Tiểu luận: Đánh giá hiệu quả hệ thống thoát nước tại thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 57
download
Đề tài “ Đánh giá hiệu quả hệ thống thoát nước tại thành phố HCM” nhằm đánh giá chất lượng hiệu quả của hệ thống thoát nước tại thành phố để từ đó có cái nhìn đúng đắn về vấn đề, cũng như đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống thoát nước tại thành phố.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Đánh giá hiệu quả hệ thống thoát nước tại thành phố Hồ Chí Minh
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG Đề tài: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GVHD: Th.S Nguyễn Văn Toàn LỚP: K10407B Thành phố Hồ Chí Minh 2012
- 1 MỤC LỤC LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................................................ 2 Chương 1: XÁC ĐỊNH CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................... 3 1.1 Quy hoạch tổng thể đô thị................................................................................................ 3 1.2 Cơ sở hạ tầng hệ thống thoát nước ................................................................................. 4 1.3 Tốc độ đô thị hóa .............................................................................................................. 6 1.4 Khả năng quản lý của cơ quan chuyên trách ................................................................. 8 1.5 Khả năng tài chính ............................................................................................................ 9 1.6 Bề mặt bê tông hóa ......................................................................................................... 11 1.7 Ý thức người dân............................................................................................................. 12 1.8 Điều kiện tự nhiên........................................................................................................... 13 Chương 2: XÁC ĐỊNH TRỌNG SỐ VÀ HỆ SỐ MỨC CHẤT LƯỢNG..................... 16 2.1 Bảng tính............................................................................................................................... 16 2.2 Nhận xét ............................................................................................................................ 18 Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................................................... 21 KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 24 1
- 2 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nhìn lại những thành tựu đạt được hơn 30 năm, từ khi đất nước đổi mới, chúng ta những người dân Việt không thể không tự hào. Những công trình mọc lên rầm rộ: những khu công nghiệp, nhà máy, tòa nhà chọc trời…như mang một hương sắc mới cho đất nước, mở ra những triển vọng hé mở vào ngày mai tươi sáng. Tuy nhiên cũng đồng thời dự báo rằng chúng ta phải đối mặt với những vấn đề khó khăn đã, đang và sẽ xảy ra. Với tốc độ phát triển nhanh của đô thị hóa, mang lại bộ mặt mới cho đất nước cùng với đó là sự suy giảm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường mà hiện nay đang được các bài báo, trang mạng bàn luận xôn xao, trong đó có vấn đề về hệ thống thoát nước. Thành phố Hồ Chí Minh, một trong những thành phố tiêu biểu, dẫn đầu của nước Việt Nam, nơi chúng tôi đang sinh sống và học tập đã chứng kiến rất rõ về vấn đề này. Ngập nước vẫn diễn ra thường xuyên, đặc biệt những lúc triều cường, đã gây cản trở nhiều tiến độ các công trình và giao thông tại thành phố, ảnh hưởng đến nền kinh tế, xã hội và đời sống sinh hoạt của người dân trên địa bàn thành phố. Để nghiên cứu rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng tôi những chuyên gia tài năng tập sự đã chọn đề tài “ Đánh giá hiệu quả hệ thống thoát nước tại thành phố HCM” nhằm đánh giá chất lượng hiệu quả của hệ thống thoát nước tại thành phố để từ đó có cái nhìn đúng đắn về vấn đề, cũng như đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống thoát nước tại thành phố. Hi vọng rằng, đề tài này sẽ là một tư liệu tham thảo bổ ích cho những ai quan tâm đến vấn nạn thoát nước đô thị trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung. 2
