Tiểu luận: Đề tài Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học
lượt xem 11
download
Soạn giáo án là một khâu rất quan trọng và không thể thiếu khi một người giáo viên muốn hoàn thành tốt tiết dạy. Giáo án là ột kim chỉ nam đối với giảng viên, để theo đó mà đi đúng hướng, đúng đối tượng để truyền đạt nội dung bài học tới học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Đề tài Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được bài tiểu luận này với đề tài “ Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học ”, bên cạnh sự nổ lực của bản thân đã vận dụng những kiến thức tiếp thu đ ược ở trường, tìm tòi học hỏi cũng như thu thập thông tin, tài li ệu có liên quan đến đề tài, em luôn nhận được sự giúp đỡ, h ướng dẫn t ận tình của các thầy cô cùng với những lời động viên khuy ến khích t ừ phía gia đình, bạn bè trong những lúc em gặp khó khăn. Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa Sinh tr ường ĐHSP Huế. Em xin chân thành cảm ơn Cô Trịnh Đông Th ư, ng ười đã hướng dẫn em làm bài tiểu luận này, cô đã tạo mọi điều ki ện thuận lợi và là nguồn động lực quan trọng để em hoàn thành bài tiểu luận này. Em xin cảm ơn cô. Xin cảm ơn các bạn học học ph ần “ Rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học” đã hỗ trợ mình hoàn thành bài tiểu luận này. Với thời gian và khả năng còn hạn chế, bài ti ểu lu ận này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nh ận được s ự góp ý chân tình từ các thầy cô và các bạn. Huế, tháng 12 năm 2013 Sinh viên thực hiện Lê Khánh Vũ 1
- Phần I: ĐĂT VÂN ĐỀ ̣ ́ 1.Lý do chọn đề tài Soạn giáo án là một khâu rất quan trọng và không thể thiếu khi một người giáo viên muốn hoàn thành tốt tiết dạy. Giáo án là một kim chỉ nam đối giáo viên, để theo đó mà đi đúng hướng, đúng đối tượng để truyền đạt nội dung bài học tới học sinh. Đặc biệt là đối với môn sinh học, một môn đòi hỏi cả vừa lý thuyết, vừa thực hành, vì vậy là một sinh viên sư phạm sinh học thì chúng ta phải không ngừng nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp và tài liệu nhằm hoàn thiện kỹ năng soạn bài sinh học. Với kỹ năng soạn giáo án đòi hỏi người soạn vận dụng đ ược những tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực chuyên môn mà cụ thể ở đây là kiến 2
- thức sinh học để ứng dụng vào việc soạn bài học nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra, trong đó bài tập giúp người học hiểu rõ những kỹ năng ấy, biết phân tích và vận dụng những kỹ năng ấy vào công việc soạn bài. Khi đã có kỹ năng trong soạn giáo án thì điều đó là chưa đủ bởi vấn đề còn ở cách diễn đạt, vận dụng trong bài tập và biết tóm tắt một cách khái quát . Chỉ thông qua việc giải các bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học dưới các hình thức khác nhau mới tạo điều kiện cho sinh viên vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì khi đó kiến thức đó mới trở nên sâu sắc và hoàn thiện.Vì vậy có thể nói bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là một biện pháp rất tốt để rèn luyện kỹ năng soạn bài học nói chung và soạn bài sinh học nói riêng, trong đó kỹ năng đặt vấn đề vào bài cũng là một kỹ năng cần rèn luyện. Vì những lý do trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài “Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học” nhằm nâng cao kỹ năng đặt vấn đề vào bài và một phần nào đó nâng cao kỹ năng soạn bài sinh học của bản thân và của sinh viên sư phạm sinh học nói chung. 2.Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng bài tập nhằm nâng cao kỹ năng soạn bài sinh học. 3.Đối tượng nghiên cứu - Hệ thống bài tập thường rèn luyện kỹ năng. - Các biện pháp giải các bài tập rèn luyện kỹ năng. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu vai trò của bài tập trong rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. - Hình thành những kỹ năng cơ bản trong soạn bài sinh học. - Nghiên cứu và tìm các biện pháp giải bài tập về các kỹ năng soạn bài sinh học. - Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng soạn bài sinh học cho bản thân nói riêng và sinh viên sư phạm sinh học nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu - Sưu tầm các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn để có những thông tin chính xác nhất. - Nghiên cứu nội dung các bài sinh học lớp 10, lớp 11 và lớp 12 để giải các bài tập. 3
