intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Năm thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới

Chia sẻ: Pham Xuan Hung Hung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

124
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thị trường chứng khoán New York - Nyse Euronext, thị trường chứng khoán Nasdaq, thị trường chứng khoán Thượng Hải,... là những nội dung chính trong bài tiểu luận "Năm thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới". Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài tiểu luận để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Năm thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới

  1. BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ĐỀ TÀI : NĂM THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN  LỚN NHẤT THẾ GIỚI GIẢNG VIÊN: THẦY: TRẦN HẢI BẰNG LỚP : CDKT13D SINH VIÊN: 1,NGUYỄN THỊ THÙY DƯƠNG                       2,MAI THỊ PHƯƠNG TRANG                       3,VÕ THỊ KIỀU TRÂM                       4,LÝ SƠN BẢO TRÂM                       5,LÊ THỊ TÂM
  2.                       6,VŨ THỊ NGA I,THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NEW YORK ­ NYSE EURONEXT  QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN  NEW YORK  Cách đây khoảng 250 năm, Wall Street chỉ là một con đường mòn bụi bặm  trải dài từ đỉnh đồi nhà thờ Trinity xuống đến bến cảng Manhattan’s East  River. Tại đây, “thị trường chứng khoán” đầu tiên của Hoa Kỳ được hình  thành trên những cầu tầu. Thời kỳ phôi thai đó, những chứng khoán  (securities) đơn thuần là những mảnh giấy xác nhận sở hữu chủ hoặc những  tờ hoá đơn giao hàng hoá từ những chuyến tàu cặp bến từ bên kia Đại Tây  Dương đến. Lúc đó tiền giấy còn mới mẻ nên chẳng ai tin tưởng mà sử dụng  cả. Đơn vị quốc tế để giao dịch là những thỏi bạc, có lẽ vàng khá hiếm hoi  vào lúc đó. Khi cần thiết, thỏi bạc được cắt ra thành một nửa, một phần tư,  hoặc 1/8 gọi là “doubloons” để mua hàng. Đó là lý do tại sao thông lệ buôn  bán chứng khoán theo lối lẻ 1/2, 1/4, 1/8, 1/16 v.v... được lưu truyền mãi cho  đến tận năm 2001 mới được chính thức đổi theo hệ thống thập phân như bây  giờ.  Mùa xuân năm 1792, 24 nhân vật “đầu nậu” tại bến cảng ngồi lại với nhau  để ký kết một bản thoả ước đầu tiên làm nền tảng cho New York Stock  Exchange (NYSE) sau này. Bản thoả ước này được hình thành dưới một gốc  cây bồ đào tại địa chỉ sau này là số 68 Wall Street. Để tránh xáo trộn và đôi  khi tranh chấp có thể bùng nổ làm nguy hại cho hoạt động làm ăn chung, họ  đồng ý ấn định một hình thức giá cả lệ phí trao đổi chung và cố định, một  chính sách đã được áp dụng mãi tận 1975, khi lệ phí trở nên có thể uyển  chuyển hơn và các nhà buôn chứng khoán có thể thương lượng riêng với nhau  được. Năm 1800, nhóm NYSE này dọn vào địa chỉ số 40 Wall Street, cho đến  năm 1963 thì dọn về địa điểm hiện nay tại số 11 đường Wall Street, New  York.  Khi nói đến TTCK New York, người ta thường hình dung trụ sở của New  York Stock Exchange NYSE ­ Sở Giao dịch chứng khoán New York. Ở đó có  ba khu mua bán chứng khoán, gọi là các sàn giao dịch mà cái sàn lớn nhất du  khách thường được dẫn đến xem là một khu gần như vuông khoảng 40 m  mỗi chiều và cao khoảng 25 m, trong đó có 14 quầy hình móng ngựa trading  posts bán các loại chứng khoán khác nhau tùy theo công ty và loại hàng. 
  3. NYSE là một trong những nơi mua bán chứng khoán nhiều nhất thế giới.  Năm 1900, khi trụ sở hiện thời được xây xong, thì  ở vỉ ruồi nằm trên sáu cột  trụ kiểu Côrin Corinthian mặt trước trụ sở phần tam giác giống đầu hồi căn  nhà, người ta đắp một bức phù điêu trong đó có các mô hình tượng trưng cho  nông nghiệp, hầm mỏ, khoa học, công nghiệp và phát minh là những nguồn  gốc tạo nên sự giàu có của nước Mỹ. Điều đáng chú ý là tượng cao nhất  đứng ở giữa bức phù điêu là tượng của một người đàn bà tượng trưng cho sự  liêm chính, bên cạnh bà là hai người đàn ông nhỏ hơn, một người nhận và  một người ghi sổ các sản phẩm được người khác đưa cho bà ta. Sự liêm  chính là luật pháp chi phối các quy định của TTCK New York làm cho những  điều tốt đẹp sẽ đến với thị trường này. Đó là quan niệm của những người  chủ xướng bức phù điêu. TTCK và Sở Giao dịch New York có một lịch sử dài  trải qua những thời kỳ chính như sau.   Thuở ban đầu 1790­1792  Từ năm 1790, chính quyền Liên bang Mỹ đã phát hành trái phiếu chính phủ  công trái ­ public stock lên đến 80 triệu USD để tài trợ cho các dự án của nhà  nước. Công trái khi bán cho những  người mua đầu tiên đãtạo nên thị trường  sơ cấp primary market ; lúc những người này bán lại cho nhiều người khác  thì sự mua bán ấy tạo nên thị trường thứ cấp secondary market. Cùng lúc với  chính phủ bán công trái, các công ty bảo hiểm và ngân hàng cũng bán cổ  phiếu. Việc buôn bán diễn ra ở nhiều nơi nhưng ở New York là nhộn nhịp  nhất. Vì bên bán không ra mặt nên việc bán cho công chúng do các người môi  giới broker thực hiện. Từ ĩbrokerô được dùng từ khoảng năm 1622, lúc đầu  nó chỉ những người bán rượu nho lẻ, người phải phá break cái đai thùng gỗ  để chiết rượu.   Đi vào tổ chức 1792­1817  Khi công trái được mua bán trên đường phố thì có nhiều người, nhiều giới  tham gia nhưng mỗi giới làm một cách khác nhau theo sáng kiến của họ nên  rất lộn xộn. Vì thế, ngày 17­5­1792, 24 người môi giới mua bán nhiều nhất ở  New York cùng nhau ký một hợp đồng cam kết ngăn chặn sự độc quyền mua  bán công trái của những người bán đấu giá. Họ đồng ý không tranh nhau để  đấu giá, lấy hoa hồng ít khi mua bán, và tôn trọng quyền lợi của nhau.  Sau khi người Anh thua trong cuộc chiến duy trì thuộc địa, New York trở  thành trung tâm thương mại và cảng quốc tế. Nhiều ngân hàng và công ty 
  4. bảo hiểm được lập ở đó nên TTCK ngày càng nhộn nhịp. Nhiều loại chứng  khoán được hai, ba tổ chức khác nhau bán. Đến ngày 8­3­1817 các người môi  giới họp nhau lại, định ra kỳ hạn gặp nhau và lập nên Sở Chứng khoán và  Giao dịch New York New York Stock & Exchange Board ­ NYS&EB, đặt ở 40  phố Wall Street và hoạt động theo những tập tục như ở Paris, London và  Amsterdam. NYS&EB là một hội tư nhân, cung cấp các phương tiện và đặt ra  nội quy cho việc mua bán chứng khoán. Hội đề ra những quy định chi tiết về  việc mua bán, mức hoa hồng và sự cam kết giao hàng. Hội cấm ký kết các  hợp đồng ma để không làm thương tổn sự liêm chính của mình và của thị  trường. Muốn thành hội viên, ứng viên phải được hội viên cũ giới thiệu và  phải qua bỏ phiếu chấp nhận. Để giữ gìn uy tín, hoạt động của hội viên, từ  lời nói đến trang phục đều được quy định chặt chẽ và có hình phạt.   Phát triển hoạt động 1817­1884  Sau cuộc nội chiến, cuộc chiến tranh với Mexico, việc tìm thấy vàng ở  California và phát minh ra điện tín trong những năm từ 1842­1853 ; hoạt động  thương mại ở New York ngày càng phát triển. TTCK cũng mở rộng theo.  NYS&EB chính thức hóa việc niêm yết listing chứng khoán như là một thủ  tục để các công ty chứng tỏ cổ phiếu của họ có đủ điều kiện mua bán.  Trước khi có những thủ tục này, những công ty nào có sổ chuyển nhượng  chứng khoán để  ở New York thì chứng khoán của họ có thể được hội viên  của NYS&EB đặt mua hay bán tùy theo ý thích của những người này. Thư ký  giữ sổ sẽ ghi việc chuyển nhượng của người cũ và viết cổ phiếu cho người  mới. Năm 1853, NYS&EB buộc các công ty muốn cho cổ phiếu được niêm  yết phải công bố số vốn, số cổ phiếu và ngân quỹ đã được xác nhận.  Nước Mỹ tiếp tục phát triển, đường xe lửa được nối từ đông sang tây, TTCK  New York là nơi làm trung gian cung cấp tài chính cho những công trình ấy,  và bản thân nó cũng mở rộng theo. Số hội viên từ 533 tăng lên 1.060 vào năm  1868. Ít lâu sau, NYS&EB nhập chung với một tổ chức khác chuyên bán công  trái, nó đổi tên thành New York Stock Exchange NYSE, là cái tên tồn tại cho  đến ngày nay. Việc điều hành NYSE do một ủy ban phụ trách. Nhiều tập  tục, tiếng lóng sử dụng giữa các hội viên ở sàn bán chứng khoán được lập và  trở thành truyền thống. Thí dụ, đơn vị lẻ của một đô­la được chia làm tám  khấc hay phân, thay vì 10 đơn vị, mỗi khấc là 0,125 thay vì 0,100 ; cách phân  chia này là do tập tục trong việc chia cắt bạc mà ra. Trong tiếng Anh người ta  viết là 1/8 ; thí dụ 301/8, tức là 30,125 ở đây, để cho gọn, chúng ta dùng hai số  lẻ cho nên số trên là 30,12. Hay từ "ball" để chỉ giá cả lên, từ "bear" chỉ giá cả  xuống. Văn phòng của các người môi giới tuy mở rộng cho công chúng, 
  5. nhưng họ chỉ nhận lệnh đặt mua bán chứng khoán của những ai quen thuộc,  hay được giới thiệu cẩn thận ; và được biết chắc về tài khoản ở ngân hàng  cùng tinh thần trách nhiệm đối với tiền bạc của những người này. Vào thời  đó chính uy tín của người mua bán quyết định việc họ được tham gia TTCK  hay không. Mãi sau này, sau khi dân chúng có trình độ học vấn cao, lợi tức  nhiều và biết nhiều hơn về chứng khoán, việc mua bán chứng khoán mới trở  nên rộng rãi.   Phát triển luật lệ 1844­1934  NYSE càng có nhiều người tham dự hơn khi điện tín do Morse phát minh  được đưa vào sàn giao dịch năm 1844, liên lạc liên lục địa được nối năm  1866, điện thoại được đặt năm 1878 và băng báo giá cả chứng khoán stock  ticker được phát minh vào năm 1867.  Dù vậy, cho đến năm 1890, hoạt động của thị trường vẫn chỉ do một nhóm  nhỏ tài phiệt chi phối. Họ làm mưa làm gió trên thị trường. Luật công ty lúc  đó chưa chặt chẽ lắm nên đã xảy ra những chuyện lừa đảo, như tài sản công  ty chẳng có bao nhiêu mà bán cổ phiếu với giá cao. Vào năm 1867, có vài tay  nổi tiếng như James Fisk Jr., Jay Gould đã làm việc này. Để ngăn chặn,  NYSE buộc các chứng khoán đã được niêm yết phải được đăng ký ở một cơ  quan như ngân hàng. Trách nhiệm của người đăng ký là bảo đảm chứng  khoán đã chuyển nhượng được ghi vào sổ, và số chứng khoán giao cho người  mua phải ngang với số bị hủy vì đã bán ; và số chứng khoán lần đầu phải  nằm trong phạm vi số vốn công ty được phép gọi authorized capital. Ngoài ra,  đơn xin niêm yết cũng được một ban riêng kiểm tra chặt chẽ trước khi Ủy  ban điều hành chấp nhận.   Hoàn chỉnh từ 1934 trở đi  Với những quy định nội bộ như thế nhằm bảo đảm uy tín của mình, NYSE  đã trải qua những giai đoạn thăng trầm của chủ nghĩa tư bản nói chung và  của nước Mỹ nói riêng vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, rồi thế chiến  thứ nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế từ năm 1929­1933 và thế chiến thứ hai.  Từ từ, hoạt động của NYSE được chính quyền hỗ trợ và được củng cố. Hệ  thống ngân hàng dự trữ liên bang được lập năm 1914, rồi Ủy ban Giao dịch  chứng khoán ra đời năm 1934 phụ trách đăng ký chứng khoán. Đồng thời  NYSE từ một "hội tư nhân mang trên mình quá nhiều lợi ích chung" trở thành  một tổ chức hoạt động quy củ có chủ tịch hưởng lương, một hội đồng điều  hành bao gồm nhiều đại diện những người môi giới, và một bộ phận nhân 
  6. viên hành chính hưởng lương quản lý hoạt động của sàn giao dịch như thấy  ngày nay.  Vậy, chúng ta phân biệt ở đây hai tổ chức nhưng có ba cấp bậc khác nhau.  Một là Securities and Exchange Commission SEC, gọi là Ủy ban Giao dịch  chứng khoán là một cơ quan chính phủ quản lý việc phát hành, mua bán  chứng khoán. Thứ hai, New York Stock Exchange NYSE gọi là Sở Giao dịch  chứng khoán, là một hội tư nhân mà vai trò của nó đã nêu ở trên. Thứ ba,  NYSE quản lý một sàn giao dịch trading floor, và đó chính là cái chợ. Dự thảo  pháp lệnh về chứng khoán của ta cũng dự trù hai tổ chức : Ủy ban Chứng  khoán Nhà nước và Sở Giao dịch chứng khoán.   CÔNG TY CHỨNG KHOÁN CHÂU ÂU (EURONEXT)  Thị trường chứng khoán Châu Âu (EURONEXT)  co tầm ảnh hưởng bao  trùm lên mọi lĩnh vực đầu tư và mọi thị trường chứng khoán ở mọi quốc gia.  EURONEXT mới hình thành từ năm 2000 do sự sáp nhập của 3 thị trường lớn  nhất ở châu Âu, Amsterdam, Brussels và Paris. Ngay từ khi mới thành lập  EURONEXT đã được đánh giá là trung tâm giao dịch chứng khoán lớn thứ hai  thế giới chỉ sau NYSE. Quy mô cơ chế hoạt động của EURONEXT  Đến năm 2002 EURONEXT tiếp tục sáp nhập với thị trường chứng khoán  phái sinh London và thị trường chứng khoán Bồ Đào Nha. Hiện nay  EURONEXT là thị trường chứng khoán xuyên quốc gia đầu tiên trên thế giới,  cung cấp mọi dịch vụ về giao dịch chứng khoán nhằm hỗ trợ đắc lực cho thị  trường tiền mặt và chứng khoán phái sinh ở Bỉ, Pháp, Anh, Hà Lan và Bồ Đào  Nha. EURONEXT luôn hoạt động vì mục tiêu củng cố thị trường tài chính  Châu Âu bằng cách hòa nhập các thị trường quốc gia tạo thành một thị  trường chung với tính thanh khoản và hiệu quả đạt mức cao tối đa. Mô hình  thống nhất của EURONEXT là sự kết hợp sức mạnh và tài chính của mỗi thị  trường địa phương và EURONEXT cũng minh chứng cho cách thành công  nhất để sáp nhập các thị trường chứng khoán đơn lẻ đó là tầm nhìn toàn cầu  với các thị trường địa phương. Mô hình này đòi hỏi phải có sự kết hợp về  công nghệ, tái cơ cấu các hoạt động trong phạm vi rộng lớn vượt ra ngoài  biên giới một quốc gia, hài hòa hóa các quy tắc thị trường và kiện toàn khung  pháp luật.  Trong suốt giai đoạn đầu củng cố thị trường và nâng cấp công nghệ,  EURONEXT đã không ngừng đa dạng hóa nguồn doanh thu, từ đó tạo một 
  7. thế đứng vững chắc cho Sàn châu Âu trước sự biến động mạnh mẽ của thị  trường tài chính thế giới. EURONEXT cung cấp một loạt các dịch vụ cao  cấp cho khách hàng, bao gồm việc phát hành chứng khoán ra công chúng,  phương tiện giao dịch bằng tiền mặt, tài sản phái sinh cho đến các thủ tục  giao dịch như bù trừ chứng khoán  thông qua LCH.Clearnet và thanh toán  chứng khoán  tại các Trung tâm lưu ký địa phương. Khách hàng của Sàn  EURONEXT cũng rất đa dạng, gồm các thành viên và thể chế tài chính trực  tiếp tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán, các công ty phát hành  chứng khoán được niêm yết trên Sàn, các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân tham  gia mua bán trên thị trường, các tổ chức khác có sử dụng công nghệ, dịch vụ  và thông tin tài chính của EURONEXT.  Sàn EURONEXT nổi tiếng với giao dịch các công cụ phái sinh, trong đó phổ  biến và được áp dụng nhiều hơn cả là hợp đồng tương lai. Với mục đích  giảm thiểu rủi ro do biến động về giá của hàng hoá, giao dịch hợp đồng  tương lai là một trong những phương thức hữu hiệu được các nhà kinh doanh  nói chung, xuất khẩu nông sản nói riêng áp dụng phổ biến trên thế giới. Theo  thống kê vào năm 2005, có 600 triệu hợp đồng tương lai được giao dịch qua  Euronext, tăng 7% so với năm 2004. Với quy mô và uy tín của mình, Euronext  là một sàn giao dịch hoàn toàn tin cậy cho các nhà xuất khẩu nông sản Việt  Nam khi tham gia.  Chỉ với 7 năm hoạt động, hiện nay EURONEXT đang chiếm vị trí đẫn đầu  thế giới về khối lượng giao dịch thông qua Bảng đấu giá trung tâm và đứng  thứ hai thế giới về tổng khối lượng giao dịch chứng khoán mỗi ngày và cũng  xếp vị trí tương tự về giao dịch chứng khoán phái sinh. EURONEXT có tất  cả 1.259 nhân viên làm việc, với 1250 công ty niêm yết, cung cấp dịch vụ  24/24h tại 5 châu lục trên toàn cầu. Thị trường chứng khoán EURONEXT ra  đời với 3 mục tiêu lớn: tăng giá trị cho khách hàng bằng cách giảm thiểu chi  phí giao dịch, nâng cao hiệu quả và an toàn thị trường; tăng giá trị cổ đông  bằng cách tăng cường tạo lợi nhuận cho các công ty niêm yết; cuối cùng là  nâng cao vị thế của thị trường tài chính châu Âu. Như vậy có thể xem như  EURONEXT là một cuộc cách mạng thị trường tài chính của châu lục rất  năng động này, và càng khẳng định vị thế không thể xoá nhoà của một trong  ba trung tâm tài chính kinh tế lớn nhất thế giới. Việc sáp nhập của hai thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới  Vào tháng 5 năm 2006, thị trường chứng khoán New York đã đưa ra đề nghị  hợp nhất với công ty EURONEXT, hiện nay thị trường chứng khoán NYSE là  thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới và EURONEXT đứng thứ hai, nếu 
  8. vụ “kết duyên” này thành công thì NYSE sẽ góp khoảng 10 tỉ đô la vào  EURONEXT và là một phương cách hữu hiệu hơn để buôn bán cổ phiếu, tiết  kiệm cho các nhà đầu tư và các công ty hàng trăm triệu đô la. Việc sáp nhập  các thị trường chứng khoán NYSE và Euronext sẽ tạo ra một thị trường  chứng khoán đầu tiên xuyên Đại Tây Dương với sàn giao dịch lớn nhất thế  giới trị giá 21 tỷ USD, hoạt động liên tục suốt 24 giờ. Sau khi sáp nhập, trụ  sở chính của Euronext sẽ chuyển từ Paris tới London và thị trường chứng  khoán mới sau khi sáp nhập sẽ sử dụng công nghệ mới để thống nhất các  giao dịch trên toàn cầu.  Tại New York và Paris, ngày 1 tháng 6 năm 2006 trong buổi họp báo NYSE và  Euronext thông báo với toàn thế giới đã hoàn thành văn bản kí kết sáp nhập  theo thỏa thuận ngang bằng. Nếu được cổ đông hai bên đồng ý và hoàn thành  các thủ tục pháp lý, tập đoàn mới với tên gọi NYSE Euronext sẽ ra đời, là tập  đoàn toàn cầu cung cấp các dịch vụ giao dịch chứng khoán, tiền tệ, dịch vụ  hàng hóa tài chính phái sinh,...mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư, cổ đông  và các công ty phát hành.  Là sự hợp nhất giữa hai nhà khổng lồ, NYSE Euronext sẽ là thị trường tài  chính toàn cầu đích thực và có tính thanh khoản cao nhất thế giới, nơi mang  lại lợi ích tuyệt vời đồng thời cho cả các nhà đầu tư lẫn các nhà phát hành  chứng khoán ở Mỹ, châu Âu và trên toàn cầu. Theo John A. Thain, Giám đốc  của NYSE, đây là bước tiến quan trọng trong lịch sử của NYSE, Euronext  cũng như thị trường tư bản toàn cầu. Việc đồng hành với Euronext giúp  NYSE hoàn thiện hơn quan niệm rằng một thị trường toàn cầu thực sự hội tụ  đầy đủ các yếu tố về sản phẩm và môi trường địa lý sẽ mang lại lợi nhuận  cho tất cả các nhà đầu tư, các công ty phát hành cổ phiếu, người nắm giữ cổ  phiếu, và cổ đông. Còn theo bình luận của Jean­François Théodore, Giám đốc  của Euronext, việc kết hợp NYSE­ sàn giao dịch chứng khoán đi đầu trong  giao dịch tiền tệ, chứng khoán nổi tiếng toàn cầu với Euronext­ sàn giao dịch  quốc tế, không có biên giới, kĩ thuật và công nghệ cao với nhiều sản phẩm  đa dạng nên NYSE Euronext sẽ đóng vai trò là đầu tàu có tính toàn cầu cho sự  phát triển sau này.  Ngày nay NYSE­Euronext chiếm vị trí độc tôn lớn nhất thế giới với khoảng  3269 công ty vốn hóa thị trường là 15.970 tỷ USD ,giá trị giao dịch là 19.813 tỷ  USD số liệu ngày 31 tháng 12 năm 2010 Theo thông tin mới nhất  Sự kiện sáp nhập đình đám nhất trong giới chứng khoán quốc tế vừa kết thúc 
  9. với việc Deutsche Boerse AG của Đức đồng ý chi 9,53 tỷ USD để mua lại  Stock Exchange NYSE Euronext do Mỹ sở hữu vào ngày 15/2/2011.  Dù chưa có tên chính thức, nhưng bản hợp đồng lịch sử này vừa được hai bên  đặt bút ký trong tuần đã tạo ra một công ty điều hành sàn chứng khoán lớn  nhất hành tinh với tổng giá trị thị trường đạt 25,6 tỷ USD, soán ngôi của  Hong Kong Exchanges&Clearing hiện đang giữ vị trí này.    Thương vụ xuyên Đại Tây Dương lớn nhất trong lịch sử chứng khoán hiện  đại dự kiến sẽ hoàn tất vào cuối năm 2011, sau khi nhận được sự chấp thuận  của các cơ quan chức năng cả Mỹ và châu Âu. Trên cơ sở hợp nhất hoàn toàn  mọi hoạt động, công ty mới sẽ đặt trụ sở tại New York và Frankfurt; đồng  thời được niêm yết trên sàn giao dịch Frankfurt, New York và Paris. Với tổng  doanh thu của hai doanh nghiệp trong năm 2010 là 5,4 tỷ USD và lợi nhuận  đạt 2,7 tỷ USD, vụ mua bán được thị trường chứng khoán hai bờ Đại Tây  Dương dõi theo đã hình thành một tập đoàn điều hành và giao dịch cổ phiếu  lớn nhất thế giới về doanh thu và lợi nhuận. Thỏa thuận "cùng đi một con  đường" giữa hai sàn giao dịch danh giá sẽ khiến tổng giá trị thị trường của  nhóm các công ty niêm yết tại tập đoàn mới lên tới 15 nghìn tỷ USD, tương  đương 28% tổng giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán toàn thế giới.  Để có được bản hợp đồng tạo ra nhiều kỷ lục, lãnh đạo hai bên đã phải vượt  qua nhiều khác biệt. Do mức vốn hóa lớn hơn 15 tỷ USD, thỏa thuận cuối  cùng là mỗi cổ phiếu của Deutsche Boerse AG đổi được một cổ phiếu của  công ty mới trong khi tỷ lệ đối với NYSE Euronext là 0,47 cổ phiếu. Sau khi  giao dịch kết thúc, các cổ đông của Deutsche sẽ nắm giữ 60% cổ phần trong  khi các cổ đông của NYSE nắm sở hữu phần còn lại. Công ty chứng khoán  lớn nhất thế giới này cũng hy vọng việc ông Duncan Niederauer, Giám đốc  điều hành NYSE Euronext sẽ là giám đốc điều hành của công ty mới và Giám  đốc điều hành của Deutsche Boerse AG Reto Francioni giữ chức Chủ tịch, sẽ  tạo được sự hòa hợp giữa hai doanh nghiệp. Cuộc phân chia ngôi vị bao giờ  cũng được xem là khó khăn lớn nhất mà các công ty hợp nhất luôn phải đối  mặt. Vụ việc này đã ngay lập tức khiến cuộc chạy đua mua bán giữa các công ty  quản lý sàn chứng khoán khắp thế giới diễn ra suốt một thập kỷ qua ngày  càng trở nên khốc liệt. Từ năm 2000 đến nay, tổng giá trị các vụ thâu tóm đạt  ít nhất 95,8 tỷ USD. Bản thân NYSE Euronext cũng là kết quả của một  thương vụ ồn ào cách đây 5 năm với giá trị hợp đồng là 14,3 tỷ USD, mở đầu 
  10. cho làn sóng hình thành thị trường giao dịch cổ phiếu giữa hai châu lục Âu ­  Mỹ. Xu thế vượt Đại Tây Dương của thị trường chứng khoán toàn cầu vừa  một lần nữa cho thấy xu hướng của sáp nhập khi BATS Global Markets của  Mỹ đang hoàn tất những thủ tục cuối cùng để mua lại "người bạn lớn" ở  châu Âu, Chi­X Europe. Các sàn cổ phiếu châu Á xem ra cũng không muốn  đứng ngoài "sân chơi" sáp nhập như một xu hướng toàn cầu tất yếu đang  diễn ra. Hong Kong HKEX tuyên bố sẽ cân nhắc hợp danh và các quan hệ  quốc tế khác trong khi lãnh đạo Tokyo TSE bóng gió rằng sàn giao dịch này  luôn mở cửa với những cơ hội hợp tác... Gia tăng liên kết để tồn tại và phát triển đang là lựa chọn của các doanh  nghiệp nhằm chống đỡ hiệu quả trước áp lực cạnh tranh ngày một lớn trong  lĩnh vực chứng khoán. Rõ ràng khi thị trường tài chính nhiều biến động thì  hợp nhất được xem là công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao vị thế, sức mạnh cho  những công ty hoạt động trong môi trường chứng khoán khắc nghiệt ­ nơi  quy mô và tiềm lực luôn quyết định thành công.  II, Th   ị trường  chứng khoán Nasdaq (Nasdaq)  NASDAQ là chữ viết tắt của cụm từ National Association of Securities Dealers Automated Quotations system, là sàn giao dịch chứng khoán điện tử của Mỹ, có giá trị vốn hoá thị trường đứng thứ 2 thế giới (sau NYSE ) Điểm khác biệt quan trọng giữa NASDAQ với các sàn giao dịch chứng khoán  lớn khác là ở chỗ nó là một sàn giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). Lịch sử và quá trình hình thành phát triển của Nasdaq Nasdaq được thành lập năm 1971 bởi Hiệp hội những người buôn bán chứng khoán Quốc gia (NASD), và hiện đang được điều hành bởi Nasdaq Stock Market, Inc. NASDAQ là sàn giao dịch chứng khoán điện tử lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 2849 công ty niêm yết và số lượng cổ phiếu giao dịch bình quân nhiều hơn bất kỳ sàn giao dịch khác ở Mỹ, kể
  11. cả NYSE.Khi bắt đầu mở cửa giao dịch vào ngày 8/2/1971, NASDAQ là sàn  thị trường chứng khoán điện tử tiên phong trên thế giới. Lúc đầu, nó chỉ đơn  thuần là hệ thống bản điện tử niêm yết giá chứ chưa thực sự kết nối giữa  người mua với người bán. Tác dụng quan trọng nhất lúc đó là nó giúp làm  giảm mức chênh lệch giữa giá mua(bid price) và giá bán(ask price) cổ phiếu, gây bất lợi cho những  tay môi giới chứng khoán thường kiếm bộn nhờ chênh lệch này, song lại làm  thị trường chứng khoán hoạt động nhộn nhịp hơn. Vài năm sau, NASDAQ  tiến gần hơn đến một sàn giao dịch chứng khoán theo đúng nghĩa của nó, khi  đưa vào hoạt động hệ thống báo cáo và giao dịch chứng khoán tự động. Cho  đến năm 1987, hầu hết các giao dịch được tiến hành qua điện thoại, song  trong suốt cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán năm 1987, những  người tạo lập thị trường hầu như không trả lời điện thoại. Để đối phó với  vấn đề này, Hệ thống thực thi các lệnh nhỏ (SOES) đã ra đời, cung cấp cho  những người mua bán chứng khoán một phương thức giao dịch điện tử hoàn toàn mới, và để đảm bảo những giao dịch nhỏ không  bị bỏ qua. NASDAQ cũng niêm yết cổ phiếu của chính họ trên sàn dưới mã  hiệu NDAQ. Chỉ số chủ yếu trên NASDAQ là chỉ số tổng hợp NASDAQ  (The Nasdaq Composite), được xây dựng dựa trên giá cổ phiếu của toàn bộ  các công ty niêm yết trên NASDAQ. Chỉ số này là chỉ số được theo dõi nhiều  nhất đối với các công ty về công nghệ. Một số mốc chính với chỉ số tổng hợp NASDAQ: ­17/7/1995: lần đầu tiên chỉ số tổng hợp NASDAQ đóng cửa ở mức giá trên  1000 điểm ­10/3/2005: chỉ số này đạt mức giao dịch cao kỉ lục 5,132.52 điểm ­10/10/2002: chỉ số tổng hợp NASDAQ tụt xuống mức thấp nhất 1,108.49  điểm Các chỉ số chứng khoán: Nasdaq indices  NASDAQ Composite NASDAQ­100
  12. Nasdaq Financial 100 Điều kiện để được niêm yết trên NASDAQ Niêm Yết trên Thị Trường NASDAQ Tài sản hữu hình thuần tối thiểu: $US 6 Triệu Lợi tức sau thuế: $US 1 Triệu, hoặc Tài sản hữu hình thuần: $US 75 Triệu Thu nhập: $US 75 Triệu Giá trị thị trường: $US 75 Triệu Giá bán cổ phần tối thiểu: $US 5 Số cổ đông: 400 Vốn cổ đông: $US 15 Triệu Giá thị trường công cộng: $US 8 Triệu Market Makers: 3 Quá trình hoạt động: không bắt buộc Vốn hóa thị trường: 4,931 tỷ USD Giá trị giao dịch: 13,439 tỷ USD Có 2849 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán FLWS 1­800 FLOWERS.COM, Inc. FCTY 1st Century Bancshares, Inc FCCY 1st Constitution Bancorp (NJ) SRCE 1st Source Corporation FUBC 1st United Bancorp, Inc. (FL) TCHC 21st Century Holding Company VNET 21Vianet Group, Inc. TDSC 3D Systems Corporation SSRX 3SBio Inc.
  13. JOBS 51job, Inc. EGHT 8x8 Inc SHLM A. Schulman, Inc. ACMR A.C. Moore Arts & Crafts, Inc. AONE A123 Systems, Inc. AAON AAON, Inc. ASTM Aastrom Biosciences, Inc. ABAX ABAXIS, Inc. ABBC Abington Bancorp, Inc. ABMD ABIOMED, Inc. AXAS Abraxas Petroleum Corporation ACTG Acacia Research Corporation ACAD ACADIA Pharmaceuticals Inc. ACCL Accelrys, Inc. ANCX Access National Corporation ARAY Accuray Incorporated ACRX AcelRx Pharmaceuticals, Inc. ACET Aceto Corporation ACHN Achillion Pharmaceuticals, Inc. ACIW ACI Worldwide, Inc. ….. Bên cạnh NASDAQ Composite thì NASDAQ 100 và Nasdaq Financial 100  cũng là những chỉ số chứng khoán rất quan trọng. Nasdaq 100 là chỉ số chứng  khoán của 100 công ty phi tài chính lớn nhất được niêm yết trên NASDAQ,  cả công ty trong nước và quốc tế, còn Nasdaq Financial 100 là của các công ty  tài chính. Trong danh sách của NASDAQ 100 được công bố 1/2/2007 có nhiều cái tên  khá quen thuộc trong lĩnh vực IT như: Adobe Systems Incorporated (ADBE),  Amazon.com, Inc. (AMZN), Apple Inc. (AAPL), Cisco Systems, Inc. (CSCO), Dell Inc. (DELL), eBay Inc. (EBAY). NASDAQ đã có những nỗ lực đáng kể nhằm thâu tóm London Stock  Exchange. Hiện NASDAQ đã nắm được 28.75% cổ phần của London Stock  Exchange và đưa ra mức giá £12.43, mức giá cao nhất mà họ từng trả cho một  cổ phần trên thị trường mở
  14. III,Thị trường chứng khoán Thượng Hải(SSE) Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán Trung Quốc A. Thị trường chứng khoán của Trung Quốc cũ Thị trường chứng khoán Trung Quốc từ thuở “sơ khai” được biết đến như  một trung tâm giao dịch của người nước ngoài, cổ phiếu đầu tiên xuất hiện  trên thị trường là của nước ngoài, sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải đầu  tiên cũng do doanh nghiệp nước ngoài sở hữu.   Từ những năm 70 của thế kỷ 19, bắt đầu xuất hiện cổ phiếu Trung Quốc, từ  đó thị trường chứng khoán và trái khoán có những bước phát triển đầu tiên.  Tháng 7/1920, sở giao dịch hàng hóa chứng khoán Thượng Hải ra đời, là trung  tâm chứng khoán có quy mô lớn nhất lúc bấy giờ. Thời gian tiếp theo đánh  dấu sự xuất hiện liên tiếp các sở giao dịch chứng khoán Hoa Thương  Thượng Hải, sở giao dịch hàng hóa Thanh Đảo, sở giao dịch doanh nghiệp  thành phố Thiên Tân, v.v…. Sự ra đời này dần hình thành nên một thị trường  tài chính sôi động trong thời kỳ trước khi Trung Quốc cải cách mở cửa.  B. Thị trường chứng khoán Trung Quốc thời kỳ đổi mới được chia làm 2 giai  đoạn 1. Trong thời kỳ xây dựng đất nước  Sở giao dịch chứng khoán thành phố Thiên Tân được thành lập ngày 1/6/1949;  ngày 1/2/1950 thành lập sở giao dịch chứng khoán Bắc Kinh. Sở chứng khoán  Thiên Tân có hơn 39 nhân viên môi giới chứng khoán với tổng mức doanh thu  đạt 8 triệu 450 nghìn NDT; còn sở chứng khoán Bắc Kinh chỉ có 17 nhân viên  môi giới hoạt động.  Tuy nhiên, đến năm 1952, đối mặt với nguy cơ số lượng sàn giao dịch hoạt  động ít ỏi, tầm ảnh hưởng của chứng khoán đối với xã hội không cao nên sở  chứng khoán Thiên Tân buộc phải sát nhập với công ty đầu tư Thiên Tân, còn  sở chứng khoán Bắc Kinh thì tuyên bố phá sản.  2. Thời kỳ sau cải cách mở cửa a) Thời kỳ thăm dò thị trường. 
  15. Thị trường chứng khoán Trung Quốc được hình thành và từng bước hoạt  động kể từ cuối những năm 70 của thế kỷ 20. Cho dù cơ cấu thị trường chưa  ổn định, quá trình vận hành còn thô sơ, thể chế luật pháp chưa hoàn thiện  nhưng việc khôi phục thị trường chứng khoán ít nhiều đã mang lại những tác  động tích cực đối với công cuộc cải cách mở cửa của đất nước. Năm 1978­1990, lượng cổ phiếu được phát hành trên thị trường đạt 286 triệu  100 nghìn NDT. Trong đó, giá trị cổ phiếu đạt 4 tỷ 590 nghìn NDT, trái khoán  đạt 187 tỷ 042 triệu NDT. Trong thời gian này, tổng lượng chứng khoán  chuyển nhượng đạt 18 tỷ 700 nghìn NDT, trái khoán quốc gia chiếm 16 tỷ  782 nghìn NDT, phương thức chuyển nhượng chủ yếu là giao dịch cá nhân  hoặc giao dịch tại quầy. b) Sự hình thành và tốc độ phát triển của của thị trường giao dịch.  Từ tháng 12/1990 đến tháng 7/1991, Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và  Sở giao dịch chứng khoán Thâm Quyến chính thức đi vào hoạt động, đánh  dấu sự hình thành của thị trường chứng khoán tập trung, cũng là điểm khởi  đầu cho thời kỳ phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Trung Quốc.  Tháng 10/1992, Uỷ Ban Chứng Khoán Quốc vụ viện (gọi tắt là UBCK) cùng  cơ quan giám sát quản lý được thành lập. Năm 1993, Quốc vụ viện ban hành  điều lệ giám sát quản lý giao dịch, phát hành cổ phiếu và điều lệ quản lý trái  khoán của doanh nghiệp, đồng thời xây dựng thể chế quy luật quy phạm luật  chứng khoán một cách cơ bản nhất. Sau năm 1993, thị trường cổ phiếu bắt đầu sôi động, các cổ phiếu B và H lần  lượt được phát hành ra thị trường, thị trường trái khoán đa dạng hơn, quy mô  được mở rộng. Đồng thời, đội ngũ nhân viên môi giới chứng khoán từ đó phát  triển nhanh và mạnh hơn cả về chất lượng và số lượng. c) Luật chứng khoán ra đời dần hoàn thiện hơn về thể chế giám sát quản lý.  Tháng 4/1998, Quốc vụ viện thành lập UBCK Quốc vụ viện ­ là bộ phận  giám sát quản lý chủ yếu thị trường giao dịch chứng khoán cả nước. Tháng 12/1998, Đại hội Đảng thông qua luật chứng khoán và tiến hành thực  thi kể từ ngày 1/7/1999, quy định khung pháp luật cơ bản của thị trường  chứng khoán d) Thị trường chứng khoán từng bước phát triển. 
  16. Ngày 31/1/2004, Quốc vụ viện ban hành điều lệ liên quan đến cải cách mở  cửa và phát triển thị trường. Tháng 8/2004 và tháng 11/2005, Đại hội Đảng toàn quốc đã 2 lần sửa lại luật  chứng khoán, từng bước củng cố thể chế pháp luật cơ bản. Kể từ năm 2004 trở lại đây, thị trường chứng khoán Trung Quốc phát sinh  những thay đổi mang tầm vĩ mô, tháng 5/2004, chỉ số giao dịch tại sở chứng  khoán Thượng Hải và Thâm Quyến tăng lên đáng kể, thúc đẩy thị trường  phát triển, giúp cơ chế giao dịch ngày một cải thiện tốt hơn. Tháng 4/2005,  nhờ sự phê chuẩn của Quốc vụ viện, cơ quan giám sát quản lý của Trung  Quốc đã ban hành thông tư liên quan đến vấn đề thí điểm cải cách phân chia  cổ phần cho các công ty cổ phiếu trên thị trường, giúp các doanh nghiệp có  thêm quyền lợi hơn khi tham gia giao dịch cổ phiếu. Cuối năm 2006, hơn 1301 công ty hoạt động trên thị trường Thượng Hải và  Thâm Quyến đều đã hoàn thành việc thực hiện lộ trình cải cách phân chia cổ  phần. Ngày 8/9/2006, được sự thống nhất của Quốc vụ viện và cơ quan giám sát  quản lý phê chuẩn nên các sở chứng khoán Thượng Hải, Tô Châu, Đại Liên,  Thâm Quyến cùng nhau thống nhất thành lập sở giao dịch chứng khoán Trung  Quốc.  . Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải( Shanghai Stock Exchange) A. Hệ thống chỉ số SSE (SSE Indices) Các chỉ số SSE là một công cụ chỉ dẫn dựa vào thống kê có căn cứ xác thực  được chấp nhận bởi các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, đánh giá hoạt  động của thị trường chứng khoán Trung Quốc, được biên soạn và công bố  bởi Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải. Các chỉ số SSE là chỉ số dựa trên  giá chứng khoán, bao gồm chỉ số SSE 180, chỉ số SSE 50, chỉ số cổ tức SSE,  chỉ số SSE Composite mới, chỉ số SSE Composite, những chỉ số cho từng  ngành, chỉ số quỹ SSE, chỉ số trái phiếu chính phủ SSE, và chỉ số trái phiếu  doanh nghiệp SSE. Trong số đó, chỉ số được thiết lập sớm nhất là chỉ số SSE  Composite. Nhằm mục đích thúc đẩy việc xây dựng cơ sở hạ tầng lâu dài và quá trình  chuẩn hóa thị trường chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải tái  cơ cấu chỉ số SSE 30 thành chỉ số SSE Consituent (SSE 180) vào tháng 6 năm 
  17. 2002. Là cốt lõi của những chỉ số SSE, SSE 180 đã tạo nên bước chuyển biến  quan trọng về phương pháp dựa trên cơ bản là chỉ số SSE 30 nhưng có tính  đến hoàn cảnh thị trường tài chính hiện tại, đồng thời kết hợp với kinh  nghiệm quốc tế. Mục đích của nó là để lựa chọn những thành phần thích hợp  nhất để đại diện cho thị trường Thượng Hải thông qua phương pháp khoa  học và khách quan, để thiết lập một chỉ số chuẩn so sánh có thể phản ánh thị  trường Thượng Hải và có tác dụng như một công cụ chuẩn đánh giá mức độ  hoạt động và là cơ sở cho những cải cách tài chính. Chỉ số trái phiếu chính phủ SSE và chỉ số trái phiếu doanh nghiệp SSE được  chính thức sử dụng năm 2003, hoàn chỉnh hệ thống các chỉ số SSE bao gồm  vốn sở hữu, chứng chỉ quỹ, và trái phiếu. Đầu năm 2004, Sở chứng khoán  Thượng Hải cho ra đời chỉ số SSE 50 để phản ánh mức độ hoạt động của  một số cổ phiếu có ảnh hưởng nhất trên thị trường Thượng Hải. Vì thế, chỉ  số SSE Composite (chỉ số toàn thị trường), chỉ số SSE 180 (chỉ số chuẩn so  sánh mức độ hoạt động các chứng khoán) và chỉ số SSE 50 (một chỉ số cho  các chứng khoán chất lượng cao, khối lượng lớn) đã tạo thành một hệ thống  chỉ số 3 mức độ. Các chỉ số SSE phản ánh những thay đổi tổng thể về giá cả của cổ phiếu  được niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thượng Hải với rất nhiều  mức độ khác nhau. Các chỉ số SSE cũng phản ánh sự thịnh vượng và những  thay đổi về giá cả của mỗi ngành công nghiệp, mang đến cho các nhà đầu tư  một hệ thống chuẩn so sánh cho những danh mục đầu tư khác nhau. Với thị  trường chứng khoán đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế  quốc dân, hệ thống các chỉ số SSI đang dần trở thành kim chỉ nam cho nền  kinh tế Trung Quốc. B. Tổng quan SSE hiện nay 905 công ty niêm yết  1550 chứng khoán niêm yết Tổng số Vốn thị trường :4496tỷ USD IV,Thị trường chứng khoán Tokyo (tokyo securities market) *) Lịch sử hình thành
  18.             Nhật Bản có thị trường chứng khoán từ năm 1875, sau chiến tranh thế  giới thứ hai có thời kỳ giải tán Sở giao dịch chứng khoán. Tháng 5/1948, dựa  theo cách làm của Mỹ thực hiện Luật giao dịch chứng khoán. Năm 1949, mở  lại Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường giao dịch chứng khoán hoạt động  trở lại và phát triển khá mạnh trong thời kì Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng  kinh tế cao. Từ năm 1955 đến năm 1961, kinh tế Nhật có 2 lần tăng trưởng  kinh tế mạnh, số cổ phiếu Dow Jones của Sở giao dịch chứng khoán Tokyo  từ năm 374 tăng lên 1549. Tổng số giá cổ phiếu giao dịch năm 1955 là 3,8 tỷ;  năm 1961 đã lên tới 48,3 tỷ, tăng 14 lần. Tháng 4/1966, trái phiếu công cộng  và trái phiếu công ty (đã ngừng giao dịch sau chiến tranh thế giới thứ 2) lại  được đưa ra thị trường của 2 Sở giao dịch chứng khoán Đông Bắc và Osaka,  chứng tỏ thị trường chứng khoán Nhật đã phát triển sang thời kỳ hoàn toàn  mới. Sau thập kỷ 60, Chính phủ Nhật phát hành phiếu công trái, quy mô thị  trường trái phiếu được mở rộng.  Nhật Bản có 8 sở giao dịch chứng khoán, gần 200 công ty chứng khoán phân  bố ở các nơi như Tokyo, Osaka,Nayoga, sở giao dịch chứng khoán Tokyo thị  trường cổ phiếu, trái phiếu lớn nhất ở Nhật, chiếm 85% tổng số giao dịch cổ  phiếu ở Nhật. Trên thị trường chứng khoán Nhật Bản, có 5 loại cổ phiếu được giao dịch là:  cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu không có quyết nghị, cổ phiếu  được phân phối sau, cổ phiếu trả lại. Trái phiếu ở Nhật, căn cứ vào chủ thể phát hành, được chia làm 6 loại: trái  phiếu nhà nước, trái phiếu địa phương, trái phiếu đặc biệt, trái phiếu công ty,  trái phiếu tài chính, trái phiếu ngoài nước. Từ năm 1970, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo đã cho phép các công ty đầu  tư Nhật mua cổ phiếu nước ngoài, và vốn đầu tư của nước ngoài mua cổ  phiếu của Nhật Bản đã tăng lên nhanh chóng. Trong một thời gian ngắn số  bán ra đã nhiều hơn số mua vào, chứng tỏ người nước ngoài đã tăng trưởng  đầu tư vào Nhật Bản. Nguyên nhân của tình hình này là nền kinh tế đã phát  triển nhanh, có nhiều hàng xuất khẩu đứng đầu thế giới, Chính phủ nới lỏng  toàn diện chế độ quản lý ngoại tệ, các xí nghiệp Nhật Bản có sức hấp dẫn  lớn do thu được nhiều lợi nhuận, vốn quốc tế đầu tư phân tán đã thúc đẩy  nước ngoài chảy vào thị trường Nhật Bản. TTCK Nhật Bản có từ ngày đầu Minh Trị. Giai đoạn đầu, TTCK chủ yếu  buôn bán trái phiếu do Nhà nước phát hành. Đến năm 1890 mới buôn bán cổ 
  19. phiếu. Năm 1943, 11 sàn giao dịch chứng khoán trên toàn nước Nhật hợp  thành 1 công ty bán công gọi là sàn giao dịch chứng khoán Nhật Bản.Năm  1945 đến 1948,Sở giao dịch này bị đóng cửa, việc buôn bán chứng khoán diễn  ra bên ngoài văn phòng của công ty và chợ đen. Năm 1948, Luật giao dịch  chứng khoán được ban hành, dựa theo mô hình luật chứng khoán của Mỹ và  sửa đổi cho phù hợp với thực trạng của nền kinh tế Nhật.Nhật đưa ra 3  nguyên tắc cơ bản cho việc điều hành TTCK, đó là: thứ nhất, mọi giao dịch  chứng khoán phải được đăng ký ở nơi giao dịch; thứ hai, giao dịch chứng  khoán phải tập trung ở Sở giaodịch; thứ ba, không cho phép thực hiện giao  dịch tương lai. Tháng 4 năm 1949, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo được  thành lập.           Sở giao dịch chứng khoán Tokyo hay TSE, là sở giao dịch chứng khoán  ở Tokyo, lớn thứ 4 thế giới. Hiện tại sở giao dịch này niêm yết 2292 công ty  với tổng khối lượng vốn hóa thị trường hơn 3827 tỷ USD. TSE hoạt động từ  9g­11g sáng và 12g30­3g chiều. Nikkei 225 là chỉ số thị trường chứng khoán cho sàn giao dịch chứng khoán  Tokyo (Tokyo Stock Exchange­ TSE), là chỉ số quan trọng nhất của thị trường  chứng khoán châu Á. Nó bao gồm 225 cổ phiếu Blue­chip đại diện cho các  công ty ở Nhật, và là một chỉ số tính theo giá (đơn vị đồng Yên). Chỉ số này  gần giống chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones ở Mỹ.               *) Các chỉ số của thị trường chứng khoán Nhật Bản             Chỉ số NIKKEI 225: là chỉ số tổng hợp cổ phiếu với quyền số giá cả  của 225 cổ phiếu thuộc sở giao dịch chứng khoán Tokyo và 250 cổ phiếu  thuộc sở giao dịch Osaka do Thời báo kinh tế Nhật tính toán và công bố. Chỉ  số này còn được gọi là chỉ số NIKKEI Dow vì phương pháp tính của nó như  phương pháp tính các chỉ số DowJones.            Chỉ số TOPIX: chỉ số này tính cho tất cả chứng khoán quan trọng niêm  yết tại thị trường chứng khoán Tokyo. Thời điểm gốc là 4/1/1968 với giá trị  gốc là 100. Thị trường Nhật Bản phát triển vì có những ưu thế sau đây: Tiềm lực thị trường lớn, kinh tế phát triển nhanh, xuất siêu liên tục.
  20. Vị trí đồng Yên Nhật trên thị trường tiền tệ thế giới ngày càng cao. Lãi suất trái phiếu Nhật Bản quá thấp, tiền vốn Nhật Bản quá thừa. Cuối năm 2010:   Vốn hóa thị trường :3827 tỷ USD. Giá trị giao dịch: 3787 tỷ USD. Số công ty yết: 2292 công ty V, Thị trường chứng khoán London Sở   giao   dịch   chứng   khoán   London (tiếng   Anh: London   Stock   Exchange ­  LSE) nằm tại London, Anh Quốc. Được thành lập từ  1801, đây là một trong  những cơ sở  giao dịch chứng khoán lâu đời nhất thế  giới, với nhiều công ty   trong Liên Hiệp Anh và ở nước ngòai niêm yết. Trụ   sở   của   London   Stock   Exchange   hiện   đặt   tại   số   10,   quảng   trường  Paternoster tại trung tâm của Thành phố London. 1.1. Quá trình lịch sử hình thành Vào năm 1547, thành phố   ở  Bruges Bỉ  mất đi sự  phồn thịnh do eo biển   Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua   thị  trấn Auvers Bỉ,  ở  đây thị  trường phát triển rất nhanh và giữa thế  kỷ  16  một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về  thiết lập một   mậu dịch thị trường tại London Anh, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch   chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành   lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu. Giao dịch cổ  phiếu tại London bắt nguồn từ nhu cầu vốn tài chính của   hai chuyến hải hành vào thế kỷ 16: một của công ty Muscovy đến Trung Hoa   qua biển Trắng phía bắc nước Nga và chuyến thứ hai của công ty Đông  Ấn   tới Ấn Độ và phương Đông. Hai công ty trên đã huy động vốn bằng cách bán   cổ  phiếu cho các nhà buôn, giao cho họ  quyền được hưởng một phần lợi   nhuận của chuyến đi. Ý tưởng này sau đó đã được phổ  biến rộng rãi và đến năm 1695, người   ta  ước lượng có đến 160 công ty cổ  phần. Giao dịch cổ  phiếu vào thời đó   thường được diễn ra tại hai quán cà phê Jonathan's và Garraway's trong khu  Exchange Alley (Hẻm Đổi tiền) của thành phố.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0