về tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa
thuận được thì việc lựa chọn tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện
theo yêu cầu của nguyên đơn. Khi giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn, Hội đồng xét
xử của TAND thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định rằng “đây là sự tự nguyện của
đương sự được Nguyên đơn thể hiện bằng văn bản gửi cho Bị đơn xác định rõ Cơ
70
quan TTTM sẽ giải quyết tranh chấp nên Nguyên đơn đã chọn VIAC là nơi giải quyết
tranh chấp”. Như vậy, trong trường hợp này, mặc dù TAND thành phố Hồ Chí Minh
đã hoàn toàn đúng khi hướng dẫn các bên đưa tranh chấp ra trọng tài để giải quyết
nhưng việc TA xác định luôn rằng Nguyên đơn đã chọn “VIAC là nơi giải quyết tranh
chấp” là chưa hoàn toàn chính xác. Hơn nữa, trong quá trình xét xử tại TA, Nguyên
đơn cũng trình bày do Nguyên đơn không hiểu biết về pháp luật nên đã ghi như vậy.
Vì vậy, NCS cho rằng TA có thể giải thích cụ thể hơn về quyền được lựa chọn trung
tâm trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp của Nguyên đơn và đưa ra một số thông
tin về các trung tâm trọng tài để Nguyên đơn tự cân nhắc và lựa chọn.
Hai ví dụ từ thực tiễn này cho thấy cách xử lý của TA Việt Nam không hoàn
toàn giống nhau. Nguyên nhân có sự khác nhau này, theo NCS, là do sự bất cập của
pháp luật liên quan đến thẩm quyền về hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, cụ thể là
chưa có quy định trong việc hướng dẫn các bên đưa vụ tranh chấp ra TTTM để giải
quyết nếu giữa các bên đã có thỏa thuận trọng tài.
3.1.1.3. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định về thẩm quyền của Hội đồng
Trọng tài
Quy định về khiếu nại quyết định của HĐTT về thỏa thuận trọng tài vô hiệu,
thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được và về thẩm quyền của HĐTT được quy
định tại Điều 44 LTTTM và Điều 10 của Nghị quyết 01/2014. Theo đó, trong trường
hợp một hoặc các bên tranh chấp không đồng ý với quyết định về thẩm quyền của
HĐTT, về giá trị hay sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài thì bên đó có quyền yêu cầu
TA có thẩm quyền xem xét lại quyết định này của HĐTT. TA có thẩm quyền đối với
loại việc này là TA thành phố, tỉnh trực thuộc trung ương do các bên lựa chọn hoặc nơi
HĐTT ra quyết định [47, Điều 7]. Như vậy, nếu thẩm quyền trả lại đơn kiện hoặc đình
chỉ giải quyết tranh chấp khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài là thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA trước khi tố tụng trọng tài được bắt đầu, thì thẩm quyền giải quyết khiếu
nại đối với quyết định về thẩm quyền của HĐTT là thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
trong giai đoạn tố tụng trọng tài đã bắt đầu. Một điểm đáng lưu ý khác là theo quy định
71
tại khoản 5 Điều 5 Nghị quyết 01/2014 thì TA Việt Nam cũng có thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp trong việc giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định về thẩm quyền hay về
hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài của HĐTT nước ngoài có địa điểm giải quyết
tranh chấp tại Việt Nam.
Mặt khác, khi so sánh với quy định tương tự tại khoản 3 Điều 16 của Luật Mẫu
UNCITRAL thì theo quy định của Luật Mẫu UNCITRAL, TA chỉ có thể xem xét lại
quyết định của HĐTT về việc HĐTT có thẩm quyền. Trong trường hợp, HĐTT tuyên
rằng HĐTT không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì các bên sẽ không được
quyền yêu cầu TA xem xét lại quyết định này và do đó, đây được coi là một trong
những thẩm quyền giám sát của TA đối với TTTM [187, tr. 81]. Trong khi đó, quy
định tại Điều 44 LTTTM lại cho phép TA Việt Nam được xem xét lại quyết định của
HĐTT mà không phụ thuộc vào nội dung quyết định của HĐTT là HĐTT có thẩm
quyền hay không có thẩm quyền. Chính vì vậy, theo pháp luật Việt Nam thì thẩm
quyền này của TA vừa mang tính hỗ trợ, vừa mang tính giám sát đối với tố tụng
TTTM. Tính hỗ trợ tố tụng trọng tài thể hiện ở việc nếu HĐTT thực sự có thẩm quyền
nhưng vì một lý do nào đó lại tuyên rằng HĐTT không có thẩm quyền giải quyết thì
việc TA xem xét lại quyết định của HĐTT và nhận định rằng HĐTT có thẩm quyền
xem xét vụ việc sẽ tạo cơ sở để các bên tiếp tục giải quyết tại TTTM. Đồng thời, một
bên cũng sẽ không thể viện dẫn rằng HĐTT không có thẩm quyền hay thỏa thuận
trọng tài vô hiệu, không thực hiện được để yêu cầu tuyên hủy PQTT sau này.
Bên cạnh đó, như được nêu tại khoản 5 Điều 44 LTTTM, trong khi TA giải
quyết đơn khiếu nại, HĐTT vẫn có thể tiếp tục giải quyết tranh chấp. Đây là quy định
phù hợp để đảm bảo việc can thiệp của TA vào tố tụng trọng tài (thông qua việc giải
quyết đơn khiếu nại) sẽ không làm ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả giải quyết tranh
chấp của HĐTT. Tuy nhiên, việc này đồng thời cũng có những rủi ro nhất định vì khi
TA nhận định rằng HĐTT không có thẩm quyền thì quá trình tố tụng và kết quả giải
quyết tranh chấp trước đó của HĐTT cũng sẽ không còn ý nghĩa. Chính vì vậy, trên
thực tế, các HĐTT ở Việt Nam thường “đợi” đến khi có kết quả của TA khẳng định
72
rằng HĐTT có thẩm quyền thì mới tiếp tục tiến hành việc giải quyết tranh chấp. NCS
cho rằng đây là hạn chế của TTTM khi thực thi pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM.
Trên thực tiễn, tính đến tháng 9 năm 2015, TA đã tiến hành hỗ trợ giải quyết
trên 10 khiếu nại đối với quyết định của HĐTT trong nước về thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được [6, tr. 7]. Trong khi đó, đối với
việc TA hỗ trợ giải quyết khiếu nại đối với quyết định của HĐTT nước ngoài về vấn
đề này thì chưa có tổng kết cụ thể. Không có bất kỳ báo cáo chính thức nào về số
lượng vụ việc mà TA đã giải quyết liên quan đến vấn đề này được công bố. Đây có thể
coi là một trong những hạn chế trong việc quản lý và thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM, mà cụ thể là đối với loại việc này. Trong khi đó, thực tiễn
xét xử tại các TA đã ghi nhận khá nhiều vụ việc mà thẩm quyền này của TA Việt Nam
đã được vận dụng để giải quyết yêu cầu của các bên đương sự [64], [69]. Điều này cho
thấy đây là thẩm quyền hỗ trợ tư pháp rất quan trọng của TA đối với TTTM và rõ
ràng, quyết định của TA trong trường hợp này chính là quyết định liệu tranh chấp có
được tiếp tục giải quyết bởi HĐTT hay sẽ bị đình chỉ giải quyết theo quy định tại
khoản 6 Điều 44 LTTTM.
Tuy nhiên, trên thực tế theo quy định của LTTTM hiện nay thì thủ tục giải
quyết đối với loại việc này còn chưa hợp lý. Cụ thể, theo quy định tại Điều 44 LTTTM
và Điều 10 của Nghị quyết 01/2014 thì sẽ không có một phiên xử để giải quyết khiếu
nại của các bên mà thẩm phán chỉ “căn cứ vào đơn khiếu nại, tài liệu, chứng cứ kèm
theo đơn và quy định tại các điều 5, 6, 18 LTTTM để xác định khiếu nại về việc không
có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể
thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài là có căn cứ hay không có căn
cứ”. Trong khi đó, thông thường trong vấn đề này, các bên sẽ có bất đồng liên quan
đến quyết định về thẩm quyền của HĐTT (vì nguyên đơn trong vụ kiện trọng tài sẽ
cho rằng HĐTT có thẩm quyền giải quyết còn bị đơn sẽ phản đối thẩm quyền của
HĐTT). Chính vì vậy, việc không quy định rõ là bên còn lại cũng có cơ hội để trình
73
bày, nêu ý kiến liên quan đến yêu cầu của bên đưa ra khiếu nại là không hợp lý. Tương
tự, việc chỉ để cho một thẩm phán duy nhất toàn quyền quyết định về việc chấp nhận
hay không chấp nhận khiếu nại về thẩm quyền của HĐTT và hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài, trong khi đó, quyết định của TA trong loại việc này lại không thể bị kháng
cáo hay xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm cũng là một trong những bất cập của
pháp luật TTTM Việt Nam hiện nay. Với bất cập như vậy, rất dễ dẫn đến việc TA đưa
ra các nhận định sai lầm, độc đoán, kéo theo hệ quả quan trọng là phủ nhận vai trò của
TTTM, tạo điều kiện cho một bên bội ước [14, tr. 546].
3.1.2. Về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án trong việc chỉ định và thay
thế Trọng tài viên Trọng tài vụ việc
Liên quan đến hỗ trợ tư pháp của TA trong việc chỉ định và thay thế TTV
Trọng tài vụ việc, theo quy định của pháp luật TTTM Việt Nam, TA cũng có thẩm
quyền đối với vấn đề này. Đối với Trọng tài vụ việc, theo quy định tại khoản 5 Điều 5
Nghị quyết 01/2014, Điều 41 LTTTM và Điều 42 LTTTM thì TA Việt Nam có thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp đối với cả TTTM trong nước và TTTM nước ngoài liên quan đến
việc chỉ định và thay thế TTV Trọng tài vụ việc. Thẩm quyền của TA trong trường
hợp này được quy định cụ thể với hai nội dung dưới đây.
3.1.2.1. Chỉ định TTV Trọng tài vụ việc
Theo quy định tại Điều 41 LTTTM và Điều 8 của Nghị quyết 01/2014, TA có
thẩm quyền hỗ trợ TTTM liên quan đến chỉ định TTV Trọng tài vụ việc trong ba
trường hợp sau đây:
- Khi bị đơn trong vụ kiện Trọng tài vụ việc không chỉ định TTV (khoản 1 và
2 Điều 41 LTTTM, khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 01/2014); hoặc
- Khi các TTV trong vụ kiện Trọng tài vụ việc không bầu được Chủ tịch
HĐTT (khoản 3 Điều 41 LTTTM) hoặc
- Khi các bên trong vụ kiện Trọng tài vụ việc không lựa chọn được TTV duy
nhất (khoản 4 Điều 41 LTTTM).
Ba trường hợp này cho thấy LTTTM đã dự liệu trước những trường hợp mà
74
các bên, Bị đơn và thậm chí là các TTV đã không hoặc không thể hoàn thành nghĩa vụ
chỉ định TTV theo quy định của pháp luật. Theo đó, để vụ tranh chấp có thể được giải
quyết một cách thuận lợi và hiệu quả tại Trọng tài vụ việc, pháp luật đã ghi nhận thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong các trường hợp này. Quy định này của LTTTM và
Nghị quyết 01/2014 đã tạo thuận lợi cho tiến trình giải quyết tranh chấp tại Trọng tài
vụ việc và đây cũng là điểm mạnh của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM.
Điểm a, khoản 2 Điều 7 LTTTM cũng quy định, TA có thẩm quyền chỉ định
TTV trong trường hợp này là TA nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hoặc
nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Trường hợp bị đơn có nơi cư trú
hoặc trụ sở ở nước ngoài thì TA có thẩm quyền là TA nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở
của nguyên đơn.
Trong thực tiễn thực thi pháp luật, bằng cách chỉ định TTV trong các trường
hợp nêu trên, TA đã thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM để giúp
việc tiến hành tố tụng trọng tài diễn ra hiệu quả, thuận lợi. Rõ ràng, nếu TA không
có thẩm quyền như là một cơ quan chỉ định TTV trong các trường hợp đó, tố tụng
trọng tài sẽ không thể tiếp tục tiến hành và thỏa thuận trọng tài nói chung cũng như
việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Trọng tài vụ việc nói riêng sẽ không thể
thực hiện được trên thực tế.
Quy định này cũng phù hợp với quy định của Luật Mẫu UNCITRAL. Ví dụ,
theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Luật Mẫu UNCITRAL thì trong trường hợp HĐTT
gồm 3 TTV và một bên không chỉ định được TTV của mình hoặc hai TTV đã được
chọn không bầu được TTV thứ ba thì TA của nước nơi tiến hành giải quyết tranh chấp
bằng TTTM có thẩm quyền chỉ định TTV theo yêu cầu của một bên. Khoản 4 Điều 11
Luật Mẫu UNCITRAL cũng nhấn mạnh rằng “bất cứ bên nào cũng có thể yêu cầu TA
[…]tiến hành các biện pháp cần thiết […] nếu (a) Một bên không thực hiện như yêu
cầu theo cách thức đó, hoặc (b) Các bên hoặc hai TTV không thể đạt được sự thoả
thuận của mình theo trình tự đó, hoặc (c) Bên thứ ba, bao gồm tổ chức, không tiến
75
hành chức năng được ủy thác theo trình tự đó”.
Thẩm quyền của TA trong việc chỉ định TTV Trọng tài vụ việc là một cơ chế
mặc định để đảm bảo tố tụng trọng tài có thể tiến hành bất kể những khó khăn trong
việc thành lập HĐTT [102, tr. 129]. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định rằng việc chỉ
định TTV không được tiến hành một cách tùy tiện mà phải cân nhắc các yếu tố: (i)
Yêu cầu về TTV theo thỏa thuận của các bên; (ii) Tính độc lập khách quan của TTV
và (iii) Có nên chỉ định TTV có quốc tịch khác với quốc tịch của các bên hay không
[189, Khoản 5 Điều 11].
Pháp luật Việt Nam cũng có quy định cụ thể về các căn cứ mà TA cần xem xét
khi tiến hành chỉ định TTV trong các trường hợp nêu trên. Cụ thể là về tiêu chuẩn
TTV, quyền và nghĩa vụ TTV, danh sách các TTV của các trung tâm TTTM tại Việt
Nam, và các tài liệu kèm theo đơn yêu cầu chỉ định TTV (ví dụ, để cân nhắc về tính
chất vụ việc, tiêu chí lựa chọn TTV của các bên (nếu có) v.v.... Ví dụ, TAND TP Hồ
Chí Minh đã ban hành Quyết định số 1112/2015/QĐ-CĐTTV ngày 30/09/2015 để hỗ
trợ chỉ định TTV duy nhất theo yêu cầu của Nguyên đơn là Công ty DWP trên cơ sở
Điều 41 LTTTM. Theo Quyết định này, một trong những TTV có tên trong danh sách
của VIAC đã được chỉ định làm TTV duy nhất để giải quyết vụ tranh chấp giữa các
bên. Quyết định cũng nêu rõ “2. Ông Đ. có tên nêu trên chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định và có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật TTTM. 3. Quyết
định này có hiệu lực thi hành ngay, các bên, HĐTT, TTV không có quyền khiếu nại,
kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị.” Quyết định nêu trên của
TAND thành phố Hồ Chí Minh được lập theo đúng Mẫu số 01 được ban hành kèm
theo Nghị quyết 01/2014.
Tuy nhiên, bất cập là ở chỗ với mẫu Quyết định đó cũng như quy định tại Nghị
quyết 01/2014 thì còn nhiều vấn đề chưa rõ, chưa cụ thể như là, TA sẽ giải quyết và
xem xét như thế nào khi tiến hành chỉ định TTV này? Thông thường, đối với trọng tài
quy chế như VIAC thì khi được chỉ định, các TTV còn phải đưa ra một bản tuyên bố
về tính độc lập, khách quan của mình, thông báo về các tình tiết có thể dẫn đến mâu
76
thuẫn về mặt lợi ích với các bên tranh chấp cho dù TTV đó là do các bên chỉ định hay
do Chủ tịch của trung tâm trọng tài chỉ định theo quy tắc của trung tâm đó. Chỉ sau khi
có bản tuyên bố này, Trung tâm trọng tài mới xem xét và ra thông báo xác nhận về
việc thành lập HĐTT. NCS cho rằng điều này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều
42 LTTTM về việc TTV có nghĩa vụ thông báo bằng văn bản cho trung tâm trọng tài
hoặc HĐTT và các bên biết về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan,
vô tư của mình sau khi được chọn hoặc chỉ định. TTV cũng sẽ được biết về quy chế
trả thù lao và quy chế về việc thanh toán các chi phí đi lại và ăn ở theo quy định của
VIAC. Trong khi đó, nếu như theo quy định hiện nay của Nghị quyết 01/2014, thì
chưa rõ liệu trước khi ra Quyết định về việc chỉ định TTV, các TA có yêu cầu TTV đó
tuyên bố về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính độc lập khách quan của mình
hay không; có đủ thời gian và năng lực thích hợp để giải quyết vụ tranh chấp đó
không; hay TTV có chấp thuận về các vấn đề khác liên quan đến thù lao và chi phí của
mình hay không. Việc chưa có quy định rõ ràng như vậy chính là một bất cập trong
quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với việc chỉ định
TTV, và bất cập này có thể dẫn tới tình trạng TTV sau đó từ chối giải quyết vụ việc do
vấn đề về thù lao hoặc mâu thuẫn lợi ích với các bên theo quy định của Điều 21 và
Điều 42 LTTTM. Trong trường hợp như vậy, các bên sẽ lại phải yêu cầu TA chỉ định
lại TTV một lần nữa. Điều này có thể dẫn đến việc trì hoãn tố tụng trọng tài, làm mất
đi tính nhanh chóng và hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM.
3.1.2.2. Thay thế TTV Trọng tài vụ việc
Theo quy định của LTTTM, các bên tranh chấp có thể yêu cầu thay thế TTV
nếu nhận thấy TTV đó vi phạm nghĩa vụ về đạo đức TTV, về tính độc lập, khách quan
hoặc không phù hợp với thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp đó, Luật Mẫu
UNCITRAL quy định TA sẽ có thẩm quyền tư pháp để hỗ trợ các bên trong việc xem
xét yêu cầu thay thế TTV [189, khoản 3 Điều 13]. Phù hợp với quy định nêu trên của
Luật Mẫu, LTTTM cũng có quy định tương tự khoản 4 Điều 42 LTTTM cũng cho
phép TA nơi HĐTT giải quyết tranh chấp [47, khoản 2 Điều 7] có thẩm quyền hỗ trợ
77
tư pháp liên quan đến việc thay đổi TTV trong hai trường hợp sau:
- Khi các thành viên còn lại của HĐTT vụ việc không quyết định được việc thay
đổi TTV vì lý do tính khách quan và vô tư của TTV đó hoặc
- Khi tất cả các TTV từ chối giải quyết tranh chấp hoặc TTV duy nhất từ
chối giải quyết tranh chấp và một bên yêu cầu TA quyết định thay đổi các TTV
hoặc TTV duy nhất.
Như vậy, TA Việt Nam chỉ có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp liên quan đến việc
thay thế TTV đối với Trọng tài vụ việc. Bởi vì trong trường hợp trọng tài quy chế,
Chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ là người có thẩm quyền quyết định trong các trường
hợp trên. Trong khi đó, so sánh với quy định tại khoản 3 Điều 13 Luật Mẫu
UNCITRAL thì thẩm quyền của TA trong việc này rộng hơn vì Luật Mẫu
UNCITRAL cho phép TA có thẩm quyền xem xét yêu cầu thay thế TTV ở cả
Trọng tài vụ việc (khi mà các bên không có thỏa thuận cụ thể về thủ tục thay thế
TTV) và cả trọng tài quy chế (khi mà các bên đã có thỏa thuận về cơ chế để giải
quyết vấn đề này). Nói cách khác, Luật Mẫu UNCITRAL ghi nhận quyền luật định
của các bên tranh chấp trong việc yêu cầu TA hỗ trợ giải quyết việc thay thế TTV
khi thủ tục thay thế TTV mà các bên đã thỏa thuận không đạt được kết quả. Pháp
luật của nhiều nước cũng có quy định tương tự như Luật Mẫu UNCITRAL, ví dụ như Đức [174, Điều 1037], Bỉ [171, Điều 1691], Hà Lan [173, Điều 1035] v.v…v.
Như vậy, pháp luật Việt Nam chỉ quy định thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong
việc thay thế TTV đối với Trọng tài vụ việc và theo NCS, đây là điểm khác biệt so với
Luật Mẫu UNCITRAL và pháp luật của một số nước khác.
Về căn cứ khi xem xét yêu cầu thay thế TTV, khoản 4 Điều 9 của Nghị quyết
01/2014 cũng quy định rõ, thẩm phán cần phải căn cứ vào tiêu chuẩn TTV, quyền và
nghĩa vụ TTV, danh sách TTV của các trung tâm TTTM tại Việt Nam, các tài liệu
kèm theo đơn yêu cầu thay thế TTV (trong đó nêu rõ căn cứ và lý do thay đổi TTV
theo khoản 1 Điều 9 của Nghị quyết 01/2014).
Thực tiễn áp dụng quy định nêu trên tại Việt Nam cho thấy, việc giải quyết
78
tranh chấp bằng Trọng tài vụ việc ở Việt Nam chưa phổ biến nên hiện nay chưa có báo
cáo chính thức nào về số lượng vụ việc TA hỗ trợ chỉ định hay thay thế TTV Trọng tài
vụ việc. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 5 của Nghị
Quyết 01/2014 về việc xác định thẩm quyền của TA đối với hoạt động của TTTM
nước ngoài tại Việt Nam [22, khoản 5 Điều 5] thì TA Việt Nam cũng sẽ có thẩm
quyền chỉ định và thay thế TTV vụ việc được thành lập theo pháp luật nước ngoài
nhưng có địa điểm giải quyết tranh chấp ở trong lãnh thổ Việt Nam. Mặc dù vậy,
trường hợp này khó có thể xảy ra vì thông thường, trong trường hợp Trọng tài vụ việc
có địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam thì đây được xem như là Trọng tài
trong nước vì HĐTT vụ việc này sẽ được thành lập theo pháp luật TTTM Việt Nam.
Đây không chỉ là điểm khó và mà còn cho thấy quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này còn hạn chế, dẫn đến khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật của Việt
Nam về vấn đề này.
3.1.3. Về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án trong việc áp dụng, thay đổi
hay hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Tại Việt Nam, quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM
liên quan đến việc việc áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ BPKCTT đã được ghi nhận từ
PLTTTM. Các quy định của PLTTTM sau đó đã được kế thừa tại chương VII của
LTTTM và được hướng dẫn rõ hơn tại Điều 12 Nghị quyết 01/2014, theo đó, bao gồm
bốn nội dung dưới đây
3.1.3.1. Phạm vi của thẩm quyền áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ các biện pháp
khẩn cấp tạm thời của Tòa án để hỗ trợ tư pháp đối với Trọng tài Thương mại
Thứ nhất, TA Việt Nam có thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hay hủy bỏ các
BPKCTT để hỗ trợ hoạt động TTTM trong nước và cả TTTM nước ngoài có địa điểm
giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Cụ thể, khoản 5 Điều 5 Nghị quyết 01/2014 quy
định TA có thẩm quyền hỗ trợ hoạt động của TTTM nước ngoài tiến hành việc giải
quyết tranh chấp tại Việt Nam, bao gồm cả việc áp dụng BPKCTT khi có yêu cầu của
đương sự. Ví dụ, các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài
79
Quốc tế Singapore (SIAC) nhưng địa điểm giải quyết tranh chấp là Hà Nội. Các bên
tranh chấp có thể yêu cầu TA có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng BPKCTT để bảo
toàn chứng cứ hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. NCS cho rằng quy
định này là phù hợp vì nó khắc phục bất cập của pháp luật Việt Nam trong việc xác
định “quốc tịch” của vụ kiện trọng tài dựa trên yếu tố nơi thành lập của trung tâm
trọng tài thay vì dựa vào địa điểm giải quyết tranh chấp như thông lệ hiện nay. Thậm
chí có ý kiến còn cho rằng, căn cứ vào khoản 1 Điều 48 LTTTM thì TA có thẩm
quyền ra Quyết định áp dụng BPKCTT để hỗ trợ hoạt động của TTTM nước ngoài, kể
cả TTTM nước ngoài có hoặc không có địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam
[54]. Tuy nhiên, đây là vấn đề chưa rõ ràng và cũng chưa có bất kỳ hướng dẫn hay giải
thích chính thức nào.
Thực tiễn thi hành tại Việt Nam các quy định của pháp luật liên quan đến thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong việc áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng tài cho
thấy TA đã ban hành 15 quyết định áp dụng BPKCTT để đảm bảo quyền, lợi ích của
các bên khi đưa tranh chấp ra TTTM giải quyết tại các trung tâm trọng tài ở Việt Nam
[83]. Việc TA hỗ trợ áp dụng các BPKCTT trong quá trình tố tụng trọng tài này có ý
nghĩa quan trọng đối với TTTM, góp phần làm tăng thêm tính hấp dẫn và tính hiệu
quả của phương thức TTTM và đảm bảo khả năng thi hành PQTT. Ngoài ra, việc thực
thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM như vậy cũng thúc đẩy quan hệ
giữa TA với TTTM theo hướng tích cực.
Tuy nhiên, đối với việc áp dụng BPKCTT để hỗ trợ hoạt động TTTM nước
ngoài có địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam thì cho đến nay, tức là hơn 07
năm kể từ thời điểm Nghị quyết 01/2014 được ban hành, vẫn chưa có báo cáo hay số
liệu chính thức nào của TA về việc thực thi các quy định này trong thực tiễn. Đồng
thời, cũng chưa có hướng dẫn cụ thể nào đối với thủ tục, trình tự tiến hành loại việc
này được ban hành. Như vậy, mặc dù quy định trên là một trong những điểm tiến bộ
của Nghị quyết 01/2014 nhưng thực tế thì quy định này vẫn chỉ hiện hữu trên giấy tờ.
Vấn đề đặt ra là tại sao lại như vậy? NCS cho rằng nguyên nhân của tình trạng này có
80
thể do các bên ít khi lựa chọn TTTM nước ngoài nhưng địa điểm giải quyết tranh chấp
lại là tại Việt Nam hoặc do TA chưa thực sự ủng hộ hoạt động của TTTM nước ngoài
ở Việt Nam. NCS sẽ phân tích vấn đề này kỹ hơn tại Chương 4 của Luận án.
Thứ hai, về thời điểm để TA có thể thực thi thẩm quyền hỗ trợ áp dụng
BPKCTT. Theo quy định tại Điều 53.1 LTTTM, quyền yêu cầu TA áp dụng
BPKCTT này của các bên chỉ phát sinh sau khi đã nộp đơn khởi kiện ra TTTM.
Như vậy, theo pháp luật trọng tài Việt Nam hiện hành, sẽ không có thủ tục áp dụng
BPKCTT ở giai đoạn tiền tố tụng ở TA để hỗ trợ tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, TA
sẽ có thẩm quyền hỗ trợ áp dụng BPKCTT kể cả khi HĐTT chưa được thành lập.
NCS cho rằng quy định này phù hợp với thực tiễn giải quyết tranh chấp tại TTTM
và phù hợp với pháp luật quốc tế.
Pháp luật của nhiều quốc gia cũng như Luật Mẫu UNCITRAL đều ghi nhận
TA có thẩm quyền áp dụng BPKCTT kể cả trước và sau khi HĐTT được thành lập.
Thông thường, một khi tranh chấp phát sinh thì cũng có thể sẽ dẫn đến như cầu áp
dụng BPKCTT, ví dụ để bảo toàn chứng cứ hoặc bảo vệ quyền lợi của một bên
khỏi những thiệt hại không thể khắc phục được. Vì vậy, nếu HĐTT vẫn chưa được
thành lập và một bên có nhu cầu cấp bách phải áp dụng một hoặc nhiều các
BPKCTT, thì việc tham gia hỗ trợ tư pháp của TA trong trường hợp đó sẽ mang lại
lợi ích cho tố tụng trọng tài. Điều này cho thấy, TA đóng vai trò quan trọng trong
việc hỗ trợ HĐTT áp dụng các BPKCTT. Nếu không có sự tham gia của TA trong
trường hợp này, tố tụng TTTM có thể sẽ không thể thực hiện được [194, tr. 15-18].
Tương tự, thẩm quyền áp dụng các BPKCTT của TA kể cả sau khi HĐTT đã được
thành lập cũng là hết sức cần thiết vì có một số biện pháp mà HĐTT không thể áp
dụng, ví dụ như các biện pháp có liên quan đến thứ ba, và chỉ có TA mới có thẩm
quyền để áp dụng các biện pháp này.
Ngoài ra, liên quan đến TA có thẩm quyền hỗ trợ, Điều 7 LTTTM cũng cho
phép các bên có thể thỏa thuận lựa chọn TA cụ thể có thẩm quyền (Điều 7.1 LTTTM).
Trong trường hợp không có thỏa thuận thì TA có thẩm quyền là TAND tỉnh, thành
81
phố trực thuộc trung ương nơi BPKCTT cần được áp dụng (Điều 7.2 và 7.3. LTTTM).
Có thể thấy quy định này của LTTTM hết sức linh hoạt, đã đề cao nguyên tắc tôn
trọng sự thỏa thuận của các bên (party- autonomy), thể hiện sự ủng hộ của Nhà nước
đối với với hoạt động TTTM.
3.1.3.2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể mà Tòa án có thể áp dụng để
hỗ trợ tư pháp đối với Trọng tài Thương mại
Điều 49 LTTTM về thẩm quyền của HĐTT áp dụng BPKCTT liệt kê sáu (06)
BPKCTT là: a) Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; b) Cấm hoặc buộc bất
kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa
các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài; c) Kê biên tài sản đang
tranh chấp; d) Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một
hoặc các bên tranh chấp; đ) Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên; e) Cấm
chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. Như vậy, HĐTT chỉ có
thẩm quyền áp dụng sáu biện pháp đã quy định. Điều này xuất phát từ bản chất của
TTTM là quan hệ hợp đồng và không ràng buộc bên thứ ba.
Khác với HĐTT, với vai trò là cơ quan tư pháp công, TA có thể áp dụng một
trong số các BPKCTT khác được quy định tại Điều 49.2 LTTTM và Đ 114 BLTTDS
2015. Các biện pháp mà TA áp dụng không chỉ giới hạn đối với các bên trong tố tụng
trọng tài mà còn có thể có hiệu lực đối với các bên thứ ba hoặc các biện pháp khác mà
HĐTT không có thẩm quyền quyết định như tạm giữ tàu bay, tàu biển hoặc ngăn chặn
không cho ngân hàng thanh toán thư tín dụng L/C. Cụ thể, theo Điều 49.2 LTTTM và
Điều 114 BLTTDS 2015, TA có thể áp dụng mười một (11) biện pháp sau đây theo
yêu cầu của các bên tranh chấp trong tố tụng trọng tài [71, tr. 77-78]:
i) Kê biên tài sản đang tranh chấp;
ii) Cấm chuyển dịch về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp;
iii) Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
iv) Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác;
v) Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà
82
nước, phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ;
vi) Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ;
vii) Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định;
viii) Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ;
ix) Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu;
x) Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án;
xi) Các BPKCTT khác mà luật có quy định.
Bên cạnh đó, theo khoản 1 Điều 48 của LTTTM về quyền yêu cầu áp dụng
BPKCTT thì các bên có thể thỏa thuận về quyền này. So sánh với pháp luật trọng tài
quốc tế, Điều 17 của Luật Mẫu UNCITRAL chỉ quy định về việc các bên tranh chấp
được phép thỏa thuận về quyền yêu cầu HĐTT áp dụng BPKCTT. Điều 17J của
Luật Mẫu UNCITRAL quy định về quyền áp dụng BPKCTT của TA trong tố tụng
trọng tài khi có yêu cầu của một bên cũng chỉ nhằm “cho các bên tự do tìm kiếm sự
hỗ trợ từ TA nếu điều đó là thích hợp” [187, tr. 94]. Hiện nay, pháp luật Việt Nam
chưa có hướng dẫn và giải thích về điều khoản này. Vì vậy có thể hiểu rằng các bên
có thể thỏa thuận (i) Từ bỏ quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT theo
quy định của pháp luật và/ hoặc (ii) Từ bỏ quyền yêu cầu TA hoặc HĐTT áp dụng
BPKCTT; Và/ hoặc (iii) Giới hạn về thời gian, phạm vi mà một bên được quyền yêu
cầu áp dụng các BPKCTT.
Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, thường là các quốc gia theo hệ
thống thông luật (common law), còn cho phép TA áp dụng biện pháp “cấm khởi kiện”
(Anti-suit Injunctions). Đây là các biện pháp mà TA có thể sử dụng để bảo vệ thẩm
quyền của HĐTT (tức là một bên bị yêu cầu không khởi kiện ở TA vì điều này sẽ vi
phạm thỏa thuận trọng tài) hoặc để ngăn chặn một bên đưa tranh chấp ra TTTM (tức
là một bên bị yêu cầu không tiến hành tố tụng tại trọng tài trong trường hợp TA nhận
thấy thỏa thuận trọng tài vô hiệu). Mục đích của biện pháp này là nhằm ngăn chặn một
bên vi phạm thỏa thuận trọng tài và tránh trường hợp “khởi kiện cùng một vụ tranh
chấp tại TA” (“parallel court proceedings”) vì việc khởi kiện cùng một vụ tranh chấp
83
tại TA sẽ có thể dẫn đến việc có hai quyết định mâu thuẫn nhau về cùng một vấn đề
[111], [98, tr. 407], [164, p. 151]. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp này của TA. NCS cho rằng việc quy định như vậy cũng không
cần thiết vì như đã phân tích tại Mục 3.1.1.1 ở trên, pháp luật Việt Nam đã rất tiến bộ
khi quy định rõ ràng rằng TA sẽ phải trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ vụ kiện và trả
lại đơn cho người yêu cầu trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài.
3.1.3.3. Điều kiện để Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi hỗ trợ tư
pháp đối với Trọng tài Thương mại
LTTTM quy định HĐTT hoặc TA áp dụng BPKCTT khi các bên tranh chấp có
yêu cầu. Tuy nhiên, hiện nay lại chưa có hướng dẫn cụ thể về điều kiện áp dụng
BPKCTT. PLTTTM chỉ quy định bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp cho TA
(i) bản sao đơn kiện ra trọng tài và thỏa thuận trọng tài; (ii) bằng chứng cụ thể về các
chứng cứ cần được bảo toàn, các chứng cứ về việc bị đơn tẩu tán, cất giấu tài sản có
thể làm cho việc thi hành quyết định trọng tài không thể thực hiện được. LTTTM thậm
chí còn chỉ quy định bên yêu cầu phải cung cấp cho HĐTT chứng cứ để chứng minh
cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó, còn đối với “trình tự, thủ tục áp dụng, thay
đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng
BPKCTT của TA sẽ thực hiện theo quy định của BLTTDS” [47, khoản 4 Điều 53].
Vì vậy, thông thường, TA sẽ căn cứ theo các tiêu chí quy định tại BLTTDS để
xem xét có chấp thuận yêu cầu áp dụng BPKCTT của một bên hay không. Theo quy
định của BLTTDS 2015, điều kiện áp dụng BPKCTT trong pháp luật tố tụng dân sự
bao gồm [59, tr. 32-28]:
- Các điều kiện mang tính khách quan: Thứ nhất, quyền và lợi ích liên quan của
bên yêu cầu đang bị xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm và không được vượt quá các
yêu cầu trong tranh chấp đang được giải quyết [50, khoản 1 Điều 111]. Thứ hai, bối
cảnh, tình huống áp dụng BPKCTT phải có tính khẩn cấp [50, khoản 2 Điều 111]. Bên
cạnh các điều kiện khách quan chung còn có các điều kiện khách quan riêng, được áp
dụng cho từng BPKCTT cụ thể. Các điều kiện này có thể về đặc tính tài sản (tài sản
84
đang tranh chấp, tài sản của người có nghĩa vụ, hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ…) hoặc về tác động tiêu cực (hành vi hủy hoại tài sản, hành vi tẩu tán tài
sản, hành vi thay đổi hiện trạng tài sản…), hoặc các yếu tố khác đối với trường hợp cụ
thể áp dụng BPKCTT.
- Các điều kiện mang tính chủ quan: Thứ nhất, bên yêu cầu sẽ phải thực hiện
biện pháp bảo đảm bằng một khoản tiền hoặc các loại tài sản khác có giá trị do TA ấn
định [50, Điều 136]. Thứ hai, để tránh xung đột về thẩm quyền giữa TA và TTTM,
một trong các bên phải chưa có yêu cầu HĐTT, TA khác áp dụng một hoặc một số
BPKCTT [23, Điều 12].
Điểm bất cập trong quy định trên thể hiện ở chỗ, TA và TTTM có những đặc
điểm khác biệt và do đó, không thể áp dụng cùng một tiêu chí, điều kiện như trong tố
tụng dân sự khi giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT để hỗ trợ tư pháp đối với
TTTM. Việc chưa có quy định rõ ràng về điều kiện áp dụng BPKCTT để hỗ trợ tố
tụng TTTM chính là sự thiếu vắng quy định cụ thể, và do đó, đã dẫn đến tình trạng
một số TA áp dụng BPKCTT còn theo cách chủ quan, cảm tính, thậm chí là tùy tiện.
Ví dụ, tại Quyết định số 03/2013/QĐ-BPKCTT ngày 22/02/2013 của TAND
thành phố Hà Nội, Nguyên đơn là công ty Việt Nam trong vụ tranh chấp hợp đồng
mua bán với Bị đơn là một công ty của Hồng Kông, đã có yêu cầu áp dụng BPKCTT
dừng thanh toán qua L/C có số tiền 39.808,87 USD. TA đã cho rằng việc áp dụng
BPKCTT này là cần thiết để đảm bảo cho việc thi hành án. Tương tự, tại Quyết định
số 1254/2013/QĐ-BPKCTT ngày 17/10/2013 của TAND thành phố Hồ Chí Minh
cũng nhận định rằng “xét thấy việc áp dụng BPKCTT tạm thời tạm ngừng thanh toán
cho công ty K. số tiền 16.891.388.828 đồng theo Thư bảo lãnh thực thiện hợp đồng…
và theo Thư bảo lãnh Hoàn trả tiền ứng trước… do ngân hàng X… phát hành là cần
thiết để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự và để đảm bảo thi hành
án” [65]. Đáng nói là trong cả hai trường hợp trên, quyết định của TA sẽ được thi hành
đối với bên có quyền và nghĩa vụ liên quan là các ngân hàng chứ không phải các bị
đơn. Trong các vụ việc này, TA đã áp dụng Điều 116 BLTTDS 2005, tương đương
85
với Điều 132 BLTTDS 2015 là trường hợp BPKCTT do luật khác quy định. Tuy
nhiên, TA không chỉ rõ luật khác ở đây là luật nào. Hơn nữa, theo quyết định của Hội
đồng thẩm phán TANDTC tại án lệ số 13/2017/AL thì L/C và hợp đồng gốc (Hợp
đồng mua bán) độc lập với nhau. Các bên chỉ đang tranh chấp với nhau về hợp đồng
mua bán: “Theo đơn đề nghị mở L/C của Bên mua và nội dung L/C đã phát hành thì
L/C ...là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa…; được chi
phối và áp dụng theo UPC 600. Theo quy định của UPC 600, Ngân hàng E với tư
cách là Ngân hàng phát hành phải thanh toán khi xác định bộ chứng từ xuất trình là
phù hợp tại Ngân hàng” [24]. Vì vậy, việc TA áp dụng BPKCTT tạm ngừng thanh
toán L/C trong khi các bên chỉ có tranh chấp về hợp đồng mua bán là không phù hợp,
không đúng với quy định của pháp luật.
3.1.4. Về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp trong việc thu thập chứng cứ và triệu
tập người làm chứng
Pháp luật TTTM của các nước đều ghi nhận HĐTT có thẩm quyền thu thập
chứng cứ và triệu tập người làm chứng. Trong một số trường hợp, việc TA hỗ trợ tư
pháp đối với loại việc này là hết sức cần thiết, ví dụ trong trường hợp cần thu thập
chứng cứ từ một bên thứ ba hoặc thậm chí của một bên trong thỏa thuận trọng tài.
Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam liên quan đến việc thu thập chứng cứ và
triệu tập người làm chứng được áp dụng đối với cả TTTM trong nước và TTTM nước
ngoài có địa điểm giải quyết tranh chấp trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định tại
khoản 5 Điều 5 Nghị quyết 01/2014. Tuy nhiên, giữa thu thập chứng cứ và triệu tập
người làm chứng là hai nội dung khác nhau nên phần dưới đây sẽ phân tích hai vấn đề
này một cách riêng biệt.
3.1.4.1. Thẩm quyền thu thập chứng
Liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM trong việc thu
thập chứng cứ, khoản 5 Điều 46 LTTTM quy định rõ rằng “Trong trường hợp HĐTT,
một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn
không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền
86
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp”.
Quy định này cho thấy, về điều kiện áp dụng, TA Việt Nam sẽ có thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp liên quan đến việc thu thập chứng cứ theo yêu cầu của
HĐTT hoặc của một hoặc các bên tranh chấp nếu HĐTT, một hoặc các bên đã sử
dụng mọi cách thức và khả năng cho phép để yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cung cấp cho mình tài liệu, chứng cứ nhưng vẫn
không được cung cấp [29, tr. 231]. Theo quy định này, bên yêu cầu TA hỗ trợ thu
thập chứng cứ khi nộp Đơn yêu cầu thì cũng sẽ phải nộp tài liệu, chứng cứ chứng
minh việc HĐTT hoặc bên đó đã tiến hành thu thập chứng cứ nhưng vẫn không
thể tự mình thu thập được. Vậy quy định này của pháp luật Việt Nam có phù hợp
với Luật Mẫu UNCITRAL hay không?
Điều 27 của Luật Mẫu UNCITRAL quy định rằng “HĐTT hoặc một bên
với sự đồng ý của HĐTT có thể yêu cầu toà án có thẩm quyền của nước này trợ
giúp thu thập chứng cứ. Toà án có thể thực hiện yêu cầu đó trong phạm vi thẩm
quyền của mình và theo nguyên tắc về thu thập chứng cứ của TA”. Theo Luật
Mẫu UNCITRAL, các bên không được loại trừ thẩm quyền của TA trong việc thu
thập chứng cứ. Thêm vào đó, yêu cầu hỗ trợ tư pháp này của bên tranh chấp phải
có sự đồng ý của HĐTT, và như vậy, thẩm quyền của HĐTT trong việc thu thập
chứng cứ vẫn không hề bị ảnh hưởng [102, tr. 177-193].
NCS cho rằng quy định của pháp luật Việt Nam về cơ bản là tương thích,
phù hợp với Luật Mẫu UNCITRAL. Tuy nhiên, so sánh với quy định trên của
Luật Mẫu UNCITRAL thì dường như pháp luật Việt Nam đặt ra điều kiện cao
hơn để TA Việt Nam có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM liên quan đến
việc thu thập chứng cứ. Luật Mẫu UNCITRAL không yêu cầu rằng HĐTT hoặc ít
nhất một trong các bên phải tự mình thu thập chứng cứ trước khi yêu cầu TA hỗ
trợ. Theo NCS, quy định này của Luật Mẫu UNCITRAL thông thoáng hơn và
điều này cũng sẽ giúp đẩy nhanh tố tụng trọng tài trong trường hợp việc thu thập
87
chứng cứ bởi HĐTT và các bên chắc chắn sẽ không thể thực hiện được trong khi
có thể ngay lập tức yêu cầu TA hỗ trợ. Ngoài ra, việc Luật Mẫu UNCITRAL quy
định rằng yêu cầu TA hỗ trợ thu thập chứng cứ của một bên phải có sự đồng ý của
HĐTT cũng sẽ giúp tránh các trường hợp một bên lạm dụng quy định này để cố
tình đưa ra các yêu cầu nhằm trì hoãn, cản trở tố tụng trọng tài. Điều này cho
thấy, về tinh thần thì pháp luật Việt Nam tương thích với Luật Mẫu UNCITRAL
nhưng lại có sự chặt chẽ hơn, ít thông thoáng hơn. Và chính sự chặt chẽ có thể
xem là thái quá này là một bất cập của pháp luật Việt Nam.
Về phạm vi áp dụng, theo Điều 1(2) của Luật Mẫu UNCITRAL, quy định
này chỉ áp dụng tại nước nơi giải quyết tranh chấp bằng TTTM. Trên thực tế,
Nhóm Làm việc khi soạn thảo Điều 27 đã cảm thấy rằng cần phải có sự hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM nước ngoài. Vì vậy, họ đã cố gắng dựa trên sự hợp
tác quốc tế giữa các quốc gia trên nguyên tắc có đi có lại để xây dựng Luật Mẫu
UNCITRAL [180, tr. 131]. Tuy nhiên nỗ lực này không thành công [136, tr. 737-
738] và Luật Mẫu UNCITRAL không có quy định về vấn đề này. Nói cách khác,
Điều 27 của Luật Mẫu không cho phép TA hỗ trợ tư pháp cho TTTM ngoài lãnh
thổ của nước nơi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Hầu hết pháp luật của các
nước cũng theo hướng tiếp cận này của Luật Mẫu UNCITRAL.
Trong khi đó, cũng có quốc gia cho phép TA có thẩm quyền thu thập
chứng cứ để hỗ trợ tư pháp cho TTTM nước ngoài, ví dụ Mục 7 của Đạo Luật
Trọng tài Liên Bang của Mỹ (FAA) [164] quy định rõ rằng các TA của Mỹ có
thẩm quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ “để sử dụng trong tố tụng Trọng tài nước
ngoài hoặc trọng tài quốc tế”.
Tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Nghị quyết 01/2014 thì TA
Việt Nam cũng có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp trong việc thu thập chứng cứ đối
với cả TTTM nước ngoài có địa điểm giải quyết tranh chấp ở Việt Nam. Như vậy,
có thể nói, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có quy định tiến bộ, khi
mở rộng thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong việc thu thập chứng cứ đối với
88
cả TTTM trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng pháp luật Việt
Nam hiện nay chỉ mới cho phép áp dụng các quy định này đối với TTTM nước
ngoài giải quyết tranh chấp trên lãnh thổ Việt Nam mà chưa được áp dụng đối với
TTTM nước ngoài có địa điểm giải quyết tranh chấp ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Thực tiễn áp dụng quy định này tại Việt Nam cho thấy, trong thời gian từ
01/01/2011 đến 30/06/2014, chỉ có duy nhất 01 đơn yêu cầu TA thu thập chứng
cứ tại TAND thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên, yêu cầu này cũng không được TA
thực hiện [6, tr. 23]. Từ sau năm 2014 đến nay, chưa có một báo cáo chính thức nào
về việc giải quyết loại việc này tại các TA Việt Nam. Như có thể thấy tại Bảng 3.1,
hiện nay TANDTC chỉ có thống kê về việc thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
đối với TTTM nói chung chứ chưa có thống kê số lượng cụ thể đối với từng loại
việc như thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng v.v... Tương tự, mặc dù
pháp luật Việt Nam đã có quy định về thẩm quyền thu thập chứng cứ để hỗ trợ
TTTM nước ngoài tại Việt Nam, nhưng hiện nay cũng chưa ghi nhận trường hợp
nào mà HĐTT hoặc các bên tranh chấp trong vụ kiện Trọng tài nước ngoài có địa
điểm giải quyết tại Việt Nam yêu cầu TA Việt Nam thu thập chứng cứ. NCS cho
rằng nguyên nhân của thực trạng này có thể vì chưa có nhiều vụ kiện TTTM nước
ngoài nhưng địa điểm giải quyết tranh chấp lại trên lãnh thổ Việt Nam.
Về thủ tục tiến hành, TA sẽ tự mình thu thập chứng cứ và chuyển lại cho
1 Theo quy định tại khoản 6 Điều 46 LTTTM: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản, đơn yêu cầu thu thập chứng cứ, Chánh án TA có thẩm quyền phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu thu thập chứng cứ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải có văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ cho TA và gửi văn bản đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của TA trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được chứng cứ do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, TA phải thông báo cho Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu biết để tiến hành việc giao nhận chứng cứ”
HĐTT. Tổng thời gian để TA có thể hỗ trợ thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 46 LTTTM có thể khoảng 32 ngày làm việc1 hoặc hơn thế. Tuy
89
nhiên, chưa có quy định rõ ràng về việc liệu TA có thể được phép gia hạn các thời
hạn này trong trường hợp cần thiết hay không. Khoản 6 Điều 46 LTTTM cũng
quy định trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp chứng cứ
theo yêu cầu thì TA có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật, ví dụ xử
phạt hành chính các cơ quan, tổ chức cá nhân này theo Điều 495 BLTTDS 2015.
Đây cũng là một trong những căn cứ pháp lý để đảm bảo tính cưỡng chế của
quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ của TA mà HĐTT không có được.
Liên quan đến vấn đề này, pháp luật của nhiều nước trên thế giới quy định
khi thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp này, TA có thể tự thu thập chứng cứ
hoặc yêu cầu chứng cứ sẽ được cung cấp trực tiếp cho HĐTT. Trong trường hợp
đó, sự tham gia của TA chỉ giới hạn ở việc đưa ra một yêu cầu bắt buộc để hỗ trợ
tố tụng trọng tài theo yêu cầu của HĐTT [177]. Pháp luật Trọng tài của nhiều
quốc gia khác cũng có quy định tương tự. Ví dụ, tại Pháp, TA Pháp có thẩm
quyền hỗ trợ đối với vấn đề về chứng cứ [155, Điều 1469]. Theo Điều 1469 của
BLTTDS của Pháp, bên thứ ba từ chối cung cấp chứng liên quan đến tranh chấp
đang được xét xử tại trọng tài có thể được TA Pháp ra lệnh cung cấp chứng cứ đó
theo yêu cầu của một trong các bên và với sự chấp thuận của HĐTT. Quy định
này áp dụng với cả TTTM trong nước và quốc tế theo quy định tại Điều 1506 của
Bộ luật này. FAA của Mỹ cũng cho phép TA hỗ trợ tư pháp trong việc thu thập
chứng cứ khi có yêu cầu của một bên hoặc của HĐTT [180, Mục 7].
3.1.4.2. Thẩm quyền triệu tập người làm chứng
Điều 47 LTTTM quy định rằng TA Việt Nam chỉ có thẩm quyền ra quyết
định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của HĐTT nếu “người làm chứng
đã được HĐTT triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng không có lý do
chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp”.
NCS cho rằng quy định này cho thấy vai trò hỗ trợ tư pháp rất hiệu quả của TA
đối với TTTM trong tố tụng trọng tài và quy định này là cần thiết.
Về thủ tục áp dụng, nếu như việc yêu cầu TA hỗ trợ thu thập chứng cứ có
90
thể được thực hiện bởi cả HĐTT và các bên tranh chấp thì việc yêu cầu TA hỗ trợ
triệu tập người làm chứng chỉ có thể được thực hiện bởi HĐTT. Quy định này có
thể xuất phát từ việc tố tụng trọng tài mang tính bảo mật, không có sự tham gia
của bên thứ ba và do đó, để tránh việc các bên có thể tùy tiện yêu cầu TA triệu tập
người làm chứng một cách không cần thiết thì HĐTT sẽ phải xem xét và gửi văn
bản đề nghị TA hỗ trợ cùng với chứng cứ chứng minh rằng việc vắng mặt của
người làm chứng gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp. Thời gian để TA ra
quyết định triệu tập người làm chứng là trong khoảng 12 ngày làm việc kể từ
ngày nhận được văn bản đề nghị của HĐTT. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 47 LTTTM
mới chỉ dừng lại ở việc quy định rằng người làm chứng có nghĩa vụ nghiêm chỉnh
thi hành quyết định triệu tập của TA mà chưa có quy định cụ thể về cách thức TA
tiếp tục hỗ trợ HĐTT như thế nào hoặc chế tài xử lý ra sao trong trường hợp
người làm chứng vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. NCS cho rằng đây
là một bất cập của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối
với TTTM trong việc triệu tập người làm chứng.
Về điều kiện áp dụng, khoản 3 Nghị quyết 01/2014 quy định rõ rằng TA sẽ
chỉ tiến hành triệu tập người làm chứng khi có đủ các căn cứ sau: (i) Người làm
chứng đã được HĐTT triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng không có
lý do chính đáng và (ii) Việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên, bất cập là ở chỗ hiện nay chưa có hướng dẫn nào liên quan
đến việc TA xác định sự cần thiết của người làm chứng trong vụ tranh chấp do
TTTM giải quyết như thế nào, tức là liệu sự vắng mặt của người làm chứng có
gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp hay không. Và vì vậy, việc xác định
này cũng hoàn toàn đựa vào ý kiến chủ quan của thẩm phán được phân công giải
quyết. Hơn nữa, quy định cho phép TA can thiệp sâu hơn vào việc xét xử của
HĐTT, cụ thể là về việc đánh giá tầm quan trọng của chứng cứ (lời khai của
người làm chứng) đối với vụ kiện tại trọng tài. Trong khi đó, người có quyền yêu
cầu TA hỗ trợ triệu tập người làm chứng là HĐTT, tức là HĐTT đã phải nhận
91
thấy rằng việc triệu tập người làm chứng đó là cần thiết thì mới đưa ra yêu cầu đó
đối với TA.
Về phạm vi áp dụng, TA Việt Nam có thẩm quyền hỗ trợ liên quan đến
việc triệu tập người làm chứng đối với cả TTTM trong nước và nước ngoài có địa
điểm giải quyết tranh chấp ở Việt Nam. Mặc dù vậy, tương tự như các trường hợp
trên, trên thực tế, thẩm quyền này hầu như chưa được thực hiện. Tính đến tháng 6
năm 2014, các TA Việt Nam chưa tiếp nhận một yêu cầu nào liên quan đến loại
việc này [6, tr. 24] và đến nay, việc thực thi pháp luật về vấn đề TA hỗ trợ triệu
tập người làm chứng cũng chưa có tổng kết. NCS cho rằng, nguyên nhân của thực
trạng này một phần là do còn thiếu vắng các quy định cụ thể về trình tự, cách thức
tiến hành, dẫn đến việc không chỉ TA sẽ gặp lúng túng trong việc áp dụng mà các
bên tranh chấp và HĐTT cũng ngần ngại khi muốn yêu cầu TA hỗ trợ triệu tập
người làm chứng. Ngoài ra, việc chưa có chế tài cụ thể trong trường hợp người bị
triệu tập vắng mặt mà không có lý do chính đáng cũng là một trong những nguyên
nhân khiến cho các quy định của pháp luật về vấn đề này chưa thật sự được áp
dụng một cách hiệu quả trong thực tiễn.
Như vậy, nhìn chung, so với số lượng các vụ việc kinh doanh thương mại
mà các TA cấp sơ thẩm thụ lý và giải quyết mỗi năm thì số lượng yêu cầu hỗ trợ
tư pháp đối với TTTM Việt Nam chỉ chiếm thiểu số (xem Bảng 3.1). Theo thống
kê tại Bảng 3.1 dưới đây, có thể thấy từ năm 2015 đến giữa năm 2019, các TA
cũng chỉ thụ lý mới 115 yêu cầu liên quan đến việc TTTM trong nước. Chỉ tính
riêng số lượng vụ kiện mà VIAC đã thụ lý trong giai đoạn từ năm 2015- 2019 là
910 vụ [78], thì số lượng yêu cầu TA hỗ trợ tư pháp đối với các vụ TTTM trong
nước mới chỉ chiếm khoảng 12.6%. Tuy nhiên, có thể thấy số lượng các yêu cầu
liên quan đến việc TTTM Việt Nam được các TA thụ lý có xu hướng gia tăng
trong những năm gần đây. Đặc biệt, năm 2019 có số lượng yêu cầu cao nhất với
tổng số 58 vụ phải giải quyết, trong đó có 53 yêu cầu mới, tức là tăng gấp 279%
so với năm 2018 (19 vụ mới).
92
Bảng 3.1: Số lƣợng yêu cầu liên quan việc Trọng tài Thƣơng mại Việt
Nam đƣợc các Tòa án thụ lý và giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019
Thụ lý giải quyết vụ việc Số vụ việc phải giải quyết Số vụ đã giải quyết 2015 5 20 25 4 15 2016 6 13 19 1 10 2017 3 10 13 1 5 2018 5 19 24 5 14 2019 5 53 58 3 46
Cũ còn lại Mới thụ lý Tổng số Đình chỉ Xét xử hoặc giải quyết Tổng số 19 11 6 19 49
Nguồn: NCS tổng hợp từ số liệu của TANDTC
Bên cạnh đó, đây đều là những yêu cầu TA hỗ trợ tư pháp đối với TTTM, vì
vậy, đòi hỏi quá trình giải quyết ở TA phải được tiến hành nhanh chóng để tránh gây
cản trở tố tụng trọng tài, phù hợp với đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng
TTTM cũng như đảm bảo quyền và lợi ích của các bên không bị xâm phạm. Tuy
nhiên, tỷ lệ vụ việc chưa được giải quyết vẫn còn cao. Cụ thể, trong năm 2015, số vụ
việc cũ chưa giải quyết là 6 trên tổng số 25 vụ, chiếm 24% số vụ việc mà TA phải giải
quyết trong giai đoạn đó. Giai đoạn 2016- 2017 và 2017-2018, con số này lần lượt là
16% (3/19 vụ), 38,5% (5/13 vụ) và 20,8% (5/24 vụ). Kết quả này phần nào cho thấy
việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM chưa thực sự phát huy
được hiệu quả cũng như đáp ứng được kỳ vọng của các bên tranh chấp.
Tuy nhiên, TANDTC hiện nay cũng không có thống kê chi tiết về kết quả thụ
lý và giải quyết của từng loại việc cụ thể liên quan đến TTTM trong nước và nước
ngoài, ví dụ số lượng yêu cầu áp dụng BPKCTT để hỗ trợ TTTM, số lượng yêu cầu
triệu tập người làm chứng hay thu thập chứng cứ v.v... Do vậy, TANDTC khó có thể
giám sát một cách chặt chẽ kết quả việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của các TA
địa phương, cũng như những khó khăn, vướng mắc còn tồn đọng trong quá trình áp
dụng pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA địa phương liên quan đến
TTTM. Các nội dung dưới đây sẽ phân tích rõ hơn thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM theo từng thẩm quyền cụ
thể mà pháp luật đã quy định.
93
3.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tƣ
pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thƣơng mại liên quan đến thi hành phán
quyết trọng tài
3.2.1. Công nhận khả năng thi hành đương nhiên của phán quyết Trọng tài
trong nước
3.2.1.1. Tòa án chỉ xem xét việc hủy phán quyết trọng tài dựa trên các căn cứ đã
được pháp luật quy định
Như đã trình bày tại Mục 2.3.2.2, sự hỗ trợ tư pháp của TA liên quan đến thi
hành PQTT thương mại trong nước trước hết thể hiện ở chỗ TA sẽ công nhận hiệu lực
pháp lý đương nhiên của PQTT thông qua việc chỉ xem xét hủy PQTT khi có yêu cầu
của một bên và chỉ xem xét hủy PQTT theo quy định của pháp luật. Về vấn đề này,
LTTTM Việt Nam quy định rằng PQTTTM chỉ có thể bị hủy nếu thuộc năm (05)
trường hợp sau:
a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
b) Thành phần HĐTT, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận
của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của HĐTT; trường hợp PQTT có
nội dung không thuộc thẩm quyền của HĐTT thì nội dung đó bị huỷ;
d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà HĐTT căn cứ vào đó để ra phán quyết là
giả mạo; TTV nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm
ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của PQTT;
đ) PQTT trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Như vậy, trong khi Điều 459 BLTTDS quy định tới 09 trường hợp để từ chối
công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài thì PQTT trong nước chỉ có thể hủy trên
cơ sở 05 trường hợp nêu trên, tức là ít hơn đến 04 trường hợp và nội dung của các căn
cứ này cũng không hoàn toàn giống nhau. So sánh với quy định của Luật Mẫu
UNCITRAL, có thể thấy 06 căn cứ để hủy PQTT trong nước nêu tại khoản 2 Điều 34
của Luật Mẫu UNCITRAL tương tự như các căn cứ để từ chối công nhận và cho thi
94
hành PQTT nước ngoài tại Điều V của Công ước New York. Như vậy, Luật Mẫu
UNCITRAL không có sự phân biệt đối xử giữa PQTT trong nước và PQTT nước
ngoài như trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, về bản chất, việc sử dụng chứng cứ
giả mạo, hay TTV nhận tiền, tài sản, hoặc lợi ích vật chất khác từ một bên tranh chấp
có thể bị xem như vi phạm nguyên tắc độc lập khách quan và nguyên tắc công bằng
trong tố tụng trọng tài- là một trong trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam đã được Nghị Quyết 01/2014 thừa nhận. Do đó, căn cứ này cũng không đi ngược
lại các quy định của Luật Mẫu UNCITRAL. Pháp luật Trung Quốc cũng cho phép
PQTT có thể bị hủy nếu TA nhận thấy rằng chứng cứ không đầy đủ hoặc việc áp dụng
pháp luật của HĐTT là hoàn toàn sai lầm [182, khoản 4 và 5 Điều 58, Điều 63, khoản
4 và 5 Điều 217]. Tuy nhiên, những quy định này được xây dựng theo hướng là TA
xem xét lại vấn đề nội dung tranh chấp đã được giải quyết bởi HĐTT chỉ giới hạn ở
các kết luận về vấn đề pháp lý, và chỉ cho phép hủy PQTT trong các trường hợp có sai
lầm nghiêm trọng.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 4 Điều 71 LTTTM khi xem xét các căn cứ
này, TA phải tuân thủ nguyên tắc không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà HĐTT
đã giải quyết. Đây là quy định phù hợp với nguyên tắc chung thẩm của PQTT (res
judicata) và cho thấy sự hỗ trợ tư pháp của TA chỉ đặt ra khi một bên có đơn đề nghị
hủy PQTT. Do đó, NCS cho rằng, về cơ bản, các trường hợp để hủy PQTT mà pháp
luật Việt Nam ghi nhận cũng tương thích với các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 34
Luật Mẫu UNCITRAL.
Tuy nhiên, khi áp dụng trên thực tế, tỷ lệ PQTT trong nước bị hủy vẫn còn cao.
Theo thống kê của VIAC, trong giai đoạn PLTTTM có hiệu lực (2003-2010) có 25% số PQTT bị hủy [80], nhưng đến giai đoạn 2011-2014, tức là sau khi LTTTM có hiệu
lực, thì chỉ tính riêng các phán quyết VIAC, số lượng PQTT bị hủy của trung tâm này
lên đến 50 % của tổng số PQTT bị yêu cầu hủy [83]. Theo số liệu thống kê riêng của
TAND thành phố Hà Nội, từ 01/01/2011 đến ngày 31/8/2015, TA đã chấp nhận 6 trên
tổng số 15 đơn yêu cầu hủy PQTT, chiếm 40% số lượng PQTT bị yêu cầu hủy [63, tr.
95
40]. Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2018, tức là sau khi có những hướng dẫn
cụ thể của Nghị quyết 01/2014, tỷ lệ PQTT bị hủy tại Việt Nam có chiều hướng giảm.
Cụ thể, năm 2015, lần đầu tiên kể từ sau khi LTTTM có hiệu lực, không có một PQTT
nào của VIAC bị hủy, năm 2016, chỉ 02 PQTT của VIAC bị hủy và năm 2017, con số
này là 01 [81]. Tuy nhiên, đến năm 2019, số lượng đơn yêu cầu hủy PQTT và số
PQTT bị tuyên hủy đã tăng trở lại. Cụ thể, dựa trên các quyết định được công bố trên
trang thông tin điện tử của TANDTC, thì trong năm 2019, TA thụ lý 17 đơn yêu cầu
hủy PQTT trong nước, và 05 trên tổng số 17 đơn yêu cầu này (chiếm tỷ lệ 29%) đã
được chấp thuận [75]. Đây là tỷ lệ hủy rất cao, làm giảm niềm tin và hiệu quả của việc
giải quyết tranh chấp bằng phương thức TTTM, cũng như ảnh hưởng đáng kể đến môi
trường pháp lý và kinh doanh của Việt Nam.
NCS cho rằng nguyên nhân của thực trạng trên là do một số hạn chế được bộc
lộ trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM thông qua việc chỉ xem xét hủy PQTT dựa trên các căn
cứ nêu trên tại Việt Nam. Cụ thể, đó là các nguyên nhân dưới đây:
Thứ nhất, một số TA vẫn dựa vào căn cứ là PQTT sẽ bị hủy nếu PQTT đó trái
với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam để xem xét lại nội dung tranh chấp mà
HĐTT giải quyết. Mặc dù điểm đ khoản 2 Điều 14 của Nghị quyết 01/2014 đã đưa
khái niệm về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là “các nguyên tắc xử sự
cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam”,
tuy nhiên cách giải thích này chưa thực sự rõ ràng và thiếu cụ thể vì điều khoản này
không quy định rõ về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam cũng như không
nói rõ các quy tắc này được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật hay các Luật nào của
Việt Nam.
Điều này dẫn đến một thực trạng là mỗi TA địa phương của Việt Nam có một
cách giải thích khác nhau về vấn đề này [93, tr. 8-9], và nhiều TA còn nhầm lẫn khi
xác định rằng tất cả các nguyên tắc cơ bản được quy định trong từng đạo luật chuyên
ngành chính là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Cách giải thích như vậy
96
đã vô tình tạo ra sự tùy tiện và tính thiếu thống nhất trong việc giải thích và áp dụng
pháp luật của các TA Việt Nam, đồng thời tạo thành một căn cứ để TA có thể tùy tiện
xem xét lại nội dung tranh chấp mà HĐTT giải quyết. Đây vừa là bất cập của pháp luật
Việt Nam, vừa là sự yếu kém trong việc áp dụng pháp luật về vấn đề này. Sự yếu kém
trong việc áp dụng pháp luật đó có thể thấy rõ qua ví dụ dưới đây.
Ngày 25/07/2019, TAND TP Hà Nội đã ban hành Quyết định số 08/2019/QD-
PQTT liên quan đến yêu cầu hủy PQTT của VIAC trong vụ tranh chấp về hợp đồng
xây dựng giữa Nguyên đơn là một công ty Hàn Quốc và Bị đơn là một Công ty có vốn
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Trong đó, Nguyên đơn là Nhà thầu đã kiện Chủ đầu tư
là Bị đơn ra trọng tài của VIAC để yêu cầu thanh toán các khoản tiền chưa được thanh
toán từ các chứng chỉ thanh toán tạm thời IPC. Tuy nhiên, HĐTT đã bác yêu cầu của
Nguyên đơn sau khi xem xét các vấn đề liên quan đến thời hiệu khởi kiện, giá trị của
các phụ lục hợp đồng bổ sung mà các bên đã ký kết có liên quan đến khoản tiền được
yêu cầu v.v… Nguyên đơn sau đó, đã nộp đơn xin hủy PQTT trên cơ sở PQTT vi
phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, cụ thể là nguyên tắc tôn trọng và
bảo vệ quyền dân sự, nguyên tắc tuân thủ pháp luật, nguyên tắc công bằng khách
quan. Khi xem xét đơn yêu cầu hủy PQTT của Nguyên đơn, Hội đồng xét đơn đã đã
chấp nhận yêu cầu hủy PQTT của Nguyên đơn dựa trên nhận định sau:
Toàn bộ số tiền theo các chứng chỉ thanh toán tạm thời (IPC) phải xác định
đây là khoản nợ của [Bị đơn] đối với [Nguyên đơn] theo Hợp đồng xây
dựng các bên đã ký kết. HĐTT bác yêu cầu của [Nguyên đơn] đối với các
khoản nợ của [Bị đơn]…là không phù hợp. Mặc dù đây là phần nội dung
của vụ tranh chấp mà HĐTT đã giải quyết nhưng đã chứng minh việc
HĐTT có khách quan hay không khi giải quyết vụ tranh chấp. Việc HĐTT
chấp nhận yêu cầu kiện lại của [Bị đơn] … mà yêu cầu khởi kiện của
[Nguyên đơn] đối với các IPC lại không được chấp nhận là không hợp lý.
Trong vụ việc này, HĐTT đã có sự phân biệt đối xử không công bằng với
[Nguyên đơn].
97
Có thể thấy, trong ví dụ trên, TAND TP Hà Nội đã xem xét lại gần như toàn bộ
nội dung tranh chấp đã được HĐTT giải quyết, bao gồm cả yêu cầu khởi kiện của
Nguyên đơn và đơn kiện lại của Bị đơn. Chưa kể tới nhận định của TA liên quan đến
quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng của các bên như vậy là chưa chính xác, rõ ràng TA
đã không tôn trọng giá trị chung thẩm của PQTT trong vụ việc này. Hơn thế, việc TA
chỉ dựa vào kết luận của HĐTT trong phán quyết để cho rằng HĐTT đã đối xử không
công bằng với Nguyên đơn là chưa thực sự thuyết phục. Các căn cứ để xác định TTV
không độc lập, khách quan theo khoản 1 Điều 42 LTTTM hay Quy tắc đạo đức của
TTV của VIAC đều không có trường hợp nào như TA đã nhận định.
So sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới có thể thấy một số nước
cho phép TA xem xét lại vấn đề tranh chấp đã được giải quyết bởi HĐTT ví dụ như
Anh, Trung Quốc, Úc, Singapore, Mỹ, Trung Quốc v.v… [100, đoạn 2637–38, 2646–
47]. Thêm vào đó, một số TA khác cũng cho phép xem lại vấn đề nội dung đã được
HĐTT giải quyết trong trường hợp vi phạm chính sách công hoặc vượt quá thẩm
quyền [100, đoạn 2627–30, 2648–49]. Ví dụ, Mục 69 của Đạo Luật Trọng tài Anh cho
phép một PQTT có thể bị kháng cáo tại TA Anh nếu có sai sót về nội dung pháp luật.
Cần chú ý rằng, Mục 69(3)(c) chỉ áp dụng đối với vấn đề liên quan đến pháp luật của
Anh (chứ không phải vấn đề về tình tiết vụ việc) và chỉ khi vấn đề pháp lý này có ý
nghĩa quan trọng, có ý nghĩa lớn hoặc khi PQTT sai một cách rõ ràng [127] và các bên
có thể thỏa thuận để loại trừ việc áp dụng quy định này. Một ví dụ tương tự khác là
Trung Quốc. Pháp luật Trung Quốc cũng cho phép PQTT có thể bị hủy nếu TA nhận
thấy rằng chứng cứ không đầy đủ hoặc việc áp dụng pháp luật của HĐTT là hoàn toàn
sai lầm [182, khoản 4 và 5 Điều 58, Điều 63, khoản 4 và 5 Điều 217]. Tuy nhiên,
những quy định này được xây dựng theo hướng là việc TA xem xét lại vấn đề nội
dung tranh chấp đã được giải quyết bởi HĐTT chỉ giới hạn ở các kết luận về vấn đề
pháp lý, và chỉ cho phép hủy PQTT trong các trường hợp có sai lầm nghiêm trọng.
Mặt khác, gần đây TA tối cao của Mỹ và một số TA địa phương cũng đã xét xử theo
hướng FAA không cho phép hủy PQTT dựa trên căn cứ không tuân thủ pháp luật
98
[158, tr. 72-74]. Thực tiễn xét xử ở Anh, Singapore và Hồng Kông cũng cho thấy các
TA đều hết sức thận trọng và hạn chế áp dụng căn cứ này khi xem xét yêu cầu hủy
PQTT. Không chỉ vậy, pháp luật của một số nước còn cấm hủy PQTT của TTTM
trong nước trong một số trường hợp. Ví dụ tại Bỉ, các bên tranh chấp là nước ngoài có
quyền thỏa thuận từ bỏ quyền yêu cầu hủy PQTT [171, khoản Điều 1717]. Hoặc tại
Malaysia, Luật Trọng tài nước ngoài cấm xem xét lại các PQTT của Trung tâm Quốc
tế về Giải quyết tranh chấp Đầu tư và Trung Tâm Trọng tài Khu vực Kuala Lumpur
[178, Điều 34], không có quyền yêu cầu hủy PQTT được tuyên tại Bỉ. Do đó, xu
hướng xét xử của các quốc gia trên thế giới hiện nay là càng ngày càng giới hạn các
căn cứ để hủy PQTT theo tinh thần của Luật Mẫu UNCITRAL và không cho phép
xem xét lại nội dung phán quyết và các nhận định mà HĐTT dựa vào đó để đưa ra
phán quyết [102, tr. 331]. Như vậy, việc TA Việt Nam xem xét lại nội dung mà HĐTT
đã giải quyết về bản chất chính là xét xử lại vụ tranh chấp giữa các bên, và đi ngược lại
với xu hướng xét xử hiện nay tại các TA của quốc gia có nền trọng tài phát triển.
Thứ hai, theo khoản 10 Điều 71 LTTTM, quyết định của TA về việc hủy hay
không hủy PQTT là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành nên không thể bị
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Quy định này nhằm tránh cho việc bên thua
kiện tiếp tục kháng cáo để gây cản trở tới việc thi hành PQTT. Tuy nhiên, hiện nay
chưa có quy định rõ ràng và chưa có văn bản giải thích cụ thể là liệu quyết định của
TA sơ thẩm liên quan đến yêu cầu xin hủy PQTT có thể bị xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm hay không. Về mặt nguyên tắc, vì tính chất của thủ tục giám đốc thẩm
là nhằm xét lại bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật nếu bản án, quyết
định đó thuộc một trong các căn cứ, điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm theo Điều
325 và 326 BLTTDS 2015. Do đó, nếu quyết định sơ thẩm của TA về việc hủy PQTT
cũng thuộc một trong các trường hợp đó thì cũng có thể bị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm. Tuy nhiên, trên thực tế, như trong vụ việc nêu trên, TA nhân dân cấp
cao tại Hà Nội đã căn cứ vào khoản 10 Điều 71 LTTTM để từ chối nhận đơn yêu cầu
giám đốc thẩm của quyết định hủy PQTT của TA cấp sơ thẩm [62]. Đây là vấn đề
99
chưa rõ ràng và chưa có thực tiễn chứng minh và cũng chính là bất cập của pháp luật
và yếu kém trong thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM.
3.2.1.2. Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án trong việc cho phép Hội đồng
trọng tài sửa chữa, giải thích và bổ sung phán quyết trọng tài
Một trong những điểm tiến bộ của LTTTM so với PLTTTM là LTTTM đã quy
định thẩm quyền của TA trong việc tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu
hủy PQTT trong thời hạn để tạo điều kiện cho HĐTT khắc phục sai sót tố tụng trọng
tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ PQTT [47, khoản 7 Điều 71]. Quy định này có sự
tương thích so với Luật Mẫu UNCITRAL và pháp luật trọng tài của nhiều quốc gia.
Cụ thể, Điều 34 Luật Mẫu UNCITRAL quy định rằng: “TA khi được yêu cầu hủy bỏ
một phán quyết, có thể, nếu thấy thích hợp và theo yêu cầu của một bên, tạm đình chỉ
trình tự hủy bỏ phán quyết trong một thời gian do toà án quyết định để HĐTT có cơ
hội tiếp tục tiến hành tố tụng trọng tài hoặc tiến hành các hoạt động khác theo ý kiến
cuả HĐTT sẽ loại trừ cơ sở để hủy bỏ quyết định”. Bằng cách đó, TA có thể loại trừ
việc hủy PQTT một cách không cần thiết, đảm bảo hiệu lực và khả năng thi hành trên
thực tế của phán quyết đó, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích của bên được thi hành.
Ví dụ, trong một vụ việc vào năm 2004 của New Zealand, khi TTV đã thu thập được
báo cáo của điều tra nhưng không gửi báo cáo này cho các bên, TA đã chuyển vụ việc
này lại cho HĐTT thay vì hủy PQTT. TA đã cho rằng một bên đã từ bỏ quyền phản
đối khi bên này biết có báo cáo này nhưng thay vì yêu cầu được cung cấp báo cáo
trong quá trình tố tụng trọng tài thì họ lại chỉ đưa ra phản đối sau khi đã nhận được
PQTT [129].
Mặc dù vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy quy định này hiếm khi được
áp dụng ở Việt Nam. NCS cho rằng một trong những nguyên nhân của việc này là do
trình tự, thủ tục áp dụng của quy định này cũng chưa được hướng dẫn cụ thể và phù
hợp. Cụ thể, khoản 7 Điều 71 LTTTM chỉ quy định rằng trong quá trình xét đơn yêu
cầu hủy PQTT thì TA có thể thực hiện thẩm quyền này “theo yêu cầu của một bên và
xét thấy phù hợp”. Như vậy, chưa có một hướng dẫn cụ thể về cách thức, tiêu chí để
100
TA có thể dựa vào khi xem xét liệu việc sửa chữa, bổ sung PQTT có phù hợp không.
Mặt khác, các nội dung mà HĐTT có quyền sửa chữa, bổ sung chỉ bao gồm
“các sai sót về tố tụng trọng tài”. Giới hạn nội dung được sửa chữa, bổ sung bởi
HĐTT như vậy chưa thực sự hợp lý. Rõ ràng, căn cứ hủy PQTT trên cơ sở có sai sót
về tố tụng trọng tài có thể được loại trừ trên cơ sở nguyên tắc về mất quyền phản đối
theo quy định Điều 13 LTTTM. Cụ thể, nếu trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
TTTM, bên yêu cầu hủy đã phát hiện có sai sót về tố tụng mà vẫn tiếp tục thực hiện tố
tụng trọng tài và không phản đối với HĐTT, trung tâm trọng tài những vi phạm đó
trong thời hạn do LTTTM quy định thì mất quyền phản đối. Bên đã mất quyền phản
đối không được quyền yêu cầu hủy PQTT đối với những vi phạm đã mất quyền phản
đối đó. TA không được căn cứ vào các vi phạm mà một hoặc các bên đã mất quyền
phản đối để quyết định chấp nhận yêu cầu hủy PQTT của bên đó [23; khoản 2 Điều 6].
Đây chính là những điểm còn chưa phù hợp trong pháp luật Việt Nam liên quan đến
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong việc cho phép HĐTT sửa chữa, bổ sung và
giải thích PQTT.
3.2.1.3. Thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với việc đăng ký phán quyết
Trọng tài vụ việc
Một trong những thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam liên quan đến thi
hành PQTT là đăng ký PQTT vụ việc theo quy định tại Điều 62 LTTTM và Điều 13
Nghị quyết 01/2014. Theo đó, trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành PQTT và
trước khi yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành PQTT
đó, bên yêu cầu đăng ký PQTT vụ việc phải gửi đơn xin đăng ký PQTT tới TA. Trong
thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn xin đăng ký phán quyết, Chánh
án TA phải phân công một Thẩm phán xem xét đơn đăng ký phán quyết. Trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán sẽ căn cứ vào quy định LTTTM,
các tài liệu kèm theo, kiểm tra tính xác thực của các tài liệu gửi kèm theo đơn để xem
xét, quyết định việc đăng ký. TA chỉ có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp liên quan đến việc
đăng ký PQTT vụ việc trong nước. Còn PQTT vụ việc nước ngoài không cần đăng ký
101
và vẫn trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài tại Việt Nam theo
các quy định có liên quan của BLTTDS.
Đây là một trong những quy định mới của LTTTM so với PLTTTM. Do những
vụ việc được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc ở Việt Nam còn chưa phổ biến, trong
khi đó, các vụ kiện tại Trọng tài vụ việc lại không được quản lý bởi các trung tâm
trọng tài, nên rất khó để xác định được tính xác thực của PQTT đó. Theo Báo cáo giải
trình tiếp thu và sửa đổi Dự thảo LTTTM thì việc quy định đăng ký phán quyết Trọng
tài vụ việc tại TA (khi có yêu cầu của đương sự) là nhằm ràng buộc về trách nhiệm
pháp lý giữa các bên và trách nhiệm của TTV đối với phán quyết của mình, tạo cơ sở
để cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thi hành phán quyết này [90, tr.
12]. Bên cạnh đó, ngay cả PQTT quy chế cũng thường gặp khó khăn trong việc thi
hành khi Cơ quan THADS yêu cầu đương sự phải cung cấp giấy xác nhận của TA về
việc thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy PQTT [82]. Trong khi TA lại không có bất kỳ
quy trình hay thủ tục nào để cấp Giấy xác nhận này, việc cấp giấy hoàn toàn phụ thuộc
vào thực tiễn của mỗi TA. Chính vì vậy, quy định cho phép TA Việt Nam có thẩm
quyền đăng ký PQTT vụ việc sẽ hỗ trợ việc thi hành PQTT diễn ra thuận lợi, dễ dàng
hơn, từ đó, thúc đẩy việc sử dụng TTTM nói chung, và Trọng tài vụ việc nói riêng để
giải quyết các tranh chấp tại Việt Nam.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn một số bất cập. Cụ thể, theo quy định tại
khoản 1 Điều 62 LTTTM thì việc đăng ký hoặc không đăng ký PQTT không ảnh
hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của PQTT. Đồng thời, theo khoản 5 Điều 61
LTTTM thì PQTT sẽ có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Nhưng theo Công văn số
3063/TCTHAD-NV1 ngày 18 tháng 8 năm 2017 của Bộ Tư pháp thì bên được thi
hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành
sau khi PQTT được đăng ký tại cơ quan TA cổ thẩm quyền [7]. Như vậy, trên thực tế,
để có thể tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự vẫn phải yêu cầu đương sự chứng minh việc PQTT đã được đăng ký tại TA [21]. Nói cách khác,
nếu không được đăng ký trong thời hạn 1 năm để từ ngày được ban hành, PQTT vụ
102
việc đó sẽ không thể được cưỡng chế thi hành bởi cơ quan thi hành án dân sự ở Việt
Nam. Điều này mâu thuẫn với chính quy định tại khoản 1 Điều 62 LTTTM nêu trên vì
vô hình chung, việc đăng ký PQTT vụ việc lại trở thành một điều kiện bắt buộc để
PQTT vụ việc có hiệu lực thi hành. Không chỉ vậy, nếu việc không đăng ký tại TA có
thẩm quyền thực sự không ảnh hưởng tới giá trị pháp lý của PQTT thì không nên đặt
ra thời hạn 01 năm kể từ ngày ban hành để đăng ký PQTT. Theo Điều 30 Luật
THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 và Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS thì
thời hiệu yêu cầu thi hành PQTT là 5 năm kể từ ngày PQTT có hiệu lực. Trong khi đó,
nếu PQTT không được đăng ký trong thời hạn 01 năm nói trên thì bên được yêu cầu
cũng sẽ không thể yêu cầu thi hành án, cho dù thời hạn 05 năm để thi hành án vẫn còn.
3.2.2. Công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam
Đây là một trong những thẩm quyền hỗ trợ tư pháp quan trọng của TA đối với
TTTM nước ngoài. Theo đó, trong thời hạn ba (03) năm kể từ ngày PQTT nước ngoài
có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành có thể nộp trực tiếp hồ sơ yêu cầu công nhận
và cho thi hành cho TA có thẩm quyền trừ trường hợp ĐƯQT mà Việt Nam là thành
viên có quy định khác hay có quy định rõ cơ quan tiếp nhận hồ sơ là Bộ Tư pháp. Thời
hạn này có thể được kéo dài hơn trong trường hợp người nộp đơn chứng minh được
rằng có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà họ không thể nộp đơn
trong thời hạn quy định [50, khoản 2 Điều 451]. Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu này,
TA Việt Nam sẽ có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp liên quan đến việc công nhận và cho thi
hành PQTT nước ngoài tại Việt Nam. Thẩm quyền đó được thể hiện cụ thể qua hai nội
dung là đương nhiên công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài trừ các trường hợp
đã được quy định và công nhận cho thi hành một phần PQTT nước ngoài.
3.2.2.1. Đương nhiên công nhận và cho thi hành phán quyết Trọng tài nước
ngoài trừ các trường hợp đã được quy định
Tại Việt Nam, pháp luật quy định TA sẽ đương nhiên công nhận và cho thi
103
hành PQTT nước ngoài trừ chín (09) trường hợp quy định tại Điều 459 BLTTDS.
Cụ thể:
i) Các bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thỏa thuận
đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;
ii) Thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà
các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi phán quyết đã được
tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thỏa thuận đó;
iii) Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành không được thông báo kịp thời và
hợp thức về việc chỉ định TTV, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước
ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố
tụng của mình;
iv) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp
không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký kết
thỏa thuận trọng tài.
v) Thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của
Trọng tài nước ngoài không phù hợp với thỏa thuận trọng tài hoặc với pháp luật của
nước nơi phán quyết của Trọng tài nước ngoài đã được tuyên, nếu thỏa thuận trọng
tài không quy định về các vấn đề đó;
vi) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối
với các bên;
vii) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của nước
nơi phán quyết đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng hủy bỏ
hoặc đình chỉ thi hành.
viii) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể
thức Trọng tài;
ix) Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài
nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
104
Thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ thi hành PQTT nước ngoài tại Việt Nam
cho thấy chưa có nhiều PQTT nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam. Cụ thể, theo số liệu thống kê về kết quả giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi
hành PQTT nước ngoài (xem Bảng 3.2), từ đầu năm 2012 đến cuối tháng 9 năm 2019
chỉ 39 PQTT, tương đương với 46,4% trên tổng số 84 PQTT được công nhận và cho
thi hành tại VN. Trong số 84 vụ việc liên quan đến yêu cầu công nhận và cho thi hành
ở Việt Nam này, có 23 PQTT được giải quyết theo BLTTDS 2015. Theo đó, TA Việt
Nam đã công nhận và cho thi hành 11 PQTT (chiếm 47,8%), không công nhận 5
PQTT (chiếm 21,7%) và đình chỉ giải quyết 7 vụ. .
Bảng 3.2: Kết quả giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTT
nƣớc ngoài trong giai đoạn 01/01/2012-30/09/2019
STT Nội dung Số lƣợng
Giải quyết theo BLTTDS 2005 28 28 5 Giải quyết theo BLTTDS 2015 11 5 7
1 2 3 4 Công nhận và cho thi hành Không công nhận Đình chỉ giải quyết Tổng số 84
Nguồn: NCS tổng hợp từ tài liệu của Bộ Tư pháp và TANDTC
Như vậy, sau khi BLTTDS 2015 có hiệu lực, tỷ lệ PQTT nước ngoài bị từ chối
công nhận và cho thi hành ở Việt Nam đã có dấu hiệu giảm rõ rệt, từ 46% xuống
21,7%. Điều này cho thấy những sửa đổi của các quy định trong BLTTDS 2015 đã có
tác động tích cực, giúp nâng cao hiệu quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM nước ngoài. Tuy nhiên, số lượng PQTT nước ngoài được
công nhận và cho thi hành ở Việt Nam vẫn chưa thực sự được cải thiện. Cụ thể, tỷ lệ
PQTT nước ngoài được công nhận và cho thi hành ở Việt Nam trước và sau khi
BLTTDS 2015 có hiệu lực trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2019 lần lượt là 46%
và 47,8 %, tức là chỉ tăng chưa đến 2% so với trước đó. Hơn nữa, nhiều quyết định từ
chối công nhận và cho thi hành của TA còn chưa thực sự thuyết phục, chưa có cơ sở
vững chắc. Điều này khiến các đối tác nước ngoài của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Vương
105
quốc Anh, Thụy Sỹ v.v... quan ngại về khả năng thi hành của PQTT nước ngoài tại
Việt Nam, cũng như sự ủng hộ của chính phủ Việt Nam đối với việc giải quyết tranh
chấp bằng TTTM. Việc giải quyết các yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
PQTT nước ngoài chưa thực sự phù hợp với Công ước New York cũng bị xem như
một bất cập của hệ thống tư pháp Việt Nam cần có giải pháp khắc phục trong tài liệu
Sách trắng 2019 về Các vấn đề thương mại, đầu tư và kiến nghị của Hội đồng Thương
mại Châu Âu tại Việt Nam [25].
NCS cho rằng nguyên nhân của thực trạng này là do pháp luật Việt Nam về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với việc thi hành PQTT nước ngoài và việc
thực thi thẩm quyền này của TA trên thực tế vẫn còn một số bất cập. Những bất
cập đó là:
Thứ nhất, tiêu chí để một PQTT nước ngoài được xem xét công nhận và cho thi
hành ở Việt Nam không phù hợp với tinh thần của Công ước New York. Theo quy
định tại BLTTDS Việt Nam thì chỉ những “phán quyết cuối cùng của Hội đồng Trọng
tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu
lực thi hành” mới được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Trong khi
đó, theo quy định của Công ước New York, những quyết định được ban hành bởi (các)
TTV nhằm giải quyết toàn bộ hay một vài vấn đề của vụ tranh chấp một cách chung
thẩm và có hiệu lực ràng buộc, bao gồm cả vấn đề về thẩm quyền sẽ được xem là
“PQTT” theo tinh thần của Công ước New York [190]. Theo đó, các PQTT theo quy
định của Công ước New York sẽ có thể bao gồm phán quyết cuối cùng (final award),
phán quyết từng phần (partial award); phán quyết sơ bộ (preliminary award) (quyết
định một vấn đề sơ bộ cần thiết để xử lý yêu cầu của các bên, như quyết định về vấn
đề thời hiệu khởi kiện, luật nào điều chỉnh về nội dung yêu cầu v.v...); Phán quyết về
chi phí (award on costs) và phán quyết đồng thuận (consent award) [190]. Như vậy, so
với Công ước New York, pháp luật Việt Nam đặt thêm hai tiêu chí để một quyết định
trọng tài được xem là PQTT là quyết định đó phải (i) giải quyết toàn bộ nội dung vụ
tranh chấp và (ii) chấm dứt tố tụng trọng tài. Theo đó, có thể hiểu rằng phán quyết
106
từng phần và phán quyết sơ bộ có thể không được công nhận và cho thi hành ở Việt
Nam trừ khi được HĐTT ghi nhận trong phán quyết cuối cùng.
Thứ hai, căn cứ để từ chối công nhận và cho thi hành quy định tại Điều 459
BLTTDS 2015 như được nêu ở trên chưa tương thích với các căn cứ được quy định tại
Điều V của Công ước New York, Điều 35 và 36 của Luật Mẫu UNCITRAL. Cụ thể,
trong Công ước New York và Luật Mẫu UNCITRAL đều quy đỉnh rằng “việc công
nhận và thi hành PQTT có thể bị từ chối nếu như cơ quan có thẩm quyền của nước nơi
việc công nhận và thi hành đó được yêu cầu, cho rằng:[...] việc công nhận và thi hành
sẽ trái với trật tự công cộng của nước đó”. Tuy nhiên, Điều 459.2(b) của BLTTDS lại
quy định căn cứ để từ chối công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài là “vi phạm
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Trong khi đó, khái niệm “trật tự công
cộng” và “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật” là hai khái niệm khác biệt và không
thể đồng nhất [9]. Do đó, căn cứ để từ chối cho công nhận và thi hành PQTT tại Việt
Nam trên cơ sở “vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật” là không đúng với tinh
thần của Công ước New York. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam cũng chưa có hướng dẫn
cụ thể về cách giải thích và áp dụng căn cứ này trong việc xem xét từ chối công nhận
và cho thi hành PQTT nước ngoài.
Thứ ba, một số TA Việt Nam vẫn xét xử lại tranh chấp mà HĐTT nước ngoài
đã giải quyết. Về nguyên tắc, chính vì TA quốc gia phải đương nhiên công nhận và thi
hành PQTT nước ngoài nên phạm vi xem xét của TA khi giải quyết đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài cũng sẽ bị hạn chế. Tương tự như đối với
PQTT trong nước, cả BLTTDS 2005 và BLTTDS 2015 đều quy định TA Việt Nam
không được phép xét xử lại nội dung của vụ tranh chấp đã được giải quyết bởi Trọng
tài nước ngoài mà chỉ kiểm tra, đối chiếu phán quyết của Trọng tài nước ngoài, các
giấy tờ, tài liệu kèm theo với các quy định của BLTTDS, các quy định khác của pháp
luật Việt Nam và Công ước New York để ra quyết định [50, khoản 4 Điều 458]. Sở dĩ
thẩm quyền của TA nơi phán quyết được yêu cầu công nhận và cho thi hành bị giới
hạn như trên là dựa trên cơ sở tôn trọng thỏa thuận của các bên về việc lựa chọn
107
TTTM để giải quyết tranh chấp chứ không phải TA, cũng như tôn trọng nguyên tắc
không xét xử lại (res judicata) đối với PQTT. Bên cạnh đó, vì tinh thần của Công ước
New York là ủng hộ việc thi hành PQTT, do đó, TA cũng không có quyền thay đổi
quyết định trong PQTT bằng quyết định của mình về nội dung của vụ việc. Điều này
cũng phù hợp với nguyên tắc không xem xét lại nội dung tranh chấp mà HĐTT đã giải
quyết khi TA xem xét yêu cầu hủy PQTT trong nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có TA Việt Nam dựa vào phản đối của một bên để
xem xét lại các vấn đề liên quan giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài và thẩm quyền
của HĐTT trên cơ sở pháp luật Việt Nam, mặc dù theo tinh thần của Công ước New
York, luật áp dụng để xem xét thỏa thuận trọng tài là pháp luật nước ngoài. Ví dụ, tại
bản án số 201/2016/KDTM-PT ngày 15,16 tháng 11 năm 2016 của TAND cấp cao tại
Hà Nội đã nhận định về quyết định của Hội đồng xét đơn cấp sơ thẩm như sau: “Việc
Hội đồng phiên họp cấp sơ thẩm đã nhận định: HĐTT Gafta chỉ xem xét lỗi của [Bị
đơn] mà không xét lỗi của cả hai bên, gây thiệt hại cho [Bị đơn]. Khi xét xử, Trọng tài
đã không xét thiệt hại của [Bị đơn] làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
[Bị đơn]. Nhận định này của cấp sơ thẩm đã vi phạm khoản 4 Điều 369 BLTTDS cũng
như Công ước New York trong việc xem xét đơn yêu cầu của [Nguyên đơn] đúng như
kháng cáo của người yêu cầu về quyết định này”. Như vậy, trong vụ việc trên, TA cấp
sơ thẩm đã xem xét lại quyết định về lỗi và thiệt hại của các bên mà HĐTT GAFTA
đã giải quyết trong phán quyết. Trong khi đó, TA cấp sơ thẩm không phải là một cơ
quan phúc thẩm, có thẩm quyền xem xét lại quyết định này. Theo luật định, TA chỉ
xem xét liệu bên phản đối việc công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài có đưa ra
được các chứng cứ, luận cứ để chứng minh có tồn tại một trong các căn cứ để từ chối
công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài hay không. Nói cách khác, TA chỉ được
xem xét về mặt thủ tục chứ không được xem xét về mặt nội dung của phán quyết.
Thứ tư, một số TA Việt Nam vẫn còn nhận định sai lầm về nghĩa vụ chứng
minh của các bên. Do hiệu lực thi hành của PQTT nước ngoài phải được đương nhiên
công nhận nên bên yêu cầu sẽ không cần phải chứng minh PQTT nước ngoài không
108
thuộc một trong các căn cứ bị từ chối công nhận và cho thi hành. Ngược lại, TA sẽ xác
định và có thẩm quyền yêu cầu bên phản đối thi hành thực hiện nghĩa vụ chứng minh
PQTT thuộc một trong những căn cứ từ chối đó. Cách diễn giải này hoàn toàn phù hợp
với Công ước New York [197, tr. 12], với quy định tại khoản 1 Điều 459 BLTTDS
2015 và cũng nhận được sự ủng hộ của nhiều thẩm phán Việt Nam [42, tr. 4].
Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật cho thấy một số TA Việt Nam thường sai
lầm trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh của các bên. Ở giai đoạn thụ lý và chuẩn
bị xét đơn yêu cầu, một số TA đã dựa vào Điều 457.1 BLTTDS 2015 về việc giải
thích những điểm chưa rõ trong đơn yêu cầu để yêu cầu bên được thi hành nộp thêm
các tài liệu khác ngoài thỏa thuận trọng tài và PQTT đã được chứng nhận hợp lệ như
quy định tại Điều 453 BLTTDS, ví dụ: các đạo luật nước ngoài liên quan, quy tắc tố
tụng của trung tâm Trọng tài nước ngoài, bằng chứng về việc bên phải thi hành đã
không tham gia tố tụng và được tống đạt văn bản hợp lệ, xác nhận phán quyết có hiệu
lực thi hành, v.v... Cá biệt, có TA còn yêu cầu bên được thi hành phải nộp các tài liệu
trên thì mới ra quyết định thụ lý theo Điều 455 BLTTDS.
Mặt khác, trong quá trình giải quyết đơn yêu cầu, nhiều TA chỉ căn cứ vào từ
ngữ trong BLTTDS mà bỏ qua các quy định có liên quan của Công ước New York để
áp đặt nghĩa vụ chứng minh đối với bên yêu cầu thi hành PQTT nước ngoài. Ví dụ, tại
quyết định ngày 27/05/2013 của một TAND cấp tỉnh [70], Hội đồng xét đơn đã nhận
định rằng:
Tại điểm c khoản 1 Điều 370 Bộ luật Tố tụng Dân sự chỉ quy định: cá
nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp
thức về việc chỉ định TTV, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài
nước ngoài…nhưng không quy định về phương thức thông báo và nghĩa vụ
chứng minh việc thông báo kịp thời là của người phải thi hành giống như
quy định 316 của Bộ Quy tắc và Quy định của Hiệp hội Bông quốc tế và
điều V của Công ước 1958. Cũng như những quy định của Bộ luật về phần
này không quy định dẫn chiếu là sẽ ưu tiên áp dụng các Hiệp định, ĐƯQT
109
mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia nếu các Hiệp định, ĐƯQT tế có quy
định khác. Do vậy, việc thông báo kịp thời và hợp thức phải được hiểu theo
những quy định về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng quy định tại
Điều 146 đến Điều 156 Bộ luật Tố tụng Dân sự của Việt Nam và chứng
minh việc này là nghĩa vụ của người yêu cầu.
Kể cả trong trường hợp Điều 370 của BLTTDS 2005 chưa quy định rõ về
nghĩa vụ chứng minh của các bên trong loại việc này thì nhận định trên của TA
rõ ràng chưa thuyết phục. Theo khoản 3 Điều 2 của BLTTDS 2005 thì nếu
ĐƯQT mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy
định khác so với quy định của BLTTDS thì sẽ áp dụng quy định của ĐƯQT đó.
Các quy định của Công ước New York cũng sẽ được ưu tiên áp dụng không chỉ
đối với những vấn đề chưa được điều chỉnh, nội luật hóa trong BLTTDS mà cả
với những vấn đề đã có quy định nhưng còn chưa rõ ràng, cần phải giải thích
thêm. Đây là một trong những hạn chế của TA Việt Nam trong việc thực thi
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM nước ngoài.
Căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài được chia ra
những trường hợp thuộc nghĩa vụ chứng minh của bên phản đối việc thi hành
PQTT tại khoản 1 Điều 459 và những trường hợp mà TA tự mình xét thấy tại
khoản 2 Điều 459. Tức là TA sẽ chỉ tự mình thu thập chứng cứ, xem xét các
trường hợp được quy định tại khoản 2 này bao gồm (a) theo pháp luật Việt Nam,
vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài và (b) việc công
nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật của nước CHXHCN Việt Nam. Đối với các trường hợp
còn lại, TA sẽ không xem xét đến căn cứ này trừ khi Bên phản đối việc thi hành
phán quyết cung cấp được các chứng cứ có căn cứ và hợp pháp chứng minh cho
phản đối của mình như đã quy định tại Điều V.1 của Công ước New York và
Điều 459.1 của BLTTDS 2015. TA cũng sẽ không tự thu thập chứng cứ hay yêu
cầu Bên yêu cầu công nhận và cho thi hành cung cấp chứng cứ chứng minh về
110
thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài của mình trong bất cứ trường hợp nào.
Tuy vậy, thực tiễn xét xử cho thấy một số TA thường tự mình thu thập thêm các
chứng cứ, đặc biệt chứng cứ liên quan đến căn cứ bên phải thi hành không được
thông báo kịp thời và hợp thức về việc thành lập HĐTT, thủ tục giải quyết tranh
chấp tại Trọng tài nước ngoài..v.v. [68]. Như vậy, vô hình chung, TA đang làm
thay nghĩa vụ chứng minh của bên phản đối yêu cầu công nhận và cho thi hành
bởi lẽ nếu TA nhận thấy các luận cứ của bên phản đối chưa đầy đủ, chưa có đủ
căn cứ để chấp thuận phản đối đó thì theo tinh thần của Công ước New York,
TA phải bác các phản đối đó và ra quyết định công nhận và cho thi hành PQTT
nước ngoài thay vì tự mình thu thập, xác minh chứng cứ.
Thứ năm, để tránh trường hợp PQTT nước ngoài bị từ chối công nhận và
cho thi hành ở Việt Nam một cách không hợp lý, BLTTDS 2015 quy định về cơ
chế phúc thẩm quyết định về việc giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam PQTT nước ngoài. Theo Điều 461 BLTTDS 2015 thì trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày TA cấp sơ thẩm ra quyết định công nhận hoặc công
nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài tại Việt Nam, đương sự, người đại diện
hợp pháp của họ có quyền kháng cáo quyết định đó [50, Điều 461]. TA có thẩm
2Theo quy định tại Điều 1 của Nghị quyết 957/NQ-UBTVQH13TAND ngày 28/05/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
1. TAND cấp cao tại thành phố Hà Nội có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với hoạt động tố tụng của 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, gồm Hà Nội, Hải Phòng, Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.
2. TAND cấp cao tại thành phố Đà Nẵng có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với hoạt động tố tụng của 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, gồm Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk
3. Tòa cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với hoạt động tố tụng của 23 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, gồm TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Long An, Tây Ninh, Đắk Nong, Lâm Đồng, Hậu Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Kiên Giang.
quyền xem xét việc kháng cáo, kháng nghị này là các TAND cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh2. Việc phân công các TA cấp cao để xem
111
xét các quyết định sơ thẩm đối với loại việc này là một điểm mới và tiến bộ của
BLTTDS 2015. Điểm mới này cũng dựa trên thực tế là các đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành thường tập trung tại các thành phố lớn là Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh và do đó, thuận lợi cho việc giám sát việc xét xử của các TA
cấp sơ thẩm và tạo điều kiện để thành lập một đội ngũ thẩm phán chuyên biệt,
có kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng để giải quyết loại việc này.
Đồng thời, BLTTDS 2015 cũng ghi nhận khả năng giám đốc thẩm và tái
thẩm quyết định về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài. Theo quy định tại Điều 462.6 của BLTTDS 2015, quyết định của TAND
cấp cao có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và có thể bị kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này. Trong cả
giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm thì các TA vẫn phải tuân thủ
nguyên tắc không xét xử lại tranh chấp mà HĐTT đã giải quyết.
Tuy nhiên, trước đây do BLTTDS 2005 chưa quy định cụ thể về phạm vi
xem xét của Tòa phúc thẩm, cơ chế này chưa thực sự hiệu quả. Trên thực tế, có
TA đã nhận định rằng “Hội đồng chỉ xét kháng cáo của đương sự (bên yêu cầu)
liên quan đến các điều kiện để công nhận hoặc không công nhận việc cho thi
hành tại Việt Nam PQTT nước ngoài [….]. Còn các vấn đề khác về sự vi phạm
thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, thời hạn mở phiên họp xét đơn yêu cầu; về sự
vi phạm trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ của
TAND cấp sơ thẩm (nếu có) như bên yêu cầu trình bày nhưng không làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên nên Hội đồng xét đơn không
xem xét” [76]. Đáng lưu ý là việc xác định sai nghĩa vụ chứng minh và cung cấp
chứng cứ của các bên đương sự đương nhiên sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là
quyết định của hội đồng xét đơn không thể chính xác vì hội đồng xét đơn, theo
nguyên tắc, chỉ xem xét hồ sơ, tài liệu mà các bên đã nộp lên. Chính vì vậy, để
khắc phục thiếu sót trong BLTTDS 2005, Điều 462.5 (a) BLTTDS 2015 đã làm
rõ một trong các trường hợp mà Hội đồng xét đơn cấp phúc thẩm sẽ hủy quyết
112
định của TA cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho TA cấp sơ thẩm để giải quyết lại
theo thủ tục cấp sơ thẩm trong trường hợp “việc chứng minh của đương sự phản
đối việc công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài hoặc căn cứ để TA cấp
sơ thẩm quyết định công nhận hoặc không công nhận phán quyết của Trọng tài
nước ngoài không đúng với quy định tại Chương XXXV và Chương XXXVII của
Bộ luật này,các quy định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam và ĐƯQT
mà CHXHXN Việt Nam là thành viên”. Như vậy, có thể hiểu là theo quy định
mới của BLTTDS 2015, TA cấp phúc thẩm không chỉ đơn thuần giữ vai trò
giám sát khi xem xét lại các căn cứ mà TA cấp sơ thẩm đã dựa vào để từ chối
công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài mà còn xem xét cả các sai sót khác
của TA cấp sơ thẩm như nghĩa vụ chứng minh và các thủ tục tố tụng khác [50,
điểm b khoản 5 Điều 462].
3.2.2.2. Công nhận và cho thi hành một phần phán quyết trọng tài
Phù hợp với quy định tại Điều V(1)(c) của Công ước New York, điểm d
khoản 1 Điều 459 BLTTDS 2015 cũng có quy định cho phép TA có thể công
nhận và cho thi hành một phần PQTT nước ngoài thay vì từ chối thi hành toàn
bộ nội dung của PQTT nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bên được thi hành. Cụ
thể: “Trường hợp có thể tách được phần quyết định về vấn đề đã được yêu cầu
và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài nước
ngoài thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết có thể được công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam”.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, quy định này chưa được các TA vận dụng một
cách linh hoạt để ủng hộ việc thi hành các PQTT nước ngoài. Ví dụ, khi xem xét
công nhận và cho thi hành PQTT của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Thụy Sỹ giữa
Bị đơn là một công ty của Singapore và Nguyên đơn là một công ty Việt Nam,
TA cấp sơ thẩm đã nhận định rằng khi giải quyết tranh chấp, HĐTT không chỉ
đề cập tới hợp đồng mua bán thép mà còn đề cập tới cả L/C cho hợp đồng mua
bán thép. TA đã xác định Trọng tài không có thẩm quyền đối với những vấn đề
113
liên quan tới L/C nên “việc [Bị đơn] yêu cầu Trọng tài buộc [Nguyên đơn] bồi
thường do L/C không được Ngân hàng S thanh toán là không thuộc thẩm quyền
của Trọng tài. TTV duy nhất chấp nhận thụ lý và ra phán quyết đối với yêu cầu
phản tố liên quan đến vấn đề thanh toán L/C của [Bị đơn] là vượt quá thẩm
quyền”. Trong thực tế, đối với các nội dung khác về hợp đồng mua bán thép
giữa các bên, không có thông tin nào cho thấy HĐTT đã vượt quá yêu cầu
[Quyết định số 17/2014/QĐST-KDTM ngày 11/08/2014, TAND tỉnh Đồng
Nai]. Do đó, theo NCS trong trường hợp này, TA nên công nhận và cho thi hành
các quyết định liên quan đến hợp đồng thép hoặc có phần lập luận về khả năng
tách hay không tách phần vượt quá thẩm quyền của HĐTT trong phán quyết để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Trong khi đó, thực tiễn xét xử của các TA trên thế giới cho thấy, quy định
này được vận dụng hết sức linh hoạt để ủng hộ tối đa khả năng thi hành của
PQTT nước ngoài. Ví dụ, trong vụ việc giữa Four Seasons Hotels và Resorts
B.V. et al. v. Consorcio Bar S.A, TA, HĐTT đã ban hành phán quyết để giải
quyết các tranh chấp trong nhiều hợp đồng. Tuy vậy, một trong số các hợp đồng
này không thuộc phạm vi của thỏa thuận trọng tài. TA của Mỹ đã thi hành phần
PQTT liên quan đến các hợp đồng còn lại [119]. Các TA cũng áp dụng thẩm
quyền này trong trường hợp có nhiều bên tham gia trọng tài nhưng có một bên
không bị ràng buộc bởi thỏa thuận trọng tài. Trung Quốc và Mỹ là một ví dụ.
TANDTC của Trung Quốc đã công nhận một phần PQTT liên quan đến nghĩa
vụ của các bên trong thỏa thuận trọng tài và không thi hành phần nội dung phán
quyết liên quan đến một bên không ký kết thỏa thuận trọng tài [167]. TA của
Mỹ cũng có hướng xét xử tương tự như vậy [120].
Cần lưu ý rằng việc thi hành một phần PQTT không chỉ giới hạn ở Điều
V(1)(c) của Công ước New York mà được áp dụng như một nguyên tắc chung,
quan trọng của Công ước New York cho tất cả các căn cứ để từ chối công nhận
và thi hành phán quyết khác theo Điều V của Công ước [206, tr. 328], [101,
114
đoạn 2731], [155, tr. 639- 676]. Thực tiễn xét xử quốc tế cho thấy nhiều TA đã
viện dẫn nguyên tắc thi hành một phần tại Điều V.1(c) của Công ước New York
để cho phép thi hành một phần các PQTT bị phản đối dựa trên các căn cứ khác.
Ví dụ, một số TA đã cho thi hành một phần PQTT mà đáng lẽ phán quyết đó đã
bị từ chối thi hành trên cơ sở vi phạm chính sách công [128], [103, đoạn 3445-
3446], [166]. Trong một vụ việc khác, PQTT đang bị xin hủy tại TA nơi có địa
điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, Tòa Phúc thẩm của Anh và xứ Wales
đã xem xét cho thi hành một phần PQTT mà không phải là nội dung bị xin hủy
[110], [132].
Như vậy, mặc dù đây là một quy định quan trọng của Công ước New
York và Luật Mẫu UNCITRAL nhưng lại chưa được vận dụng một cách hữu
hiệu và linh hoạt tại các TA Việt Nam. NCS cho rằng nguyên nhân của thực
trạng này là do lối tư duy ủng hộ, hỗ trợ TTTM nói chung và PQTT nước ngoài
nói riêng của các TA Việt Nam hiện nay còn hạn chế. NCS sẽ phân tích kỹ hơn
nội dung này tại chương 4 của Luận án.
Kết luận Chƣơng 3
Các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM trong nước và nước ngoài về cơ bản đã khá phù hợp với các
quy định của Luật Mẫu UNCITRAL và Công ước New York. Đặc biệt, các sửa
đổi bổ sung trong LTTTM và BLTTDS hiện hành đã hoàn thiện hơn và mang
tính ủng hộ khả năng thi hành của thỏa thuận trọng tài và PQTT hơn so với
PLTTTM và BLTTDS 2005. Điều này cũng góp phần tích cực vào việc nâng
cao chất lượng thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với
TTTM, đặc biệt liên quan đến việc đảm bảo khả năng thi hành thỏa thuận trọng
tài mà các bên đã thỏa thuận cũng như hỗ trợ việc công nhận và cho thi hành
PQTT trong nước và PQTT nước ngoài ở Việt Nam.
Mặc dù vậy, vẫn còn bất cập thể hiện ở chỗ một số những quy định chưa
được hướng dẫn cụ thể, hoặc còn chưa thực sự phù hợp với pháp luật quốc tế, ví
115
dụ như quy định về thẩm quyền hỗ trợ của TA đối với TTTM nước ngoài, quy
định về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT, hay quy định về các căn cứ để
hủy hoặc để công nhận và cho thi hành PQTT. Hệ quả là khi thực thi thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của mình, TA vẫn còn lúng túng hay có cách giải quyết
chưa thực sự thống nhất và thuyết phục. Một số thẩm quyền hỗ trợ khác như thu
thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng, dù luật đã trao cho TA quyền xử lý
và quy định hình thức xử lý, nhưng quy định này chưa có sức sống, chưa phát
huy được tác dụng trong thực tế. Hầu như các TA chưa “dám” sử dụng quyền
này [28]. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng cho thấy cách giải quyết một số TA còn
chưa thực sự mang tính ủng hộ TTTM, chưa phù hợp với tinh thần của Công
ước New York mà Việt Nam là thành viên, mà ngược lại TA dường như viện ra
mọi lý do để cố tình từ chối, lẩn tránh thi hành quyết định về tài sản trong PQTT
nước ngoài [19]. Điều này cho thấy các thẩm phán Việt Nam chưa hoàn toàn
thiện chí trong mối quan hệ với TTTM, thậm chí còn có sự phân biệt đối xử giữa
TTTM trong nước và TTTM nước ngoài. Mặt khác, cơ chế giám sát nội bộ việc
thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp giữa TANCTC và các TA cấp sơ thẩm còn
chưa thực sự hữu hiệu. Điều này thể hiện rõ thông qua việc số liệu thống kê các
vụ việc liên quan đến thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM
không được cập nhật một cách đầy đủ, thường xuyên. Kết quả giải quyết đối với
từng loại việc cụ thể cũng chưa được báo cáo một cách chi tiết, nhất là các việc
liên quan đến TTTM nước ngoài.
Việc phân tích thực trạng pháp luật và chỉ ra các bất cập trong việc thực
thi pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM của
trong nước và TTTM nước ngoài là cơ sở để xác định phương hướng, giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, và giải pháp nâng cao hiệu
quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM trong
thời gian tới. Các giải pháp này được trình bày tại Chương 4 của Luận án.
116
CHƢƠNG 4
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI THẨM QUYỀN HỖ TRỢ
TƢ PHÁP CỦA TÒA ÁN VIỆT NAM ĐỐI VỚI
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
4.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tƣ pháp
của Tòa án Việt Nam đối với Trọng tài Thƣơng mại
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa
án đối với Trọng tài Thương mại phù hợp với pháp luật quốc tế và thực tiễn của
Việt Nam
Như đã phân tích ở Chương 3, mặc dù các quy định của pháp luật Việt Nam về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM về cơ bản đã có sự tương thích với
Luật Mẫu UNCITRAL và với Công ước New York, tuy nhiên, vẫn còn có những quy
định chưa phù hợp, chưa cụ thể và còn khá nhiều bất cập, thậm chí có quy định quá
chặt chẽ nên không tạo được sự thông thoáng cho việc thực thi pháp luật trong thực tế.
Vì vậy, phương hướng chung trong thời gian tới là pháp luật Việt Nam cần tiếp tục
phải được hoàn thiện với những sửa đổi, bổ sung để vừa có thể loại bỏ những bất cập
đó, vừa có sự phù hợp với Công ước New York. Luật Mẫu UNCITRAL, và pháp luật
của các quốc gia có nền Trọng tài phát triển như Singapore, Pháp, Anh v.v…
Luật Mẫu UNCITRAL và Công ước New York là những văn bản pháp lý quan
trọng được soạn thảo và thông qua bởi các chuyên gia hàng đầu thế giới nhằm đạt
được sự thống nhất về cách thức tố tụng trọng tài cũng như về thẩm quyền của TA
quốc gia đối với TTTM theo tiêu chuẩn quốc tế, tức là hạn chế thấp nhất việc can thiệp
của TA và đạt được sự hỗ trợ cao nhất từ TA [115, tr. 124]. Chính vì vậy hai văn bản
này có thể coi là thước đo tiêu chuẩn, là căn cứ để hoàn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTTM. Việc
hoàn thiện pháp luật để phù hợp với các quy định của Luật Mẫu UNCITRAL và Công
ước New York sẽ giúp cho TA Việt Nam dễ dàng hơn trong việc áp dụng và giải thích
117
pháp luật dựa trên các hướng dẫn của hai văn bản này cũng như một số kinh nghiệm
của các nước đã được tổng kết và công bố trên trang thông tin điện tử chính thức của
UNCITRAL. Từ đó, TA Việt Nam sẽ có cách giải quyết đúng đắn và phù hợp để thực
thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM khi được yêu cầu. Ví dụ, so sánh với các
nước khác thì New Zealand đã tiếp thu hoàn toàn các quy định của Luật Mẫu
UNCITRAL. Phần thứ nhất của Luật Trọng tài New Zealand năm 2007 bao gồm các
quy định chung áp dụng cho cả Trọng tài trong nước và quốc tế. Trong khi đó, Phần
thứ 2 bao gồm các quy tắc không bắt buộc đối với Trọng tài trong nước, và các bên
trong TTTM quốc tế cũng có thể thỏa thuận để lựa chọn để áp dụng. Hoặc như ở
Singapore, các vấn đề liên quan đến Trọng tài trong nước được quy định tại Chương
10 (Luật Trọng tài), còn các vấn đề liên quan đến Trọng tài quốc tế được quy định ở
Chương 143A (Luật Trọng tài quốc tế). Tuy nhiên, vì Luật Trọng tài của Singapore
hầu như dựa vào Luật Mẫu UNCITRAL nên về bản chất, không có sự khác biệt giữa
Trọng tài trong nước và Trọng tài quốc tế nói chung và thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA Singapore đối với hai loại Trọng tài này nói riêng. Singapore là một nước ở Đông
Nam Á như Việt Nam nhưng họ lại có sự phát triển mạnh về kinh tế, thương mại, và
đặc biệt là về hoạt động của TTTM. SIAC của Singapore cũng là một trong những
trung tâm Trọng tài hàng đầu trên thế giới. Việc học tập kinh nghiệm từ Singapore
theo NCS, sẽ tạo điều kiện để các tranh chấp tại TTTM nước ngoài chọn địa điểm giải
quyết tại Việt Nam và được hưởng dụng thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam.
Đây là điều quan trọng để tạo lập uy tín của TA Việt Nam trong lĩnh vực tư pháp quốc
tế cũng như tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Hơn nữa, ở Việt Nam, quy định về TTTM trong nước và TTTM nước ngoài có
địa điểm giải quyết tranh chấp ở Việt Nam nằm trong LTTTM, còn quy định về thẩm
quyền hỗ trợ của TA Việt Nam đối với TTTM nước ngoài liên quan đến việc công
nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài tại Việt Nam lại quy định riêng ở BLTTDS.
Đặc biệt, như đã phân tích lại Mục 3.2.1, các căn cứ để hủy PQTT trong nước và căn
cứ để từ chối công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài cũng không tương thích
118
với nhau. Mặt khác, nếu PQTT trong nước không bị yêu cầu hủy trong vòng 30 ngày
kể từ ngày các bên nhận được phán quyết đó thì PQTT có hiệu lực thi hành như bản án
của TA Việt Nam. Còn PQTT nước ngoài lại phải trải qua thủ tục công nhận và cho
thi hành hết sức rắc rối, và nghĩa vụ chứng minh của bên phản đối yêu cầu công nhận
và cho thi hành PQTT nước ngoài lại không khắt khe như đối với bên yêu cầu hủy
PQTT trong nước. Điều này rõ ràng không phù hợp với tinh thần của Công ước New
York và Luật Mẫu UNCITRAL. Chính vì vậy, NCS cho rằng bản thân những nhà làm
luật ở Việt Nam đang có sự “phân biệt đối xử” đối với hai loại trọng tài này. Và đây
cũng là lý do mà TA Việt Nam chưa thực sự có thiện chí trong việc thực thi thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động TTTM nước ngoài ở Việt Nam. Trong khi đó,
một số nước như Pháp, Đức hay Nhật, quy định về Trọng tài trong nước và Trọng tài
nước ngoài được thiết kế như một chương trong Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đối với
những nước có đạo luật trọng tài riêng như Anh, Mỹ, Singapore v.v... thì các quy định
liên quan đến TTTM trong nước và TTTM nước ngoài, bao gồm cả thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM đều được quy định trong cùng một đạo luật này.
Chính vì vậy, NCS cho rằng việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới
các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là phương hướng quan trọng nhất để thúc đẩy
hoạt động của TTTM nói chung và tăng cường thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA Việt Nam đối với TTTM nói riêng.
4.1.2. Tăng cường cơ chế thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối
với Trọng tài Thương mại
Có pháp luật và pháp luật sẽ được hoàn thiện nhưng nếu không có cơ chế giám
sát hữu hiệu liên quan đến việc thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM nói riêng thì pháp luật cũng không thực sự “sống” và đạt được hiệu quả trên
thực tế. Vì vậy, cùng với phương hướng chung là tiếp tục hoàn thiện pháp luật thì cũng
cần phải chú ý đến cơ chế thực thi pháp luật và tính hiệu quả của cơ chế này. NCS cho
rằng đây là phương hướng thứ hai trong mối quan hệ với phương hướng thứ nhất nêu
119
ở Mục 4.1.1 của Luận án, nhằm nâng cao chất lượng xét xử của TA Việt Nam trong
việc thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM.
Như đã nêu tại Chương 3 của Luận án, việc không có thống kê chi tiết và cập
nhật thường xuyên về kết quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với
TTTM trong từng loại việc cụ thể liên quan đến TTTM trong nước và nước ngoài, ví
dụ số lượng yêu cầu áp dụng BPKCTT để hỗ trợ TTTM, số lượng yêu cầu triệu tập
người làm chứng hay thu thập chứng cứ v.v... cho thấy cơ chế giám sát nội bộ giữa
TANDTC và các TA cấp dưới hay giữa Bộ Tư pháp và hệ thống TA còn chưa thực sự
hữu hiệu. Hậu quả của việc thiếu vắng một cơ chế giám sát hữu hiệu và thường xuyên
giữa các cơ quan này khiến cho TANDTC và Bộ Tư pháp khó có thể giám sát một
cách chặt chẽ kết quả việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của các TA địa phương,
cũng như những khó khăn, vướng mắc còn tồn đọng trong quá trình áp dụng pháp luật
về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA địa phương liên quan đến TTTM hay trong việc
thực thi các cam kết của Việt Nam trong Công ước New York và các ĐƯQT song và
đa phương khác.
Hơn nữa, BLTTDS 2005 cũng như BLTTDS 2015 đều có ghi nhận cơ chế
phúc thẩm quyết định của TA cấp sơ thẩm về việc giải quyết đơn yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, hạn chế
của cơ chế xét xử này là sẽ mất rất nhiều thời gian, thậm chí có thể lên đến vài năm, để
công nhận và cho thi hành một PQTT nước ngoài ở Việt Nam. Trong khi đó, theo
LTTTM, quyết định hủy PQTT trong nước của TA cấp sơ thẩm lại không thể được
kháng cáo, kháng nghị. Vô hình chung, pháp luật Việt Nam tạo nên một sự phân biệt
đối xử giữa TTTM trong nước và TTTM nước ngoài. Không chỉ vậy, theo Điều 44
LTTTM hiện nay, không có cơ chế để xem xét lại hay giám sát việc giải quyết khiếu
nại quyết định của HĐTT về việc không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài
vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của HĐTT. Hậu
quả là nhiều TA cấp sơ thẩm còn gặp khó khăn, lúng túng khi giải quyết các vụ việc
liên quan đến TTTM, nhiều quyết định của TA cấp sơ thẩm liên quan đến việc xem
120
xét giá trị của thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của HĐTT, thi hành PQTT trong nước
và nước ngoài còn chưa thực sự thuyết phuc.
NCS cho rằng, TA Việt Nam cần có một cơ chế giám sát nội bộ chặt chẽ và
hữu hiệu hơn nữa để đảm bảo hiệu quả và chất lượng của việc thực thi thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM. Để xây dựng cơ chế này, Việt Nam hoàn
toàn có thể học tập kinh nghiệm từ Trung Quốc. Theo đó, trong trường hợp TA cấp
sơ thẩm cho rằng PQTT vô hiệu hay không thể thực hiện được, HĐTT không có
thẩm quyền hay PQTT có thể bị hủy hay từ chối công nhận và cho thi hành thì sẽ
phải tham khảo ý kiến của các TA cấp cao hơn để xem xét lại trước khi ra quyết
định. Ngoài ra, hàng năm, TA cấp sơ thẩm cần có báo cáo nội bộ về kết quả giải
quyết các vụ việc liên quan đến TTTM, trong đó có cả việc hỗ trợ tư pháp của TA
Việt Nam đối với TTTM (nếu có) cho TANDTC và Bộ Tư pháp để các cơ quan
này có thể kịp thời hướng dẫn và chỉ đạo.
Không chỉ cần xây dựng cơ chế phối hợp và giám sát nội bộ trong hệ thống TA,
hay giữa các cơ quan chức năng của Việt Nam là TA và Bộ Tư pháp, NCS cho rằng
trong thời kỳ hội nhập như hiện nay, VN còn cần xây dựng cơ chế hợp tác quốc tế linh
hoạt và sâu sắc với các nước khác, tranh thủ kinh nghiệm liên quan đến thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM của các nước bạn để hoàn thiện hơn pháp luật cũng
như cơ chế thực thi liên quan đến vấn đề này.
4.1.3. Đẩy mạnh phát triển các nguồn lực, đổi mới tư duy và phát huy vai trò
của Tòa án trong hỗ trợ tư pháp đối với Trọng tài Thương mại
Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa TA và TTTM chưa thực sự gắn kết. Tác giả
Phạm Duy Nghĩa từng nhận xét rằng “các thể chế ở Việt Nam có dấu hiệu được tổ
chức như những lãnh địa quyền lực riêng rẽ, năng lực hợp tác hàng ngang rất kém,
điều ấy không nên xảy ra giữa Trọng tài và TA…. Cần phải hiểu rằng Trọng tài chỉ là
một cánh tay nối dài của nền tư pháp nhằm đảm bảo công lý. Thiếu sự hỗ trợ tư pháp
của TA, Trọng tài sẽ trở nên một thế chế không nanh không vuốt” [34].
Hơn nữa, nhiều TA vẫn có tâm lý ủng hộ công dân, pháp nhân Việt Nam khi
121
giải quyết các vụ việc liên quan đến TTTM, đặc biệt là đối với TTTM nước ngoài. Từ
đó, còn có hiện tượng một số TA cố tình “viện ra mọi lý do để cố tình từ chối, lẩn tránh thi hành quyết định về tài sản trong bản án, quyết định của nước ngoài” [19].
Đây cũng là một trong những lý do khiến cho số lượng vụ việc yêu cầu TA hỗ trợ tư
pháp đối với TTTM, đặc biệt là đối với TTTM nước ngoài, ở nước ta còn thấp, thậm
chí là chưa có vụ việc nào. Nói cách khác, chính cách mà nhiều TA đang tiếp cận và
thái độ không ủng hộ của một số TA đối với TTTM đã khiến cho các bên tranh chấp
tại TTTM mất niềm tin vào sự hỗ trợ của TA, và cho rằng TA chỉ đóng vai trò giám
sát hoạt động của TTTM chứ không phải là giúp đỡ, hỗ trợ tố tụng trọng tài và đảm
bảo thi hành thỏa thuận trọng tài và PQTT như mong đợi.
Trong khi đó, theo quy định của câu đầu tiên của Điều V.1 Công ước New
York, việc Công ước sử dụng thuật ngữ “có thể” nhằm chỉ ra rằng các TA không có
nghĩa vụ bắt buộc phải từ chối việc thi hành phán quyết dựa trên các căn cứ nêu tại
điều này [106, tr. 356], [159, tr. 17], [116, tr. 307-309]. Điều 36 Luật Mẫu
UNCITRAL cũng quy định tương tự rằng việc công nhận hay thi hành PQTT, bất kể
phán quyết này được tuyên ở nước nào, “chỉ có thể” bị từ chối trong một số trường
hợp nhất định. Hơn nữa, theo quy định tại Điều VII.1 của Công ước, TA hoàn toàn có
thể cho phép thi hành các PQTT đã bị đình chỉ hoặc tuyên hủy tại nước nơi phán quyết
được ban hành trên cơ sở thuật ngữ “có thể” tại Điều V.1 hoặc quy định về quyền ưu
đãi hơn theo pháp luật trong nước theo Điều VII.1 của Công ước [121]. Quá trình soạn
thảo Công ước cũng cho thấy thẩm quyền tự quyết của TA để công nhận một phán
quyết bất kể có căn cứ để từ chối là một trong bảy “danh sách điều ước” mà Công ước
New York muốn hướng tới [201, tr. 41]. TA của nhiều quốc gia như Anh, Mỹ, Hồng
Kông v….v. đã dựa vào cách hành văn này của Công ước New York để thực hiện
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của mình trong việc công nhận và thi hành PQTT theo
hướng ủng hộ khả năng thi hành kể cả khi PQTT thuộc một trong các trường hợp có
thể bị từ chối công nhận tài Điều V của Công ước [110], [121], [131], [134]. Pháp là ví
dụ điển hình nhất về việc TA đã tuyên bố cho phép thi hành một phán quyết mặc dù
122
phán quyết đó đã bị hủy ở quốc gia ban hành [113] [114]. TA Pháp đã thực hiện thẩm
quyền áp dụng theo hướng có lợi hơn cho PQTT trên cơ sở luật pháp của Pháp. Theo
đó, quy định này cho phép TA Pháp áp dụng cơ chế cho thi hành có lợi hơn đối với
việc thi hành so với Công ước New York, nghĩa là theo hướng có thể dẫn tới việc công
nhận và cho thi hành kể cả khi Công ước không cho phép. Trong một vụ việc khác vào
năm 2017 [133], TA Pháp cũng đã từ chối yêu cầu tạm đình chỉ thi hành PQTT nước
ngoài của bên phải thi hành cho đến khi có quyết định về việc hủy PQTT.
Rõ ràng, với tư cách là một cơ quan tư pháp công, TA Việt Nam không có
thẩm quyền lập pháp mà chỉ thi hành và áp dụng pháp luật thông qua hoạt động xét xử
của mình. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, với tư cách là cơ quan công quyền về tư
pháp, cách thức TA áp dụng pháp luật sẽ phản ánh thái độ của TA đối với TTTM và
tác động trực tiếp đến kết quả thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong lĩnh
vực này. Vì vậy, để đảm bảo thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam được áp
dụng một cách thích hợp, phù hợp với pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước New
York mà Việt Nam đã tham gia, thì trước hết cần đổi mới tư duy của TA Việt Nam nói
chung và tư duy của các thẩm phán giải quyết vụ việc liên quan đến hỗ trợ tư pháp đối
với TTTM nói riêng. Đây cũng là quan điểm của ông Đặng Trung Hà, đại diện Bộ Tư
pháp Việt Nam [19]:
“cần nghĩ đến cái lớn hơn, tức là phải đặt lợi ích của quốc gia, của Nhà
nước lên trên lợi ích của một cá nhân con người cụ thể. Nói cách khác,
không thể chỉ vì tâm lý "sợ mất" tiền, tài sản của cá nhân (pháp nhân) mà
làm ảnh hưởng đến vị thế, danh dự và uy tín của Nhà nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc tế. [..], càng tiếp tay cho sự vi
phạm và bất chấp pháp luật. […] uy tín, danh dự của Toà án Việt Nam
cũng bị giảm sút đối với dư luận quốc tế. Đây thực sự là điều quá bất lợi,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu thu hút ngày càng nhiều đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam.”
Mặt khác, tính đến tháng 7 năm 2019, Việt Nam là thành viên của 66 Hiệp định
123
Đầu tư song phương, đã ký kết và và đang đàm phán nhiều Hiệp định Thương mại Tư
do (FTA), trong đó có các Hiệp định FTA thế hệ mới như EVFTA và CPTPP [195].
Các FTA thế hệ mới này đòi hỏi các thành viên, trong đó có Việt Nam phải thực hiện
rà soát và cải cách tư pháp, cải thiện môi trường pháp lý và kinh doanh để bảo vệ nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài khỏi sự can thiệp trái pháp luật, tạo “sân chơi” công
bằng cho DN nhà nước và DN tư nhân. Đặc biệt, theo EVIPA và Nghị quyết số
113/2020/QH14 ngày 18/6/2020 của Quốc hội Việt Nam, trong thời hạn 05 năm kể từ
ngày Hiệp định có hiệu lực (hoặc trong một thời gian dài hơn theo quyết định của Uỷ
ban thành lập theo Điều 4.1 của Hiệp định này), PQTT được ban hành sau thời hạn 05
năm đối với bị đơn là CHXHCN Việt Nam sẽ được công nhận cho thi hành tại Việt
Nam như PQTT nước ngoài theo Công ước New York và BLTTDS. Sau thời hạn này,
PQTT của Ủy ban giải quyết tranh chấp của EVIPA sẽ được coi như bản án có hiệu
lực pháp luật của Tòa án Việt Nam và TA Việt Nam ra quyết định công nhận và cho
thi hành PQTT trên lãnh thổ Việt Nam khi người được thi hành PQTT có đơn yêu cầu.
Đây có thể sẽ là hướng phát triển tiếp theo của phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài. Và do đó, cùng với việc gia tăng giao thương giữa các thành viên của Hiệp
định, số lượng vụ tranh chấp được giải quyết tại trọng tài cũng như số lượng các PQTT
thương mại và PQTT đầu tư được yêu cầu thi hành tại Việt Nam sẽ tăng mạnh. Nếu
một số TA Việt Nam vẫn không thay đổi quan điểm, vẫn có sự phân biệt đối xử giữa
TTTM trong nước và TTTM nước ngoài, hay vẫn có xu hướng bảo hộ công dân,
Chính phủ Việt Nam và tìm mọi cách để từ chối công nhận và cho thi hành PQTT thì
rất có khả năng TA Việt Nam bị xem như vi phạm các cam kết quốc tế, không chỉ gây
ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín trên thị trường của Việt Nam mà còn có thể tạo căn cứ để
nhà đầu tư kiện chính phủ Việt Nam do vi phạm các cam kết quốc tế đó.
Trên cơ sở đó, phương hướng quan trọng để nâng cao chất lượng thực hiện
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM là phải làm cho TA nhận thức rõ
ràng rằng TTTM và TA là các đối tác trong một hệ thống để đảm bảo công lý chứ
không phải là đối thủ của nhau [96]. TA phải trở thành đối tác để hỗ trợ tố tụng trọng
124
tài diễn ra hiệu quả hơn [151, tr. 2]. TTTM được thành lập nhằm giải quyết các tranh
chấp về thương mại và việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại TTTM sẽ góp
vẫn giảm nhẹ áp lực quá tải của TA.
Trong mọi trường hợp, khi tham gia vào tố tụng trọng tài, TA phải đảm bảo
quyền lợi của các bên và tránh bất kỳ sự tốn kém hoặc trì hoãn về mặt thời gian [112].
Điều này sẽ góp phần quan trọng, giúp TA thực hiện đầy đủ quyền lực tư pháp nói
chung và thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM nói riêng.
4.2. Các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tƣ
pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thƣơng mại
Để nâng cao nâng cao hiệu quả của việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA Việt Nam đối với TTTM, NCS đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM, bao gồm các giải pháp cụ
thể sau đây:
4.2.1. Loại bỏ sự chưa thống nhất trong cách sử dụng từ, thuật ngữ trong
Luật Trọng tài Thương mại và trong Bộ luật Tố tụng Dân sự
Như đã phân tích tại Mục 3.1.1.1 của Chương 3, bất cập của pháp luật Việt
Nam là ở chỗ giữa LTTTM và BLTTDS chưa có sự thống nhất trong sử dụng từ, thuật
ngữ. Cùng là một nội dung nhưng LTTTM sử dụng từ “TA phải từ chối thụ lý” (Điều
6), trong khi đó, BLTTDS và Nghị quyết 01/2014 thì sử dụng từ “TA phải trả lại đơn
khởi kiện”. Do đó, theo NCS, bất cập này cần phải loại bỏ nhằm tạo sự thống nhất
trong cách sử dụng thuật ngữ, đồng thời tạo sự dễ dàng cho việc thực thi pháp luật trên
thực tế. Giải pháp cụ thể cho vấn đề này, theo NCS, là phải sửa đổi LTTTM.
Cụ thể, Điều 6 của LTTTM nên thay cụm từ TA phải “từ chối thụ lý” bằng cụm
từ TA phải “trả lại đơn khởi kiện”. Như vậy sẽ loại bỏ bất cập và tạo sự thống nhất
trong cách dùng từ, thuật ngữ của cả LTTTM, BLTTDS và Nghị quyết 01/2014.
Chính sự thống nhất này sẽ tạo nên cách hiểu thống nhất cho các TA Việt Nam khi
thực thi các quy định có liên quan của pháp luật TTTM.
125
4.2.2. Sửa đổi khái niệm về “Trọng tài nước ngoài”
Khái niệm “PQTT nước ngoài” theo pháp luật Việt Nam còn chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế, mà cụ thể là chưa tương thích với quy định của Công ước New York
khi không sử dụng một tiêu chí duy nhất là “địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài” (“seat of arbitration”) để xác định quốc tịch của một PQTT. Trong khi đó, theo
nguyên tắc chung của pháp luật TTTM quốc tế thì “địa điểm giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài” là thuật ngữ pháp lý mà theo đó, tố tụng trọng tài sẽ được điều chỉnh
bởi luật của nước nơi có địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài [192, tr. 2-4], và
TA của nước nơi có địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ có thẩm quyền tài
phán nói chung và thẩm quyền hỗ trợ tư pháp nói riêng đối với quá trình xét xử vụ
việc tại trọng tài đó. Nói cách khác, đây là tiêu chí về lãnh thổ. Đây cũng là lý do mà
Nghị quyết 01/2014 đã quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối
với hoạt động của TTTM nước ngoài tại Việt Nam, nhưng phán quyết do HĐTT
nước ngoài ban hành này vẫn sẽ phải trải qua quá trình công nhận và cho thi hành
theo quy định của BLTTDS để có hiệu lực thi hành trên lãnh thổ Việt Nam [23, điểm
a khoản 5 Điều 5].
Do đó, NCS đề xuất sửa đổi khái niệm về “Trọng tài nước ngoài” nêu tại Điều
3.11 của LTTTM như sau “Trọng tài nước ngoài là Trọng tài có thủ tục tố tụng trọng
tài được tiến hành theo quy định của pháp luật Trọng tài nước ngoài do các bên thỏa
thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp”. Theo đó, phán quyết của các tổ
chức Trọng tài quốc tế như Tòa Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC),
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông, SIAC nếu có địa điểm giải quyết tranh chấp
tại Việt Nam thì sẽ được xem là PQTT trong nước và TA Việt Nam sẽ có thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp khi giải quyết yêu cầu hủy các PQTT này.
4.2.3. Bổ sung các quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với
việc đảm bảo thi hành thỏa thuận trọng tài
Như đã nêu tại Mục 3.1.1 của Luận án, quy định của pháp luật Việt Nam liên
quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với việc đảm bảo thi hành thỏa thuận trọng tài
126
còn thiếu các quy định chi tiết về việc TA hướng dẫn các bên đưa tranh chấp ra giải
quyết tại TTTM và về quyền được trình bày, về quyền được nêu ý kiến của các bên
khi TA giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định thẩm quyền của HĐTT của một
bên. NCS cho rằng cần bổ sung các quy định liên quan đến các vấn đề nêu trên.
Cụ thể, liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong việc hướng dẫn
các bên đưa tranh chấp ra giải quyết tại TTTM, Điều 6 của LTTTM cần sửa đổi như
sau “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên
khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý và hướng dẫn các bên đưa tranh
chấp ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả
thuận trọng tài không thể thực hiện được.”. Để làm rõ hơn quy định này, NCS cho
rằng có thể bổ sung hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết 01/2014 như
sau: Khi từ chối thụ lý đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án, TA sẽ căn cứ vào
thỏa thuận trọng tài của các bên để hướng dẫn các bên đưa tranh chấp ra giải quyết tại
TTTM:
(i) Trong trường hợp các bên đã lựa chọn trung tâm trọng tài hoặc quy tắc
trọng tài của một trung tâm trọng tài cụ thể, TA có thể cung cấp thông tin của trung
tâm trọng tài đó cho các bên.
(ii) Trong trường hợp thỏa thuận của các bên không chỉ rõ hình thức trọng tài
hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, TA sẽ căn cứ vào khoản 5 Điều
43 LTTTM để cung cấp danh sách các trung tâm trọng tài đang hoạt động ở Việt Nam
và hướng dẫn nguyên đơn có thể lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết
tranh chấp của mình.
Liên quan đến việc bổ sung quy định về quyền được nêu ý kiến của các bên khi
TA giải quyết khiếu nại đối với quyết định về thẩm quyền của HĐTT, cần bổ sung các
quy định tương ứng tại khoản 2 Điều 10 của Nghị quyết 01/2014 như sau: TA không
chỉ thông báo cho HĐTT mà còn thông báo cho bên/ các bên còn lại trong trọng tài về
việc TA đang thụ lý, giải quyết đơn khiếu nại. Vì thời hạn để thẩm phán xem xét, giải
quyết đơn khiếu nại chỉ là 10 ngày kể từ ngày được phân công theo quy định tại khoản
127
4 Điều 44 LTTTM, nên có thể quy định rằng trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo của TA, bên còn lại có quyền đưa ra các ý kiến của mình về khiếu nại
của bên yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ liên quan. Việc cho phép bên còn lại được
trình bày về khiếu nại của bên yêu cầu sẽ giúp cho TA có cái nhìn đầy đủ và chính xác
hơn đối với quyết định về thẩm quyền của HĐTT, đồng thời đảm bảo được quyền tố
tụng của cả hai bên tranh chấp, đảm bảo các bên đều có cơ hội trình bày ý kiến của
mình một cách công bằng. Theo đó, tránh việc TA chỉ dựa vào ý kiến, tài liệu do bên
có khiếu nại đưa ra, và có quyết định không chính xác. NCS cũng cho rằng thời hạn 10
ngày để giải quyết đơn khiếu nại có thể còn quá ngắn đối với một số vụ việc phức tạp.
Vì vậy, nên bổ sung thêm quy định tại khoản 4 Điều 44 LTTTM rằng trong trường
hợp cần thiết, thời hạn giải quyết khiếu nại có thể được kéo dài nhưng không quá 01
tháng để không ảnh hưởng tới tố tụng trọng tài.
4.2.4. Bổ sung các quy định mang tính hướng dẫn về thực hiện thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp của Tòa án trong việc chỉ định trọng tài viên Trọng tài vụ việc, thu
thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng
Với giải pháp này, theo NCS cần bổ sung hai (02) vấn đề sau đây:
Thứ nhất, liên quan đến việc chỉ định TTV Trọng tài vụ việc, như đã nêu tại
Mục 3.1.2, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về tiêu chí để TA căn cứ vào đó lựa
chọn TTV, cũng như quy trình lựa chọn TTV đó. NCS cho rằng cần bổ sung thêm quy
định về các nội dung này tại Điều 8 của Nghị quyết 01/2014. Cụ thể, để lựa chọn TTV
Trọng tài vụ việc thích hợp, TA có thể yêu cầu các bên cung cấp thông tin cơ bản về
tranh chấp như loại tranh chấp (tranh chấp xây dựng, tranh chấp về mua bán hàng hóa
hay tranh chấp trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm), về ngôn ngữ trọng tài, địa điểm
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và pháp luật áp dụng để có chỉ định được TTV có
chuyên môn phù hợp để giải quyết tranh chấp đó. Để đảm bảo TTV được chỉ định sẽ
độc lập, khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp, sau khi đã lựa chọn được
TTV thích hợp, TA cần yêu cầu TTV đưa ra bản tuyên bố về tính độc lập, khách quan
của mình cũng như tiết lộ các tình tiết có thể dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích đối với một
128
hoặc các bên tranh chấp. Trong trường hợp có mâu thuẫn về lợi ích, TA có thể chọn
một TTV hoặc thông báo tới các bên và yêu cầu các bên cho ý kiến có phản đối về
việc chỉ định TTV này không. Trong trường hợp không có mâu thuẫn về lợi ích với
các bên tranh chấp, TA sẽ ra quyết định chỉ định TTV này và gửi thông báo cho các
bên theo quy định tại khoản 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2014.
Thứ hai, theo phân tích tại Mục 3.1.4 của Chương 3 Luận án, một số yêu cầu
hay điều kiện để TA thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM trong việc
trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng còn chưa thực sự phù hợp
với quy định của Luật Mẫu UNCITRAL và của các quốc gia có nền trọng tài phát
triển. Cụ thể, yêu cầu về việc phải chứng minh rằng HĐTT và các bên tranh chấp đã
tiến hành thu thập chứng cứ mà không có kết quả sẽ gây kéo dài quá trình tố tụng
trọng tài, và trong một số trường hợp, HĐTT rõ ràng không thể tự mình thu thập được
chứng cứ nếu chứng cứ đang thuộc sở hữu hay được quản lý bởi một bên thứ ba vì
HĐTT không có thẩm quyền yêu cầu một bên thứ ba cung cấp chứng cứ. Hay đặt
thêm điều kiện về việc phải chứng minh được việc vắng mặt của người làm chứng gây
cản trở đối với việc giải quyết tranh chấp thì TA mới ra quyết định triệu tập người làm
chứng sẽ tạo thành căn cứ để TA được quyền xem xét, đánh giá lại nội dung vụ kiện
trọng tài hoặc TA có thể từ chối hỗ trợ đối với TTTM dựa trên những nhận định sai
lầm, không chính xác. Phân tích các quy định tại Điều 46, 47 của LTTTM và Điều 11
của Nghị quyết 01/2014 cho thấy rằng các quy định này đều cho phép HĐTT có thể
gửi văn bản yêu cầu TA hỗ trợ thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng, NCS
cho rằng có thể loại bỏ các điều kiện về việc yêu cầu phải chứng minh nói trên vì
HĐTT chính là những người hiểu rõ nhất về việc liệu chứng cứ có thể thu thập được
hay không và người làm chứng có vai trò thế nào trong vụ kiện trọng tài đó. Hơn nữa,
việc chỉ cần dựa vào văn bản yêu cầu của HĐTT cũng giảm tải khối lượng công việc
mà TA phải giải quyết liên quan đến TTTM vì khi đó, TA không cần phải tốn thêm
thời gian để xem xét về các điều kiện khác. Điều này cũng nâng cao hiệu quả thực
hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA trong quá trình tố tụng trọng tài, thể hiện rõ
129
mối quan hệ tương trợ giữa TA và TTTM.
4.2.5. Bổ sung quy định mang tính hướng dẫn về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để hỗ trợ Trọng tài
Thương mại
Trước hết, như đã nêu tại Mục 3.1.3, cần có hướng dẫn cụ thể đối với Điều 132
BLTTDS 2015 về các BPKCTT khác mà TA có thể áp dụng. NCS cho rằng có thể rà
soát lại các văn bản pháp luật hiện hành và đưa ra được hướng dẫn cụ thể về các
BPKCTT khác mà TA có thể áp dụng bao gồm những biện pháp cụ thể nào. Từ đó,
tránh tình trạng các bên lạm dụng điều khoản này để đưa ra yêu cầu áp dụng các
BPKCTT không phù hợp, gây ảnh hưởng xấu không chỉ đối với các bên tranh chấp
mà đến cả bên thứ ba có quyền và lợi ích liên quan.
Thứ hai, theo quy định của LTTTM thì TA chỉ hỗ trợ áp dụng BPKCTT trong
tố tụng trọng tài sau khi các bên đã nộp đơn khởi kiện [47, Điều 53]. Tuy nhiên, trong
thực tế có nhiều trường hợp đương sự chỉ muốn yêu cầu TA áp dụng ngay một biện
pháp cần thiết để bảo toàn tài sản, để bảo vệ quyền và lợi ích của mình nhưng vì lý do
khách quan mà họ chưa thực hiện được việc khởi kiện ra TTTM hoặc họ muốn tự
thương lượng để giải quyết với nhau trước khi quyết định việc khởi kiện ra TTTM. Do
đó, quy định này chưa phản ánh đúng bản chất của việc áp dụng BPKCTT là phải đảm
bảo tính kịp thời [27]. Hiện nay, Ủy Ban Tư Pháp Quốc hội đang xúc tiến soạn thảo
và hoàn chỉnh Dự thảo Luật áp dụng BPKCTT trước khi khởi kiện [5]. Theo Dự luật,
sẽ có 10 BPKCTT trước khi khởi kiện gồm: Kê biên tài sản; Cấm thay đổi hiện trạng
tài sản; Cấm chuyển dịch tài sản; Phong tỏa tài khoản ngân hàng, tổ chức tín dụng
khác, kho bạc Nhà nước; Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; Phong tỏa tài sản ở
nơi gửi giữ; Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu
thầu; Thu giữ, niêm phong, cấm di chuyển hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất v.v… Cũng tương tự như quy
định tại Điều 136 BLTTDS 2015, bên xin áp dụng BPKCTT phải thực hiện biện pháp
bảo đảm khi đưa ra yêu cầu. NCS cho rằng TA hoàn toàn có thể hỗ trợ áp dụng
130
BPKCTT cho các bên chuẩn bị khởi kiện ra trọng tài với các biện pháp được Dự thảo
Luật quy định. Vì vậy, NCS cũng ủng hộ Dự thảo Luật hiện nay là mở rộng phạm vi
áp dụng của Luật này cho cả trường hợp các bên chuẩn bị khởi kiện ra trọng tài nhưng
vì lý do khách quan mà chưa thể thực hiện được để có thể bảo vệ quyền và lợi ích của
các bên tham gia TTTM cũng như hỗ trợ tối đa hoạt động của TTTM trong trường hợp
có nhu cầu cấp bách cần áp dụng BPKCTT.
Thứ ba, NCS cho rằng có thể cân nhắc giải pháp nêu trên để hỗ trợ hoạt động
TTTM có địa điểm giải quyết tranh chấp bằng TTTM ở nước ngoài nhưng có tài sản
cần áp dụng BPKCTT ở Việt Nam. Hiện nay, phương án 2 của khoản 2 Điều 5 của Dự
thảo Luật áp dụng BPKCTT trước khi khởi kiện cũng đang thiết kế theo hướng cho
phép TA có thẩm quyền bắt giữ tàu biển để đảm bảo giải quyết khiếu nại hàng hải kể
cả trong trường hợp các bên trong hợp đồng đã lựa chọn TTTM (bao gồm cả TTTM
trong nước và TTTM nước ngoài) [5, Điều 5]. Trên thực tế, điều này cũng được quy
định trong Bộ luật Hàng hải năm 2015 và được vận dụng nhiều năm nay bởi các TA
Việt Nam, đặc biệt là các TA nơi có cảng biển như Hải Phòng, Quảng Ninh, Sài Gòn
v.v... NCS cho rằng, Dự thảo luật này nên mở rộng phạm vi áp dụng cho cả các loại tài
sản khác mà không chỉ có tàu biển. Điều này cũng phù hợp với thực tiễn của hoạt
động thương mại quốc tế cũng như với xu hướng thân thiện với trọng tài (arbitration-
friendly) trên thế giới hiện nay. Hơn nữa, Điều 17J (“BPKCTT được ban hành bởi
TA”) của Luật Mẫu UNCITRAL về TTTM Quốc tế (2006) quy định rằng “TA có
thẩm quyền áp dụng BPKCTT liên quan đến thủ tục tố tụng trọng tài, bất kể địa điểm
của những thủ tục này có nằm trên lãnh thổ của nhà nước này hay không, tương tự
như thẩm quyền của TA đối với thủ tục tố tụng tại TA. TA phải thực hiện thẩm quyền
này phù hợp với thủ tục tố tụng của mình trên cơ sở có xem xét tới các đặc thù của
TTTM quốc tế.” Điều khoản quy định một cách cụ thể việc trao thẩm quyền cho TA để
hỗ trợ tư pháp đối với tố tụng trọng tài, dù địa điểm giải quyết tranh chấp bằng TTTM
ở trong nước hay nước ngoài, thông qua việc áp dụng BPKCTT. Điều này cũng cho
phép thủ tục (và có thể cả tiêu chuẩn) của việc áp dụng thẩm quyền đó được quy định
131
bởi luật tố tụng của quốc gia [191, tr. 11-12 đoạn 42], [188, tr. 20 đoạn 91].
NCS cũng tán thành các khuyến nghị được đưa ra bởi các chuyên gia
quốc tế trong quá trình soạn thảo LTTTM và BLTTDS 2015 rằng Việt Nam có
thể tham khảo quy định của Luật Mẫu UNCITRAL về việc cho phép công
nhận và cho thi hành quyết định áp dụng BPKCTT của Trọng tài nước ngoài
tại Việt Nam [40]. Cụ thể, điều 17H của Luật Mẫu UNCITRAL quy định rằng
TA quốc gia phải cho thi hành BPKCTT do HĐTT ban hành, bất kể biện pháp
đó được ban hành ở quốc gia nào [189, Điều 17H]. Theo điều 17H của Luật
Mẫu UNCITRAL, việc công nhận và cho thi hành BPKCTT do Trọng tài nước
ngoài ban hành có thể bị từ chối dựa trên các căn cứ quy định ở Điều 36
(1)(a)(i), (ii), (iii) hoặc (iv) của Luật Mẫu UNCITRAL. Như vậy, bằng quy
định này hoàn toàn có cơ chế để kiểm soát cũng như giám sát các BPKCTT do
HĐTT nước ngoài ban hành, đảm bảo quyền tài phán của quốc gia nói chung
và thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA nói riêng và vẫn có thể ủng hộ hoạt động
TTTM tối đa. Có nhiều quốc gia theo Luật Mẫu UNCITRAL đã nội luật hóa
quy định này và cho phép quyết định áp dụng BPKCTT của TTTM nước ngoài
có thể được công nhận và thi hành trên lãnh thổ nước mình [101, đoạn 2023-
25] như Singapore [181, khoản 7 Điều 12], Anh [179, khoản 2 Điều 44] và Ấn
Độ [141, Điều 9]. Phân tích trên đây là cơ sở để NCS mạnh dạn đề xuất giải
pháp bổ sung quy định cho phép công nhận và cho thi hành quyết định áp dụng
BPKCTT của TTTM nước ngoài tại Việt Nam.
4.2.6.Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của Tòa án đối với Trọng tài Thương mại nước ngoài có địa điểm giải
quyết tranh chấp tại Việt Nam
Mặc dù Khoản 5 Điều 5 Nghị quyết 01/2014 hiện nay cho phép TA Việt
Nam có thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM nước ngoài có địa điểm giải
quyết tranh chấp tại Việt Nam, tuy nhiên chưa có hướng dẫn cụ thể về trình tự,
thủ tục để giải quyết các yêu cầu này. Vấn đề là liệu trình tự thủ tục để TA
132
thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM nước ngoài tại Việt Nam
có gì khác biệt so với TTTM trong nước hay không, có yêu cầu, điều kiện gì
khác hay TA cần lưu ý những gì khi thực hiện các thẩm quyền này v.v… đều
chưa có hướng dẫn cụ thể. Mà khi chưa có hướng dẫn cụ thể thì khoản 5 Điều
5 của Nghị quyết 01/2014 sẽ khó có khả năng được áp dụng trong thực tiễn,
bởi vì đây là hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM nước ngoài có địa
điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, trong khi đó, sẽ có rất nhiều vấn đề
phát sinh nếu áp dụng quy định này do các quy định của pháp luật liên quan
đến việc áp dụng BPKCTT, triệu tập người làm chứng v.v... giữa Việt Nam và
nước ngoài có nhiều điểm khác biệt.
Thực ra, trong trường hợp quy định về cách xác định Trọng tài trong
nước hay nước ngoài được sửa đổi theo hướng được đề nghị tại Mục 4.2.2 trên,
tức là chỉ dựa vào địa điểm giải quyết tranh chấp để xác định “quốc tịch” của
một vụ kiện trọng tài, thì quy định tại khoản 5 Điều 5 của Nghị quyết sẽ trở
thành “thừa” vì khi đó, Trọng tài nước ngoài có địa điểm giải quyết tranh chấp
tại Việt Nam cũng sẽ được xem là Trọng tài trong nước và TA Việt Nam
đương nhiên sẽ có các thẩm quyền hỗ trợ tư pháp trước khi và trong quá trình
tố tụng trọng tài. Chính vì vậy, NCS một lần nữa cho rằng khái niệm về Trọng
tài trong nước và Trọng tài nước ngoài trong LTTTM và BLTTDS cần phải
được sửa đổi. Trong trường hợp không sửa đổi thì TANDTC cần sớm có văn
bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục để giải quyết các yêu cầu về hỗ trợ tư pháp
của TA Việt Nam đối với TTTM nước ngoài tại Việt Nam theo quy định tại
khoản 5 Điều 5 Nghị quyết 01/2014.
Ngoài ra, NCS cũng khuyến nghị việc xem xét cho phép TA Việt Nam
có thẩm quyền áp dụng các BPKCTT để hỗ trợ tư pháp cho cả Trọng tài nước
ngoài kể cả khi địa điểm giải quyết tranh chấp bằng TTTM không nằm trên
lãnh thổ Việt Nam. Luật Mẫu UNCITRAL và pháp luật của nhiều quốc gia có
nền Trọng tài phát triển như Pháp, Đức, Singapore v.v... là những quốc gia có
133
nền trọng tài phát triển đều cho phép TA có thẩm quyền áp dụng các BPKCTT
để hỗ trợ tư pháp cho cả TTTM trong nước và TTTM nước ngoài, kể cả trong
trường hợp địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không nằm trên lãnh
thổ quốc gia đó. Cụ thể, Điều 17J (“BPKCTT được ban hành bởi TA”) của
Luật Mẫu UNCITRAL quy định rằng TA có thẩm quyền áp dụng BPKCTT
liên quan đến thủ tục tố tụng trọng tài, “bất kể địa điểm của những thủ tục này
có nằm trên lãnh thổ của nhà nước này hay không ”, tương tự như thẩm quyền
của TA đối với thủ tục tố tụng tại TA. TA phải thực hiện thẩm quyền này phù
hợp với thủ tục tố tụng của mình trên cơ sở có xem xét tới các đặc thù của
TTTM quốc tế. Điều khoản quy định một cách cụ thể việc trao thẩm quyền cho
TA để hỗ trợ tố tụng trọng tài, dù địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
ở trong nước hay nước ngoài, thông qua việc áp dụng các BPKCTT [191, tr.
20], [188, đoạn 42]. Đồng thời cũng cho phép thủ tục áp dụng thẩm quyền đó
được quy định bởi luật tố tụng của quốc gia. Ví dụ, Điều 1449 của BLTTDS
Pháp quy định rằng “tùy theo quy định về phong tỏa tài sản và biện pháp bảo
đảm của TA, đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT (BPKCTT) sẽ được gửi tới [Chánh
án Tòa Sơ thẩm hoặc Tòa Thương mại] là người sẽ ra quyết định về các biện
pháp liên quan đến việc thu thập bằng chứng […] và, trong trường hợp khẩn
cấp, liên quan đến biện pháp tạm thời hoặc phong tỏa theo yêu cầu của các
bên tham gia thỏa thuận trọng tài.” Điều 1506 quy định thêm rằng trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác, Điều 1449 “cũng áp dụng cho trọng tài quốc
tế ”. Tương tự, Mục 45 (2) của Pháp lệnh Trọng tài Hồng Kông và Mục 12A
(1) của Đạo luật Trọng tài Quốc tế Singapore cũng trao cho TA thẩm quyền
ban hành BPKCTT bất kể địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở đâu.
Chính vì vậy, việc mở rộng thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối
với cả TTTM nước ngoài không có địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt
Nam là phù hợp với xu hướng phát triển của pháp luật quốc tế, đồng thời, làm
gia tăng sức hấp dẫn của phương thực giải quyết tranh chấp bằng TTTM nói
134
chung và tại Việt Nam nói riêng.
4.2.7. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa
án liên quan đến thi hành phán quyết Trọng tài trong nước
Thứ nhất, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với việc công nhận khả năng thi hành đương nhiên của PQTT
trong nước như nêu tại Mục 3.2.1 cho thấy pháp luật Việt Nam hiện nay có sự
phân biệt đối xử giữa PQTT trong nước và PQTT nước ngoài, đặc biệt có sự
khác biệt giữa các căn cứ hủy PQTT theo LTTTM và căn cứ để từ chối công
nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài. Ví dụ, căn cứ để hủy PQTT không bao
gồm trường hợp bên yêu cầu hủy không được thông báo kịp thời và hợp thức
về việc chỉ định TTV, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước
ngoài. Trong khi đó, đây là một trong những căn cứ thường xuyên được viện
dẫn bởi bên phải thi hành để phản đối việc công nhận và cho thi hành ở Việt
Nam PQTT nước ngoài. Hay trường hợp chứng cứ do các bên cung cấp mà
HĐTT căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo, TTV nhận tiền, tài sản, lợi
ích vật chất khác cũng không được nêu cụ thể như là một căn cứ hủy theo Luật
Mẫu UNCITRAL. Điều này rõ ràng không phù hợp với các quy định của Luật
Mẫu UNCITRAL cũng như tinh thần của Công ước New York. Do đó, NCS
cho rằng cần rà soát lại quy định tại Điều 68 LTTTM và Điều 459 BLTTDS
2015 cũng như quy định tại Điều 34, 36 của Luật Mẫu UNCITRAL, Điều V
của Công ước New York để có sửa đổi phù hợp. Nói cách khác, tương tự như
quy định tại Điều 34 và 36 Luật Mẫu UNCITRAL, các căn cứ để hủy PQTT
trong nước và để từ chối công nhận và cho thi hành PQTT về cơ bản là giống
nhau, từ đó, xóa bỏ sự phân biệt đối xử và giúp TA có thể áp dụng cách giải
thích thống nhất đối với các căn cứ này khi thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp liên quan đến thi hành PQTT trong nước và nước ngoài. Đây chính là cơ
sở pháp lý để NCS đề xuất sửa đổi quy định tại Điều 68 LTTTM theo hướng
thống nhất với các căn cứ để từ chối PQTT nước ngoài tại BLTTDS 2015.
135
Như đã nêu tại Mục 3.2.1.2 trong Chương 3 của Luận án, quy định cho
phép HĐTT được sửa chữa, bổ sung PQTT là một trong những quy định tiến
bộ, phù hợp với quy định của Luật Mẫu UNCITRAL và loại bỏ căn cứ hủy
PQTT do sai sót không đáng kể của HĐTT. Tuy nhiên, quy định này lại ít khi
được áp dụng vì nó mới chỉ cho phép HĐTT khắc phục sai sót về tố tụng trọng
tài và chưa có hướng dẫn cụ thể về những nội dung mà HĐTT có thể được sửa
chữa. Vì vậy, theo NCS, cần sửa đổi khoản 7 Điều 71 LTTTM theo hướng cho
phép HĐTT được bổ sung và khắc phục cả các sai sót trong PQTT và các nội
dung mà HĐTT có thể sửa chữa, bổ sung chính là các nội dung được quy định
tại khoản 1 và khoản 4 Điều 63 LTTTM. Tức là, trong quá trình xem xét yêu
cầu hủy PQTT, TA có thể tạo điều kiện để HĐTT sửa chữa những lỗi rõ ràng
về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai trong PQTT hoặc bổ
sung quyết định đối với những yêu cầu được trình bày trong quá trình tố tụng
nhưng không được ghi trong PQTT, từ đó, loại bỏ nguy cơ hủy PQTT do
những sai sót hoàn toàn có thể khắc phục được này.
Điều này cũng phù hợp với pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Hầu
hết các trường hợp HĐTT được sửa chữa và bổ sung trong phán quyết là các
lỗi hiển nhiên, các nội dung chưa rõ ràng hoặc thiếu sót. Bên cạnh đó, cũng có
ý kiến cho rằng quy định của Luật Mẫu UNCITRAL không ngăn cấm việc TA
có thể chuyển PQTT cho HĐTT xem xét lại trong một số trường hợp ngoại lệ
như hối lộ, dừa dối, giả tạo, lời chứng sai v.v… để sửa chữa lại PQTT [144]. Ở
Thụy Sỹ, TA nước này có thể chuyển phán quyết cho HĐTT nếu phán quyết đó
ảnh hưởng bởi các hành vi phạm tội để HĐTT có thể xem xét vấn đề đó [168],
[169]. Tương tự, về lý thuyết, theo luật Anh, TA cũng có thể chuyển phán
quyết cho HĐTT xem xét lại kể cả khi phán quyết bị yêu cầu hủy trên cơ sở
phán quyết đó được đưa ra do lừa dối [179, mục 68(2)(g), 68(3)(a)]. Đặc biệt,
Điều 61 Luật Trọng tài Trung Quốc quy định rằng nếu TA Trung quốc chấp
nhận yêu cầu hủy PQTT nhưng nhận thấy rằng việc xét xử lại bằng trọng tài có
136
thể thực hiện được bởi HĐTT thì TA sẽ thông báo cho HĐTT rằng HĐTT sẽ
xét xử lại tranh chấp trong một khoảng thời gian nhất định và TA sẽ quyết định
đình chỉ thủ tục hủy PQTT. Nếu HĐTT từ chối xét xử lại vụ tranh chấp thì TA
Trung Quốc sẽ tiếp tục tiến hành thủ tục hủy PQTT [182, Điều 61].
4.2.8. Ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng và giải thích các quy
định liên quan đến việc công nhận và cho thi hành phán quyết Trọng tài
nước ngoài
Trong khi các quy định liên quan đến hủy PQTT trong nước đã được
giải thích và hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết 01/2014 thì cho đến nay, tức
là hơn 20 năm gia nhập Công ước New York, vẫn chưa có một văn bản
hướng dẫn cụ thể về các quy định liên quan đến công nhận và cho thi hành
PQTT nước ngoài.
Chính vì vậy, NCS đề xuất giải pháp là cần sớm ban hành văn bản hướng
dẫn cụ thể việc áp dụng và giải thích các quy định có liên quan, cụ thể về trình
tự nộp đơn yêu cầu xin công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài, về chuẩn
bị xét đơn yêu cầu, về nguyên tắc xét đơn, về các căn cứ để từ chối công nhận
và cho thi hành PQTT nước ngoài quy định theo BLTTDS 2015 một cách chi
tiết và rõ ràng hơn, đặc biệt đối với các căn cứ mà TA còn gặp nhiều lúng túng
và có cách áp dụng chưa thống nhất như cách xác định thông báo kịp thời và
hợp thức và khái niệm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Hiện
nay, việc xác định thế nào là thông báo kịp thời và hợp thức theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 459 của BLTTDS 2015 là một vấn đề gây ra nhiều bức
xúc cho bên yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam cũng như các tổ chức trọng tài quốc tế có PQTT
được yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam vì đây là một trong
những căn cứ thường được TA Việt Nam viện dẫn để từ chối công nhận và
cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Trong khi đó, đây lại
không phải là một trong các căn cứ để hủy PQTT theo luật TTTM. Về vấn đề
137
này, TANDTC đã có hướng dẫn tại Công văn 246/TANDTC-KT ngày
25/07/2014 rằng việc xem xét các tài liệu, chứng cứ, đặc biệt là các chứng cứ
có liên quan đến thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng trọng tài thì phải căn cứ
vào quy tắc Trọng tài nước ngoài mà các bên đã lựa chọn để xem xét, làm rõ
việc HĐTT nước ngoài đã gửi các văn bản thông báo cho bên Việt Nam có
theo đúng Quy tắc Trọng tài đó hay không [62, tr. 3]. Tuy nhiên, vì Công văn
này không có giá trị ràng buộc như một văn bản quy phạm pháp luật nên các
hướng dẫn trong Công văn này cần được cụ thể hóa trong một văn bản quy
phạm pháp luật có giá trị cao hơn. NCS đề xuất là TA cần ban hành Nghị
quyết hướng dẫn, cụ thể là Nghị quyết của TANDTC, để giúp TA các cấp cơ
sở giải thích và áp dụng thống nhất các căn cứ từ chối công nhận và cho thi
hành PQTT nước ngoài tại Việt Nam.
Tương tự, thế nào được xem là việc công nhận và thi hành PQTT nước
ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam cũng chưa có
hướng dẫn cụ thể mà thường chỉ dựa trên ý chí và nhận thức của riêng từng
thẩm phán cũng như thói quen trong hoạt động xét xử của từng TA khác nhau.
Như đã đề cập ở Mục 3.2.2.1 của Luận án, khái niệm về các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam được đưa ra tại Điều 14 của Nghị quyết 01/2014 vẫn
còn chưa thực sự rõ ràng, thiếu cụ thể nên dễ gây nhầm lẫn trong việc hiểu và
áp dụng. Hơn nữa, Nghị quyết 01/2014 là văn bản hướng dẫn Điều 68 liên
quan đến căn cứ hủy PQTT trong nước chứ không phải công nhận và cho thi
hành PQTT nước ngoài, nên việc áp dụng văn bản này trong công nhận và cho
thi hành PQTT nước ngoài sẽ gây ra tranh cãi. Vì vậy, theo NCS, cần phải quy
định rõ những nguyên tắc cụ thể nào được coi là các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam để làm cơ sở cho việc giải thích và áp dụng pháp luật đồng
bộ trong hệ thống TA Việt Nam. Rõ ràng, nếu các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật là “các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây
dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam”, như được hướng dẫn tại Nghị quyết
138
01/2014, thì đây sẽ là các nguyên tắc được tuân thủ tuyệt đối trong quá trình
lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước Việt Nam và không chỉ được
quy định tại một hay một số luật/ bộ luật mà sẽ có thể tìm thấy ở tất cả các văn
bản quy phạm pháp luật. Điều này sẽ dẫn đến một thực tế là sẽ có nhiều PQTT
bị hủy, và như vậy sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các
tổ chức TTTM nước ngoài giải quyết tranh chấp tại Việt Nam nói riêng.
Hiện nay TANDTC đang lấy ý kiến đối với dự thảo Nghị quyết hướng
dẫn về công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài [73]. Trong bản Dự thảo
mới nhất là ngày 18/07/2019 có đưa ra hướng dẫn rằng PQTT nước ngoài vi
phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nếu việc công nhận phán
quyết đó dẫn tới một trong các hậu quả sau đây:
a) Xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;
b) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được tuyên trên cơ sở cưỡng
ép, lừa dối, đe dọa hoặc hối lộ;
c) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không ghi nhận sự tự nguyện
thỏa thuận của các bên đương sự về cách thức giải quyết tranh chấp.
NCS ủng hộ quy định trên của Dự thảo. Cách hiểu này hoàn toàn phù
hợp với Khuyến nghị của Hiệp hội pháp luật quốc tế năm 2002 [143] cũng
như nghiên cứu của Viện khoa học xét xử- TANDTC tại Chuyên đề khoa
học xét xử số TPT/K-09-03 là tham khảo tại các nguyên tắc ký kết gia nhập
và thực hiện ĐƯQT quy định tại Điều 3 của Luật ký kết gia ĐƯQT “Tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, cấm sử dụng hoặc
đe dọa sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc
tế.”[92, tr. 28-29]. Do đó, NCS cho rằng quy định trên của Dự thảo là hoàn
toàn chính xác, và cũng nên được áp dụng một cách thống nhất đối với cả
trường hợp hủy PQTT trong nước do trái với các nguyên tắc cơ bản của
139
pháp luật Việt Nam tại Điều 68 LTTTM.
4.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi thẩm quyền
hỗ trợ tƣ pháp của Tòa án Việt Nam đối với Trọng tài Thƣơng mại
4.3.1. Nhóm giải pháp liên quan đến cơ chế thực thi thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của Tòa án Việt Nam đối với trọng tài thương mại
4.3.1.1. Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Tòa án trong việc
giải quyết các yêu cầu liên quan đến hỗ trợ tư pháp đối với trọng tài thương
mại
Liên quan đến cơ chế phối hợp trong nước, theo quy định của BLTTDS
hiện hành, TA có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu liên quan đến TTTM
trong nước và nước ngoài còn Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm thực hiện quản lý
nhà nước về Trọng tài. Do đó, Bộ Tư pháp và TANDTC cần có sự phối hợp
hiệu quả và chặt chẽ hơn nữa trong việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của
TA đối với TTTM. Ví dụ, liên quan đến việc chỉ định TTV Trọng tài vụ việc,
ngoài việc thường xuyên cập nhật công bố về danh sách TTV của các trung
tâm TTTM, Bộ Tư pháp có thể cung cấp thêm thông tin về trình độ, chuyên
môn của các TTV để TA có thể dễ dàng hơn trong việc tìm và chỉ định TTV
thích hợp. Hay liên quan đến việc hỗ trợ thi hành PQTT nước ngoại tại Việt
Nam thì cả TA và Bộ Tư pháp đều là cơ quan trực tiếp tiếp nhận các đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành PQTT nước ngoài. Vì vậy, cần có các quy định
thống nhất về cơ quan nào sẽ tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công nhận và cho thi
hành PQTT của những quốc gia nào, các yêu cầu về hình thức, số lượng và loại
tài liệu mà bên yêu cầu cần phải nộp v.v… phát sinh thêm những yêu cầu, điều
kiện khác không phù hợp với pháp luật cũng như quy định của các ĐƯQT mà
Việt Nam đã tham gia. Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ chức các hội thảo
liên ngành, tập huấn giữa Bộ Tư pháp, TA, Cơ quan Thi hành án Dân sự, các
trung tâm trọng tài về thực tiễn áp dụng pháp luật về công nhận và cho thi hành
PQTT nước ngoài để rút kinh nghiệm và tìm ra giải pháp đối với những khó
140
khăn, vướng mắc mà các TA thường gặp phải khi giải quyết loại việc này.
4.3.1.2. Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Tòa án Việt Nam với
các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài
Trong quá trình giải quyết các yêu cầu hỗ trợ tư pháp đối với TTTM, đặc
biệt là đối với TTTM nước ngoài như yêu cầu công nhận và cho thi hành
PQTT nước ngoài thì TA sẽ có thể phải áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải
quyết các vụ việc này. Trong trường hợp đó, theo quy định tại Điều 481
BLTTDS 2015, TA có thể yêu cầu Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Cơ quan đại
diện của Việt Nam ở nước ngoài hoặc thông qua Bộ Ngoại giao đề nghị cơ
quan đại diện ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam cung cấp pháp luật nước
ngoài. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về cách thức cung
cấp cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này trong trường hợp được TA
yêu cầu. Trong khi đó, đây là một vấn đề pháp lý phức tạp vì nội dung pháp
luật nước ngoài không chỉ đơn thuần nằm ở quy định pháp luật mà còn cả thực
tiễn áp dụng các án lệ (đặc biệt ở các nước theo hệ thống common law). Do
vậy, TANDTC cùng các bộ, ngành có liên quan cần sớm ban hành thông tư
liên tịch hướng dẫn về điều khoản này, từ đó xây dựng được cơ chế phối hợp
thực thi quy định này một cách hữu hiệu, để tránh tình trạng mất nhiều thời
gian tìm kiếm hoặc cung cấp pháp luật nước ngoài hoặc cung cấp nội dung
không chính xác cho TA khi cần thiết.
4.3.1.3. Xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu đối với việc giải quyết các
yêu cầu liên quan đến hỗ trợ tư pháp đối với Trọng tài Thương mại tại các Tòa
án địa phương
Thực tế cho thấy nhiều TA cấp địa phương gặp khó khăn, lúng túng khi
giải quyết các vụ việc liên quan đến việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
đối với TTTM, đặc biệt là TTTM nước ngoài. Do đó, NCS cho rằng cần có cơ
chế để tăng cường sự quản lý và giám sát việc xét xử tại các TA cấp địa
phương cũng như việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp tại các TA này.
141
Điều này có thể thực hiện thông qua việc xây dựng cơ chế nội bộ hoặc
sửa đổi LTTTM thương mại theo hướng cho phép TAND cấp cao và TANDTC
xem xét lại quyết định về việc hủy PQTT của TA cấp sơ thẩm. Đồng thời, TA
cấp sơ thẩm phải có báo cáo nội bộ hàng năm liên quan đến kết quả giải quyết
các vụ việc liên quan đến việc thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với
TTTM cả trong nước và nước ngoài cho TANDTC. Hiện nay, TANDTC mới
chỉ giám sát việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh thương mại tại các TA
cấp sơ thẩm dựa trên báo cáo thường niên theo mẫu 4B [74]. Tuy nhiên, việc
báo cáo dựa trên biểu mẫu này liên quan đến TTTM mới chỉ dừng lại ở báo cáo
về số lượng các yêu cầu liên quan tới việc Trọng tài Thương mại Việt Nam và
yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài, mà chưa yêu cầu phải báo cáo theo loại việc chi tiết và cụ thể, ví dụ: yêu
cầu liên quan đến áp dụng BPKCTT, yêu cầu triệu tập người làm chứng, yêu
cầu thu thập chứng cứ .v.v. Mặt khác, biểu mẫu 4B hiện nay chỉ dừng lại ở
việc theo dõi về số lượng vụ việc được giải quyết chứ không yêu cầu các TA
cấp sơ thẩm phải có báo cáo chi tiết hơn về căn cứ để giải quyết vụ việc, đặc
biệt đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của HĐTT, yêu cầu
hủy PQTT trong nước và yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTT nước
ngoài. Như vậy, cơ chế báo cáo hiện nay chưa thực sự hữu hiệu vì số liệu và
nội dung báo cáo chưa thực sự chi tiết, cụ thể. Chính vì vậy, NCS cho rằng cần
có một biểu mẫu báo cáo khác dành riêng cho các yêu cầu liên quan đến
TTTM, trong đó yêu cầu các TA cấp sơ thẩm có báo cáo chi tiết về loại yêu
cầu cụ thể tương ứng với các nội dung của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
đối với TTTM và bổ sung thêm nội dung về kết quả của việc giải quyết các yêu
cầu đó cũng như căn cứ để TA ra quyết định. Từ đó sẽ giúp cho việc giám sát,
quản lý này của TANDTC diễn ra một cách liên tục và thường xuyên và có thể
dễ dàng nắm bắt được những khó khăn và bất cập trong hoạt động xét xử tại
các TA địa phương. Như vậy TANDTC cũng sẽ có thể kịp thời đưa ra những
142
chỉ đạo, hướng dẫn phù hợp và đúng đắn.
4.3.1.4. Tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa Việt Nam đối với các
nước về thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án đối với Trọng tài
Thương mại
Về vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư
pháp của TA đối với TTTM, Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương với rất nhiều nền tài phán xây dựng pháp luật TTTM của mình dựa trên
các quy định của Luật Mẫu UNCITRAL. Như là một hệ quả của việc tăng
cường đầu tư và các hoạt động thương mại, đây đồng thời cũng là khu vực có
nhu cầu sử dụng dịch vụ TTTM ngày càng tăng [154]; [209]. Không chỉ vậy,
Việt Nam cũng rất gần gũi với hai quốc gia có nền trọng tài phát triển và được
xem là “thân thiện với trọng tài” là Singapore và Hồng Kông. Chính vì vậy
việc giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia này trong việc ban hành
pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng như thực
thi pháp luật và giải quyết các vụ việc liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp
của TA đối với TTTM cả trong nước và nước ngoài là điều cần thiết. Vì vậy
NCS đề xuất giải pháp là Nhà nước Việt Nam cần tăng cường sự hợp tác quốc
tế giữa Việt Nam với các nước có nền trọng tài phát triển trong lĩnh vực này,
mà cụ thể là Hồng Kông và Singapore. Cụ thể, hàng năm, Bộ Tư pháp hoặc
TANDTC có thể tổ chức các buổi tập huấn mời chuyên gia hay thẩm phán từ
những quốc gia này đến Việt Nam để chia sẻ kinh nghiệm hay tổ chức các
đoàn công tác sang trực tiếp làm việc với TANDTC của Hồng Kông và
Singapore để học hỏi cách thức phối hợp, thực thi và giám sát của các nước
này khi giải quyết các vụ việc liên quan đến TTTM. Mặt khác, có thể xin ý
kiến của các chuyên gia nước ngoài đối với nội dung các dự thảo Nghị quyết
hay dự thảo luật liên quan đến vấn đề này. Điều này sẽ không chỉ giúp mối
quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp giữa Việt Nam và các quốc gia
này phát triển hơn mà còn giúp thẩm phán, chuyên viên Việt Nam có cái nhìn
143
đa dạng, sâu sắc và phù hợp hơn với pháp luật quốc tế.
4.3.2. Nhóm giải pháp liên quan đến phát triển nguồn lực trong lĩnh
vực hỗ trợ tư pháp đối với Trọng tài Thương mại
Xem xét một số bất cập trong thực tiễn xét xử ở các TA cho thấy nguyên
nhân của những bất cập này không phải chỉ do khiếm khuyết của pháp luật mà
còn một phần còn do cách giải thích và áp dụng của các thẩm phán là những
người trực tiếp xét xử vụ việc. Với việc áp dụng pháp luật về thẩm quyền hỗ
trợ tư pháp của TA đối với TTTM cũng sẽ như vậy. Chính vì vậy, để nâng cao
hoạt động của TA liên quan đến hỗ trợ tư pháp đối với TTTM, NCS cho rằng
giải pháp quan trọng là cần phải tập trung phát triển các nguồn lực, không chỉ
giới hạn ở nguồn lực con người mà cả nguồn lực khác như về kinh tế, khoa
học-kỹ thuật- công nghệ, cơ sở hạ tầng của TA Việt Nam, nguồn lực tài chính,
chính sách lương và phụ cấp của các thẩm phán v.v... Để thực hiện được các
giải pháp này, NCS đề xuất một số giải pháp cụ thể dưới đây.
4.3.2.1. Nâng cao năng lực và đổi mới tư duy của các thẩm phán
trong giải quyết các yêu cầu liên quan đến hỗ trợ tư pháp đối với Trọng tài
Thương mại
Như đã nêu tại Chương 3, NCS cho rằng một trong những lý do mà số
lượng vụ việc liên quan đến thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối
với TTTM, đặc biệt là TTTM nước ngoài, còn thấp là do TA Việt Nam không
thực sự ủng hộ TTTM. Trước hết, như nhận xét của luật gia Tưởng Duy
Lượng, trình độ của một số thẩm phán Việt Nam còn hạn chế hoặc chưa có
nhiều kinh nghiệm [29, tr. 6]. Vì vậy, cần nâng cao năng lực cũng như kinh
nghiệm của các thẩm phán Việt Nam trong việc giải quyết các yêu cầu liên
quan đến hỗ trợ tư pháp đối với cả TTTM trong nước và nước ngoài. Trên
thực tế, các vụ việc liên quan đến TTTM chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn
như Hồ Chí Minh và Hà Nội, trong khi nhiều TA cấp tỉnh còn chưa có nhiều
kinh nghiệm giải quyết vụ việc tương tự, dẫn đến tình trạng lúng túng khi giải
144
quyết các yêu cầu liên quan đến TTTM như yêu cầu công nhận và cho thi hành
PQTT nước ngoài, yêu cầu TA chỉ định TTV Trọng tài vụ việc, yêu cầu TA hỗ
trợ thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng v.v... Chính vì vậy, để thực
hiện giải pháp này, NCS kiến nghị với TANDTC và Bộ Tư pháp là cần tăng
cường phối hợp, chủ trì các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn
nghiệp vụ và ngoại ngữ cho Thẩm phán, cán bộ phụ trách về lĩnh vực này.
Theo NCS được biết hiện nay các tổ chức như Ngân hàng thế giới, Cơ quan
phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAid), Cơ quan phát triển quốc tế Úc (AusAid),
Dự án hỗ trợ chính sách thương mại về đầu tư của châu Âu (EU-MUTRAP)
v.v... đã tài trợ khá nhiều dự án để hỗ trợ cải cách tư pháp ở Việt Nam, thông
qua việc tổ chức các khóa học có chuyên gia quốc tế đến giảng dạy, dịch các
sách- tài liệu chuyên khảo liên quan đến vấn đề này. Vì vậy, TANDTC và Bộ
Tư pháp cần tận dụng những nguồn lực như vậy để nâng cao trình độ của các
thẩm phán Việt Nam và các chuyên viên. Từ đó tạo nên một đội ngũ thẩm
phán, chuyên viên chuyên trách, có trình độ và kinh nghiệm để giải quyết các
vụ việc liên quan đến hỗ trợ tư pháp đối với TTTM.
NCS cũng cho rằng việc đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn và trình
độ cần phải được chú trọng ngay từ bậc đại học và đối tượng đào tạo cần phải
mở rộng ra cả các luật sư, kiểm sát viên, chuyên gia thậm chí là các doanh
nghiệp trong nước. Để làm được như vậy, cần chú trọng hơn nữa chương trình
giảng dạy của môn TTTM ở các trường đào tạo ngành luật tại Việt Nam, tổ
chức các khóa học về TTTM thường xuyên hơn nữa để những người có nhu
cầu có thể tham gia. Các trường đại học, các cơ sở đào tạo nên mời các luật sư,
chuyên gia về TTTM trong và ngoài nước tham gia giảng dạy cùng để chia sẻ
thêm kinh nghiệm về thực tiễn, khuyến khích sinh viên tham gia diễn án
TTTM được tổ chức bởi các trường đại học tại Việt Nam hay quốc tế như
W.C.Vis, AAIA v…v. hiện nay có khá nhiều khóa học đào tạo ngắn hạn kĩ
năng và kiến thức cần thiết cho các TTV, luật sư và chuyên gia về TTTM của
145
các tổ chức trọng tài quốc tế hàng đầu như các khóa học của Viện Trọng tài
London (CIArb), Học viện Trọng tài Paris (Arbitration Academy), Phòng
thương mại quốc tế (ICC), Hội đồng quốc tế về TTTM (ICCA). Các tổ chứ này
cũng thường xuyên có các hội thảo trực tuyến miễn phí và đóng phí. Vì vậy,
các trung tâm trọng tài, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
hay Liên đoàn luật sư hoàn toàn có thể chủ động liên lạc với các trung tâm này
để tổ chức các khóa học ngắn hạn đó tại Việt Nam hoặc tích cực cử người tham
gia các khóa học này.
Việc bồi dưỡng, đào tạo các thẩm phán và cán bộ tài TA về vấn đề này
cần phải thực hiện theo một lộ trình cụ thể dài hạn. Nói cách khác, trong ngắn
hạn, sẽ rất khó để có thể nâng cao trình độ của tất cả các thẩm phán của 63 tỉnh
thành và cũng khó để đảm bảo trình độ của các thẩm phán tại các tỉnh đồng
đều. Do đó, NCS mạnh dạn đề xuất rằng các việc liên quan đến TTTM sẽ được
giải quyết bởi ba TAND cấp cao tại Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, cũng là
các thành phố lớn thường xuyên tiếp nhận các loại việc này. Việc để các
TAND cấp cao giải quyết thay vì TA nhân dân cấp tỉnh như hiện nay cũng đảm
bảo chất lượng thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM, nhất
là khi nhiều loại việc chưa có cơ chế kháng cáo, kháng nghị để xem xét lại
quyết định của TA cấp sơ thẩm ví dụ như yêu cầu hủy PQTT, yêu cầu giải
quyết khiếu nại quyết định về thẩm quyền của HĐTT.
4.3.2.2. Tăng cường đầu tư nguồn lực về cở sở vật chất và công nghệ
cho các Tòa án và Trọng tài Thương mại Việt Nam
NCS cho rằng trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay, cần tận dụng
khoa học kỹ thuật để xây dựng một cơ sở dữ liệu điện tử bao gồm các tài liệu
tham khảo, sách báo, án lệ trong và ngoài nước liên quan đến loại việc này để
bất cứ ai cũng có thể truy cập và tìm hiểu. Đây là cách thức mà khá nhiều quốc
gia và tổ chức đã thực hiện và đạt được hiệu quả đáng kể trên thực tế. Tuy
nhiên, do các trang thông tin điện tử đó hầu hết bằng tiếng nước ngoài nên còn
146
chưa phổ biến ở Việt Nam và các TA, thẩm phán Việt Nam rất khó tiếp cận.
Hiện nay, theo NCS được biết VIAC cũng có đăng những thông tin, bài viết về
TTTM trên trang thông tin điện tử chính thức của trung tâm và cũng rất được
hoan nghênh. Tuy nhiên, đây chưa phải là một kênh chuyên biệt về TTTM và
lượng thông tin cũng chưa thực sự đa dạng đầy đủ. Ngoài ra, phù hợp với đề án
phát triển án lệ [72], các án lệ và quyết định của TA cũng đã dần được công bố
trên cổng thông tin điện tử riêng tại địa chỉ https://anle.toaan.gov.vn và
http://congbobanan.toaan.gov.vn. Vì vậy, NCS kiến nghị TANDTC và các
trung tâm TTTM có thể kết hợp hoặc xây dựng một cơ sở dữ liệu điện tử tương
tự như vậy đối với các PQTT, các quyết định liên quan đến hoạt động TTTM
trong nước và ngoài nước thì đây sẽ là nguồn tham khảo quý giá đối với ngành
TA nói riêng và người dân nói chung. Để thực hiện giải pháp này, NCS cũng
kiến nghị là TA Việt Nam, các trung tâm TTTM Việt Nam và các cơ sở đào
tạo về luật, về thương mại cần có sự phối hợp chặt chẽ để đầu tư nguồn lực tài
chính cơ sở vật chất, hạ tầng và các nguồn tài liệu, tham khảo cho TA và cho
các trung tâm TTTM.
Kết luận Chƣơng 4
Trên cơ sở những hạn chế của pháp luật và bất cập trong thực tiễn thực
hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM nêu tại Chương 3, NCS
đã đưa ra ba phương hướng và ba nhóm giải pháp cụ thể tương ứng liên quan
đến hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA
đối với TTTM cũng như phát triển các nguồn lực trong lĩnh vực hỗ trợ tư pháp
đối với TTTM trong nước và nước ngoài. Về tổng thể, việc xây dựng được các
phương hướng đúng đắn và giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật và nâng
cao chất lượng xét xử của TA Việt Nam đối với TTTM đòi hỏi sự thống nhất,
đồng bộ, tránh có sự “phân biệt đối xử” giữa TTTM trong nước và nước ngoài,
cũng như phải phù hợp với các quy định và sự phát triển chung của pháp luật
quốc tế, của Luật Mẫu UNCITRAL và Công ước New York, cũng như các cam
147
kết quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là
thành viên. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện nay cũng cần
tính đến những đặc thù của phương thức giải quyết tranh chấp bằng TTTM
cũng như kinh nghiệm của các quốc gia có nền trọng tài phát triển trong khu
vực và trên thế giới.
Mặt khác, để giúp cho các quy định của pháp luật về thẩm quyền hỗ trợ
tư pháp của TA đối với TTTM thực sự được “sống” trên thực tế, được vận
dụng một cách linh hoạt, đúng đắn và phù hợp với đúng mục đích là “giúp đỡ,
hỗ trợ” hoạt động TTTM thì chính những người trực tiếp áp dụng các quy định
đó, tức là các thẩm phán cần hiểu rõ về vai trò của TA cũng như mối quan hệ
giữa TA và TTTM, cũng như những hậu quả tiêu cực cho Nhà nước Việt Nam,
cho nền kinh tế và tư pháp Việt Nam nếu những hạn chế trong việc xét xử các
vụ việc liên quan đến hỗ trợ TTTM vẫn tiếp diễn. Có thể nói, một khi pháp
luật Việt Nam phù hợp với sự phát triển của pháp luật quốc tế và TA Việt Nam
tích cực ủng hộ hoạt động TTTM thì trong tương lai gần, TTTM sẽ có cơ hội
để phát triển lớn mạnh và trở thành phương thức giải quyết tranh chấp được
các doanh nghiệp trong và ngoài nước ưu tiên lựa chọn.
148
KẾT LUẬN
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, TTTM đã và đang đóng vai trò quan trọng
trong thương mại và đầu tư quốc tế. Về phương diện kinh tế, chính sách khuyến khích
sử dụng TTTM đều xuất phát từ nhận thức chung là bảo đảm để hệ thống tài phán
thương mại thực sự là một trong những yếu tố quan trọng của thị trường và mức độ
hiệu quả của nó là biểu hiện của mức độ hấp dẫn của thị trường [89]. Càng ở những
quốc gia có nền kinh tế phát triển, việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM và các
phương thức giải quyết tranh chấp ngoài TA như thương lượng, hòa giải thương mại
nói chung cũng như thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM trong nước và
nước ngoài nói riêng lại càng được chú trọng. Qua nghiên cứu Luận án, NCS nhận
thấy rằng thẩm quyền của TA đối với TTTM bao gồm cả thẩm quyền hỗ trợ và thẩm
quyền giám sát. Trong nhiều trường hợp, khó có thể phân định một cách rõ ràng đâu là
thẩm quyền giám sát, đâu là thẩm quyền hỗ trợ mà phải căn cứ vào cách thức TA áp
dụng trên thực tế và trong từng vụ việc cụ thể để xác định. Ngày nay, mối quan hệ
giữa TA và TTTM cũng được cải thiện theo hướng hỗ trợ và ủng hộ lẫn nhau. Pháp
luật và thực tiễn xét xử về thẩm quyền tư pháp của TA đối với TTTM của nhiều quốc
gia trên thế giới cũng được thay đổi dần để hỗ trợ tối đa hoạt động của TTTM, cả
TTTM trong nước và TTTM quốc tế. Không chỉ vậy, TA vẫn có thể hỗ trợ TTTM kể
cả khi thực hiện thẩm quyền giám sát trọng tài để đảm bảo thưc hiện pháp luật và lẽ
công bằng của mình.
Tại Việt Nam, pháp luật trọng tài và BLTTDS 2015 về cơ bản đã ghi nhận
được các nguyên tắc cơ bản của Luật Mẫu UNCITRAL và Công ước New York về
thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA đối với TTTM và thậm chí có nhiều quy định tiến
bộ, mang tính ủng hộ khả năng thi hành thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, vẫn còn tồn
tại những quy định chưa thực sự tương thích với hai văn bản này, đặc biệt là vẫn có sự
phân biệt đối xử giữa TTTM trong nước và TTTM nước ngoài. Mặt khác, một số TA
Việt Nam lại chưa có nhận thức đúng đắn về vấn đề này và vẫn cho rằng hầu hết các
thẩm quyền đối với TTTM được quy định trong LTTTM và BLTTDS là để giám sát
149
hoạt động TTTM. Nói cách khác, TA Việt Nam chưa thực sự tiếp nhận và coi TTTM
như một phương thức giải quyết tranh chấp thân thiện, có thể thay thế cho TA, vẫn có
xu hướng bảo hộ các doanh nghiệp trong nước. Đây là những lý do chính khiến cho
chất lượng thực hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của TA Việt Nam đối với TTTM
trong nước và nước ngoài còn chưa cao, gây mất lòng tin của các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp đối với TA Việt Nam cũng như môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Mặc dù Chính phủ Việt Nam có thể hỗ trợ TTTM thông qua việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật và những trợ giúp trực tiếp khác liên quan đến đầu tư nguồn lực, cơ sở
vật chất v.v…, tuy nhiên TA vẫn phải giữ vai trò chủ động và chứng minh rằng TA
sẵn sàng hỗ trợ cho hoạt động TTTM, tạo điều kiện cho tố tụng trọng tài và thi hành
PQTT. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi TA thay đổi tư duy của về thẩm quyền
hỗ trợ tư pháp đối với TTTM cũng như về mối quan hệ giữa TA với TTTM.
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng, chắc chắn
số lượng tranh chấp được giải quyết tại TTTM cũng sẽ tăng mạnh cả về số lượng và
giá trị tranh chấp. Điều này cũng sẽ kéo theo nhu cầu tăng cao của việc thực hiện hỗ
trợ tư pháp đối với TTTM.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài, bên cạnh những vấn đề đã được
nghiên cứu trong Luận án, NCS cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể
hơn nữa đối với từng nội dung cụ thể của thẩm quyền hỗ trợ tư pháp đối với TTTM;
nghiên cứu về khả năng Việt Nam phê chuẩn Luật Mẫu UNCITRAL, và nghiên cứu
về những hậu quả pháp lý có thể xảy ra nếu TA Việt Nam không kịp thời thay đổi
cách tư duy, cách áp dụng các quy định của pháp luật theo hướng ủng hộ TTTM.
Những kinh nghiệm được đúc rút ra từ việc nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật
của các quốc gia có nền trọng tài phát triển cũng như thực tiễn xét xử của các quốc gia
này liên quan đến những vấn đề trên sẽ giúp Việt Nam có những định hướng và chính
sách đúng đắn để hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao chất lượng xét xử của TA
Việt Nam đối với các vụ việc liên quan đến TTTM cũng như đối với sự phát triển của
nền TTTM tại Việt Nam.
150
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.
Nguyễn Thị Thu Trang (2020), Thực trạng pháp luật Việt Nam về thẩm
quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án liên quan đến áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài, Tạp Chí Nhân Lực Và Khoa Học Xã
Hội, Số 1/2020.
2.
Nguyễn Thị Thu Trang (2020), Các giải pháp nâng cao chất lượng thực
hiện thẩm quyền hỗ trợ tư pháp của Tòa án Việt Nam đối với trọng tài
thương mại, Tạp Chí Nhân Lực Và Khoa Học Xã Hội, số 6/2020.
3.
Nguyen Ngoc Minh, Nguyen Thi Thu Trang & Nguyen Thi Mai Anh (2020),
Enforceability of arbitral awards in Vietnam- alarming practice, The Asia-
Pacific Arbitration Review 2021, Law Business Research, U.K, p.103-109.
4.
Nguyen Manh Dzung, Nguyen Thi Thu Trang (2018), International
Investment Dispute Resolution in Vietnam: Opportunities and Challenges
in Julien Chaisse and Luke Nottage (2018), International Investment Treaties
and Arbitration Across Asia, Brill Nijhoff, p. 280-302. Also being published
at Vol. 18, Issue 5-6, The Journal of World Investment and Trade, 2017, p.
918.
5.
Ho Ngoc Hien, Nguyen Thi Thu Trang (2020) The Interpretation And
Application Of The New York Convention 1958 For Recognition And
Enforcement Of Foreign Arbitral Awards In Vietnam. Journal of Critical
Review, 7 (5), p. 2191-2197.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Phạm Tuấn Anh, 2010, Vai trò của Tòa án trong tố tụng Trọng Tài Thương
Mại và trong Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học: Những nội dung cơ bản của Luật Trọng Tài Thương Mại 2010, cơ chế
giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài, Trung tâm Trọng tài Quốc tế
Việt Nam, Hà Nội;
2. Phan Thông Anh, 2011, Giải quyết tranh chấp bằng Trọng Tài Thương Mại
Adhoc ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp- số
8 (tháng 4/2011);
3. Phan Thông Anh, 2015. Hủy Phán Quyết Trọng Tài, Luận án tiến sỹ, Trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phan Thông Anh, Tranh chấp trong kinh doanh thương mại và các hình thức
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại,
DEEE6E16CC8BA97860182CC48BE?p_p_id=EXT_ARTICLEVIEW&p_p _lifecycle=0&_EXT_ARTICLEVIEW_groupId=10217&_EXT_ARTICLEV IEW_articleId=34155&_EXT_ARTICLEVIEW_version=1.0>, (30/7/2020). 5. Ban soạn thảo dự án Luật, Tòa án Nhân dân Tối cao, Toàn văn Dự thảo 2- Luật áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi khởi kiện, Detail.aspx?ItemID=1330>, (30/7/2020). 6. Bộ Tư pháp, 2015, Báo cáo sơ kết 04 năm thi hành Luật Trọng tài Thương mại, Hội nghị sơ kết 04 năm thi hành Luật Trọng tài Thương mại, tháng 9/2015, Hà Nội, 7. Bộ Tư pháp, 2017, Công văn số 3063/TCTHAD-NV1 ngày 18/8/2017. dieu-67-luat-trong-tai-thuong-mai-nam-2010-thi-%E2%80%9Cphan-quyet- trong>, (30/7/2020). 8. Nguyễn Đăng Dung, 2005, Thể chế Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 9. Nguyễn Mạnh Dũng, Nguyễn Thị Thu Trang, 2015, Công ước New York 1958 về việc Công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài, đăng trong Tài liệu Tọa đàm thi hành nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP về thi hành một số điều của luật Trọng tài và các vấn đề về Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội, ngày 2/4-3/4/2015 10. Nguyễn Mạnh Dũng, Nguyễn Thị Thu Trang, 2015, Thực trạng sử dụng Trọng Tài Thương Mại tại Việt Nam, Một số giải pháp hấp dẫn Trọng tài, Hội nghị sơ kết 04 năm thi hành Luật Trọng tài Thương mại, ngày 09/09/2015 tổ chức bởi Bộ Tư pháp; 11. Vũ Ánh Dương, 2009, Dự án luật Trọng Tài Thương Mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Lập Pháp, Văn phòng Quốc hội, số 14 (151) năm 2009; 12. Vũ Ánh Dương, 2015, Những thuận lợi và khó khăn về áp dụng LTrọng Tài Thương Mại tại VIAC- Một số đề xuất- kiến nghị, Tài liệu Hội nghị sơ kết 04 năm thi hành Luật Trọng tài Thương mại, Bộ Tư pháp, Hà Nội, ngày 09/09/2015. 13. Đỗ Văn Đại, 2017, Hủy Phán Quyết Trọng Tài: Thực trạng và kiến nghị, Chương trình trao đổi nghiệp vụ Trọng tài giữa VIAC và Tòa án, Hồ Chí Minh, ngày 29/07/2017. 14. Đỗ Văn Đại, 2017, Pháp luật Trọng tài Thương mại Việt Nam- Bản án và Bình luận Bản án, NXB Hồng Đức. 15. Đỗ Văn Đại, Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi Trọng tài nước ngoài giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, te.aspx?ItemID=14>, (30/7/2020). 16. Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, 2004, Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và chú thích, NXB Hồng Đức, Hà Nội. 17. Phạm Thị Hồng Đào, 2016, Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án và kiến nghị, ngày 11/01/2016 (30/7/2020) 18. Phạm Thị Hồng Đào, (2017), Vai trò của Tòa án đối với hoạt động của Trọng Tài Thương Mại theo Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 và kiến nghị, ngày 06/6/2017 doi.aspx?ItemID=2154>, (30/7/2020). 19. Đặng Trung Hà, 2009, Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, (30/7/2020). 20. Đỗ Hải Hà, 2007, Bàn về khái niệm Quyết định Trọng tài nước ngoài theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Tạp Chí Khoa Học Pháp Lý Số 5(42)/2007, ontent&view=article&catid=118:ctc20075&id=335:bvknqcttnn&Itemid=110> , (30/7/2020). 21. Hoàng Thị Thanh Hoa, 2017, Thi hành phán quyết của Trọng tài- Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện, trao-doi.aspx?ItemID=2252>, (30/7/2020). 22. Nguyễn Vũ Hoàng, 2013, Luật Trọng Tài Thương Mại Việt Nam - Bối cảnh ra đời, tinh thần cơ bản và những điều lưu ý khi nhần nhận mối quan hệ Trọng tài và Tòa án, tham luận tại Hội thảo ngày 03/05/2013 về Góp ý xây dựng dự thảo Nghị quyết của hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng Tài Thương Mại; 23. Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, 2014, Nghị quyết 01/2014/NQ- HĐTP hướng dẫn một số quy định của Luật Trọng tài Thương mại, ngày 20 tháng 3 năm 2014, Hà Nội. 24. Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, Án lệ số 13/2017/AL được thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017, được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao. 25. Hội đồng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), 2019, Sách trắng 26. Hội luật gia Việt Nam, 2009, Báo cáo số 10/BCTĐ-HGVN về đánh giá tác động dự kiến đối với Luật Trọng Tài Thương Mại, ngày 30/4/2009, Hà Nội 27. Ngô Huyền, Về việc TA hỗ trợ Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp thương mại- Một số khó khăn, vướng mắc và kiến nghị, trang thông tin điện tử Xây Dựng Pháp Luật, nguồn: cuu-trao-%C4%91oi.aspx?ItemID=36>, (30/7/2020). 28. Trần Hữu Huỳnh, 2003, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại- những thử thách phía trước, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 3 năm 2003 29. Tưởng Duy Lượng, 2016, Bình luận Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự, Luật Trọng Tài Thương Mại Và Thực Tiễn Xét Xử, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 30. Nguyễn Đức Minh, Khái quát về quyền tư pháp ở một số nước trên thế giới, Trang thông tin điện tử của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, quat-ve-quyen-tu-phap-o-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-38692.html>, (30/7/2020). 31. Montesquieu, 2006, Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 32. Dương Nguyệt Nga, Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại theo pháp luật Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, Tạp chí Tòa án Nhân dân số 16/2007, tr. 4 -10 33. Phạm Duy Nghĩa, 2010, Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23 (184), Tháng 12/2010, tr. 77-80. 34. Phạm Duy Nghĩa, 2012, Tòa án bảo trợ và giám sát Trọng tài, Hội thảo Góp ý xây dựng dự thảo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng Tài Thương Mại, Hồ Chí Minh ngày 2/11/2012. 35. Phạm Duy Nghĩa, 2014, Phương pháp nghiên cứu luật học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 36. Đặng Thị Minh Ngọc, 2013, Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng Trọng Tài Thương Mại - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Đại Học Luật Hà Nội; 37. Trần Minh Ngọc, 2009, Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luân án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội. 38. Nhà Pháp luật Pháp Việt, tháng 9/2009 [tham khảo: (30/7/2020). 39. Nhiều tác giả, 2001, Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn: Giải quyết các tranh chấp thương mại như thế nào?, Trung tâm thương mại Quốc tế UNCTAD, WTO; Geneva, ITC, 2001, chuyển ngữ bởi Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). 40. Nhóm chuyên gia cao cấp về Pháp luật Trọng tài và Hòa giải, khối Tài chính thị trường của Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2015, Một số vấn đề chính sách liên quan đến Trọng tài và Hòa giải thành trong Dự thảo BLTTDS sửa đổi, bản ngày 10/04/2015, Tài liệu gửi Quốc hội và Tòa án Nhân dân Tối cao, Tháng 5/2015. 41. Đặng Hoàng Oanh, 2005, Những vấn đề thực tiễn về Công nhận và thi hành quyết định Trọng tài nước ngoài đã bị hủy tại nước gốc theo Công ước New York về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, Tạp chí Luật học, số 4/2005, trang 56-64. 42. Nguyễn Công Phú, 2015, Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hội thảo tổng kết 20 năm thực thi Công ước New York, Bộ Tư pháp, Hà Nội. 43. Nguyễn Thái Phúc, 2003, Một số ý kiến về pháp lệnh Trọng Tài Thương Mại, Tạp chí Khoa học Pháp luật số 2/2003. 44. Nguyễn Duy Phương, 2015, Hoàn thiện quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tòa án, Nghiên cứu lập pháp số 1/2015, tr. 31 - 34. 45. Quốc hội, 2003, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại số 08/2003/PL- UBTVQH11, ban hành ngày 25/02/2003, Hà Nội. 46. Quốc hội, 2005, Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, ban hành ngày 29/11/2005, Hà Nội. 47. Quốc hội, 2010, Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam số 54/2010/QH12, ban hành ngày 17/06/ 2010, Hà Nội. 48. Quốc hội, 2013, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội. 49. Quốc hội, 2014, Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13, ban hành ngày 26/11/2014, Hà Nội. 50. Quốc hội, 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13, ban hành ngày 25/11/2015, Hà Nội. 51. Quốc hội, 2015, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ban hành ngày 22 tháng 6 năm 2015, Hà Nội. 52. Quốc hội, Bộ luật Hàng hải số 95/2015/QH13, ban hành ngày 25/11/ 2015, Hà Nội. 53. Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn, 2008, Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54. Phan Gia Quý, Sự hỗ trợ của TA đối với hoạt động Trọng Tài Thương Mại, Tạp chí Tòa án Nhân dân, cua-toa-an-doi-voi-hoat-dong-trong-tai-thuong-mai> (30/7/2020) 55. Redfern, Alan; Martin Hunter; Constantine Partasides & Nigel Blackaby, 2004, Pháp luật và Thực tiễn Trọng Tài Thương Mại quốc tế, NXB Sweet & Maxwell, Vương quốc Anh, Dịch và hiệu đính bởi VCCI và VIAC năm 2009. 56. Thesing, Joef, 2002, Nhà nước pháp quyền, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 57. Lê Nguyễn Gia Thiện, 2016, Công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 24, tháng 12/2016. 58. Bạch Thị Lệ Thoa, Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử trong-tai-va-co-che-ho-tro-cua-toa- an/?searchterm=%22TRANH%20CH%E1%BA%A4P"> (30/7/2020). 59. Nguyễn Thị Thu Thủy và Lê Hải An, 2017, Về điều kiện áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự, Tạp Chí Nhà nước và Pháp luật, số 08/2017, tr. 32-38 60. Nguyễn Văn Tiến, 2009, Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội 61. Nguyễn Trung Tín, 2006, Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài, Tạp chí Luật học số 12/2006, tr. 50-56. 62. Tòa án Nhân dân cấp cao tại Hà Nội, 2020, Thông báo trả lại đơn số 03/TB- TA ngày 07/01/2020 63. Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội, 2015, Thực tiễn hỗ trợ của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại trong việc giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng Trọng tài, Hội nghị Sơ kết 4 năm thi hành Luật Trọng tài Thương mại do Bộ Tư pháp tổ chức, ngày 09/09/2015, Hà Nội, tr. 38-44. 64. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, 2012, Quyết định số 625/2012/QĐST-KDTM ngày 14/5/2012. 65. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, 2013, Quyết định số 1254/2013/QĐ-BPKCTT ngày 17/10/2013. 66. Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, 2014, Bản án số 471/2014/DS-PT ngày 07/04/2014. 67. Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, 2014, Quyết định số 177/2014/KDTM-ST ngày 05/03/2014. 68. Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, 2018, Quyết định số 201/2016/KDTM-PT ngày 15, 16 tháng 11 năm 2018. 69. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,2012, Quyết định số 1499/2012/KDTM-QĐ ngày 28/09/2012 70. Tòa án nhân dân tỉnh Long An, 2013, Quyết định số 01/2013/QĐST-KDTM ngày 27/05/2013 71. Tòa án Nhân dân Tối cao và World Bank Group, 2017, Sổ tay pháp luật về Trọng tài và Hòa giải, NXB Thanh niên, Hà Nội. 72. Tòa án Nhân dân Tối cao, 2012, Quyết định số 74/QĐ-TANDTC ngày 31/201/2012 73. Tòa án Nhân Dân Tối Cao, 2019, Dự thảo nghị quyết công nhận và cho thi hành tại Việt Nam đối với phán quyết Trọng tài nước ngoài và bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, ngày 18/07/2019, cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-doi-voi-phan-quyet-cua-trong-tai- nuoc-ngoai-va-ban-quyet-dinh-dan-su-cua-toa-nuoc-ngoai>, (30/7/2020). 74. Tòa án Nhân dân Tối cao, Biểu mẫu 4B thống kê số thụ lý và kết quả giải quyết việc kinh doanh thương mại, thong-ke/-/view_content/1857549-mau-4b-so-thu-ly-va-ket-qua-giai-quyet- cac-vu-viec-kinh-doanh-thuong-mai-phuc-th-1.html> (30/7/2020). 75. Tòa án Nhân dân Tối cao, Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Tòa án, 76. Tòa Phúc Thẩm Tòa án Nhân dân tối cao tại Hà Nội, 2014, Quyết định số 117/2014/QĐ-PT ngày 07/08/2014. 77. Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 363/2006/DSPT ngày 07/09/2006. 78. Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, 2002, Quyết định số 02/PTDS ngày 19/7/2002. 79. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, 2010, Hỏi đáp về luật Trọng tài, Hà Nội. 80. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, 2013, Báo cáo tại Hội thảo về hủy phán quyết Trọng tài, công nhận và thi hành quyết định Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội, ngày 18/10/2013. 81. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, 2016 & 2017, Báo cáo thường niên thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp năm 2016 & 2017, 82. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, 2017, Phụ lục 1, Báo cáo quý II số 1680/PTM-VP ngày 14/7/2017, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 83. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Tố tụng Trọng tài- Tòa án phải hỗ trợ đắc lực, đăng tại phai-ho-tro-dac-luc-n378.html>, (30/7/2020). 84. Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, Giảo trình Tư pháp Quốc tế, NXB tư pháp, Hà Nội 2006; 85. Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017, Giáo trình Luật tố tụng Dân sự Việt Nam, tái bản lần thứ 16, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội 86. Hoàng Tuấn, 2004, Trọng Tài Thương Mại vẫn trong cảnh … “thất nghiệp”, Báo Pháp luật, số 102, ngày 28/04/2004. 87. Nguyễn Hồng Tuyến, 2003, Về những điểm mới của Pháp lệnh Trọng Tài Thương Mại, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2003. 88. Đào Trí Úc, 2008, Những vấn đề cơ bản của Luật Trọng tài, Hội thảo “Góp ý vào dự thảo 1 Luật Trọng Tài Thương Mại”, Hội luật gia Việt Nam, ngày 10- 11/7/2008; 89. Đào Trí Úc, 2010, Thẩm quyền Hội đồng Trọng tài và vai trò của Tòa án trong quá trình tố tụng trọng tài, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, 26(2010), tr.270- 276. 90. Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, 2010, Báo cáo giải trình, tiếp thu và sửa đổi Dự thảo Luật Trọng Tài Thương Mại, số 320/BC-UBTVQH12 ngày 12 tháng 5 năm 2010. 91. Viện khoa học pháp lý, 2006, Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa. 92. Viện khoa học xét xử- Tòa án Nhân dân Tối cao, 2009, Chuyên đề Số 4-2009: Chuyên đề về khoa pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài, 93. Viện Khoa học xét xử- Tòa án Nhân dân Tối cao, 2014, Thực tiễn giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài của TA nhân dân- Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện, Hội nghị Tổng kết 20 năm thực hiện Công ước New York 1958, Hà Nội, ngày 21/11/2014. 94. Võ Khánh Vinh, 2019, Về quyền tư pháp và chế độ tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, ngày 01/07/2019, viet/phap-luat/ve-quyen-tu-phap-va-che-do-tu-phap-o-nuoc-ta>, (30/7/2020). 95. Nguyễn Thị Yến, 2005, Sự hỗ trợ của Cơ quan tư pháp đối với hoạt động của Trọng Tài Thương Mại theo Pháp lệnh Trọng Tài Thương Mại năm 2003, Tạp chí Luật học số 2/2005. II. Tài Liệu Tiếng Anh 96. Abwuor, John Otieno, 2012, Role of Courts in Arbitration: A critical analysis of the Kenya Arbitration Act No. 4 of 1995, The University of Nairobi, Kenya, September 2012. 97. Arroyo, Manuel (ed), 2013, Arbitration in Switzerland: The Practitioner's Guide, Wolters Kluwer Law, the Netherlands; 98. Böckstiegel, Karl-Heinz, Stefan Michael Kröll et al. (eds), 2007, Arbitration in Germany: The Model Law in Practice, Kluwer Law International. 99. Bor, Harris, G. Fullelove, Joanne Greenaway, 2013, Arbitration in England with chapters on Scotland and Ireland, Edited by Julian D.M. Lew, QC, Kluwer Law International, the Netherlands, pg. 1-29. 100. Born, Gary B., 1994, International Commercial Arbitration in the US, Kluwer Law and Taxation Publishers, the Netherlands. 101. Born, Gary B., 2009, International Commercial Arbitration, Kluwer Law International, the Netherlands. 102. Born, Gary B., 2012, International Arbitration: Law and Practice, Volume, Kluwer Law International, the Netherlands. 103. Born, Gary B., 2014, International Commercial Arbitration. Second Edition, Kluwer Law International, the Netherlands. 104. Bosman (ed), 2013, Arbitration in Africa: A Practitioner's Guide, Nxb Kluwer Law International, the Netherlands. 105. Cheung, Christina, 2012, The Enforcement Methodology of Non-Domestic Arbitral Awards Rendered in the United States & Foreign-Related Arbitral Awards Rendered in the People's Republic of China pursuant to Domestic Law and the New York Convention, 11 Santa Clara Journal of International Law, Vol.11 (2012-2013), Issue 1 (2012), pg. 237-263, 106. Christoph, Liebscher, 2012, Article V, in New York Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards – Commentary, R. Wolff (ed), C. H. Beck. 107. Tran Quang Chuc, 2005, Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards in Vietnam, Journal of International Arbitration, 22(6), p. 496; 108. Commonwealth Secretariat, 1991, UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration- Explanatory Documentation prepared for Commonwealth Jurisdictions, Commonwealth Secretariat Publications, Marlborough House, London, Arbitration-Commonwealth.pdf> (30/7/2020). 109. Correll, Charles C., Jr. & Ryan J. Szczepanik, 2013, No Arbitration Is an Island: The Role of Courts in Aid of International Arbitration, 6 World Arb. & Mediation Review, tr. 565, pg. 576–77. 110. Court of Appeal of England and Wales, 2008, Nigeria (NNPC) v. IPCO (Nigeria) Ltd., 21 October 2008, [2008] EWCA Civ 1157. 111. Court of Appeal of English and Wales, 1995, Aggeliki Charis Compania Maritima SA v Pagnan SpA (The Angelic Grace), United Kingdom, 1 Lloyd's Rep 87. 112. Court of Appeal of English and Wales, 2000, Al-Naimi v Islamic Press Agency, 1 Lloyd's Retr, United Kingdom, 522,524. 113. Court of Appeal of Paris of France, Société S.A. Lesbats et Fils v. Volker le Docteur Grub, 18 January 2007, 05/10887. 114. Court of Appeal of Paris, France, 2005, Direction Générale de l’Aviation Civile de l’Emirat de Dubaï v. Société International Bechtel Co., 29 September 2005, 2006 REV. ARB. 115. Croft, Clyde and James Allsop AO, 2014, Judicial Support of Arbitration, a paper presented at the APRAG Tenth Anniversary Conference – Melbourne in 2014, (30/7/2020) 116. Darwazeh, Nadia, 2010, Article V(1)(e), in Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards: A Global Commentary on the New York Convention (H. Kronke, P. Nacimiento et al. ed), Kluwer Law International, the Netherlands. 117. Delaum, Georges R. e, 1998, Non-Domestic US Awards Qualify for Recognition Under The New York Convention, RDAI/IBLJ, N° 1, 118. Delvolvé, Jean-Louis, Gerald H. Pointon, 2009, et al., French Arbitration Law and Practice: A Dynamic Civil Law Approach to International Arbitration, Second Edition, Kluwer Law International. 119. District Court of the Southern District of Florida, 2009, Four Seasons Hotels and Resorts B.V. et al. v. Consorcio Barr, S.A., United States of America, 12 May 2009, 1:04-cv-20673-KMM. 120. District Court of the Southern District of New York, 1989, FIAT S.p.A. v. The Ministry of Finance and Planning of the Republic of Suriname, Suriname Rice Export Company N.V. et al. v. Alvaro N. Sardi, United States of America, 12 October 1989, 1989 WL 122891 121. District of Columbia of the United States of America, 1996, Chromalloy Aeroservices v. Arab Republic of Egypt, 31/07/1996, 94-2339; 122. Dundas, Hew R. and Dzungsrt & Associates, 2011, “National Report Vietnam”, ICCA International Handbook on Commercial Arbitration, International Council of Commercial Arbitration, the Netherlands. 123. Nguyen Manh Dzung, Nguyen Thi Thu Trang, IBA National Report on Arbitrability, 86BD8594-8F3A-443A-8B71-82E3E07EBE65> (30/7/2020). 124. Nguyen Manh Dzung, Nguyen Thi Thu Trang, IBA National Report on Public Policy, 24F2-4237-800A-3F30D4012C27> (30/7/2020). 125. Gaillard, E. and J. Savage (eds), 1999, Fouchard Gaillard Goldman on International Commercial Arbitration, Kluwer Law International, the Netherlands. 126. Garner, Bryan (ed.), 2009, Black’s Law Dictionary, West-a Thomson business, 9th ed, London. 127. Heibron, Hilary, 2013, A Practical Guide to International Arbitration in London, Taylor & Francis, England. 128. High Court in the Supreme Court of Hong Kong, 1992, J. J. Agro Industries (P) Ltd v. Texuna International Ltd., 12 August 1992, HCMP000751/1992. 129. High Court New Plymouth of New Zealand, 2004, Alexander Property Developments v. Clarke, 10 June 2004, CIV. 2004-443-89, New Zealand. 130. High Court of England and Wales, 2004, IPCO (Nigeria) Ltd v. Nigerian Nat'l Petroleum Cortr. [2005] EWHC 726 (Q.B.). 131. High Court of Justice of England and Wales, 1997, China Agribusiness Development Corporation v. Balli Trading, 20 January 1997, XXIV Y.B. COM. ARB. 732 (1999); 132. High Court of Justice of England and Wales, 2008, IPCO (Nigeria) Ltd. v. Nigerian National Petroleum Corp, 17 April 2008, [2008] EWHC 797. 133. High Court of Paris, France, 2017, Republic of the Niger v. Africard, Decision No. 17/54338 on 06 September 2017. 134. High Court of Supreme Court of Hong Kong, 1994, China Nanhai Oil Joint Service Corporation Shenzhen Branch v. Gee Tai Holdings Co. Ltd., 1992 No. MP 2411, Hong Kong, 13/07/1994. 135. Hobér, Kaj, 2011, International Commercial Arbitration in Sweden. Oxford University Press. New York, 2011. 136. Holtzmann, Howard M. & Joseph E. Neuhaus, 1989, A Guide to The UNCITRAL Model Law, Kluwer Law and Taxation Publisher, the Netherlands. 137. Hong, Ronald, 2012, Interim Relief in Aid of ICA, 24 Singapore Academy of Law Journal, pg. 499-532. 138. Hong-yu Lin, 2008, A theoretical overview of the foundation of international commercial arbitration, Contemporary Asia Arbitration Journal, Volume 1(2), p. 255- 286 139. ICCA, 2011, ICCA’s Guide to the interpretation of the 1958 New York Convention, icca.org/media/0/13365477041670/judges_guide_english_composite_final_re vised_may_2012.pdf> (30/7/2020). 140. ICCA, Year-book Commercial Arbitration, Kluwer Law International, icca.org/publications/yearbook_table_of_contents.html> (30/7/2020). 141. Indian Parliament, 1996, Indian Arbitration and Conciliation Act in 1996, amended in 01 August 2019 142. United Nations Commission on International Trade Law Working Group on Arbitration, 2000, Settlement of Commercial Disputes - Possible uniform rules on certain issues concerning settlement of commercial disputes: conciliation, interim measures of protection, written form for arbitration agreement, Report of the Secretary General, 32nd Sess., A/CN.9/WG.II/WP.108 (Jan. 2000). 143. International Law Association, 2004, Recommendations on the application of public policy as a ground for refusing Recognition and Enforcement of
International Arbitral Awards, adopted by Resolution 2/2002, 70th Conference of the International Law Association, April 2002, New Delhi, pg. 864. 144. Iran- US Claims Tribunal, 2004, Lincoln Riahi v. Islamic Republic of Iran, Decision No. DEC 133-485-1 (17 November 2004). 145. Karel, Daele (ed), 2012, Challenge and Disqualification of Arbitrators in International Arbitration, International Arbitration Law Library, Volume 24, Kluwer Law International, the Netherlands. 146. Kronk, Nacimiento et al. (eds), 2010, Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards: A Global Commentary on the New York Convention, Kluwer Law International. 147. Lew, Julian D.M., 2007, “Does National Court Involvement Undermine the International Arbitration Process?”, The American University International Law Review, Washington College of Law (Oct. 15, 2007) 148. Lew, Julian D.M., Loukas A. Mistelis, Stefan Kröll, 2003, Comparative International Commercial Arbitration, Kluwer Law International. 149. Luttrell, Sam, 2009, Bias Challenges in International Commercial Arbitration: The Need for a “Real Danger” Test, Kluwer Law International, the Netherlands. 150. Luxembourg Court of Appeal, 1999, Judgment of 28 January 1999, XXIVa Y.B. Comm. Arb. 714. 151. M. Kerr, 1985, Arbitration and the Courts: The UNCITRAL Model Law, 34 Int'l & Comtr. L.Q. 1, tr. 2. 152. Marchac, Gregoire, 1999, Interim Measures in International Commercial Arbitration under the ICC, AAA, LCIA & UNCITRAL Rules, 10 American Review of International Arbitration, 123. 153. Mcllwrath, J. Savage, 2010, International Arbitration and Mediation- A Practical Guide, Kluwer Law International, the Netherlands. 154. Menon, Sundaresh SC., 2012, Opening Plenary Session International Arbitration: The Coming of a New Age for Asia (and Elsewhere), ICCA Congress 2012, icca.org/media/0/13398435632250/ags_opening_speech_icca_congress_2012. pdf> (30/7/2020). 155. Mercédeh, Azeredo da Silveira & Laurent Levy, 2008, Transgression of the Arbitrators’ Authority: Article V (1)(c) of the New York Convention, in Enforcement of arbitration agreement and International Arbitral Award: The New York Convention in Practice (E. Gaillard, D. di Pietro eds.,), Brill, London. 156. Moser, Michael J. (ed), 2007, Managing Business Disputes in Today's China: Duelling with Dragons, Kluwer Law International, the Netherlands. 157. Moses Margaret L., 2008, The Principles and Practice of international Commercial Arbitration, 2nd ed. Cambridge University Press, the U.K 158. Oberman, Michael S., 2013, “The Other Shoe”: Are Agreement Narrowing Judicial Review Enforceable?, The International Institute for Conflict Prevention & Resolution, Vol. 31 no. 5 May 2013, pg. 72-74 159. Paulsson, Jan, 1998, Enforcing Arbitral Awards Notwithstanding a Local Standard Annulment (LSA), ICC Bull. 9, no. 1. 160. Redfern, Hunter, Blackaby and Partasides QC, 2015, Redfern and Hunter on International Arbitration, Oxford University Press, 6th Edition. 161. Reyes, Anselmo & Weixia Gu (ed), 2018, The Developing World of Arbitration. A Comparative Study of Arbitration Reform in the Asia Pacific, Hart Publishing. 162. Sauvé, Jean-Marc, 2011, The Judiciary and the Separation of Powers, 2nd Jeu de Paume Encounters, Friday 17 June 2011, Versailles, etat.fr/actualites/discours-et-interventions/the-judiciary-and-the-separation-of- powers> (30/7/2020) 163. Schaefer, Jan K., 2016, Court Assistance in Arbitration- Some Observations on the Critical Stand-by Fencution of the Courts, Pepperdine Law Review, Vol.43. 164. Spenser, Underhill and Valentin, 1999, Restraining Foreign Proceedings Pursued in Breach of an Agreement to Arbitrate in England, 2 International Arbitration Law Review, pg. 151. 165. Stephan Wilske, Claudia Krapfl and Jefrey Jeng, 2013, German court ends horseplay by finding ambiguous arbitral award enforceable, Arbitration News of International Bar Association (IBA), Vol 18 No 2, September 2013, pg. 55; 166. Supreme Court of Austria, 2005, Buyer (Austria) v. Seller (Serbia and Montenegro), 26 January 2005, 3 Ob 221/04b, Austria. 167. Supreme People’s Court of China, 2003, Gerald Metals Inc. v. Wuhu Smelter & Refinery Co., Ltd. and Wuhu Hengxin Copper (Group) Inc., 12 November 2003, Min Si Ta Zi No. 12. 168. Swiss Federal Tribunal, 1993, Judgment of 11 March 1992, Rev. arb. 115. 169. Swiss Federal Tribunal, 1997, Judgment of 9 July 1997, 15 ASA Bull. 506. 170. Tao, Jingzhou, 2012, Arbitration Law and Practice in China, Third Edition, Kluwer Law International. 171. The Belgium Parliament, 1993, Belgium Judicial Code - Schedule IV- Arbitration, 24 June 1993, reformed on 25 December 2016, resto/belgica-judicial-code-arbitration-2013.pdf>, (30/7/2020). 172. The Congressional Research Service, The U.S Constitution Annotate, 173. The Dutch Parliament, 1986, The Dutch Code of Civil Procedure, Book 4, dated 1 December 1986, revised in 27 May 2014, 174. The Federal Republic of Germany, 1877, German Code of Civil Procedure - Zivilprozessordnung (ZPO), in 30 January 1877, p_classification=01.03>, (30/7/2020). 175. The French Parliament, 1981, Code of Civil Procedure of France, Book IV- Arbitration, in 14 May 1981, c.html>, (30/7/2020) 176. The Italian Parliament, 1940, Italian Code of Civil Procedure, Title VIII of Book IV- Arbitration, 28 October 1940, revised in 1994, 177. The Japanese Government, 2003, Arbitration Law no. 138 of Japan, in 01 August 2003, (30/7/2020). 178. The Parliament of Malaysia, Malaysian Arbitration Act No. 646 in 30 December 2005, amended on 1 December 2011, Act%20646%20-%20Arbitration%20Act%202005.pdf.>, (30/7/2020) 179. The Parliament of the United Kingdom, 1996, English Arbitration Act, on 17 June 1996, (30/7/2020) 180. The Secretary-General of United Nations, 1985, Report of the Secretary- General on the Analytical Commentary on Draft Text of a Model Law on International Commercial Arbitration, UN Doc. A/CN.9/264, XVI Y.B. UNCITRAL 104 (1985), 181. The Singapore Parliament, 1994, Singapore International Arbitration Act in 1994, revised on 31 December 2002, (30/7/2020). 182. The Standing Committee of China, 1994, Arbitration Law of the People’s Republic of China, on 31 August 1994, 201312/20131200432698.shtml>, (30/7/2020). 183. The United States Congress, 1926, Federal Arbitration Act (FAA), on 01 January 1926, act-usa.pdf>, (30/7/2020) 184. The World Bank, 2020, Doing Business- Vietnam, (30/7/2020). 185. Truong Van Toan & Sesto E Vecchi, 2001, Enforcing a Foreign Arbitral Award in Vietnam, International Business Lawyer 29(7), pg. 317-321. 186. Tweeddale, Andrew and Keren Tweeddale, 1999, A practical approach to arbitration law, Nxb Blackstone Press, London. 187. UNCIRAL, 2012, Digest of Case Law on the Model Law on International Commercial Arbitration, United Nations Publication, (30/7/2020). 188. UNCITRAL, 2005, Report of the Working Group on Arbitration and Conciliation on the Work of its Forty-Second Session, Document no. A/CN.9/573 (10–14 January 2005), (30/7/2020). 189. UNCITRAL, 2006, UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration in 1985, with amendments as adopted in 2006. 190. UNCITRAL, 2016, UNCITRAL Secretariat Guide on the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, United Nations Publication, vention.pdf> (30/7/2020). 191. UNCITRAL, Working Group II (Arbitration), 2003, Settlement of commercial disputes: Interim measures of protection: Note by Secretariat, Document no. A/CN.9/WG.II/WP.125 (thirty-ninth session, 2 October 2003), 192. UNCTAD, 2005, International Commercial Arbitration- Module 5.1 International Commercial Arbitration, 193. UNCTAD, 2005, International Commercial Arbitration- Module 5.6- Making the Award and Termination of the Proceedings, 194. UNCTAD, 2005, International Commercial Arbitration- Module 5.8 -Court Measures, (30/7/2020). 195. UNCTAD, 2020, Investment Policy Hub, Vietnam, (30/7/2020). 196. United Nations- Economic and Social Council, 1958, Summary Record of the Seventh Meeting on 3 June 1958, Document No. E/CONF.26/SR.17 dated 12 September 1958, 197. United Nations, 1958, Travaux préparatoires, United Nations Conference on International Commercial Arbitration, Summary Record of the Eleventh Meeting No. E/CONF.26.SR.11 on 12 September 1958, 198. United Nations, 1958, United Nations Conference on International Commercial Arbitration, Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards in 1958, New York. 199. United States District Court, E.D. California, 2010, Kim–C1, LLC v. Valent Biosciences Corp., 756 F.Supp.2d 1258. 200. Van Den Berg, Albert Jan, 1985, When Is an Arbitral Award Nondomestic Under the New York Convention of 1958?, Pace Law Review, Volume 6, Issue 1 Fall 1985. 201. Van Den Berg, Albert Jan, 1999, Striving for uniform interpretation, Enforcing Arbitration Awards under New York Convention- Experience and Prospects, New York, United Nations, (30/7/2020) 202. Van Den Berg, Albert Jan, 2003, Commentaries on Court Decisions on The New York Convention Of 1958, in Yearbook Commercial Arbitration, Kluwer Arbitration, Volume XXVIII – 2003, the Netherlands, pg. 307-644. 203. Malcolm N. Shaw, 2008, International Law, 6th ed., Cambridge University Press. 204. Williams, David A R, 2014, Defining the role of the court in Modern International Commercial Arbitration, Asian International Arbitration Journal, Issue 2, Kluwer Law International, pg. 137-180 205. Peter Malanczuk, 1997, Akehurst’s Modern Introduction to International Law, 7th ed., Routledge. 206. Wolff R. (ed.), 2013, New York Convention on the recognition and enforcement of foreign arbitral award- Commentary, Beck, Hart, Nomos; 207. World Justice Project, 2020, The WJP Rule of Law Index 2020, 2020-Online_0.pdf> (30/7/2020) 208. Yesilirmak, Ali, 2005, Provisional Measures in International Commercial Arbitration, Kluwer Law International, the Netherlands. 209. Yuen, Rimsky, SC, 2013, Keynote speech by Secretary for Justice at Arbitration Week in 2013, (30/7/2020). 1. Phụ Lục 1: Công văn 246 của TANDTC 2. Phụ lục 2: Quyết định số 117/2014/QĐ-PT ngày 07/08/2014 của Tòa Phúc Thẩm TAND tối cao tại Hà Nội. 3. Phụ lục 3: Quyết định số 08/2019/QD-PQTT ngày 25/07/2019 của TAND TP Hà Nội liên quan đến yêu cầu hủy PQTT của VIAC trong vụ tranh chấp về hợp đồng xây dựng giữa Công ty KE và Công ty AVN 4. Phụ lục 4: Thông báo số 03/TB-TA ngày 07 tháng 01 năm 2020 của TAND cấp cao tại Hà Nội 5. Phụ lục 5: Biểu mẫu 4B thống kê số thụ lý và kết quả giải quyết việc kinh doanh thƣơng mại của Tòa án Nhân dân Tối caoPHỤ LỤC