- 3 Chương 1: XÁC ĐỊNH CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Sau khi tìm hiểu thông tin về hệ thống thoát nước TP Hồ Chí Minh, nhóm chúng tôi đã đề ra được tám chỉ tiêu để đánh giá chất lượng hệ thống thoát nước như sau: 1.1 Quy hoạch tổng thể đô thị Trước hết ta cần tìm hiểu khái niệm Qui hoạch là gì? Qui hoạch, cũng gọi là qui hoạch đô thị hay qui hoạch thành phố và vùng, là một lĩnh vực chuyên môn luôn biến đổi và có tính mục đích nhằm năng cao chất lượng sống và hạnh phúc của con người và các cộng đồng bằng việc tạo ra không gian sống thuận tiện, bình đẳng, tốt cho sức khỏe, hiệu quả và hấp dẫn cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Qui hoạch là công cụ giúp các các nhà lãnh đạo trong xã hội, các doanh nhân và công dân đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sống của con người.Qui hoạch tốt giúp tạo ra những cộng đồng vĩ đại trong đó mọi người có nhiều lựa chọn tốt về cách và nơi mà họ muốn sống. Quy hoạch tổng thể TP.HCM đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cách đây hơn 10 năm. Theo đó, ngoài việc hoàn thiện quy hoạch chung xây dựng thành phố và thiết kế đô thị khu trung tâm, thành phố đang đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch cho các quận - huyện. Thành phố Hồ Chí Minh có độ dốc từ Bắc xuống Nam, cao ở phía Bắc (Đông Bắc và Tây Bắc) và thấp dần xuống phía Nam, hướng thoát nước là Bắc -Tây bắc-Đông Bắc xuống Nam-Đông nam-Tây Nam. Khu vực phía Nam (quận 7, Nhà Bè) này như túi chứa nước cứu nguy cho toàn thành phố khi mưa to, triều cường và nước từ các sông Đồng Nai, Sài Gòn đổ dồn về với lưu lượng lớn. Nếu xây nhà thì chỉ là thấp tầng, mật độ thưa và giữ nguyên các kênh rạch, đầm hồ để đảm bảo an toàn cho thành phố Sài Gòn. Nhưng rất tiếc là TP.HCM đã phát triển quá mạnh mẽ và quá nhanh về phía Nam, bắt đầu là khu dân cư Phú Mỹ Hưng (khởi công 1996 với hơn 350 ha). Hệ quả của việc phát triển sai 3
- 4 hướng này là TP.HCM bị ngập nặng, lượng nước mưa và triều cường lúc trước được chứa ở túi nước phía Nam Sài Gòn thì nay bị đẩy sâu vào trong nội địa làm cho gần như toàn bộ thành phố bị ngập rộng và sâu, vào những lúc mưa đạt vào khoảng 70 mm gặp thêm triều cường dâng cao là hết phương cứu chữa, nhiều nơi chưa bao giờ bị ngập thì nay bị ngập nước với các cơn mưa chỉ ở mức trung bình như khu vực Ủy ban nhân dân thành phố, đường Lê Thánh Tôn, thậm chí Củ Chi, Thủ Đức là nơi cao nay cũng bị ngập nước. Hậu quả này không thể khắc phục được nữa và cũng chưa biết phải tính như thế nào trong một dự báo là khoảng 62% diện tích của TP.HCM sẽ nằm dưới mặt nước biển nếu như nước biển dâng lên 0.7 mét trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu. Đó là do quá trình qui hoạch yếu kém và sai lầm dẫn đến việc ngập lụt càng ngày càng nhiều hơn. Thay vì phát triển về vùng cao phía Đông - Đông Bắc thì TP HCM lại chọn hướng ngược lại; các khu đô thị phía Nam Nhà Bè mọc lên tại các khu vực vùng trũng trước đây là hồ chứa nước khiến Sài Gòn ngày càng ngập nặng: “Càng mở rộng đô thị hiện đại ở vùng Nam Sài Gòn, Bình Chánh, quận 7, Nhà Bè, tức là đang ngăn đường thoát nước của thành phố”… Các công trình mọc lên trong 1 thời gian dài đã làm biến mất 47 con kênh, với tổng diện tích hơn 16 ha, san lấp hơn bảy ha hồ Bình Tiên - một trong những hồ chứa nước quan trọng nhất của khu vực. Cùng với đó, quá trình này cũng làm suy giảm diện tích cây xanh, diện tích thấm bề mặt. Tất cả những nhân tố trên đã góp phần làm cho hệ thống thoát nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trì trệ và quá tải, dẫn đến tình trạng ngập lụt ngày càng cao. 1.2 Cơ sở hạ tầng hệ thống thoát nước Thời gian gần đây, khi những cơn mưa to cộng với triều cường lịch sử, tình trạng ngập lụt tại TP Hồ Chí Minh đang diễn biến phức tạp, tăng cả về mực nước và thời gian ngập. Những nguyên nhân được lý giải là do san lấp kênh rạch tràn lan, thi công cẩu thả, tăng dân số... và quan trọng là hệ thống thoát nước đô thị yếu kém, chắp vá quá tải do 4
- 5 được xây dựng cách đây hơn 40 năm, phục vụ cho diện tích 35 km2 với 1,5 triệu dân. Trong khi đó, số dân hiện nay đã là 8 triệu sống trên diện tích 2.095,6 km2. Khu vực nội thành Thành phố Hồ Chí Minh có 5 hệ thống kênh rạch chính với tổng chiều dài khoảng 55 km đảm nhận chức năng tiêu thoát nước cho khu vực nội thành, bao gồm: · Hệ thống kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè; · Hệ thống kênh Tân Hoá – Lò Gố m; · Hệ thống kênh Tàu Hũ – kênh Đôi – kênh Tẻ; · Hệ thống kênh Bến Nghé; · Hệ thống kênh Tham Lương – Bến Cát – Vàm Thuật; Độ dốc của phần lớn các kênh rạch này là rất nhỏ, đáy kênh bị lấp đầy bởi các vật chất lắng đọng từ nước thải đô thị và rác rưởi ném từ các hộ dân cư sinh sống trên và ven kênh rạch cũng như các ghe xuồng buôn bán trên sông, do đó khả năng thoát nước rất kém. Có nơi, tuyến cống ở hạ lưu cao hơn phía thượng lưu dẫn đến không thoát nước được. Các kênh rạch lại đang bị san lấp, mất dần do ý thức của người dân quá kém, những tuyến cống mới xây dựng chắp vá, không có quy hoạch. Nét đặc trưng của hệ thống kênh rạch thành phố là bị ảnh hưởng mạnh bởi thuỷ triều , một vài kênh còn bị ảnh hưởng bởi nhiều hướng. Kết quả là các chất ô nhiễm tồn đọng lại trong kênh và đang bị tích tụ dần. Sự ô nhiễm nước và tích tụ bùn lắng trên các kênh rạch này không chỉ làm xấu cảnh quan đô thị , đặc biệt khu vực gần phía trung tâm thành phố , mà còn ảnh hưởng không tốt đối với sức khoẻ cộng đồng. Thực ra vào năm 2001, thành phố đã vay vốn Ngân hàng Thế giới nhằm cải tạo, làm mới hệ thống thoát nước, giải quyết dứt điểm tình trạng ngập úng. Nên hàng loạt dự án thoát nước lớn với kinh phí hàng nghìn tỷ đồng ra đời. Tuy nhiên, dự án xây dựng cống thoát nước từ năm 2001. Những chiếc cống được lắp đặt vào thời điểm đó chỉ phù hợp với triều cường đỉnh khoảng 1,32m. Còn hiện nay đỉnh triều cường lên tới gần 1,6m và kết hợp mưa lớn nên cống thoát nước không thể vận hành kịp. 5
- 6 Thêm vào đó, nhà máy xử lý nước thải trên địa bàn thành phố rất ít, chỉ mới có hai nhà máy và mới được đưa vào hoạt động trong thời gian gần đây. Bình Hưng Hòa công suất 30.000m³/ngày đêm và Bình Hưng công suất 141.000m³/ngày đêm. Cuối năm 2008, Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng ở huyện Bình Chánh mới chính thức vận hành với tổng công suất 141.000 m3 /ngày với tổng vốn đầu tư khoảng 100 triệu đô la Mỹ. Phần lớn nguồn vốn xây dựng nhà máy vay từ Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC). TP Hồ Chí Minh đang phát sinh khoảng 6 loại bùn thải: bùn thải từ hệ thống thoát nước thải sinh hoạt đô thị, bùn thải từ hệ thống thoát nước thải công nghiệp, bùn thải từ các hoạt động nạo vét kênh rạch định kỳ, bùn thải từ bể tự hoại (bùn hầm cầu), bùn thải từ các trạm/nhà máy xử lý nước cấp, bùn thải từ các công trường xây dựng. Tuy nhiên, việc xử lý các loại bùn thải này đang rất khó khăn và còn nhiều bất cập. Và một vấn đề lớn (nếu không nói là lớn nhất) hiện nay là TP Hồ Chí Minh không dự trù bất cứ khoản kinh phí nào để xử lý các bùn thải phát sinh từ dịnh vụ công (bùn thải từ hệ thống thoát nước và bùn thải hoạt động nạo vét kênh rạch). Vì vậy, bùn thải các loại trên thường “đổ xá” để có chi phí thấp nhất mà không xử lý. Ước tính, chi phí xử lý các loại bùn trên khoảng 300.000 đồng/tấn và trên dưới 1.000 tỷ đồng/năm. 1.3 Tốc độ đô thị hóa Ta có bảng thống kê tốc độ tăng dân số của TP Hồ Chí Minh từ năm 1975 đến 2010 như sau: 6
- 7 Ví dụ như tốc độ tăng dân số cao trong thời kỳ 2001-2005 (20,7% s o với 11,4% của thời kỳ 1996-2000 và 12,7% của thời kỳ 1991-1995) dẫn tới sự gia tăng đột biến (độ dốc của đồ thị) của số lần mực nước vượt các mức cao độ trong thời kỳ 2006-2007. Sự gia tăng dân số dẫn đến việc đô thị hóa tại vùng ven đô thị vốn trước kia sử dụng cho mục đích nông nghiệp. Khu dân cư, khu đô thị, khu công nghiệp mọc lên một cách ồ ạt, trong khi hệ thống thoát nước chưa được chú ý đúng mức nên cứ mưa xuống là đường bị ngập, đường được nâng lên thì nhà ngập. Nâng nhà lên thì lại làm đường ngập. Chính vì thế mà trên một đơn vị diện tích, dân số sẽ tăng, hạ tầng như cũ. Số điểm ngập lại đang có xu hướng tăng lên tại khu vực ngoại vi thành phố. Điều đó cho thấy tốc độ phát triển hệ thống thoát nước không theo kịp tốc độ đô thị hóa. Lấn chiếm kênh rạch thoát nước Quá trình đô thị hóa đang và sẽ xóa sổ một đoạn hoặc toàn bộ kênh rạch của một khu vực mà chưa thay vào đó một hệ thống thoát nước tương thích, hoặc nạn xâm chiếm 7
- 8 xây cất nhà cửa ven kênh rạch là một thảm học về sinh thái cho khu vực đó vì phần còn lại của con kênh, con rạch bị san lấp, lấn chiếm sẽ bị thoái hóa do dòng triều bị chặn lại, thay vì sóng triều tiến là sóng triều phản xạ nghịch hướng với hướng truyền triều nên tốc độ giảm thiểu, lượng bồi lắng gia tăng, đáy kênh rạch nâng cao, lòng kênh bị thu hẹp, chất ô nhiễm có điều kiện gia tăng. Dần dần từ thoái hóa đến chết là số phận không tránh khỏi của các kênh, rạch đó. Cần nhấn mạnh là, khi sông, kênh rạch bị xóa sổ hoặc bị thoái hóa đồng nghĩa với việc mất đi nơi nhận nước thải tự nhiên rất quan trọng mà con người không thể tạo ra được với động năng rất lớn của thủy triều và khả năng điều tiết, tự làm sạch của nước triều. Do tính chất liên hoàn của hệ thống cống thoát nước và tính chất nối kếnh của kênh rạch, khi quá trình đô thị hóa làm biến mất một dòng kênh hay rạch nào đó, như là một phản ứng dây chuyền, sẽ ảnh hưởng đến chế độ dòng chảy, khả năng tiêu thoát nước. Ngập úng là điều tất yếu xảy ra, bên cạnh những bất lợi khác cho môi trường sống của con người. 