- - Truy cập internet để lấy thêm tư liệu bổ sung ngoài những tài liệu trên để có thêm sự mở rộng vấn đề. - Thăm dò thêm ý kiến bạn bè và các phương tiện truyền thông khác. 6. Cấu trúc tiểu luận. Phần I: Mở đầu. Phần II: Nội dung. Chương 1: Cơ sở lý luận của bài tập trong rèn luyện kỹ năng đặt vấn đ ề vào bài. Chương 2: Sử dụng bài tập để rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. Phần III: Kết luận và đề nghị. Tài liệu tham khảo. Phần II: NÔI DUNG ̣ Chương 1: Cơ sở lý luận của bài tập trong rèn luyện kỹ năng đ ặt v ấn đ ề vào bài. 1.1.Khái niệm về bài tập. 1.1.1.Bài tập là gì? 4
- - Theo từ điển tiếng Việt, bài tập là bài ra để luyện tập, vận dụng kiến thức đã học. - Theo từ điển tiếng Anh, bài tập (exercise) được hiểu là một vấn đề khó yêu cầu cần được giải quyết. - Theo từ điển tiếng Pháp, bài tập (exercice) là vấn đề, câu hỏi giáo khoa chứa đựng mâu thuẫn cần giải quyết. Các định nghĩa nêu trên về bài tập, tuy ngôn ngữ diễn đạt có khác nhau nhưng đều có chung dấu hiệu bản chất là một yêu cầu cho một chủ thể nào đó phải thực hiện bằng hoạt động tư duy, hoạt động chân tay hoặc gồm cả hai hoạt động đó. Trong dạy học, người học được giáo viên giao cho các bài thực hành, các câu hỏi, các bài toán,… Như vậy bài toán, câu hỏi, bài thực hành,… theo các dấu hiệu nêu trên chúng tôi xếp vào phạm trù bài tập. Như vậy bài tập, bài toán, hay câu hỏi là động lực, là công cụ để con người tư duy. Là động lực vì bài toán, câu hỏi (những yếu tố có chức trong bài tập) khi được trở thành một mâu thuẩn chủ quan (mâu thuẩn khách quan được chủ thể ý thức được) sẽ xuất hiện, kích thích gây động cơ tìm lời giải. Là công cụ vì trong bài tập khi đã chứa đựng câu hỏi, bài toán hay chứa y ếu tố xuất hiện bài toán, câu hỏi thì tự nó bao gồm cả điều chủ thể đã biết và điều chủ thể chưa biết trong mối quan hệ logic. Mối quan hệ đó là công cụ định hướng, tìm tòi của chủ thể nhận thức. Như vậy bài tập để rèn luyện kỹ năng được xem như là một nhiệm vụ cụ thể giao cho người học giải quyết để giúp cho người học trao dồi kỹ năng. Khái niệm bài tập được định nghĩa khác nhau tùy theo việc lựa chọn dấu hiệu bản chất tương thích với mục đích sử dụng, hình thức diễn đạt, cấu trúc logic giữa các yếu tố cấu thành bài tập. Nếu bài tập được xét như một hình thức thuộc phạm trù logic thì khi đó nó có mối quan hệ giống, loài với bài toán, vấn đề. Nếu bài tập được hiểu như một công việc được giao cho mỗi chủ thể thực hiện thì câu hỏi, bài toán, bài luyện tập đều được hiểu đ ồng nhất với bài t ập. Và bài tập được chúng tôi thiết kế, sử dụng bao gồm cả hai cách hiểu trên. Chúng tôi thiết kế những bài toán mà trước khi thực hiện hành động kỹ năng sinh viên phải phân tích tình huống hành động để xác định hành động cấu thành kỹ năng đó. Lúc đó một sản phẩm trung gian xuất hiện như một trạng thái tâm lí ở sinh viên là câu hỏi có vấn đề. Đó là loại bài tập thuộc cách hiểu thứ nhất. Loại bài tập khác chỉ là những lệnh yêu cầu thực hiện hành độngtập dượt kỹ năng. Đó là bài tập thuộc cách hiểu thứ hai. 1.1.2. Phân loại hệ thống bài tập. 5
- Hệ thống bài tập hiện nay rất đa dạng và phong phú, đặc biệt đối với các môn khoa học tự nhiên. Có khá nhiều cách phân loại về bài tập dựa trên nhiều cơ sở khác nhau. Tuy nhiên việc phân loại phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Đối với hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng, các tiêu chí để phân loại phải thỏa mãn các yêu cầu sao cho vừa phản ánh dấu hiệu đặc trưng mang bản chất nhận thức luận của bài tập, lại vừa phản ánh nội dung của kỹ năng soạn bài mà nó có thể được dùng để rèn luyện. Có như vậy bài tập mới có khả năng thực hiện hai chức năng có tác động tương hỗ là: chức năng kích thích tự học, tích cực, sáng tạo của người học và chức năng rèn luyện một loại kỹ năng dạy học nhất định. Do bài học có các kiểu khác nhau: bài học nghiên cứu tài liệu mới, bài học hoàn thiện tri thức, và bài học kiểm tra đánh giá, nếu các kỹ năng soạn mỗi kiểu bài cũng khác nhau và từ đó hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng phụ thuộc và chịu sự chi phối của hệ thống kỹ năng cần rèn luyện. Trong số các kỹ năng có nhiều kỹ năng phải thực hiện ở tất cả các kiểu bài học, lại có những kỹ năng chỉ thực hiện ở một hay vài kiểu nhất định. Nên khó để có một cách phân loại phản ánh được hết các dấu hiệu phân biệt giữa các loại. Từ hệ thống kỹ năng, chúng tôi phân ra ba loại bài tập theo ba nhóm kỹ năng, bao gồm các nhóm bài tập sau: - Các bài tập rèn luyện kỹ năng phân tích nội dung bài học. - Các bài tập rèn luyện kỹ năng xác định phương pháp dạy học. - Các bài tập rèn luyện kỹ năng ra bài kiểm tra và lập đáp án. Từ đó tên gọi của từng bài tập cụ thể sẽ là tên gọi của kỹ năng tương ứng. Với mỗi bài tập rèn luyện kỹ năng thực hiện các kiểu bài học thì tên gọi có thể gắn thêm đuôi phản ánh kiểu bài tương ứng. 1.1.3.Cách giải bài tập, bài toán. Theo G. Polya, bài tập được thực hiên theo bốn bước sau đây: 1. Hiểu rõ bài tập 2. Xây dựng một chương trình với ba bước nhỏ a.Tìm sự liên hệ giữa các dữ kiện với cái chưa biết b.Có thể phải xét đến các bài toán phụ c.Xây dựng chương trình và cách giải 3.Thực hiện chương trình dự kiến 4. Khảo sát lời giải đã tìm được Vận dụng tư tưởng của G. Polya về phương pháp giải bài toán để ứng dụng vào trong dạy học bộ môn như là những gợi ý để giúp cho sinh viên có đ ịnh hướng để tìm ra lời giải một cách có hiệu quả. Và khi sinh viên ra trường tiếp 6
- nối công việc đào tạo thì chính họ sẻ rèn luyện lại những kỹ năng đó cho h ọc sinh của mình. 1.2.Yêu cầu chung của bài tập. - Phù hợp với trình độ người học. - Bài tập được xây dựng trên cơ sở những tình huống xảy ra trong dạy học hoặc cũng có thể là các tình huống được tạo ra bằng sự gia công sư phạm của người dạy. - Bài tập đặt ra phải tập dượt được các hành động cấu thành kỹ năng. - Bài tập ngoài việc hướng vào rèn luyện kỹ năng thì cần phải định hướng cho sinh viên biết cách rèn luyện lại chính kỹ năng đó cho học sinh. - Bài tập phải mã hóa một nhiệm vụ cụ thể mà giáo viên đã định trước để sao cho khi hoàn thành bài tập thì nhiệm vụ đó cũng được giải quyết. - Nội hàm của bài tập phải chú trọng đến việc rèn luyện các kỹ năng cần thực hiện khi soạn bài. - Trình tự của các bài tập đưa ra phải tuân theo trình tự logic cấu trúc với các hoạt động mà giáo viên thực hiện khi phân tích một bài học. 1.2.1.Bài tập rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. Bài tập đặt ra phải tập dượt được các hành động cấu thành kỹ năng trên. Hiệu quả tập dượt của bài tập phụ thuộc nhiều vào khả năng kích thích tìm tòi c ủa sinh viên và tập dượt được nhiều hành động cấu thành kỹ năng và do đó sẽ trực tiếp nâng cao kỹ năng soạn giáo án cho sinh viên. Điều đó cũng có nghĩa là bài tập phải được gia công sư phạm từ những tình huống thường diễn ra trong thực tiễn dạy học. 1.2.2.Bài tập rèn luyện kỹ năng lựa chọn ví dụ để dạy học. Bài tập phải rèn luyện được những hành động cấu thành kỹ năng nêu trên. Bài tập yêu cầu sinh viên vừa tìm ví dụ, sử dụng ví dụ, vừa phải tổ chức cho học sinh tìm ví dụ trong quá trình thực hiện bài học. Bài tập rèn luyện sinh viên kỹ năng sử dụng ví dụ phải có tỷ trọng đáng kể vì họ phải biết sử dụng trong các tình huống sư phạm khác nhau (minh họa, vận dụng kiến thức, logic hoạt động nhận thức) 1.3.Vai trò của bài tập Việc giảng dạy sinh học trong nhà trường không chỉ giúp sinh viên hiểu được một cách sâu sắc và đầy đủ những kiến thức quy định trong chương trình mà 7
- còn giúp vận dụng những kiến thức đó để giải quyết những nhiệm vụ của học tập và những vấn đề mà thực tiễn đã đặt ra. Muốn đạt được diều đó, phải thường xuyên rèn luyện cho sinh viên những kỹ năng, kỹ xảo vận dụng kiến thức vào cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng vận dụng kiến thức trong bài tập và trong thực tiễn đời sống chính là thước đo mức độ sâu sắc và vững vàng của những kiến thức mà sinh viên đã thu nhận được. Bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học với chức năng là một phương pháp dạy học có một vị trí đặc biệt trong dạy sinh viên học ở trường Sư phạm. Trước hết, rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là một môn học giúp sinh viên nắm được các kỹ năng cần thiết trong soạn bài và bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học giúp sinh viên hiểu rõ những kỹ năng ấy, biết phân tích và vận dụng những kỹ năng ấy vào thực tiễn. Trong nhiều trường hợp mặt dù người giáo viên có trình bày tài liệu một cách mạch lạc, hợp logic, phát biểu định luật chính xác, làm thí nghiệm đúng yêu cầu, qui tắc và có kết quả chính xác thì đó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để sinh viên hiểu và nắm sâu sắc kiến thức. Chỉ thông qua việc giải các bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học dưới hình thức này hay hình thức khác nhằm tạo điều kiện cho sinh viên vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì kiến thức đó mới trở nên sâu sắc và hoàn thiện. Trong quá trình giải quyết các tình huống cụ thể do các bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học đặt ra, sinh viên phải sử dụng các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa , trừu tượng hóa…để giải quyết vấn đề, do đó tư duy của sinh viên có điều kiện để phát triển. Vì vậy có thể nói bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là một phương tiện rất tốt để phát triển tư duy, óc tưởng tượng, khả năng độc lập trong suy nghĩ và hành động, tính kiên trì trong việc khắc phục những khó khăn trong cuộc sống của sinh viên. Bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là cơ hội để giáo viên đề cập đến những kiến thức mà trong giờ học lý thuyết chưa có điều kiện để đề cập qua đó nhằm bổ sung kiến thức cho sinh viên. 8
- 1.4.Quá trình hình thành kỹ năng. 1.4.1. Sự hình thành kỹ năng. Thực tế của việc hình thành kỹ năng là hình thành cho học sinh nắm vững một hệ thống phức tạp các thao tác nhằm biến đổi và sáng tỏ những thông tin chứa đựng trong bài tập, trong nhiệm vụ và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể. Vì vậy khi hình thành kỹ năng cần phải: - Giúp học sinh tìm tòi để nhận ra các yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ giữa chúng. - Giúp học sinh hình thành một mô hình khái quát để giải quyết các bài tập, các đối tượng cùng loại. - Xác lập được mối liên quan giữa bài tập mô hình khái quát và kiến thức tương ứng. 1.4.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng. Việc hình thành kỹ năng phụ thuộc vào khả năng nhận dạng kiểu nhiệm vụ, bài tập, tức là tìm kiếm phát hiện những thuộc tính và quan hệ vốn có trong nhiệm vụ hay bài tập để thực hiện một mục đích nhất định. Cụ thể kỹ năng chịu tác động bởi những nhân tố sau: - Nội dung của bài tập hay nhiệm vụ đặt ra được trừu tượng hóa sẵn sàng hay bị che phủ bởi những yếu tố phụ làm lệch hướng tư duy có ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng. - Tâm thế và thói quen cũng ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng. Vì thế tạo ra tâm thế thuận lợi trong học tập sẽ giúp cho học sinh dễ dàng trong việc hình thành kỹ năng. - Có khả năng khái quát hóa đối tượng một cách cụ thể. 1.4.3.Quy trình rèn luyện kỹ năng. Theo Geoffrey (1998) quy trình chung để hình thành kỹ năng gồm 8 bước như sau: 1. Giải thích (Explation) Giáo viên giúp cho học sinh hiểu và ý thức được một số vấn đề đó là: Tại sao phải hình thành kỹ năng đó? Vị trí của kỹ năng đó trong hoạt động nghề nghiệp tương lai? Kỹ năng đó liên quan đến những kiến thức lý thuyết nào đã học? Có thể kiểm tra thăm dò xem học sinh đã biết chút gì về kỹ năng sắp học hay chưa? 2. Làm chi tiết (Doing-Detail) Học sinh được xem trình diễn mẫu một cách chi tiết, chính xác để có một mô hình bắt chước làm theo. Mẫu nào có thể do giáo viên trình diễn hoặc học sinh 9
- được xem băng hình. Cần tạo cơ hội cho học sinh nắm bắt những chi tiết mấu chốt của kỹ năng như cho băng hình quay chậm hoặc dừng lại và giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện ra những chi tiết quan trọng nhất. 3. Sử dụng kinh nghiệm mới học (Use) Học sinh tự làm theo mẫu đã được xem. 4. Kiểm tra và hiệu chỉnh (Check and correct) Tốt nhất là tạo cơ hội để học sinh tự kiểm tra, phát hiện những chổ sai lầm của chính mình và biết cần hiệu chỉnh những chổ nào. Để tránh học sinh lặp lại những chỗ sai lầm thành thói quen khó sửa, giáo viên cần giám sát, giúp đỡ nếu học sinh không tự phát hiện được, nhất là đối với những kỹ năng phức tạp, cao cấp. 5. Hỗ trợ trí nhớ (Aide Mesmoire) Học sinh cần có những phương tiện giúp đỡ việc ghi nhớ những điểm then chốt, ví dụ phiếu ghi nhớ tóm tắt, tờ rơi ghi sơ đồ các thao tác, băng ghi âm, ghi hình. 6. Ôn tập và sử dụng lại (Review and Reuse) Đây là việc cần thiết để củng cố những kỹ năng đã học được. 7. Đánh giá (Evaluation) Đây là khâu đánh giá do người đào tạo thực hiện, xem học sinh đã đạt yêu cầu hay chưa. Việc đánh giá có thể tiến hành một cách chính thức hoặc kín đáo nhưng phải phát hiện đúng những người đã đạt yêu cầu để có trách nhiệm đào tạo, bổ sung. 8. Thắc mắc (?) Học sinh có nhu cầu làm rõ những điều họ chưa hiểu. Họ có thể nêu câu hỏi vào bất kỳ lúc nào trong quá trình học. Giáo viên nên tạo mọi cơ hội đ ể học sinh có thể hỏi và kiểm tra các thao tác thực hành kỹ năng của học sinh cũng như trả lời thắc mắc của các em. 10
- Chương 2: Sử dụng bài tập để rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. 2.1.Thực hành kỹ năng đặt vấn đề vào bài 2.1.1.Ý nghĩa của kỹ năng Đặt vấn đề vào bài có nhiều cách làm khác nhau, nhưng đều hướng tới mục đích quan trọng nhất là lôi cuốn người học vào hoạt động tìm tòi khoa học và giúp họ chuẩn bị một tâm thế sẳn sàng tiếp thu bài mới. 2.1.2.Yêu cầu của kỹ năng - Trước khi giảng bài mới, đặt vấn đề vào bài làm cho tiết học trở nên sinh động, hiệu quả và gây hứng thú cho học sinh. Muốn vậy nội dung vào bài phải vừa hướng vào nghiên cứu trọng tâm bài học, vừa kích thích tìm tòi cái mới đối với học sinh. - Đặt vấn đề vào bài có thể bằng nhiều hình thức khác nhau: + Đặt vấn đề trực tiếp bằng cách nêu lên vai trò quan trọng của bài học. + Đặt vấn đề bằng cách chuyển tiếp thông qua việc kế thừa kiến thức của bài trước hoặc cũng có thể bằng cách ra câu hỏi, bài tập cho học sinh để vừa kiểm tra kiến thức đã học vừa làm xuất hiện nhu cầu tìm cái mới có liên quan đến nội dung học đã học, + Đặt vấn đề bằng cách đưa ra tình huống có vấn đề. + Đặt vấn đề bằng một câu hỏi trắc nghiệm với nhiều phương án khác nhau và giải quyết nội dung bài học là tìm ra phương án đúng. 11
- - Nội dung phần đặt vấn đề không nên quá dài mất nhiều thời gian mà chỉ trình bày một cách cô đọng, súc tích. Các ý chính nên diễn đạt rõ ràng. Nếu vào bài bằng cách giới thiệu trực tiếp thì các ý phải là những móc xích liên quan với nhau đồng thời mang tính hệ thống và nên kế thừa được kiến thức của những bài học trước. - Nếu vào bài bằng một tình huống có vấn đề thì nội dung phải chứa đựng mâu thuẩn. Thật ra không phải bài nào cũng có thể đặt vấn đ ề bằng cách này mà còn phải tùy thuộc vào nội dung của từng bài để có cách làm phù hợp. 2.1.3.Các hoạt động cấu thành kỹ năng - Xác định nội dung trọng tâm của bài - Tìm những mối quan hệ giữa nội dung đó với kiến thức đã có ở học sinh và với những hiện tượng trong đời sống tự nhiên, xã hội. - Trên cơ sở những mối quan hệ đó tạo ra tình huống nhận thức hoặc các yêu cầu cần nhận thức khi nghiên cứu nội dung bài học. - Phát biểu tình huống đó bằng một vấn đề hoặc một nhiệm vụ nhận thức. 2.1.4.Bài tập rèn luyện kỹ năng Bài tập 1: Giả sử có một vài tính huống được đặt ra như sau: 1. Quá trình trao đổi chất và năng lượng mang tính chọn lọc, có ý nghĩa là mỗi sinh vật thích nghi với một kiểu trao đổi chất nhất định. Vậy nhờ đâu mà con người có thể đồng hóa các loại thức ăn đa dạng một cách nhanh chóng như vậy? 2. Tại sao ngoài sự thích nghi của bộ máy tiêu hóa, một số động vật chỉ tiêu hóa được cỏ, một số động vật ăn thịt và con người có thể tiêu hóa được các dạng thức ăn khác nhau? 3. Tại sao để phân hủy cùng một khối lượng thức ăn như nhau thì ở bên ngoài môi trường phải mất rất nhiều thời gian hơn so với bên trong cơ thể? 4. Trong sản xuất, muốn đưa nước được từ vùng thấp đến vùng cao người ta phải sử dụng động cơ (máy bơm). Đối với cây xanh, quá trình trên 12
- được thực hiện liên tục. Vậy động cơ nào để giúp cho cây xanh thực hiện được điều đó? Anh ( chị) hãy: 1. Tìm các bài học trong chương trình sinh học phổ thông có thể sử dụng các tình huống trên làm phần đặt vấn đề vào bài mới. 2. Đề xuất một cách đặt vấn đề khác cho các bài học trên. Trả lời: 1. Các bài học trong chương trình có thể sử dụng các tình huống trên để đặt vấn đề cho bài mới: Tình huống 1: Bài 15 - Tiêu hóa (SH11 - NC), Bài 22 - Enzim và vai trò enzim trong chuyển hóa vật chất (SH10 - NC). Tình huống 2: Bài 16 - Tiêu hóa (SH11 - NC). Tình huống 3: Bài 22 - Enzim và vai trò enzim trong quá trình chuyển hóa vật chất (SH10 - NC). Tình huống 4:Bài 1và 2 - Trao đổi nước ở thực vật. 2. Đề xuất một số cách đặt vấn đề khác cho các bài trên: Bài 22: Enzim và vai trò enzim trong quá trình chuyển hóa vật chất (SH10- NC): Vì sao một số trẻ em thành phố mặc dù được ăn uống đầy đủ mà vẫn bị suy dinh dưỡng? Vì sao cơ thể người có thể tiêu hóa được tinh bột lại không thể tiêu hóa được xenlulozơ? Vì sao ăn nộm thịt bò khô lẫn với đu đủ thì dễ tiêu hóa hơn so với khi chỉ ăn mỗi thịt bò khô? Để trả lời các câu hỏi đó chúng ta cùng nghiên cứu bài ngày hôm nay: Enzim và vai trò của enzim trong quá trình chuyển hoá vật chất. Bài 15: Tiêu hóa (SH11 - NC): TH1: Cây xanh tồn tại được là do thường xuyên trao đổi chất với môi tr ường, thông qua quá trình hút nước, muối khoáng ở rể và quá trình quang hợp diễn ra ở lá. Người, động vật thực hiện trao đổi chất như thế nào? TH2: Động vật là sinh vật tự dưỡng hay dị dưỡng? Vì sao? Động vật lấy thức ăn bằng phương thức nào? Sự tiến hóa của phương thức tiêu hóa đ ược thể hiện ra sao? Bài 16: Tiêu hóa (SH11 - NC): 13
- TH1: Động vật ăn động vật và động vật ăn thực vật đều có cơ quan tiêu hóa là ống tiêu hóa. Vậy ống tiêu hóa ở 2 nhóm này có gì khác nhau? TH2: Thức ăn của người Con bò ăn cỏ Hổ ăn mồi Bài 1+2: Trao đổi nước ở thực vật (SH10 - NC): TH1:Nhà khoa học người Nga đã nói: “Thoát hơi nước là tai họa tất yếu của cây”. Vậy tại sao ông lại nói như vậy? TH2: TH3: 14
- Bài tập 2: Có một số cách đặt vấn đề vào bài mới được trình bày theo nguyên tắc sau: 1. Nêu lên vai trò quan trọng của bài học. 2. Kế thừa nội dung của bài học trước. 3. Trình bày một tình huống có vấn đề. Anh ( chị) hãy: 1. Chọn các bài học cụ thể và trình bày phần đặt vấn đề theo các nguyên tắc nêu trên. 2. So sánh hiệu quả của 3 cách trên. Trả lời 1. Chọn bài học và trình bày phần đặt vấn đề theo các nguyên tắc trên: Bài 22: Enzim và vai trò của enzim trong quá trình chuyển hóa vật chất. Đặt vấn đề vào bài theo nguyên tắc: • Nêu vai trò quan trọng của bài học: Trong các phản ứng hoá học thường có các chất xúc tác để các phản ứng xảy ra nhanh hơn, trong quá trình chuyển hóa vật chất cũng vậy. Chất xúc tác trong các phản ứng sinh hóa đó chính là các enzim. Vậy enzim là gì? Cấu trúc và cơ chế hoạt động ra sao? • Trình bày một tình huống có vấn đề: Giáo viên thông báo: Ở nhiệt cơ thể và áp suất bình thường, ở ngoài môi trường, để phân hủy một phân tử peroxihidro thành nước và oxi, nếu xúc tác là 1 phân tử sắt thì phải mất 300 năm. Nhưng ở bên trong cơ thể, để phân hủy một phân tử peroxihidro chỉ mất một giây. Sự phân hủy xảy ra trước khi peroxihidro gây ngộ độc cho cơ thể. Vậy điều gì đã tạo nên sự khác nhau đó. Phải chăng là cơ thể đang ẩn chứa một bí mật. Và bí mật chỉ được bật mí khi các em tìm hiểu Bài 22: Enzim và vai trò của enzim trong quá trình chuyển hóa vật chất. Bài 24: Ứng động 15
- - Nguyên tắc 1: Ở bài trước các em đã được học một hình thức phản ứng của thực vật đó là hướng động, ngoài hướng động còn có một hình thức khác là ứng động. Vậy ứng động là gì? Ứng động có gì giống và khác so với hướng động, chúng ta cùng tìm hiểu Bài 24: Ứng động. - Nguyên tắc 2: Sau khi học xong các kiểu hướng động ở bài trước, có khi nào các em về nhà thắc mắc rằng: các vận động như khi ta chạm vào cây xấu hổ thì lá khép lại hay một bông hoa buổi sáng nở ra buổi tối khép lại thì thuộc kiểu vận động nào không? Cô gọi nó là các vận động cảm ứng hay còn gọi là ứng động. Vậy ứng động là gì? Ứng động có gì giống và khác so với hướng động? Chúng ta cùng tìm hiểu Bài 24: Ứng động. Vận động khép lá của cây xấu hổ và vận động nở hoa của cây trinh nữ - Nguyên tắc 3: Giáo viên đặt vấn đề: Một ngày đẹp trời hai anh em nhà nọ dẫn nhau đi chơi. Khi đi qua một loài cây, người em vô tình chạm vào lá của nó thì ngay lập tức lá chét khép lại và cuống lá cụp xuống. Người em liền hỏi: “vì sao lại có hiện tượng này hả anh?”. Người anh trả lời “ Vì khi em chạm vào người nó, nó cảm thấy xấu hổ, e thẹn nên thu mình lại. Vì vậy mà nó có tên là cây xấu hổ hay còn gọi là cây trinh nữ”. Theo các em câu trả lời của người anh có đúng hay không? Có phải thực vật cũng biết “e thẹn” như con người mình hay không? Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này chúng ta cùng nghiên cứu Bài 24: Ứng động. 2. So sánh hiệu quả 3 nguyên tắc trên. 16
- - Giống nhau: cả 3 nguyên tắc đều gây tính tò mò, hứng thú, tạo tâm thế cho người học chủ động khám phá kiến thức mới. - Khác nhau: + Nguyên tắc 1: Nêu bật được trọng tâm của bài học. Định hướng cho học sinh trong việc tiếp thu bài. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là có thể khiến HS ngộ nhận là chỉ học phần trọng tâm mà thờ ơ các phần khác. + Nguyên tắc 2: Nếu đặt vấn đề theo nguyên tắc này thì sẽ cho học sinh biết được tính logic hợp lý của các bài, đồng thời giúp các em ôn l ại kiến thức cũ. Mặt khác, trên cơ sở kiến thức đã học, giáo viên dễ dàng vào bài hơn, học sinh dễ tiếp thu hơn. Tuy nhiên, nguyên tắc này mang tính chất liệt kê, không nêu bật được trọng tâm của bài học. Một số bài không kế thừa được nội dung của bài trước. Ví dụ như một số bài ở đầu chương, phần. + Nguyên tắc 3: Tạo ra sự mâu thuẫn cho học sinh và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề nhất do đó đây là cách làm hay và hiệu quả nhât. Tuy nhiên không phải bài nào cũng tạo ra được tình huống có vấn đề. Tóm lại: Tùy thuộc vào từng bài học mà có cách đặt vấn đề cụ thể. Bài tập 3: Bằng những câu hỏi nêu vấn đề, hãy đặt vấn đề vào bài mới bằng cách đưa ra các câu hỏi tình huống cho các bài học sau: 1. Bài 22: Enzim và vai trò của enzim trong quá trình chuyển hóa vật chất. (Sinh học 10 – Nâng cao) 2. Bài 34: Sinh trưởng ở thực vật ( Sinh học 11 – Nâng cao) 3. Bài 47: Môi trường và các nhân tố sinh thái (Sinh học 12 – Nâng cao) Trả lời Bài 22: Enzim và vai trò của enzim trong quá trình chuyển hóa vật chất (Sinh học 10 – Nâng cao) Giáo viên đưa ra 2 phản ứng sau: 17
- Đặt câu hỏi cho học sinh khai thác qua 2 phản ứng trên: Sự khác nhau giữa hai phản ứng trên? (Chất xúc tác, nhiệt độ, thời gian) Giáo viên định hướng: Yếu tố quyết định sự khác nhau ở đây là do chất xúc tác. Ở phản ứng thứ nhất: chất xúc tác là vô cơ, phản ứng thứ hai là chất xúc tác sinh học hay còn gọi là enzim. Vậy enzim có vai trò gì trong quá trình chuyển hoá vật chất. Để hiểu rõ hơn thì chúng ta sẽ đi vào Bài 22: Enzim và vai trò của enzim trong quá trình chuyển hoá vật chất. Bài 34: Sinh trưởng ở thực vật (Sinh học 11 – Nâng cao) Cho HS quan sát 1 hình ảnh nói về hạt đậu được ngâm trong nước rồi phơi khô, 1 video nói về quá trình nảy mầm rồi lớn lên, ra hoa của cây đậu. GV đặt câu hỏi: Các em có nhận xét gì về sự biến đổi của hạt đậu ở 2 trường hợp trên? Ở trường hợp 2 được gọi là sự sinh trưởng. Vậy sinh trưởng là gì, gồm những quá trình nào, để giải đáp câu hỏi trên, chúng ta hãy tìm hiểu bài học ngày hôm nay: Bài 34: Sinh trưởng và phát triển ở thực vật. Bài 47: Môi trường và các nhân tố sinh thái (Sinh học 12 – NC) Cho HS quan sát 2 bức tranh: 1 bức tranh nói về sự phát triển của sinh vật trong điều kiện môi trường không thuận lợi như hệ sinh thái sa mạc sahara, 1 bức tranh nói về sự phát triển của sinh vật trong điều kiện môi trường tốt như hệ sinh thái rừng amazon. Đặt câu hỏi cho học sinh: So sánh sự phát triển của sinh vật trong 2 bức tranh? Tại sao lại có sự khác nhau đó? 18
- Giáo viên định hướng: Nhân tố sinh thái đã ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển ở sinh vật. Để có thể hiểu rõ hơn thì chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu vào Bài 47: Môi trường và các nhân tố sinh thái. Bài tập 4: Nghiên cứu nội dung của chương trình sinh học 11 – Nâng cao. Anh (chị) hãy: 1. Liệt kê các bài học có thể đặt vấn đề vào bài mới bằng một tình huống có vấn đề. 2. Thử trình bày phần đặt vấn đề của một trong các bài học đã nêu bằng một tình huống có vấn đề. Trả lời 1. Các bài học trong chương trình sinh học 11 nâng cao có thể vào bài mới bằng một tình huống có vấn đề: Bài 1: Trao đổi nước ở thực vật Bài 3: Trao đổi khoáng và nitơ ở thực vật Bài 15: Tiêu hóa Bài 23: Hướng động Bài 24: Ứng động Bài 26: Cảm ứng ở động vật Bài 28: Điện thế nghỉ và điện thế hoạt động Bài 31: Tập tính Bài 34: Sinh trưởng ở thực vật Bài 35: Hoocmôn thực vật Bài 38: Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển ở động vật 2. Phần đặt vấn đề “Bài 35: Hoocmôn thực vật” bằng một tình huống có vấn đề: Những người nông dân, bình thường người ta thường hái trái cây ở trên cây xuống đem đi ủ hoặc là cho hóa chất vào để trái đó nhanh chín. Vậy thì tại sao người ta không để nguyên những trái đó ở trên cây mà lại phải 19
- hái xuống đem đi ủ với các chất đó, phải chăng những chất cho vào đó đã kích thích cho quả nhanh chín. Cô gọi những chất đó là hoocmon thực vật. Vậy hoomon thực vật là gì? Nó có vai trò như thế nào đối với thực vật. Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu Bài 35: Hoocmôn thực vật Bài tập 5: Nghiên cứu nội dung bài 29: “Nguyên phân” (Sinh học 10 – Nâng cao). Anh (chị) hãy: 1. Trình bày một vài cách đặt vấn đề cho bài học trên. 2. Cho biết cách đặt vấn đề nào phù hợp nhất. Tại sao? Trả lời 1. Một vài cách đặt vấn đề cho bài học Cách 1: Sinh vật muốn tồn tại được phải có quá trình trao đổi chất và năng lượng với môi trường . Sinh vật muốn lớn lên thì phải phân chia, tức là phải có quá trình nguyên phân. Chúng ta đã được học bài nguyên phân ở lớp 9. Để hiểu rõ hơn về nguyên phân chúng ta cùng nhau tìm hiểu Bài 29: Nguyên phân. Cách 2: Sau kì trung gian, tế bào tiến hành nguyên phân (pha M) . Vậy, quá trình nguyên phân diễn ra như thế nào và có ý nghĩa gì đối với đ ời sống sinh vật? Để tìm hiểu vấn đề này, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu bài hôm nay Bài 29: Nguyên phân. Cách 3: Từ một tế bào hợp tử ban đầu, làm thế nào để phát triển thành một cơ thể hoàn chỉnh như chúng ta với nhiều tỷ tế bào đều có bộ NST giống như hợp tử? Để giải thích vấn đề này hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu Bài 29: Nguyên phân. Cách 4: Câu chuyện tưởng tượng về Tôn Ngộ Không nhổ một nắm lông hà hơi vào là biến thành đàn khỉ lại trở thành sự thật trong nuôi cấy tế bào thực vật. Các nhà khoa học có thể nuôi cấy một tế bào tách ra từ một cây đ ể phát triển thành một cơ thể giồng như cây đó. Vậy việc nuôi cấy đó dựa trên cơ sở khoa học nào ? Để hiểu rõ hơn vấn đề nay hôm nay chúng ta sẽ học Bài 29: Nguyên phân. 2. Mỗi vấn đề đặt ra đều hướng tới được nội dung của bài học, tuy nhiên, cách đặt vấn đề 4 là phù hợp nhất. Vì: Vấn đề đặt ra dựa trên ý nghĩa thực tiễn của nguyên phân. Bên cạnh đó, vấn đề đặt ra kích thích sự tò mò của học sinh trên cơ sở một vấn đề tưởng chừng như rất hư ảo, nên vừa gây hứng thú cho học sinh vào bài mới. Bài tập 6: Có một vấn đề được đặt ra như sau: 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: Bài tập lớn Kinh tế vi mô
21 p | 5702 | 2693
-
Tiểu luận : Thực trạng xe buýt hiện nay
21 p | 3148 | 480
-
Tiểu luận: Quản trị chuỗi cung ứng của tập đoàn Wal-mart
25 p | 1399 | 249
-
Bài tiểu luận Triết học: Học thuyết âm dương, ngũ hành và vận dụng trong y, dược học cổ truyền
18 p | 931 | 122
-
Bài tiểu luận: Các loại hình doanh nghiệp ở nước ta
30 p | 1507 | 93
-
Bài tiểu luận: Phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Hải Hà
63 p | 1464 | 80
-
Bài tiểu luận: Quan hệ quốc tế qua chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) cuộc nội chiến 3 ở Trung Quốc (1946-1949) và quan hệ Trung-Xô-Mỹ (1950-1991)
16 p | 433 | 68
-
Bài tiểu luận: Ứng dụng của enzyme trong công nghệ chế biến sữa
24 p | 491 | 61
-
Bài tiểu luận: Sản xuất Vitamin C
35 p | 403 | 58
-
Bài tiểu luận: Ứng dụng tập tính Động vật trong sản xuất
22 p | 619 | 56
-
Bài tiểu luận: Phương pháp tạo cấu trúc gel của các protein trong các thực phẩm giàu protein
15 p | 424 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập thực nghiệm trong dạy học phần Hóa học phi kim ở trường trung học phổ thông
164 p | 197 | 47
-
Bài tiểu luận: Tối ưu hóa kết cấu
21 p | 209 | 27
-
Tiểu luận đề tài : Quang học
10 p | 255 | 23
-
Bài tiểu luận: Năm thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới
22 p | 126 | 12
-
Bài tiểu luận: Mô phỏng bài toán bằng thuật toán Minmax
16 p | 219 | 9
-
Kỹ năng viết tiểu luận hiệu quả cho sinh viên
7 p | 65 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn