Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long
lượt xem 58
download
Nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, việc đảm bảo đủ số lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là việc làm rất quan trọng trong mỗi cơ quan, tổ chức. Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” PHẦN GIỚI THIỆU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, việc đảm bảo đủ số lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là việc làm rất quan trọng trong mỗi cơ quan, tổ chức. Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày 16/2/2011. Đối với Việt Nam, khi làm chiến lược phát triển kinh tế thường không song hành với chiến lược phát triển nhân lực. Đây là một hạn chế lớn, ảnh hưởng đ ến phát triển nguồn nhân lực nước ta. Và hệ quả của cách làm này cho thấy, dù chi tiêu cho giáo dục chiếm tỷ trọng lớn của GDP nhưng nguồn nhân lực vẫn không có bước đột phá, các chiến lược phát triển kinh tế không có đủ nguồn nhân lực cần thiết để thực hiện. Theo Phó giáo sư – Tiến Sĩ Đức Vượng ( Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài - nhân lực Việt Nam) đã khẳng định “nếu không làm tốt vấn đề tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, thì khó lòng đạt được mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Hiện nay, Đồng bằng Sông Cửu Long có khoảng 85.000 cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, thu hút 300.000 lao động làm việc. Tuy nhiên, toàn vùng chỉ giải quyết được việc làm cho khoản 170.000 người. Theo tiến sĩ Bùi Thị Thanh (Trường Đại học Kinh Tế Thành phố Hồ Chí Minh) nhận định: “Môi trường làm việc, chính sách đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân tài của Đồng bằng Sông Cửu Long, chậm cải thiện, chưa đủ mạnh và thiếu đồng bộ giữa các địa phương nên không tạo ra các điều kiện cần thiết kích thích phát triển và thu hút nguồn nhân lực. Điều đó dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám sang các vùng khác như Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Đông Nam Bộ”. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 1 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của những vấn đề trên nên việc Phân tích “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” là vấn đề cần được nghiên cứu. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu chung Phân tích hực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Từ đó tìm ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân l ực Đồng bằng Sông Cửu Long. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Phân tích thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao Việt Nam. - Phân tích thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long. - Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Đồng bằng Sông Cửu Long 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Phạm vi về không gian và đối tượng nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của đề tài chủ yếu là nguồn nhân lực có trình độ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long 3.2. Phạm vi về thời gian Đề tài sử dụng số liệu thứ cấp được thống kê trong năm 2010, 2011 và 2012 về thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 2 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” 3.3. Phạm vi về nội dung Do thực hiện trong thời gian ngắn, nên đề tài chỉ tập trung vào việc phân tích thực trạng nguồn nhân lực tại Đồng bằng Sông Cửu Long. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp thu thập số liệu Do hạn chế về thời gian nên đề tài không sử dụng số liệu sơ cấp mà chỉ sử dụng số liệu thứ cấp. Các số liệu thứ cấp này được thu thập trên Internet, các trang web, các bài báo và tạp chí chuyên ngành,… 4.2. Phương pháp phân tích Dùng phương pháp thống kê và mô tả để biết được thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam nói chung và thực trạng nguồn nhân lực tại Đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng. Từ mô tả và phân tích trên sử dụng phương pháp suy luận để đề ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác thu hút nguồn nhân lực có trình độ, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Đồng bằng Sông Cửu Long. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 3 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 KHÁI NIỆM NGUỒN NHÂN LỰC Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quy ết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đ ại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn l ực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì? Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực: - Dưới dưới góc độ của Kinh tế Chính trị: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. - Theo Liên Hợp Quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 4 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” - Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua chỉ tiêu quy mô và tốc đ ộ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đ ến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian nhất định (vì đ ến lúc đó con người muốn phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao động). Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tinh chiến lược , là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia: chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. 1.2. NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề ( về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề. Giữa GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 5 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đ ến chất l ượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về nguồn nhân l ực ch ất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường ( yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc. Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải đi vào thực chất. Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực đ ặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những người có năng lực thực sự. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 6 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” 1.3. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế. Theo nhà kinh tế người Anh , William Petty cho rằng lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất; Các-Mác cho rằng con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Trong truyền thống Việt Nam xác định “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nhà tương lai Mỹ Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo ông ta “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”. Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quy ết đ ịnh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ,… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội l ực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 7 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện : + Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn. + Hai là, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. + Ba là, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo. + Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba. Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa. Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quy ết đ ịnh t ới s ự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân l ực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm phát triển bền vững. Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 8 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 9 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” Chương 2 THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CÓ TRÌNH ĐỘ CAO Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 2.1. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRÌNH ĐỘ CAO Ở VIỆT NAM 2.1.1 Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, dân số Việt Nam vào năm 2010 là 86,82 triệu người. Đến năm 2011, dân số nước ta tăng thêm 1,06% so với năm 2010, đạt 87,84 triệu người. Dân số trung bình cả nước năm 2012 ước tính 88,78 triệu người, tăng 1,06% so với năm 2011. Bảng 1. DÂN SỐ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2012 ĐVT: Triệu người Chênh lệch Năm Năm Năm 2011-2010 2012-2011 Dân số 2010 2011 2012 Tỷ lệ Tỷ lệ +/- +/- % % Theo Giới tính 86,93 87,84 88,78 0,91 1,05 0,94 1,07 Nam 42,99 43,44 43,92 0,45 1,05 0,48 1,10 Nữ 43,94 44,40 44,86 0,46 1,05 0,46 1,04 Theo Khu Vực 86,93 87,84 88,78 0,91 1,05 0,94 1,07 Thành thị 26,51 27,89 28,81 1,38 5,21 0,92 3,30 Nông thôn 60,42 59,95 59,97 -0,47 -0,78 0,02 0,03 (Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam) Phân theo giới tính: Dân số nam năm 2011 là 43,44 triệu người, tăng 1,05% và dân số nữ năm 2011 là 40,44 triệu người, tăng 1,05% so với năm 2010. Đến năm 2012, dân số nam 43,92 triệu người, tăng 1,10%; dân số nữ 44,86 triệu người tăng 1,04%. Nhìn chung, tốc độ gia tăng dân số nam cao hơn tốc độ gia tăng dân số n ữ trong giai đoạn 2010 – 2012. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 10 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” Xét theo khu vực: Trong tổng dân số cả nước năm 2011, dân số khu vực thành thị là 27,89 triệu người, tăng 1,38% so với năm trước; dân số khu vực nông thôn là 59,95 triệu người, giảm 0,47%. Tuy nhiên, dân số ở cả hai khu vực đều tăng trong năm 2012. Dân số khu vực thành thị tăng 3,30% so với năm 2011, đ ạt mức 28,81 triệu người. Dân số khu vực nông thôn cũng tăng thêm nhưng với tỷ lệ thấp là 0,03% so với năm 2011 và đạt 59,97 triệu người Theo tính toán của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam (VN) có thể đạt ngưỡng 100 triệu người [10, Tr 1]. Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực VN đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế VN xếp thứ 73/133 nước được xếp hạng [10, Tr1]. Tuổi thọ trung bình của người VN hiện nay là 75 tuổi. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên và lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc có xu hướng tăng qua các năm. Lực lượng lao động từ 15 tuổi tr ở lên năm 2011 là 51,40 triệu người, tăng 1,96% so với năm 2010. Trong năm 2012, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đã tăng thêm 1,18 triệu người, tương đương 2,30%, đẩy con số này lên 52,58 triệu người. Bảng 2. LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2012 ĐVT: Triệu người Chênh lệch Lực lượng Năm Năm Năm 2011-2010 2012-2011 lao động 2010 2011 2012 Tỷ lệ Tỷ lệ +/- +/- % % Lực lượng lao động 50,41 51,40 52,58 0,99 1,96 1,18 2,30 từ 15 tuổi trở lên Lao động từ 15 tuổi 49,05 50,34 51,69 1,29 2,63 1,35 2,68 trở lên đang làm việc (Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam) GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 11 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” Tương tự, lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2011 là 50,34 triệu người, tăng 2,63% so với năm 2010. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2012 là 51,69 triệu người, tăng 2,26% so với năm 2011. Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc biến động với tỷ lệ thấp. Xét theo thành phần kinh tế, lực lượng lao động khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất, tăng từ 86,06% năm 2010 lên 86,30% năm 2012; Cơ cấu lao động khu vực nhà nước có xu hướng giảm tăng trong năm 2011 từ 10,42% năm 2010 lên 10,43% năm 2011 và giảm trong năm 2012 xuống còn 10,39%; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng thấp nhất và giảm dần qua các năm, từ năm 2010 là 3,53% giảm xuống còn 3,31% năm 2012. Phân theo ngành kinh tế, lĩnh vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao nhất và có xu hướng giảm dần qua các năm, từ năm 2010 là 49,50% xuống 47,49% năm 2012; lĩnh vực dịch vụ tăng từ 29,54% năm 2010 lên 31,40 % năm 2012. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng cũng tăng dần qua 3 năm từ 20,96% năm 2010 lên 21,11% năm 2012. Bảng 3. CƠ CẤU LAO ĐỘNG TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN ĐANG LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 – 2012 ĐVT: % Năm 2010 2011 2012 Theo thành phần kinh tế 100,00 100,00 100,00 Nhà nước 10,42 10,43 10,39 Ngoài nhà nước 86,06 86,20 86,30 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3,53 3,38 3,31 Theo ngành kinh tế 100,00 100,00 100,00 Nông, lâm nghiệp và thủy sản 49,50 48,39 47,49 Công nghiệp và xây dựng 20,96 21,28 21,11 Dịch vụ 29,54 30,33 31,40 (Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam) Số liệu từ Điều tra biến động dân số năm 2011 của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình cho thấy, số lượng người cao tuổi đang tăng nhanh hơn bất kỳ GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 12 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” nhóm dân số nào khác nên chỉ số già hóa cũng gia tăng nhanh chóng, trong khi đó tỷ số hỗ trợ tiềm năng lại giảm đáng kể [20, Tr1]. Thời gian để VN chuyển đổi từ cơ cấu dân số già hóa sang cơ cấu dân số già sẽ ngắn hơn nhiều so với tăng trưởng kinh tế cũng như các chương trình an sinh xã hội cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của nhóm dân số cao tuổi được coi là nhóm thiệt thòi và dễ bị tổn thương nhất. Hiện tại, hơn 39% người cao tuổi VN vẫn đang làm việc. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi và tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi của VN giai đoạn 2010-2012 có chiều hướng giảm dần qua các năm, đây là một dấu hiệu tích cực của thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm đã giảm từ 2,88% năm 2010 xuống 1,99% năm 2012. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị luôn cao hơn ở khu vực nông thôn. Trong đó, khu vực thành thị giảm từ 4,29% năm 2010 xuống 3,25% năm 2012 và khu vực nông thôn giảm từ 2,30% năm 2010 xuống 1,42% năm 2012. Tỷ lệ thiếu việc làm năm 2012 của lao động trong độ tuổi là 2,80%, trong đó khu vực thành thị là 1,58%, khu vực nông thôn là 3,35%, thấp hơn so với tỷ lệ lao động thiếu việc làm năm 2010 (các tỷ lệ tương ứng năm 2009 là: 3,57%, 1,82%, 4,26%). Ngược lại với tỷ lệ lao động thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị. Bảng 4. TỶ LỆ LAO ĐỘNG THẤT NGHIỆP VÀ THIẾU VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2012 ĐVT: % Năm 2010 2011 2012 Tỷ lệ lao động thất nghiệp 2,88 2,27 1,99 Thành thị 4,29 3,60 3,25 Nông thôn 2,30 1,71 1,42 Tỷ lệ lao động thếu việc làm 3,57 3,34 2,80 Thành thị 1,82 1,82 1,58 Nông thôn 4,26 3,96 3,35 (Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam) GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 13 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” Theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg, ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ, về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực VN giai đoạn 2011-2020 [6, Tr1], thì trong 10 năm tới cần tăng nhanh tỷ lệ nhân lực qua đào tạo trong nền kinh tế với cơ cấu hợp lý. Tổng số nhân lực qua đào tạo năm 2015 là khoảng 30,5 triệu người (chiếm khoảng 55,0% trong tổng số 55 triệu người làm việc trong nền kinh tế đất nước) và năm 2020, có khoảng gần 44 triệu người (chiếm khoảng 70,0% trong tổng số gần 63 triệu người làm việc trong nền kinh tế). Trong tổng số nhân lực qua đào tạo, số nhân lực đào tạo qua hệ thống dạy nghề đến năm 2015 có khoảng 23,5 triệu người (tăng 77%). Đến năm 2020 có khoảng 34,4 triệu người (bằng 78,5%). Số nhân lực đào tạo qua hệ thống giáo dục - đào tạo đến năm 2015 có khoảng 7 triệu người (bằng 23%), đến năm 2020 có khoảng 9,4 triệu người (bằng 21,5%). 2.1.2. Hiện tượng chảy máu chất xám Chảy máu chất xám (tiếng Anh: human capital flight hoặc brain drain) là thuật ngữ dùng để chỉ vấn đề di cư quy mô lớn của nguồn nhân lực có kiến thức và kĩ thuật từ một nước qua những nước khác. Hiện nay, Chảy máu chất xám còn là cụm từ dùng để chỉ những người không thỏa mãn với môi trường làm việc, muốn tìm cơ hội thăng tiến và cống hiến ở một công ty mới. Việc giữ chân nhân viên giỏi đang là một vấn đề nhức nhối đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những ngành yêu cầu trình độ cao. Xuất phát từ ước mơ thoát nghèo, lao động kĩ thuật cao thường có xu hướng học tập và làm việc ở môi trường được kỳ vọng là thuận lợi nhất. Từ đó, hiện tượng chảy máu chất xám ở các nước nghèo và đang phát triển lại càng đáng quan ngại hơn. Theo thống kê của Trang Di cư (Bộ Ngoại giao VN) [25, Tr 1] thì cộng đ ồng Việt ở nước ngoài đã tăng hơn 4 triệu người, đang học tập, sinh sống và làm việc trên 103 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nếu chỉ nhìn trong ngắn hạn thì điều này đồng GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 14 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” nghĩa với lượng chất xám đang thất thoát ngày càng nhiều. Số liệu thống kê ước tính có khoảng 400.000 trí thức, trong đó có 25% du học sinh VN đang học tập, sinh sống tại xứ người. Khảo sát năm 2010 của Viện giáo dục quốc tế IIE thì có đ ến 60-70% du học sinh có ý định ở lại học tập và công tác ở nước ngoài. Đáng lo hơn là số học sinh du học tự túc chiếm đến 90% tổng số lượng thống kê. Đề án đào tạo cán bộ tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (đề án 322) được hình thành từ năm 2000 với mục tiêu là đào tạo cán bộ tại những cơ sở giáo dục nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước với những ngành mà VN thiếu hoặc chất lượng chưa đạt chuẩn quốc tế. Đây là đề án được kỳ vọng rất lớn từ phía chính phủ, nhân dân lẫn người học. Đề án 322 là một chương trình nhận được nguồn kinh phí rất lớn trong điều kiện đất nước còn nghèo, kéo dài trong một thập kỷ. Theo ông Nguyễn Xuân Vang, cục trưởng Cục Đào tạo nước ngoài - Bộ GD- ĐT, cho biết kinh phí đã chi cho việc đào tạo từ năm 2.000 - 2010 là trên 2.500 tỉ đồng, trung bình mỗi năm chi 228,5 tỉ đồng. Trong mười năm hoạt động của Ðề án 322, có 7.129 ứng viên trúng tuy ển đã được gửi đi đào tạo ở các cơ sở giáo dục tiên tiến tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có 3.838 tiến sĩ, 2.042 thạc sĩ, 416 thực tập sinh và 833 cử nhân. Theo Bộ Giáo dục và Ðào tạo, 95% số lưu học sinh đã về nước đúng thời hạn và đã hoàn thành nhiệm vụ đào tạo [9, Tr 1]. Ðề án 322 là một minh chứng thể hiện những nỗ lực của Nhà nước ta trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đồng thời bảo đảm tính công bằng về cơ hội trong lĩnh vực đào tạo. Tuy vậy, ngay khi Ðề án khép lại, có một vấn đề đã được đ ặt ra một cách nghiêm túc, là hiệu quả hoạt động nghiên cứu của lưu học sinh sau khi trở về đơn vị công tác cũ. Không ít nghiên cứu sinh sau khi trở về đã phải từng bước tạm dừng hoặc rời bỏ hẳn hoạt động nghiên cứu khoa học vì nhiều lý do: môi trường khoa học còn bảo thủ, chưa chấp nhận thay đổi đến từ bên ngoài; điều kiện hoạt động khoa học thiếu thốn (thiếu kinh phí nghiên cứu; nghèo nàn cơ sở vật chất, phòng GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 15 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” thí nghiệm, thư viện...) và đặc biệt là những vấn đề của đời sống vật chất khiến nhiều nhà nghiên cứu phải đặt khoa học sang một bên để lao vào các công việc mưu sinh. Như vậy, vấn đề chảy máu chất xám không chỉ là những vết thương ngoại khi người được đào tạo rời bỏ Tổ quốc, di dân đến các quốc gia phát triển, mà còn là những vết thương nội khi nguồn chất xám chất lượng cao không phục vụ cho các mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ, mà nhiều khi bị lãng phí trong những mục đích tầm thường của cuộc sống (nhưng không hề tầm thường với mỗi cá nhân). Nhìn một cách sâu xa, những vết thương nội để lại những hậu quả tai hại còn hơn cả những vết thương ngoại. Bởi lẽ một chuyên gia, một nhà khoa học nếu còn có những liên hệ với đất nước thì đến một lúc nào đó, sau khi vượt qua đ ược những vấn đề trước mắt, họ vẫn có thể có những đóng góp quan trọng cho Tổ quốc. Nhưng nếu một nhà khoa học không vượt qua được thì rất nhiều khả năng giới khoa học sẽ mất đi một nhà khoa học chỉ sau một khoảng thời gian không tham gia nghiên cứu. Đánh giá về chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ trong các trường đại học (ĐH), Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân nhận định: “VN đang rất lãng phí nguồn lực chất xám ở các trường ĐH, nơi tập trung rất đông nguồn nhân lực trình độ cao với nhiều giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ” [12, Tr 1]. 2.1.3. Hoạt động động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao Theo Bộ Giáo dục và đào tạo năm học 1999-2000, cả nước có 153 trường ĐH và cao đẳng (ĐH là 69, cao đẳng là 84), năm học 2004-2005 số trường là 230 (93 trường ĐH, 137 trường cao đẳng), năm học 2011-2012, số trường ĐH và cao đẳng (CĐ) là 419 (ĐH là 204 trường, số trường CĐ là 215). Như vậy, so với năm học 1999-2000 thì số trường ĐH và cao đẳng tính đến năm học 2011-2012 đã tăng thêm hơn 2,7 lần. Việc tăng thêm các trường ĐH và CĐ để đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội, góp phần đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 16 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” đại hóa đất nước là cần thiết. Song việc mở ồ ạt các trường trong điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, đội ngũ giáo viên chưa đủ, đồng thời một cơ chế quản lý lỏng lẻo, nhiều bất cập thì lại trở thành một điều đáng lo ngại đối với giáo dục nước ta. Bảng 5. SỐ LƯỢNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG VÀ SINH VIÊN ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG QUA CÁC NĂM HỌC Bậc Hệ cao đẳng Hệ đại học Tổng học Trườn Trườn Trườn Sinh viên Sinh viên Sinh viên Năm học g g g 1999 – 2000 153 173.910 69 719.840 222 893.750 2004 – 2005 137 273.460 93 1.046.291 230 1.319.754 2009 – 2010 230 576.880 173 1.358.861 403 1.935.739 2010 – 2011 173 726.219 188 1.435.887 414 2.162.106 2011 – 2012 215 756.290 204 1.448.021 419 2.204.313 Ghi chú: - Đơn vị tính cột Trường là: Trường - Đơn vị tính cột Sinh viên là: Sinh viên (Nguồn: Bộ giáo dục và Đào tạo) Nếu như số lượng sinh viên vào năm học 1999-200 là 893.754 sinh viên thì đến năm học 2011-2012 là 2.204.313 sinh viên tăng 1,6 lần. Quy chuẩn về cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động khu vực châu Á hiện nay là: 1 đại học/4 cao đẳng/10 trung cấp [27, Tr 1] nhưng đối với VN thì con số này là ngược lại. Số trường ĐH năm 2012 là 204 trường với 1.448.201 sinh viên, trong khi số CĐ chỉ là 215 trường với 756.292 sinh viên. Thay vì 1 đại học/4 CĐ thì chúng ta đã làm ngược lại: 2 đại học/1 cao đẳng. Cơ cấu ngành nghề đào tạo cũng đang gặp vấn đề: đào tạo công nhân kỹ thuật còn chiếm tỷ trọng thấp; nhân lực đ ược đào tạo các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư chiếm tỷ trọng thấp, còn tỷ trọng các ngành xã hội, luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao, thiếu nhiều công nhân kỹ thuật lành nghề, trước hết là trong các ngành trọng điểm (cơ khí, điện tử - kỹ thuật điện, hóa chất...). GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 17 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” Trung tâm Nghiên cứu và Phân tích chính sách thuộc Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội) tổ chức một cuộc khảo sát với quy mô gần 3.000 cựu sinh viên thuộc năm khóa khác nhau (ra trường từ năm 2006-2010) của ba ĐH: ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và ĐH Huế, đã cho thấy những con số báo động. Có đến 26,2% cử nhân cho biết chưa tìm được việc làm, dù khái niệm việc làm ở đây được hiểu rất rộng là bất cứ công việc gì tạo ra thu nhập, không nhất thiết phải đúng với trình độ, chuyên ngành đào tạo. Trong số này, 46,5% cho biết đã đi xin việc nhưng không thành công. 42% lựa chọn một giải pháp an toàn là tiếp tục học lên hoặc học thêm một chuyên ngành khác. Thậm chí, có 27% cử nhân được hỏi cho biết, họ rất khó kiếm việc làm do ngành học của mình không phù hợp với thị trường. Số người rơi vào cảnh nhà tuyển dụng không hiểu về ngành học cũng chiếm tới 18%. Do đây là khảo sát được thực hiện tại các ĐH quốc gia, ĐH vùng - những ĐH “đầu tàu” của VN nên thực tr ạng này ở các trường ĐH khác có lẽ cũng không khả quan hơn [15, Tr 1]. Theo bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào Tạo Phạm Vũ Luận thì “so với nhu c ầu hiện đại hóa đất nước, chất lượng giáo dục ĐH còn yếu kém. Chính vì vậy Đ ảng ra chỉ thị phải đổi mới căn bản và toàn diện bậc học này” [22, Tr 1]. Nguyên nhân việc không kiểm soát chất lượng giảng dạy và cấp bằng tùy tiện hiển nhiên là làm giảm thấp uy tín của giáo dục VN. Bằng chứng là chất lượng của các tr ường ĐH hàng đầu VN bị xuống cấp nghiêm trọng, không có khả năng cạnh tranh quốc tế, và trên thực tế không thể lọt vào nhóm 200 trường đầu bảng xếp hạng các trường ĐH trên thế giới. 2.1.4. Hoạt động nghiên cứu khoa học Theo thống kê của Bộ Khoa học - Công nghệ, tính đến tháng 12-2012 cả nước có 24.300 tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ. So với năm 1996 đội ngũ này tăng trung bình 11,6%/năm, trong đó TS tăng 7%/năm, thạc sĩ tăng 14%/năm [28, Tr 1] Theo Phó Giáo Sư – Tiến Sĩ Phạm Bích San, Phó tổng thư ký Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật VN (VUSTA) nhận định “Số Giáo sư, Tiến sĩ chúng ta GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 18 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” nhiều nhất Đông Nam Á nhưng không có trường ĐH VN nào được đứng trong bảng xếp hạng 500 trường ĐH hàng đầu thế giới. Số lượng các bài báo công bố quốc tế của cả nước gần 90 triệu dân trong một năm chỉ bằng số lượng của một trường ĐH ở Thái Lan” [28, Tr 1]. Theo Báo cáo Harvard, trong năm 2006, 2.830 giảng viên của trường ĐH Chulalongkorn của Thái Lan đăng được 744 công trình nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế. Trong khi đó, 3.360 giảng viên của hai trường ĐH Quốc gia Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đăng được tổng cộng 36 công trình. Năm 2006, các nhà nghiên cứu của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) đăng được 41 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế [13, Tr 1]. Cũng trong năm đó, chỉ riêng các nhà nghiên cứu của Trường ĐH Phúc Đán ở Thượng Hải đã đăng được 2.286 bài trên các tạp chí quốc tế. Theo thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), trong giai đoạn 1996-2011 Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái Lan (69.637), một phần sáu của Malaysia (75.530), và một phần mười của Singapore (126.881). Thống kê của Bộ Khoa học – Công nghệ và các chuyên gia cho thấy trong 5 năm (2006 - 2010) cả nước chỉ có khoảng 200 bằng sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp tại Cục Sở hữu trí tuệ và chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có một bằng sáng chế; riêng năm 2011, nước ta không có bằng sáng chế nào được đăng ký tại đây. Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore (4,8 triệu dân) có 647 bằng sáng chế. Đứng thứ hai là Malaysia (27,9 triệu dân) với 161 bằng sáng chế; Thái Lan (68,1 triệu dân) có 53 sáng chế. Còn một nước có s ố dân và trình độ phát triển tương đương nước ta là Philippines cũng có tới 27 bằng sáng chế. Để giải thích cho tình trạng này là giảng viên VN kém ngoại ngữ. Điều này có thể chấp nhận như một lời giải thích nhưng khó chấp nhận với thực tế hiện tại, nhất là trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay, khi mà các hoạt đông nghiên c ứu GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 19 SVTH: Thạch Kim Khánh
- “Thực trạng nguồn nhân lực có trình độ cao ở Đồng bằng Sông Cửu Long” khoa học ngày càng trở nên có tính toàn cầu trong đó tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp chính. Những nhà khoa học không có khả năng kết nối với những xu hướng toàn cầu trong lĩnh vực của họ chắc chắn sẽ không tham gia vào các nghiên cứu có liên quan. Nguyên nhân khác, theo quy định của Bộ Giáo dục – Đào tạo, mỗi giảng viên ĐH ngoài việc đảm bảo 900 giờ giảng dạy phải có 500 giờ dành cho nghiên cứu khoa học/năm. Đối với Giáo sư, Phó Giáo sư và giảng viên chính thì số giờ dành cho nghiên cứu khoa học từ 600 - 700 giờ/năm. Tuy nhiên, hiện nay đa số giảng viên các trường ĐH chỉ đào tạo mà không nghiên cứu khoa học. Các trường ĐH không có biên chế làm khoa học chuyên nghiệp. Việc nghiên cứu chỉ được coi là hoạt động làm thêm của cán bộ giảng dạy. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã công bố bảng xếp hàng về Chỉ số đối mới công nghệ toàn cầu năm 2012, trong đó VN xếp vị trí 76 [19, Tr 1]. Hình 1. Chỉ số đối mới công nghệ toàn cầu Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII- Global Innovation Index) được tính dựa trên điểm số trung bình của các yếu tố đầu vào là môi trường thuận lợi cho đ ổi mới (cách tổ chức, nguồn nhân lực, thị trường, cơ sở hạ tầng), môi trường kinh doanh và đầu ra là thành tựu trong đổi mới khoa học và sáng tạo. GVHD: Th.S. Phạm Lê Hồng Nhung 20 SVTH: Thạch Kim Khánh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo: "thực trạng nguồn nhân lực nước ta và những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực"
33 p | 881 | 308
-
Đề tài: Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam nói chung và doanh nghiệp nói riêng hiện nay và các nhà quản trị cần làm gì để có nguồn nhân lực có chất lượng cao
47 p | 724 | 179
-
Đề tài “Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay-kinh nghiệm và giải pháp”
110 p | 434 | 108
-
Luận văn Thạc sỹ Kinh tế: Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở tỉnh Đắk Nông
108 p | 242 | 78
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước
36 p | 161 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Dược học: Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực dược bệnh viện và xác định nhu cầu nhân lực dược sĩ tại các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện trong giai đoạn hiện nay
176 p | 96 | 23
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chính sách phát triển nguồn nhân lực của thủ đô Viêng Chăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
114 p | 56 | 14
-
Đề án Nguồn nhân lực: Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam thời kỳ 2001-2005 và những giải pháp thực hiện
49 p | 94 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Đặc điểm bệnh tật và thực trạng nguồn nhân lực tại khoa Y học cổ truyền Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng năm 2019-2020
98 p | 48 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Y khoa: Thực trạng nguồn nhân lực y học cổ truyền công lập thành phố Đà Nẵng năm 2020
96 p | 45 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Dược học: Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực dược bệnh viện và xác định nhu cầu nhân lực dược sĩ tại các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện trong giai đoạn hiện nay
27 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng tại tỉnh Tiền Giang đến năm 2020
150 p | 28 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển nguồn nhân lực tại Trung tâm Xúc tiến đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Kiên Giang
115 p | 2 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và Nhân văn: Phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Nam
115 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác phát triển nguồn nhân lực tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Nhân Thọ Prudential Việt Nam
121 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực tại Tổng công ty Kinh tế kỹ thuật Công nghiệp Quốc phòng (GAET)
107 p | 2 | 1
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Khách sạn Tourane
24 p | 2 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn