intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Kỹ năng lãnh đạo: Phong cách lãnh đạo độc đoán của Lý Quang Diệu và bài học cho các lãnh đạo của tương lai

Chia sẻ: Banhbeodethuong | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:48

167
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận của nhóm có cấu trúc 4 phần, cụ thể như sau: Cơ sở lý luận về phong cách lãnh đạo; Giới thiệu về Lý Quang Diệu; Phân tích phong cách lãnh đạo của Lý Quang Diệu; Giải pháp cho những khuyết điểm trong phong cách lãnh đạo của Lý Quang Diệu và bài học rút ra. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Kỹ năng lãnh đạo: Phong cách lãnh đạo độc đoán của Lý Quang Diệu và bài học cho các lãnh đạo của tương lai

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH ═════000═════ TIỂU LUẬN KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO ĐỘC ĐOÁN CỦA LÝ QUANG DIỆU VÀ BÀI HỌC CHO CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO TƯƠNG LAI Thành viên nhóm 6: Hoàng Như Huyền – 121 221 0064 Trương Đức Anh – 121 221 0019 Trần Lê Ngọc Hải – 121 221 0044 Nguyễn Hải Long– 121 221 0091 Nguyễn Hữu Tâm – 121 221 0128 Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Anh Duy
  2. Hà Nội – 05/2015
  3. MỤC LỤC
  4. BẢNG ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH LÀM VIỆC NHÓM STT Tên Vị trí Đánh giá Điể m Phân công rõ ràng, luôn có trách  Trưởng  nhiệm, hoàn thành việc đúng hạn,  1 Hoàng Như Huyền 9 nhóm nhiệt tình, giữ được tinh thần làm  việc nhóm. Hoàn thành việc đúng thời hạn, có  trách nhiệm, hỗ trợ trưởng nhóm và  2 Trương Đức Anh Thành viên có góp ý chỉnh sửa bài, chủ động  9 trong công việc nhóm, phụ trách  chính phần video. Hoàn thành việc đúng thời hạn, có  3  Nguyễn Hải Long Thành viên trách nhiệm, phụ trách chính phần  9 slides. Hoàn thành việc đúng thời hạn, có  4 Nguyễn Hữu Tâm Thành viên 8.5 trách nhiệm. Có tinh thần làm việc nhóm, hoàn  5 Trần Lê Ngọc Hải Thành viên 8.5 thành bài đúng thời hạn.
  5. LỜI MỞ ĐẦU Từ  trước đến nay lãnh đạo luôn đóng vai trò rất quan trọng trong khoa học  về tổ chức ­ nhân sự, nhà lãnh đạo là người gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của   cá nhân hay nhóm người nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Trên thế giới hiện nay có 3 phong cách chủ yếu được các nhà lãnh đạo áp dụng  trong việc gây ảnh hưởng lên người khác là độc đoán, dân chủ và tự do. Trong vô số  bài nghiên cứu về  phong cách lãnh đạo thì Lý Quang Diệu nổi lên như  một hình   mẫu tiêu biểu về  phong cách lãnh đạo độc đoán trong thời đại mới, nhờ  ông mà  Singapore chuyển mình từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, không có tài nguyên trở  thành một quốc gia phát triển với thu nhập bình quân đầu người vào hàng cao nhất  thế  giới. Vậy phong cách lãnh đạo độc đoán của Lý Quang Diệu có biểu hiện cụ  thể  ra sao và đã tác động như  thế  nào để  Singapore trở  thành “con rồng Châu Á”?  Điều đáng học hỏi từ phong cách của ông là gì? Xuất phát từ  mong muốn giải đáp   những vấn đề  trên, nhóm đã xây dựng tiểu luận với đề  tài: “Phong cách lãnh đạo  độc đoán của Lý Quang Diệu và bài học cho các lãnh đạo của tương lai”. Bài tiểu   luận của nhóm có cấu trúc 4 phần: Phần I. Cơ sở lý luận về phong cách lãnh đạo Phần II. Giới thiệu về Lý Quang Diệu Phần III. Phân tích phong cách lãnh đạo của Lý Quang Diệu Phần IV.  Giải pháp cho những khuyết điểm trong phong cách lãnh đạo  của Lý Quang Diệu và bài học rút ra Do hiểu biết còn hạn hẹp và giới hạn về thời gian nên bài tiểu luận của nhóm   không thể  tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong ThS. Hoàng Anh Duy – người đã 
  6. giúp đỡ nhóm hoàn thành tiểu luận này – có thể tiếp tục góp ý để chúng em có thể  hoàn thiện hơn nữa bài tiểu luận của mình. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy.
  7. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận về phong cách lãnh đạo 1. Một số khái niệm liên quan 1.1. Lãnh đạo và phong cách lãnh đạo 1.1.1. Lãnh đạo Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng đến hoạt động của một cá nhân hoặc một  nhóm, nhằm đạt được mục đích trong những điều kiện cụ thể nhất định. Lãnh đạo  là khả  năng lôi cuốn người khác đi theo mình, là biết tạo ra mối ràng buộc giữa  người và công việc bằng cách quan tâm cả  hai. Ngoài ra lãnh đạo còn là khả  năng  thuyết phục và gây ảnh hưởng lên người khác để hoàn thành những mục tiêu mong  muốn. Nói cách khác, lãnh đạo thiên về  khía cạnh nhân bản và nhắm đến “người”   để nối kết họ thành một đội ngũ và động viên họ tiến tới mục tiêu mong muốn.  Có hai loại lãnh đạo là lãnh đạo chính thức và lãnh đạo không chính thức. Lãnh  đạo chính thức là người lãnh đạo có thực quyền. Người lãnh đạo có thực quyền là  người lãnh đạo đồng thời đóng vai trò quản trị viên trong một tổ chức, được trao ban  quyền hạn và chức năng hành xử  trên người khác để  thi hành một công tác theo  hoạch định. Người lãnh đạo không chính thức hay còn gọi là lãnh đạo tự  nhiên, là   người lãnh đạo do thiên phú với phong cách lôi cuốn người khác. Tuy họ  không có  quyền hạn chính thức để sai khiến, nhưng lời nói của họ có giá trị, được người khác   lắng nghe và thực hiện. Những người lãnh đạo tự  nhiên này thường được người   khác ngưỡng mộ như một chứng nhân gương mẫu về cách tổ chức và thực hiện đối   với đời sống cá nhân cũng như xã hội. 1.1.2. Các học thuyết về lãnh đạo
  8. Việc đi sâu tìm hiểu các học thuyết về lãnh đạo sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn   và sâu hơn về  bản chất của lãnh đạo. Hiện thời, trên thế  giới đang tồn tại 5 học  thuyết lãnh đạo. Đó là, học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất (the traitbased  leadership theory), học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi (the behavior­based   leadership theory), học thuyết về  lãnh đạo dựa trên cơ  sở  quyền lực và sự   ảnh  hưởng  (the   power­influence   leadership  theory),   học   thuyết   về   lãnh  đạo  theo  tình   huống (the situational leadership theory), và học thuyết về  lãnh đạo dựa trên cơ  sở  tích hợp (the integrative leadership theory). Sau đây là các nội dung cụ thể  của một   số học thuyết chủ đạo về lãnh đạo.  (i)   Học   thuyết   về   lãnh   đạo   dựa   trên   cơ   sở   tố   chất  (the   trait­based  leadership theory). Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ  sở tố  chất là học thuyết về  lãnh đạo ra đời sớm nhất. Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ  sở tố  chất cho rằng   lãnh đạo 12 phải là những người có những tố chất siêu phàm, phải có những giá trị  vượt trội so với đông đảo những người còn lại; và chính những tố chất siêu phàm và  giá trị vượt trội vốn có do tạo hóa ban tặng đó đã giúp họ trở nên xuất chúng và trở  thành những người đứng đầu một quốc gia, một bộ  tộc, một tôn giáo hay một tổ  chức nào đó (Yukl & Van Fleet, 1992). Các học giả  và các nhà nghiên cứu về  lãnh  đạo của giai đoạn này (1930s­1940s) đã tiến hành nghiên cứu và đã nhận ra rằng tố  chất vượt trội, giá trị vượt trội như vô cùng mạnh mẽ, vô cùng quyết đoán, vô cùng   mưu lược, có tầm nhìn chiến lược hơn người là những nhân tố  cơ  bản, chính yếu  để giúp một ai đó trở thành lãnh đạo. Chính vì lẽ đó, các nhà lãnh đạo trong thời kỳ  này là những người có quyền lực vô biên và họ thường điều hành cấp dưới của họ  thông qua quyền lực vô biên đó. Hiện thân của các nhà lãnh đạo trong thời kỳ này là   những người đứng đầu các quốc gia, các tướng lĩnh, các chủ  doanh nghiệp, chủ  trang trại. Họ  là những người đứng mũi chịu sào, những người cầm cân nảy mực   trong mọi hoạt động của xã hội, cộng đồng, và tổ chức. Họ nghĩ ra việc và cầm tay  chỉ  việc cho các cấp dưới của mình, còn những người cấp dưới chỉ  biết thực thi 
  9. công việc được giao một cách thụ  động. Phong cách lãnh đạo, điều hành này về  thực chất là điều hành thông qua mệnh lệnh và thuần tuý định hướng công việc ­ the   task­based approach (sẽ  được trình bày rõ  ở  phần lãnh đạo hiệu quả). Bên cạnh   những yếu tố  thuộc về  tố  chất, các học giả  như  Bass (1990), Hosking & Morley   (1988), và Yukl & Van Fleet (1992) cũng cho rằng kỹ năng, kinh nghiệm sống cũng   như trận mạc là những nhân tố vô cùng quan trọng cùng bổ trợ cho các tố chất vượt  trội vốn có để giúp cho các nhà lãnh đạo chèo lái con thuyền của mình. (ii) Học thuyết về  lãnh đạo dựa trên cơ  sở  hành vi  (the behavior­based  leadership theory). Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ  sở  hành vi ra đời từ  những  năm 1950s sau khi các học giả, các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạt động thực  tiễn bắt đầu cảm nhận được những nhược điểm, hạn chế  của học thuyết về lãnh   đạo dựa trên cơ  sở  tố  chất. Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ  sở  13 hành vi cho  rằng bất cứ một ai mà bằng hành động, ứng xử (behavior) của mình làm cho người   khác làm theo được ý định của mình thì người đó mới thực sự là lãnh đạo.  Thật vậy, cùng với sự  phát triển của kinh tế­xã hội, đời sống kinh tế  của  người dân không ngừng được cải thiện, dân trí không ngừng được nâng cao. Sự phát  triển không ngừng của kinh tế, xã hội, dân trí đã không ngừng tạo đà và phát triển  nền dân chủ mà ở đó mọi người đều được tự do, mọi người đều được bình quyền,   bình đẳng. Tự do, bình quyền, bình đẳng là những yếu tố có tính “trái chiều” với cơ  chế tập quyền, mệnh lệnh. Vì vậy, cần thiết phải có một học thuyết mới về  lãnh  đạo để đáp ứng yêu cầu đó của thực tiễn ­ học thuyết đó là học thuyết về lãnh đạo  dựa trên cơ  sở  tố  chất. Các học giả  Yukl & Van Fleet (1992), Wall & Lepsinger   (1990) đã tiến hành các nghiên cứu của mình và chỉ ra rằng thành công của công tác   lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào các tố chất vượt trội do tạo hóa ban tặng của các  nhà lãnh đạo mà còn phụ  thuộc rất nhiều vào các yếu tố  thuộc về  con người như  động viên khuyến khích, gây ảnh hưởng, khai thác yếu tố tâm lý, yếu tố tinh thần.
  10. (iii) Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở quyền lực và sự ảnh hưởng  (the power­influence leadership theory).Gây  ảnh hưởng và quyền lực là hai trong số  các nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo. Như đã đề  cập ở  trên, gây ảnh hưởng là   một năng lực tối quan trọng và không thể  thiếu đối với bất cứ  một nhà lãnh đạo   nào. Gây  ảnh hưởng là quá trình tác động nhằm thu phục cấp dưới trên cơ  sở  sử  dụng một cách hợp lý, đồng bộ  các biện pháp kích thích. Vì vậy, gây  ảnh hưởng   không chỉ  giúp các nhà lãnh đạo tạo sự  gắn kết, tập hợp lực lượng xung quanh   mình, mà còn giúp các nhà lãnh đạo tự hoàn thiện hình ảnh của chính bản thân mình  (Bradford & Cohen, 1984). Để gây được ảnh hưởng đối với cấp dưới, các nhà lãnh   đạo vẫn phải có quyền lực (power). Vậy, về bản chất quyền lực là gì? Biểu hiện  cụ thể của quyền lực là gì? Quyền lực thể hiện quyền uy của một nhà lãnh đạo đối  với cấp dưới của mình. Quyền lực chính là khả  năng gây  ảnh hưởng đối với cấp   dưới (Mintzberg, 1983; Pfeffer, 1992). Nói một cách chung nhất, quyền lực chính là   khả năng tác động của một cá nhân nào đó vào những người còn lại. Bởi vậy, quyền   lực và khả  năng gây  ảnh hưởng có mối quan hệ  qua lại chặt chẽ, khăng khít với  nhau. Các nghiên cứu về  quyền lực và gây  ảnh hưởng đã chỉ  ra rằng các nhà lãnh   đạo đã sử dụng quyền lực để gây ảnh hưởng và ngược lại các nhà lãnh đạo đã kết   hợp các biện pháp, kỹ thuật gây ảnh hưởng để nâng tầm quyền uy của mình. Thực  tế đã chứng minh, cấp dưới nể trọng cấp trên của mình có thể vì các tố  chất vượt  trội của họ, cũng có thể  vì những đức tính đáng kính của họ  Bởi vậy, học giả  Northouse (1997) cho rằng quyền uy của lãnh được hun đúc bởi chính các mối quan   hệ qua lại của họ với cấp dưới. Giống vậy, French & Raven (1959) cho rằng quy ền   uy không thể được tạo lập thông qua một mối quan hệ cụ thể nào đó, mà phải được   vun đắp với mọi người trong một thời gian dài. Các thủ thuật gây ảnh hưởng cũng hết sức đa dạng và phong phú. Các nhà lãnh  đạo có thể gây ảnh hưởng thông qua sử dụng vật chất, các nhà lãnh đạo cũng có thể  khai thác yếu tố tinh thần. Các nhà lãnh đạo cũng có thể sử dụng biện pháp trực tiếp 
  11. hay gián tiếp; chính thống hay phi chính thống. Tuy nhiên, sử  dụng biện pháp nào,   cho đối tượng nào, và trong tình huống nào là cả một sự cân nhắc và là cả một nghệ  thuật. Có một số  loại quyền lực phổ  biến có thể  thống kê ra đây: Quyền lực do   chức vụ, quyền lực do đãi ngộ, quyền lực do sự  trừng phạt, quyền lực do sự kính   trọng, quyền lực do năng lực chuyên môn, quyền lực do việc nắm giữ  thông tin   mang lại. 1.1.3. Phong cách lãnh đạo Phong   cách   lãnh   đạo   là   những   phương   pháp   hoặc   cách   thức   nhà   lãnh   đạo  thường dùng để gây ảnh huởng đến đối tượng bị lãnh đạo. Xét trên phương diện cá nhân, phong cách lãnh đạo chính là cách thức làm việc  của nhà lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo của một cá nhân là dạng hành vi của người  đó thể hiện các nỗ lực ảnh huởng tới họat động của những người khác.  Xét trên phương diện tổng thể, phong cách lãnh đạo là hệ thống các dấu hiệu   đặc trưng của họat động và quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi đặc điểm  nhân cách của họ.  1.2. Phong cách lãnh đạo độc đoán 1.2.1. Đặc trưng Phong cách  lãnh đạo độc đoán  còn được gọi là phong cách lãnh đạo chuyên   quyền, phong cách lãnh đạo theo hành chính xử phạt, phong cách lãnh đạo theo chỉ  thị, phong cách lãnh đạo cương quyết.  Ở đây nhà lãnh đạo sẽ áp đặt nhân viên; các   nhân viên nhận lệnh và thi hành mệnh lệnh, nhà lãnh đạo sẽ tập trung hết quyền lực  vào tay của mình. Biểu hiện của những nhà lãnh đạo độc đoán là họ thường áp đặt công việc với  sự  kiểm soát và giám sát chặt chẽ. Nhà lãnh đạo độc đoán thường lấy mình làm 
  12. thước đo giá trị, họ  không quan tâm đến ý kiến của người khác dù là đồng đội hay   nhân viên mà chỉ hoàn toàn dựa vào kiến thức và kinh nghiệm của chính mình. Các   nhà lãnh đạo độc đoán thường nói chính xác những gì họ  muốn các nhân viên của  mình phải làm và làm ra sao mà không kèm theo bất kỳ lời khuyên hay chỉ dẫn nào. 1.2.2. Ưu điểm và hạn chế Phong cách lãnh đạo độc đoán có 3 ưu điểm chính như sau: ­ Thứ  nhất, được nhà lãnh đạo sử  dụng thành công trong một tập thể  mới   thành lập, chưa thiết lập được nguyên tắc hoạt động… hoặc trong các tập thể đang  mất phương hướng hoạt động, không khí trong tổ chức là gây hấn… ­ Thứ  hai, sự  thành công của tổ  chức phụ  thuộc vào vai trò cá nhân của nhà  quản trị. Nếu nhà quản trị giỏi sẽ mang lại nhiều thành công cho tổ chức. ­ Thứ  ba, trong các trường hợp khẩn cấp thì sự  độc đoán chuyên quyền của  lãnh đạo đôi khi mang lại những hiệu quả bất ngờ. Ngược lại, phong cách lãnh đạo độc đoán cũng bộc lộ nhiều nhược điểm cần  được khắc phục, trong đó những hạn chế lớn nhất của phong cách này gồm có: ­ Thứ nhất, người lãnh đạo không quan tâm đến suy nghĩ cũng như ý kiến của   nhân viên nên không tận dụng được sự sáng tạo của nhân viên dưới quyền. ­ Thứ  hai, quyết định của người lãnh đạo chuyên quyền thường ít được cấp  dưới chấp nhận, đồng tình và làm theo, thậm chí còn dẫn đến sự chống đối của cấp   dưới.  ­ Thứ  ba, với phong cách này, nhân viên ít thích lãnh đạo, hiệu quả  làm việc  cao hơn khi có mặt lãnh đạo, thấp khi không có mặt lãnh đạo. ­ Thứ tư, không khí trong tổ chức phụ thuộc vào định hướng cá nhân. 1.2.3. Trường hợp áp dụng
  13. Phong cách lãnh đạo độc đoán rất thích hợp khi có một mệnh lệnh từ cấp trên  mô tả những gì cần phải làm và phải làm như thế nào. Phong cách quản lí này cũng   thích hợp trong trường hợp các nhân viên còn hạn chế  về  kinh nghiệm hoặc thiếu   những kĩ năng cần thiết để  hoàn thành công việc. Cần độc đoán với những người  ưa chống đối, những người không có tính tự  chủ, thiếu nghị  lực và kém tính sáng  tạo. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành phong cách lãnh đạo Mỗi phong cách lãnh đạo có những  ưu, nhược điểm riêng và việc lựa chọn  phong cách lãnh đạo phù hợp là rất quan trọng đối với nhà lãnh đạo trong quản lí,   điều hành công việc. Xét về  bản thân nhà lãnh đạo, việc hình thành phong cách có thể  phụ  thuộc   vào: tuổi tác, tính cách, kinh nghiệm, trình độ, năng lực, trạng thái tâm lí, nghề  nghiệp, vị trí công tác, đặc điểm ngành nghề và mục tiêu của bản thân họ. Xét tới các yếu tố  tác động từ  bên ngoài, phong cách của nhà lãnh đạo dần  được định hình theo thời gian do: hoàn cảnh lãnh đạo, các tình huống quản trị, văn   hóa quản lí của đối tượng, mối quan hệ  với nhân viên và giữa các nhân viên, mức   độ sức ép công việc và năng lực làm việc của nhân viên. Từ  đó có thể  thấy phong cách lãnh đạo được hình thành từ  kết quả  của mối   quan hệ giữa tính cách cá nhân với môi trường và được biểu hiện bằng công thức:   Phong cách lãnh đạo = Cá tính x Môi truờng. 3. Những nhà lãnh đạo tiêu biểu có phong cách lãnh đạo độc đoán Chủ tịch Mao Trạch Đông: Mao Trạch Đông đã lãnh đạo nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho đến   năm 1976. Ông đã dẫn đầu   Đảng Cộng sản Trung Quốc giành chiến thắng trong 
  14. cuộc nội chiến . Mao Trạch Đông đã được ghi nhận như  là người anh hùng của  nhân dân Trung Quốc cho tới tận ngày hôm nay. Chủ  tịch Mao đã sử  dụng một số  phương pháp lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác và ý tưởng từ Đảng cộng sản Nga. Tuy   nhiên, rất nhiều chính sách của ông đã gây ra cái chết của hàng triệu người Trung  Quốc. Porfirio Diaz: Jose de la Cruz Porfirio Diaz Mori là một vị  tướng Mexico, chính trị  gia, nhà  độc tài, và Tổng thống cai trị  Mexico với một bàn tay sắt bạo lực trong giai đoạn  1876­1911. Trong thời gian cầm quyền ông được coi là Porfiriato. Porfirio Diar đã có  những đóng góp tích cực vào sự tiến bộ của nền kinh tế Mexico trong thời gian ông   tại nhiệm. Nhưng những lợi ích từ  việc ông làm không được nhiều người biết đến. Tuy   nhiên có hàng triệu người đã phải lao động như  nô lệ  trong suốt thời gian đó. Nền  kinh tế  Mexico đã đi vào suy thoái trong những năm đầu của thế  kỷ  20, một số  lượng lớn thợ  mỏ  đã đình công. Đây là khởi đầu cho sự  kết thúc của triều đại  Porfirio Diaz với tư cách một nhà lãnh đạo. Fidel Castro: Fidel Castro là một chính trị gia, nhà lãnh đạo cách mạng, và một luật sư Cuba.   Ông đã có đóng góp lớn trong cuộc Cách mạng Cuba. Ông đã thách thức Mỹ  trong   nhiều thập kỷ. Hầu hết người dân Cuba xem Fidel như  con quái vật đã phá hủy  Cuba. Một số  người khác xem ông như  một người nhìn xa trông rộng bảo vệ  đất   nước tránh khỏi chủ nghĩa tư bản. Adolf Hitler: Adolf Hitler là người gây ra cuộc tàn sát bi thảm nhất trong Thế chiến II. Nhân   loại sẽ  không bao giờ  quên cuộc thảm sát đẫm máu lấy đi hàng triệu mạng người   Do Thái của Hitler. Việc làm của ông cũng trực tiếp dẫn đến cuộc chiến tranh bạo  lực nhất trong lịch sử thế giới. Pol Pot:
  15. Pol Pot thường được biết đến với cái tên Saloth Sar.  Pot đã tạo ra trại lao động   và các trang trại để  nhốt người dân nếu họ  không thực hiện theo chỉ  thị  của mình.   Trong suốt thời gian đương nhiệm, ông đã ép buộc rất nhiều người dân phải đào mộ  chôn cất lượng lớn người. Đó là những người bị chôn sống hoặc bị  đánh đến chết  để  tiết kiệm đạn. Pol Pot bị  người Việt Nam lật đổ  vào năm 1977, khi dám ngang  nhiên đánh phá biên giới Việt Nam. Người ta  ước tính rằng một phần tư  dân số  Campuchia đã bị giết trong thời gian Pol Pot trị vì. Joseph Stalin: Một sự  thật ít được biết đến về  Joseph Stalin đó là ông đã từng là một tên   cướp ngân hàng. Chính quyền cộng sản ban hành luật mới chống cướp ngân hàng,  đó là lý do Stalin từ chức và đi cướp ngân hàng để chứng minh bộ luật đó không có   tác dụng. Trong vụ  cướp ngân hàng này,  bốn mươi người đã bị  sát hại. Stalin đã   lãnh đạo Liên Xô trong những năm 1922 đến 1956. Trong thời gian này, ông đã một   phần gây ra nạn chết đói của người dân nước mình tại các trại lao động. Benito Mussolini: Benito Mussolini đã bắt đầu sự nghiệp chính trị từ khi ông trở thành Thủ tướng   của Italy vào năm 1922. Ông đã lãnh đạo Italy lên đến đỉnh quyền lực và giành được  nhiều đất đai hơn kể  từ  thời  đế  chế  La Mã. Ông giữ  danh hiệu   “Ngài Benito   Mussolini, đứng đầu Chính phủ và người sáng lập  đế  quốc”. Khi Mussolini muốn   nghỉ  hưu, Hitler đe dọa và nói rằng nếu ông không trở  về  Ý và cố  gắng khôi phục  chủ  nghĩa phát xít,  Đức quốc xã sẽ  tiêu diệt một số  thành phố  Ý. Mussolini buộc   phải đồng ý. Năm 1945, ông đã bị  quân cộng sản  nổi dậy giết chết.  Xương của   ông bị treo lộn ngược ở Milan. Vladimir Lenin: Vladimir Lenin luôn tin tưởng vào những ý tưởng bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác  và chủ  nghĩa cộng sản. Ông  xem đó là lực lượng giải phóng. Ông cũng tin tưởng  vào phong trào nữ  quyền. Lenin đã ra lệnh “khủng bố  đỏ” đối với những người 
  16. phản đối lãnh đạo và nhanh chóng xây dựng các trại lao động. Tỷ lệ tử vong tại các   trại lao động rất cao, nơi đây cũng xảy ra hàng loạt vụ hành quyết tại đây. General Franco: Franco đã từng là một quân nhân. Tây Ban Nha đã trải qua một cuộc cách mạng  và một chế  độ  độc tài mới dưới thời Francisco Franco trong cuộc chiến tranh Th ế  giới thứ II khi Hitler tiêu diệt người Do Thái. Ông đã làm bạn với một số người tồi  tệ  nhất trong nền chính trị  châu Âu, nhưng Franco chưa bao giờ  tham gia vào Thế  chiến II. Ông không hiếu chiến tham gia chống lại các quốc gia đồng minh. Idi Amin: Idi Amin là một nhà độc tài Uganda, đứng trong hàng ngũ của trung đoàn thuộc  địa của Anh và cuối cùng trở thành chỉ huy của toàn bộ  quân đội Uganda. Ông nắm  quyền kiểm soát một phần nhỏ trung tâm các quốc gia châu Phi  và sau đó tự tuyên   bố  mình là tổng thống. Ông đã gây ra các vụ  vi phạm nhân quyền, giết người và   cũng là người gửi thư tình cho Nữ hoàng Elizabeth. Nhận xét chung: Tuy cùng là phong cách lãnh đạo độc đoán nhưng biểu hiện  phong cách này  ở  mỗi nhà lãnh đạo lại rất đa dạng bởi tình hình từng quốc gia là  khác nhau. Trong thời điểm hiện tại, chúng ta có thể nhìn nhận rằng ảnh hưởng của  phong cách lãnh đạo độc đoán của 10 vị kể trên tới đất nước của họ trong tương lai   có vẻ như tích cực ở một số vị như Mao Trạch Đông, và tiêu cực ở  một số trường   hợp khác như Polpot hay Idi Amin… nhưng nhóm làm đề tài tin rằng trong thời điểm  đó, những nhà lãnh đạo này đều sử  dụng những gì mà họ  cho là tốt nhất đối với  quốc gia của mình dựa trên lý tưởng của họ. Do đó ta có thể  thấy việc áp dụng   phong cách lãnh đạo độc đoán như  thế  nào cho phù hợp với hoàn cảnh là rất quan   trọng, và đến thời điểm hiện tại thì Lý Quang Diệu đã làm rất tốt điều đó. II. Giới thiệu về Lý Quang Diệu
  17. 1. Khái quát về tiểu sử, vai trò của Lý Quang Diệu đối với thành tựu của  Singapore Ông Lý Quang Diệu sinh ngày 16 tháng 9 năm 1923 trong một gia đình gốc Hoa   giàu có đã định cư tại Singapore từ thế kỷ 19. Sau thế chiến II, ông Lý Quang Diệu  theo học ngành luật ở ĐH Fitzwilliam tại Cambridge, Anh. Năm 1949, ông trở thành  luật sư nhưng về Singapore để xây dựng sự nghiệp. Tại đây ông trở thành người tư  vấn luật cho các hoạt động thương mại và các tổ chức liên đoàn sinh viên. Năm 1954, Singapore là thuộc địa của Anh, nằm dưới quyền quản lý của một  thống đốc và hội đồng lập pháp được chỉ  định. Ông Lý Quang Diệu khi  ấy muốn   thay đổi cấu trúc quản trị  của đất nước. Tháng 11 năm 1954, ông thành lập Đảng  Nhân dân hành động (PAP) và trở thành tổng thư ký PAP. Năm 1955, một hiến pháp mới được đưa ra ở Singapore và trong cuộc bầu cử  sau đó, PAP giành 3 ghế ở hội đồng lập pháp. Năm 1956 ông Lý Quang Diệu đến London cùng phái đoàn đòi quyền tự trị cho   Singapore.  Năm 1958, ông giúp thương thuyết đưa Singapore trở thành một chính phủ độc   lập (ngoại trừ các vấn đề về quốc phòng và ngoại giao). Tháng 6 năm 1959, tổng tuyển cử diễn ra. Đảng PAP của ông Lý Quang Diệu  giành được 43 trong tổng số 51 ghế trong hội đồng lập pháp, Singapore giành quyền   tự  trị  trong mọi lĩnh vực của đất nước ngoại trừ  quốc phòng và ngoại giao, chấm   dứt quãng thời gian là thuộc địa của Anh từ năm 1819. Sau khi lên nắm quyền, ông Lý Quang Diệu thực hiện các chính sách phát triển   đô thị, xây nhà, cải tổ  kinh tế, công nghiệp hóa… Ông kêu gọi sáp nhập Singapore   vào Malaysia và chấm dứt chế độ thuộc địa của Anh. Trưng cầu dân ý năm 1962 cho  
  18. kết quả 70% dân Singapore ủng hộ sáp nhập vào Malaysia. Năm 1963, Singapore gia  nhập Liên bang Malaysia. Ngày 7 tháng 8 năm 1965, do căng thẳng giữa người gốc Hoa và người Malay  dẫn tới bạo động tại Singapore. Maylaysia quyết định trục xuất Singapore ra khỏi  liên bang. Ông Lý Quang Diệu ký thỏa thuận rời Malaysia. Ông Lý Quang Diệu phải   đối mặt với thách thức lớn bởi một Singapore rời Malaysia trở  nên đơn độc trong  khi không có tài nguyên và năng lực quốc phòng hạn chế. Singapore cần một nền kinh tế mạnh để tồn tại với tư cách quốc gia độc lập.   Ông Lý Quang Diệu thực hiện chương trình đưa Singapore trở  thành một nhà xuất   khẩu lớn và khuyến khích đầu tư  nước ngoài. Singapore cũng tìm kiếm sự  công   nhận quốc tế khi gia nhập Liên Hiệp Quốc và Khối Thịnh vượng chung. Thập niên 1980, Singapore đạt mức tăng trưởng cao, nâng cấp các ngành công  nghệ  cao, khánh thành sân bay quốc tế  Changi. Các chính sách của ông Lý Quang  Diệu đã đưa cảng Singapore trở thành một trong những hải cảng nhộn nhịp nhất thế  giới. Singapore trở thành trung tâm giao thông quan trọng của khu vực và là trong tâm  du lịch lớn. Tháng 11 năm 1990, ông Lý Quang Diệu trao lại ghế  thủ tướng cho ông Ngô   Tác Đống nhưng vẫn tiếp tục ở lại nội các với vị trí Bộ trưởng Cao cấp. Tháng 8 năm 2004 Ngô Tác Đống rút lui và bàn giao chức vụ thủ tướng cho Lý   Hiển Long, con trai đầu của Lý Quang Diệu. Ông Lý đảm vụ  chức vụ  mới là Bộ  trưởng Cố vấn trong giai đoạn từ năm 2004 đến khi qua đời. Ngày 23 tháng 3 năm 2015, ông Lý Quang Diệu qua đời ở tuổi 91 tại Bệnh viện   đa khoa Singapore để lại niềm tiếc thương vô bờ cho nhân dân Singapore cũng như  cộng đồng quốc tế. 2. Các yếu tố giúp hình thành nên phong cách lãnh đạo của Lý Quang Diệu 
  19. Có học vấn cao Có rất nhiều yếu tố giúp ông Lý Quang Diệu trở thành một chính khách lỗi lạc   và học vấn là một trong những yếu tố ấy. Dù sinh ra trong một gia đình gốc Hoa, ông nói tiếng Anh và được học tại các  trường Anh nổi tiếng  ở Singapore. Là người thông minh, ông luôn là một học sinh,   sinh viên xuất sắc, thường xuyên đứng đầu tại các kỳ  thi và được trao nhiều học  bổng danh giá. Ông đã được nhận một học bổng vào học kinh tế, văn chương Anh và toán tại   Raffles College – nay là Đại học quốc gia Singapore. Đây cũng là nơi ông gặp bà   Kha Ngọc Chi, người vợ tương lai của ông và nhiều đồng nghiệp, cộng sự của ông  sau đó. Việc   học   của   ông   bị   gián   đoạn  trong   thời   kỳ   Nhật  chiếm   đóng  Singapore  nhưng năm 1946, ông đã sang Anh vào học tại trường kinh tế  London và sau đó   chuyển tới trường Fitzwilliam, thuộc đại học Cambridge. Tại đây ông đạt những  thành tích cao và được trao tấm bằng hạng ưu ngành luật vào năm 1949. Trong số những người lập quốc hay thế hệ lãnh đạo đầu tiên của các quốc gia  hậu thuộc địa, trong đó có Việt Nam, hiếm có ai được đào tạo bài bản, học vấn cao,   và có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới trí thức, học hỏi được những tiến bộ – đặc   biệt liên quan đến chính trị, luật pháp – của các nước phương Tây như ông. Được học cao, được đào tạo bài bản tại những trường có uy tín của Anh là  một lý do quan trọng tại sao ông Lý Quang Diệu vượt trội các nhà lãnh đạo  ở  các   quốc gia hậu thuộc địa cùng thời với ông hay thậm chí sau ông, về nhiều mặt – đặc   biệt về nhận thức, tầm nhìn. Nhìn xa trông rộng
  20. Khi nói về ông Lý Quang Diệu, giới quan sát, nghiên cứu đều cho rằng ông là  một người vừa khôn ngoan, nhạy bén, thức thời, vừa rất thực dụng. Chẳng hạn, dù Singapore cũng từng bị thuộc địa và ông luôn muốn hòn đảo này   thoát khỏi sự phụ thuộc, cai trị của Anh, ông không chỉ không phủ nhận mà còn biết  tiếp thu, áp dụng những tiến bộ – đặc biệt về kinh tế, công nghệ – của Anh và các   nước phương Tây khác. Mặc dù phần lớn người Singapore – và chính bản thân ông cũng là một – người  gốc Hoa, ông không chọn tiếng Hoa mà là tiếng Anh để làm ngôn ngữ chính cho đảo   quốc này. Quyết định đó không chỉ  giúp người dân Singapore dễ  dàng tiếp xúc với  các nước phát triển như Anh, Mỹ và học hỏi, tiếp nhận tri thức, công nghệ cao của  phương Tây mà còn bắc cầu để  những tập đoàn lớn trên thế  giới đến với hòn đảo   nhỏ này. Là một trí thức, ông Lý Quang Diệu, rất coi trọng giáo dục, tri thức, trọng   dụng người hiền tài. Ông chú tâm phát triển, trọng dụng nhân tài  ở  trong nước và  luôn tìm cách thu hút chất xám, người tài từ các nước. Hơn nữa, là một người hiểu biết rộng, thông minh ông Diệu không giáo điều,  máy móc. Trái lại, ông rất thực dụng. Thay vì dựa vào một chủ  thuyết nào đó để  giúp Singapore tồn tại, phát triển, ông nhìn thẳng vào chính những điểm yếu, thế  mạnh của Singapore và bối cảnh chính trị  khu vực và cố  phát huy, tận dụng tất cả  những điểm đó, biến chúng thành cơ hội, thế mạnh cho đất nước mình. Một điểm nổi bật khác, đáng trân trọng nữa nơi ông mà không phải nhà lãnh   đạo nào cũng có đó là trung thực, mẫu mực, coi trọng luật pháp. Chính điều này đã  giúp Singapore trở thành một quốc gia châu Á minh bạch nhất và luôn nằm trong 10  nước ít tham nhũng nhất thế giới. Có thể việc ông theo học ngành luật và tốt nghiệp  xuất sắc về ngành này từ một trường đại học danh tiếng cũng tác động rất lớn đến  tính cách này của ông.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2