1.4 Khả năng quản lý của cơ quan chuyên trách Trước tiên là việc tổ chức quản lý đô thị chưa chặt chẽ: Chưa có các quy định và thực hiện về mặt pháp luật đối với các tổ hợp vi phạm gây tác hại đến môi trường, đặc biệt là môi trường nước. Chưa có sự kiểm ra, theo dõi các quy định về việc thực hiện xây dựng công trình xử lý nước thải cực bộ ở các khu dân cư cũng như các cơ sở sản xuất, các công trình xây dựng, khách sạn, bệnh viện. Chưa có sự phối hợp giữa các ngành quản lý trong thành phố trong quá trình đô thị hóa, cụ thể là việc xây dựng các công trình kiến trúc, cần phải phối hợp việc xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng, đặc biệt là các công trình thoát nước và xử lý nước thải. Ngoài ra, việc tổ chức phân cấp quản lý hệ thống thoát nước hiện nay chưa được thống nhất, do đó công tác duy tu, bảo dưỡng cũng như xây dựng mới phát triển không đồng bộ ở các cấp của hệ thống. 8
- 9 Hiện nay, đa số các tuyến cống do Công ty Thoát nước Đô thị quản lý duy tu, nạo vét. Với một hệ thống cống dày đặc, lan tỏa khắp thành phố, công việc duy tu gặp nhiều trở ngại: Công tác duy tu chỉ tiến hành vào mùa khô, trước khi mùa mưa đến. Với thời gian ít ỏi, thì không thể nạo vét đầy đủ, sạch sẽ toàn bộ các tuyến cống. Khi đó bùn cống lưu lại trong lòng cống và hầm ga, giảm d iện tích mặt cắt nước, không đủ để thoát nước. Vào mùa mưa, lượng nước đổ vào cống nhiều, kéo theo rác trên mặt đường làm bít tắc miệng thu nước hầm ga, nước không thể thoát vào đường cống. Công nhân vớt rác tại điểm ngập vào thời điểm mưa khó xác định chính xác vị trí miệng hầm ga để có thể vớt rác kịp thời. Các yếu tố khách quan khác cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến công tác duy tu cống như: cống đặt giữa đường, không thể nạo vét vào ban ngày mà chỉ được tiến hành vào buổi tối; nhân lực không đủ để thực hiện công tác (môi trường làm việc độc hại, không nhiều công nhân chịu làm); nạo vét ngay trước khu buôn bán, kinh doanh của các cá nhân, tập thể. Cơ quan quản lý tổ chức đấu thầu chưa tốt, thủ tục rờm rà lại nhiều lần làm chậm tiến độ thi công. Vấn đề quản lý quy hoạch chưa đáp ứng nhu cầu, chủ yếu tập trung ở nội thành hoặc các tuyến đường chính, vùng ngoại thành đường hẻm thì chưa được quan tâm đúng mức. Mặt khác việc xây dựng hệ thống thoát nước còn mang tính cục bộ, không theo quy họach thống nhất của ngành 1.5 Khả năng tài chính Nguồn vốn chủ yếu sử dụng để xây dựng vận hành sửa chữa nâng cấp hệ thống thoát nước thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu lấy từ nguồn ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính khác trong và ngoài nước hỗ trợ ( ODA, IDA,…). Bên cạnh đó, là các nguồn vốn 9
- 10 của các tổ chức công ty tư nhân đấu thầu đầu tư vào các dự án thoát nước thành phố, ngân sách riêng của địa phương, và các loại phí thoát nước thu từ cá nhân và doanh nghiệp trong thành phố Hồ Chí Minh. Trong hơn 15 năm (từ 1975-1990), mức độ đầu tư cho công tác thoát nước ít được chú trọng, ngân sách dành cho ngành thoát nước rất ít so với nhu cầu, hệ thống thoát nước không được bảo trì và nâng cấp đúng mức nên xuống cấp nghiêm trọng, trang thiết bị chuyên ngành thô sơ, lạc hậu chủ yếu các hoạt động đều thực hiện bằng thủ công, hiệu quả thấp và hao phí nhân lực. Giai đoạn 1990-1995 thành phố bắt đầu có sự quan tâm hơn đối với công tác thoát nước tuy nhiên vẫn còn tính chất bao cấp trong ngành, chi phí hoạt động vẫn được cấp từ nguồn ngân sách, nhưng do khả năng ngân sách có hạn, kinh phí hàng năm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Từ năm 2000 đến nay, số tiền mà ngân sách Nhà nước đầu tư vào công tác thoát nước là không nhỏ. Theo số liệu từ Bộ Xây dựng, trong vòng 5 năm gần đây, Chính phủ đã đầu tư khoảng 1 tỷ USD, tức là gần 18.000 tỷ đồng cho công tác thoát nước tại các đô thị lớn. Theo Nghị định 88, các hộ sử dụng nước sạch, thải nước bẩn phải nộp một khoản phí thoát nước bằng 10% kinh phí mua nước sạch. Khoản phí này được quy định chuyển về ngân sách Trung ương 50%, để lại địa phương 50% để nâng cấp hệ thống thoát nước. Khoản kinh phí này rõ ràng là không đủ để chi phí cho việc duy trì hoạt động thoát nước đô thị trong điều kiện đô thị ngày càng phát triển, dân số đô thị tăng nhanh cơ học và ý thức trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong vấn đề thoát nước ngày càng xuống cấp. Theo lãnh đạo Tổng công ty cấp nước Sài Gòn, nếu tính đến năm 2015, số vốn TP HCM cần cho ngành cấp thoát nước là 700 triệu USD, có nhiều dự án đang chờ vào nhà đầu tư. Trong khi đó, nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực cấp thoát nước đang “khát” vốn. Nguồn vốn cho các dự án cấp thoát nước từ trước đến nay chủ yếu là vốn ODA và ngân sách Nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu sử dụng nước ngày càng cao tại các đô thị, việc huy động nguồn vốn tư nhân vào hoạt động này đang trở nên cấp thiết. “Hiện nhu cầu vốn là rất lớn, nhưng ngân sách Nhà nước lại rất hạn chế. Do vậy, định hướng trong thời gian tới là phải huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân. 10
- 11 Tuy nhiên, trong nước, hoạt động cấp thoát nước lại chưa “hấp dẫn” các nhà đầu tư. Nguyên nhân là do tư nhân đầu tư vào cấp thoát nước không được hưởng nhiều ưu đãi như các công ty công, không được vay vốn ưu đãi.Đại diện Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn còn cho biết, nhiều vấn đề về thuế, giá nước… trong đầu tư PPP vẫn chưa rõ ràng, khiến nhà đầu tư còn e ngại khi quyết định đầu tư. Ngoài ra, giá nước sạch bị hạn chế bởi khung giá trần, vốn đầu tư dự án lớn, trong khi đó khả năng thu hồi vốn lại rất thấp, thu phí thoát nước khó khăn, nên các nhà đầu tư chưa mặn mà. Theo ông Lân, để thu hút sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân vào các dự án cấp thoát nước trong thời gian tới, cần phải có những chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư. Cụ thể, sửa đổi Nghị định 131/2006/NĐ-CP theo hướng có sự tiếp cận của các thành phần kinh tế tư nhân với nguồn vốn, nhằm phát huy khả năng huy động vốn của các thành phần kinh tế tư nhân. Ngoài ra, giãn các thủ tục kiểm soát thu chi ngân sách Nhà nước đối với nguồn vốn viện trợ, trao quyền nhiều hơn cho các chủ dự án. Đặc biệt, phải ban hành quy chế chính thức và bổ sung lĩnh vực thoát nước, xử lý nước thải đô thị vào lĩnh vực đầu tư theo hình thức “ đối tác công tư “(PPP). 1.6 Bề mặt bê tông hóa Nhiều tuyến đường mà cống thoát nước bị giao cắt với công trình ngầm khác (điện, ống cấp nước, điện thoại ...)gây ảnh hưởng đến khả năng thoát và lắng đọng bùn trong lòng cống. Một số tuyến đường có từ trước và một số tuyến đường mới xây dựng khi thi công không đặt ống cống thoát nước hay hầm ga thu nước, cùng với việc mặt đường xuống cấp trầm trọng, xuất hiện nhiều ổ gà, ổ voi. Khi mưa, nước ngập và rất khó thoát vì không có hệ thống thoát, gây ngập dài ngày Tại khu dân cư Tân Quy Đông, do tính toán thiết kế sai của đơn vị thiết kế, không tính đến yếu tố bùn lún do nền đất yếu, nên hiện nay, cao độ nền khi hoàn thành lún 0,3m 11
- 12 – 0,4m tại nhiều nơi, nên khi triều cao, nước tràn lên đường. Đồng thời, đây là khu vực đầu tiên của thành phố có hệ thống thoát nước mưa và thoát nước thải riêng. Nước thải được tập trung xử lý tại nhà máy xử lý nước thải, nhưng 2 đường ống trên lại rò rỉ, trộn lẫn nhau, làm tăng lưu lượng xử lý, gây lãng phí vô ích. Bê tông hóa vỉa hè, đường phố và nhà cửa, khu dân cư xây dựng quá nhiều so với diện tích thành phố, gạch sẽ tạo sự ngăn cách với đất mặt, khiến lượng nước mưa không thấm xuống được. Ở TP Hồ Chí Minh, vỉa hè được làm khá công phu, ban đầu sẽ lót vỉa hè bằng một lớp đá 3 x 4 cm, sau đó đổ thêm một lớp bê tông dày từ năm đến 10cm, tiếp tục cho thêm một lớp vữa, hồ dầu (sữa xi măng) rồi lót gạch và cuối cùng là trét kín các khe gạch. Với cách làm này cùng với phần lớn loại vật liệu sử dụng để lát vỉa hè là gạch terrazzo thì khả năng thấm và rút nước là rất thấp. Với hệ thống vỉa hè và đường sá được lát gạch và đổ bê tông, toàn bộ nước mưa sẽ đổ dồn xuống cống, gây quá tải cho hệ thống thoát nước, ngập lụt cục bộ sẽ khó tránh khỏi! 1.7 Ý thức người dân Cứ vào mùa mưa lũ, người dân tại TP Hồ Chí Minh, lại đối mặt với nỗi lo quen thuộc - ngập lụt. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thường được nhắc đến như: Biến đổi khí hậu; tốc độ đô thị hóa quá nhanh; quy hoạch phát triển đô thị không hợp lý; giải pháp chống lụt kém hiệu quả; triều cường dâng cao… Tuy nhiên, một nguyên nhân khác đang làm trầm trọng thêm tình trạng ngập lụt và làm quá tải hệ thống thoát nước nhưng lại ít được nhắc đến, đó là: Ý thức kém của nhiều người dân đô thị trong việc giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Điều hành Chương trình chống ngập nước TP Hồ Chí Minh, trên địa bàn thành phố hiện đang tồn tại hơn 30 điểm ngập với thời gian ngập trung bình là 59 phút. Ngoài nguyên nhân do mưa lớn và triều cường dâng cao còn 12
- 13 do tình trạng lấn chiếm kênh, rạch diễn ra khá phổ biến trong thời gian dài. Theo số liệu được đưa ra trong một hội thảo khoa học gần đây, quá trình đô thị hóa trong 14 năm qua tại thành phố đã dẫn tới sự biến mất của 47 con kênh với tổng diện tích 16,4 héc-ta. Nhiều vị trí thoát nước quan trọng trong hệ thống kênh rạch nội đô vẫn tồn tại các công trình nhà ở và địa điểm buôn bán kinh doanh trái phép. Tình trạng trên không những gây ô nhiễm cho hệ thống thoát nước mà còn làm nghẽn tắc dòng chảy mỗi kh i có mưa lớn. Ngoài ra, tình trạng xả rác bừa bãi, đặc biệt các chất thải rắn, trên hệ thống kênh, rạch, cống thoát nước trong nội đô vẫn thường xuyên diễn ra. Người dân sống ven kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Tham Lương – Bến Cát, Bến Nghé - Tàu Hủ… không lạ gì với hình ảnh rác thải vẫn được lén lút đổ trực tiếp xuống hệ thống kênh. Nhiều tàu ghe hoạt động trên các kênh rạch cũng công khai xả rác xuống dòng nước. Mặt khác, hệ thống cống thoát nước tại các điểm ngập lụt cũng luôn bị nghẽn tắc do người dân xả rác bừa bãi. Rác thải ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thoát nước mưa và làm trầm trọng hơn tình trạng ngập lụt. Sau những trận mưa lớn hay triều cường dâng cao, nước ngập rất khó rút nhanh khi hệ thống kênh, rạch và cống thoát nước bị tắc do rác thải. 1.8 Điều kiện tự nhiên Địa hình: Thành phố Hồ Chí Ninh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, có địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Trong đó, vùng trũng nằm ở phía Nam - Tây Nam và Ðông Nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Cùng với địa hình này, thành phố lại chịu sự ảnh hưởng dao động triều bán nhật của Biển Đông lên xuống ngày hai lần, mức triều bình quân cao nhất là 1,10m, điều này làm cho các vùng trũng thấp càng dễ bị ngập nước lúc triều lên. Khí hậu: nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, cũng như các tỉnh ở Nam bộ khác, đặc điểm chung của khí hậu-thời tiết TPHCM là nhiệt độ cao đều trong năm và có hai mùa mưa - khô rất rõ ràng. Lượng mưa trong năm khá cao, bình quân/năm là 1.949 mm. Số ngày mưa trung bình/năm là 159 ngày. Khoảng 90% lượng mưa hàng năm tập 13
- 14 trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11; trong đó hai tháng 6 và 9 thường có lượng mưa cao nhất. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố cũng không đều, có khuynh hướng tăng dần theo trục Tây Nam - Ðông Bắc. Ðại bộ phận các quận nội thành và các huyện phía Bắc thường có lượng mưa cao hơn các quận huyện phía Nam và Tây Nam. Chính vì lượng mưa lớn và phân bố không đều cả về thời gian lẫn không gian như vậy đã làm cho hệ thống thoát nước của thành phố gặp không ít khó khăn trong việc thoát nước khi có mưa lớn. Hiện nay, tình trạng biến đổi khí hậu càng làm cho các cơn mưa xuất hiện bất thường hơn với lượng mưa nhiều hơn, hệ thống thoát nước càng gặp nhiều khó khăn hơn. Việc phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý thoát nước và các cơ quan khí tượng thủy văn, dự báo thời tiết sẽ giúp ngăn chặn các sự cố ngập lụt trong thành phố cũng như là xử lý kịp thời kh i có sự cố. Thủy văn: Hồ Chí Minh nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông lớn là sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn. Sông Ðồng Nai là hợp lưu bởi nhiều sông khá nhau như sông La Ngà, sông Bé, nên có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km2. Nó có lưu lượng bình quân 20-500 m3/s và lưu lượng cao nhất trong mùa lũ lên tới 10.000 m3/s .Còn sông Sài Gòn thì chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km. Hệ thống các chi lưu của sông Sài Gòn rất nhiều và có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m3/s.Bề rộng của sông Sài Gòn tại Thành phố thay đổi từ 225m đến 370m và độ sâu tới 20m. Sông Ðồng Nai nối thông qua sông Sài Gòn ở phần nội thành mở rộng, bởi hệ thống kênh Rạch Chiếc.Ngoài hai s ông lớn này còn có sông Nhà Bè được hình thành từ chỗ hợp lưu của sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn, cách trung tâm thành phố khoảng 5km về phía Ðông Nam. Chính vì nằm ở vùng hạ lưu của các sông lớn như vậy mà thành phố Hồ Chí Minh càng dễ bị ngập lụt trong mùa mưa khi có sự xả lũ từ thượng nguồn. Biến đổi k hí hậu cũng là một vấn đề nhứt nhối, gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng thoát nước của thành phố hiện nay. Sự nóng lên của trái đất đã làm cho mực nước biển ngày càng tăng, triều cường dâng cao, đạt đỉnh là 1,61m, đã gây ngập ún trên một diện tích rộng, nhiều vùng có nguy cơ ngập vĩnh viễn. Bên cạnh đó, thời tiết cũng ngày càng 14
- 15 diễn biến thất thường, mưa thất thường với lưu lượng lớn, cũng gây sức ép lớn cho hệ thống thoát nước hiện nay. Như vậy cùng với các yếu tố khác, điều kiện tự nhiên cũng góp phần tác động đến chất lượng của hệ thống toát nước. 15
- 16 Chương 2: XÁC ĐỊNH TRỌNG SỐ VÀ HỆ SỐ MỨC CHẤT LƯỢNG 2.1 Bảng tính Trong đề tài này, nhóm chúng tôi đánh giá trọng số dựa trên sự tác động của các chỉ tiêu tới chất lượng hệ thống thoát nước thành phố. Quy hoạch tổng thể đô thị được nhóm cho là chỉ tiêu tác động mạnh nhất là vì nếu quy hoạch sai hướng thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển về mọi mặt của thành phố. Hơn nữa quy hoạch đô thị thường được áp dụng cho thời gian dài nên nếu làm không tốt sẽ khó có thể sửa chữa được. Như đã trình bày ở chương 1, quy hoạch tổng thể đô thị của thành phố hiện nay là chưa hiệu quả, còn nhiều bất cập, ảnh hưởng ngiêm trọng đến vấn đề tiêu thoát nước. Cơ sở hạ tầng hệ thống thoát nước là chỉ tiêu thuộc về yếu tố kĩ thuật, trực tiếp thể hiện chất lượng của hệ thống thoát nước. Chỉ tiêu này được xếp thứ hai. Thứ ba là tốc độ đô thị hóa. Tốc độ đô thị hóa quá nhanh trong khi cở sở hạ tầng thoát nước không theo kịp đã dẫn tới vấn nạn ngập lụt thường xuyên tại thành phố. Tiếp theo là khả năng quản lý của cơ quan chuyên trách. Cũng như chỉ tiêu cơ sở hạ tầng, chỉ tiêu này cũng trực tiếp thể hiện chất lượng hệ thống thoát nước. Hiện nay, vẫn còn rất nhiều điểm chưa tốt trong sự quản lý của cơ quan chức năng, chưa có sự phối hợp đồng bộ với các cơ quan quản lý khác. Điều này làm cho chất lượng hệ thống thoát nước càng yếu kém hơn, ngập lụt thường xuyên xảy ra. Yếu tố tài chính cũng góp phần tác động đến chất lượng thoát nước. Mặc dù hiện nay chính phủ và thành phố đã đầu tư nhiều hơn cho việc xây dựng hệ thống thoát nước nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Các chỉ tiêu bề mặt bê tông hóa, ý thức người dân hay điều kiện tự nhiên cũng góp phần tác động đến chất lượng thoát nước. Các chỉ tiêu này được xếp hạng ngang nhau. Việc đánh giá các trọng số cụ thể có phần mang tính chủ quan của nhóm. Kết quả đánh giá được thể hiện trong bảng sau: 16
- 17 STT Chỉ tiêu Trọng số 1 Quy hoạch tổng thể đô thị 0.22 2 Cơ sở hạ tầng hệ thống thoát nước 0.19 3 Tốc độ đô thị hóa 0.13 4 Khả năng quản lý của cơ quan chuyên trách 0.12 5 Khả năng tài chính 0.10 6 Bề mặt bê tông hóa 0.08 7 Ý thức người dân 0.08 8 Điều kiện tự nhiên 0.08 Bảng trọng số Với thang điểm tăng dần từ 1 đến 10, các chuyên gia đã cho điểm các chỉ tiêu dựa sự hài lòng với từng chỉ tiêu chất lượng hệ thống thoát nước như sau: STT Chỉ tiêu CG CG CG CG CG CG CG CG CG CG CG TB 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 1 Quy hoạch tổng 7 6 4 6 4 4 6 4 6 6 4 57/ thể đô thị 11 2 Cở sở hạ tầng 6 7 5 6 3 4 7 5 6 5 6 60/ HTTN 11 3 Tốc độ đô thị hóa 2 5 6 3 5 6 7 4 5 7 8 58/ 11 4 Khả năng quản lý 6 6 5 6 5 4 5 3 7 4 7 58/ của CQCT 11 5 Khả năng tài 9 7 8 7 6 7 6 4 7 7 8 76/ chính 11 6 Bề mặt bê tông 3 7 4 2 4 5 8 7 5 4 6 55/ hóa 11 7 Ý thức người dân 7 9 7 7 4 7 5 8 6 4 7 71/ 11 8 Điều kiện tự nhiên 5 9 7 5 7 7 8 8 5 4 8 73/ 11 17
- 18 Bảng điểm đánh giá Sau khi tính toán, chúng tôi thu được kết quả: ∑ ∗ = ∑ = 0.56327 ∗ 2.2 Nhận xét Việc ngập lụt diễn ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh không còn xa lạ đối với người dân trên địa bàn thành phố mỗi khi trời mưa hay nước triều cường. Điều đó cho thấy rằng hệ thống thoát nước của thành phố chưa thực sự hiệu quả. Theo kết quả từ các chuyên gia đánh giá về chất lượng của hệ thống thoát nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh theo 8 chỉ tiêu mà chúng tôi đã nêu ở trên cho thấy rằng chất lượng của hệ thống chỉ đạt mức trung bình với Kma = 0.56327 với sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố tác động. Qui hoạch tổng thể là yếu tố tác động mạnh trong việc giải quyết vấn đề ngập lụt bao gồm cả yếu tố môi trường và cảnh quan đô thị. Công tác qui hoạch đô thị của TP.HCM trong một thời gian dài vừa qua đã thể hiện những yếu kém và sai lầm từ nguyên nhân hạn chế về tầm nhìn quản lý đô thị. Hậu quả là rất nhiều vấn đề liên quan đến môi trường và quản lý đô thị nảy sinh đang ngày càng là những thách thức rất lớn cho thành phố, bao gồm: ngập úng đô thị vào mùa mưa; ô nhiễm môi trường nước tại các kênh rạch; ô nhiễm môi trường tại các khu dân cư xen kẽ các cơ sở sản xuất. Trong đó, vấn nạn ngập lụt đô thị vẫn chưa có lối thoát. Hệ thống thoát nước tại các khu vực quận huyện của thành phố phụ thuộc vào mạng lưới kênh rạch của 5 lưu vực, bao gồm: Nhiêu Lộc - Thị Nghè; Tân Hoá - Lò Gố m; Kênh Đôi - Kênh Tẻ; Kênh Tàu Hủ - Bến Nghé; Tham Lương - Vàm Thuật. Tuy nhiên, các hệ thống kênh này không đáp ứng được khả năng thoát nước cho thành phố vì bị bồi lấp, tắc nghẽn và lấn chiếm bất hợp pháp. Các hệ thống kênh này đang được triển khai cải tạo và nâng cấp. Nếu hoàn thành chỉ đáp ứng khả năng chuyển tải và thoát nước cho từng lưu vực cục bộ với số dân khá đông. 18
- 19 Theo thời gian, người dân thành phố luôn chứng kiến cảnh ngập lụt đô thị xảy ra thường xuyên hơn và ngày càng trải rộng nhiều hơn tại các khu vực đô thị của thành phố. Cho dù Sở Giao thông Công chánh thành phố đã cố gắng xóa các điểm ngập lụt mỗi nă m, nhưng vấn đề xem ra vẫn bế tắc và không hiệu quả. Sở dĩ những nỗ lực của cơ quan chức năng (Sở GTCC) không đáp ứng được là vì: Các hệ thống thoát nước của thành phố không đảm bảo độ dốc cần thiết để đảm bảo việc thoát nước tự nhiên. Hệ thống thoát nước trước đây của TP.HCM (trước 1975) được thiết kế và xây dựng cho các khu trung tâm quận 1, 3 và khu vực sân bay Tân Sơn Nhất. Do vậy, hệ thống thoát nước hiện nay đô thị của TP.HCM không đồng bộ và thiếu tính gắn kết giữa các quận trung tâm và khu vực mới phát triển. Hệ thống thoát nước đô thị là hệ thống thoát nước chung cho cả nước thải sinh hoạt và nước mưa. Hệ thống này dễ bị quá tải vào mùa mưa khi lượng mưa tăng cao. Do vậy dẫn đến hiện tượng tràn và gây ngập cục bộ. Bề mặt đô thị ngày càng bị bê tông hóa (vỉa hè, lối đi bộ, bãi đậu xe, các toà nhà cao tầng,…), giảm bề mặt thấm lọc tự nhiên (bãi cỏ, công viên, cây xanh,…). Vì vậy, khi có lượng mưa lớn cùng với việc quá tải của hệ thống cống thì việc gây ngập lụt là tất yếu. Khi mưa lớn và gây tràn thì không có nơi lưu chứa (lưu giữ) tạm thời trước khi được chuyển tải đến nơi tiếp nhận vì các khu vực trũng thấp (ao hồ tự nhiên) của thành phố bị san lấp cho mục đích nhà ở. Công tác qui hoạch đô thị của thành phố thường chạy theo sau việc đô thị hoá tự phát. Khi các khu dân cư hình thành một cách tự phát thì nhà nước mới nghĩ đến việc qui hoạch. Do tự hình thành nên các khu dân cư này lại thiếu hạ tầng cơ sở cho việc cấp - thoát nước, nước thải hoặc nước mưa được chảy tràn tự nhiên hoặc đổ ra các vùng trũng thấp. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ Giao thông Vận tải
196 p | 458 | 108
-
Bài tiểu luận: Phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Hải Hà
63 p | 1463 | 80
-
Tiểu luận - Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty than Mạo Khê
32 p | 392 | 40
-
TIỂU LUẬN: Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam và giải pháp
19 p | 152 | 29
-
Tiểu luận: Công tác đánh giá hiệu quả làm việc cuối năm tại bệnh viện Hùng Vương
30 p | 169 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đánh giá hiệu quả đầu tư Nhà máy sản xuất phân bón NPK của Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí
87 p | 119 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Đánh giá hiệu quả đầu tư Nhà máy sản xuất phân bón NPK của Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí
2 p | 121 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp khai thác than - TKV khu vực Quảng Ninh
209 p | 40 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng TMCP Đông Á - CN Huế
81 p | 97 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Long Thọ Huế
71 p | 84 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Thiết lập và áp dụng Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công việc theo phương pháp Thẻ điểm cân bằng tại Chi cục Thuế huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang
120 p | 44 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kế toán: Kế toán quản trị với việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp lữ hành Việt nam
186 p | 31 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân xã, tỉnh Nghệ An
210 p | 10 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Đánh giá hiệu quả của hoạt động tự đánh giá ở các trường trung học phổ thông huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương
130 p | 37 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân xã, tỉnh Nghệ An
27 p | 5 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước về giáo dục từ góc độ văn hóa
28 p | 4 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Đánh giá hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp ở Việt Nam
27 p | 21 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng hệ thống đánh giá hiệu quả công việc - KPI cho Đài viễn thông Dak Lak thuộc Trung tâm mạng lưới Mobifone Miền Trung
141 p | 3 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn