intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Lịch sử kinh tế Việt Nam: Phân tích quá trình hình thành và phát triển của mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Ý nghĩa lý luận, thực tiễn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:45

179
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận tìm hiểu sự cần thiết khách quan hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thành tựu, hạn chế trong thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bài học kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Lịch sử kinh tế Việt Nam: Phân tích quá trình hình thành và phát triển của mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Ý nghĩa lý luận, thực tiễn

  1. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2 PHẦN NỘI DUNG 3 I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ  TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM  3 1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó 3 2. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ  nghĩa.  4 II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ  TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XàHỘI CHỦ NGHĨA 5 1. Các giai đoạn nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định  hướng xã hội chủ nghĩa 5 Đánh giá khái quát thành tựu phát triển kinh tế ­ xã hội 30 năm đổi mới, Báo cáo chính trị  của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của  Đảng đã khẳng định:  29 1
  2. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  MỞ ĐẦU Năm 1986 trở  về  trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế  sản xuất nhỏ, mang   tính tự  cung tự  cấp vận hành theo cơ  chế  tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác, do   những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước   ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn  thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế.  Sau đại hôị  Đảng VI năm 1986 nền kinh tế  nước ta chuyển sang một hướng đi  mới: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có  sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ­ đó chính là nền kinh tế thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa.  Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường ­ sự hình thành và phát triển có ý nghĩa vô   cùng to lớn cả  về  lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được tính khách quan   của nền kinh tế  thị  trường, và sự  cần thiết phải phát triển kinh tế  thị  trường định  hướng xã hội chủ  nghĩa có sự  quản lý của nhà nước  ở  nước ta hiện nay, thấy được   những gì đã đạt được và chưa đạt được của Việt nam. Mặt khác, giúp chúng ta có cái  nhìn tổng quan về nền kinh tế nước nhà, đồng thời thấy được vai trò to lớn của quản  lý nhà nước đối với nền kinh tế  thị  trường, những giải pháp nhằm đưa nước ta tiến   nhanh lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.  2
  3. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường trong thực tế không những là nội dung  của công cuộc đổi mới mà lớn hơn thế còn là công cụ, là phương thức để  nước ta đi   tới mục tiêu xây dựng chủ  nghĩa xã hội. Nhưng vấn đề  đặt ra là: Thực hiện mô hình   này bằng cách nào để  hạn chế  tiêu cực, tăng tích cực giúp cho kinh tế  nước ta ngày   càng phát triển sánh vai cùng các cường quốc năm châu khác?  Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bổ  sung và hoàn thiện những quan điểm, biện  pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững   định hướng đó là công việc vô cùng thiết thực và cần thiết, có ý nghĩa to lớn đối với  mỗi nhà nghiên cứu và phân tích kinh tế. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, trong phạm  vi môn học  Lịch sử  kinh tế  Việt Nam, học viên thực hiện tiểu luận với chủ  đề:   “Phân tích quá trình hình thành và phát triển của mô hình kinh tế thị  trường theo   định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn”.  PHẦN NỘI DUNG I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH  TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM  1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó Cơ chế cũ là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đó là cơ chế mà ở đó Nhà nước   quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện ở sự chi tiết hoá   các nhiệm vụ do Trung  ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung   tâm. Các doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước từ đó lập kế hoạch   sản xuất kinh doanh cho mình.  Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu   vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu  trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình, từ  đó làm cho các doanh nghiệp thụ  động không phát huy được tính sáng tạo, các quan hệ kinh tế bị hiện vật hoá. Quan hệ  3
  4. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  hàng hoá tiền tệ chỉ mang tính hình thức, bỏ  qua hiệu quả kinh tế, quản lý kinh tế và  kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều khâu  trung gian nhưng kém năng lực.  Cơ chế tập trung bao cấp đã góp phần cho thắng lợi giải phóng đất nước, nhưng   sau khi điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi. Đặc biệt khi trình độ phát triển kinh tế đã  nâng cao lên rất nhiều, cơ  cấu càng phức tạp thì những khuyết điểm bên trong nền  kinh tế kế hoạch ngày càng bộc lộ. Cuộc chạy đua theo mục tiêu chế độ quốc hữu hoá   làm loại bỏ hoặc hạn chế chế độ  kinh tế phi quốc hữu, kiềm chế cạnh tranh nên khó   làm sống động nền kinh tế.  Trên thực tế  kinh tế  kế  hoạch lấy chủ nghĩa bình quân làm phương châm phân   phối cho nên đã kìm hãm tích cực và sáng tạo của người sản xuất kinh doanh. Chúng ta   thực hiện phân phối theo lao động trong điều kiện chưa cho phép. Trong hoạt động   kinh tế, việc nhà nước quản lý hành chính bằng mệnh lệnh trực tiếp, chính quyền và  xí nghiệp không tách riêng, đầu vào cao đầu ra thấp đã trở  thành những căn bệnh cũ  của nền kinh tế kế hoạch. Những điều trên đã gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất   xã hội. Trước tình hình đó, việc chuyển đổi nền kinh nước ta sang nền kinh tế  thị  trường là đúng đắn phù hợp với thực tế, quy luật kinh tế và xu thế của thời đại. 2. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định  hướng xã hội chủ nghĩa.  Trong khi các nước trong khu vực đã đạt được những bước phát triển nhảy vọt   dựa vào cơ  chế  kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, xây dựng cơ  cấu kinh tế hướng bên ngoài, thì Việt Nam trong nhiều năm vẫn theo đuổi cơ  chế kế  hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh hành chính, quan liêu từ  trung  ương và cơ  cấu   kinh tế hướng nội là chủ  yếu, đã kìm hãm khả  năng hoà nhập vào trào lưu phát triển   của khu vực.  Sau đại hội VI (1986), do đổi mới nói chung và sự  đổi mới trong nhận thức xã  hội, Đảng ta nhận định rằng để phát triển theo kịp các nước trong khu vực và thế giới  thì phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa  có sự  quản lý của nhà nước. Bởi vì hiện nay  ở  nước ta, các điều kiện của sản xuất  hàng hoá vẫn còn đang tồn tại. Phân công lao động:  ở  nước ta đang tồn tại hệ  thống  phân công lao động do lịch sử  để  lại với nhiều ngành nghề. Với sự  phát triển khoa   học, kỹ  thuật hiện đại, nhiều ngành nghề  mới xuất hiện làm cho sự  phân công lao  động  ở  nước ta trở  nên phong phú hơn, nó tạo điều kiện cho hàng hoá phát triển.  Ở  nước ta cũng đang tồn tại quan hệ sở hữu đa dạng về tư liệu sản xuất và ứng với nó là   nền kinh tế  nhièu thành phần. Điều đó tạo nên sự  độc lập về  mặt kinh tế  giữa các  thành viên, doanh nghiệp. Nó cũng có tác dụng làm cho hàng hoá phát triển. Mặt khác,  kinh tế hàng hoá phát triển, nó thúc đẩy quá trình phân công lao động, quá trình chuyên  môn hoá và hiện đại hoá. Qua đó thiết lập được mối quan hệ kinh tế giữa các vùng xoá   bỏ  tình trạng tự  cung, tự  cấp. Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất. Nó thúc đẩy   quá trình tích tụ và tập trung vốn và lao động thể hiện ở quy mô của các doanh nghiệp,  quy mô về kinh tế ngày càng tăng.  4
  5. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  Kinh tế  hàng hoá góp phần tăng năng suất lao động thực hiện dân chủ  hoá đời   sống kinh tế. Nó khai thác được thế  mạnh từng ngành, từng địa phương để  làm ra  nhiều sản phẩm cho xã hội, tạo tiền đề cho việc mở rộng liên kết, liên doanh cả trong   nước và nước ngoài. Mở  rộng phạm vi giao lưu hàng hoá giữa nước ta và các nứơc   khác. Là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của một số ngành, lĩnh vực khác. Trong bất  cứ  hình thái kinh tế  ­ xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ  vị  trí chi phối.   Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư  của xã hội trước và phương thức sản  xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất này ở  vào địa vị  lệ  thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị.  Trong một hình thái kinh tế  xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu hiện   thành phần kinh tế. Trong thời kỳ quá độ, chưa có thành phần kinh tế  nào giữ  vai trò  thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ  phận hợp thành kết cấu kinh tế  xã hội trong một hệ  thống thống nhất biện chứng.   Mỗi thành phần kinh tế  có kiểu tổ  chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành nền   kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Việc nhận thức và tổ  chức thực hiện trên thực tế  các thành phần kinh tế  trong  thời kỳ quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại   nhiều trình độ  khác nhau của lực lượng sản xuất  (thủ  công, trình độ  cơ  khí, tự  động   hoá, tin học hoá...). Vì vậy khi thiết lập quan hệ sở hữu thì cũng phải đa dạng phù hợp  ở nước ta hiện nay có thể làm xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác.   Ở nước ta tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan.   Vì kinh tế nhiều thành phần, đây là tồn tại khách quan do lịch sử để  lại trong thời kỳ  quá độ  và có nhiều thành phần kinh tế  mà sự  tồn tại của nó vẫn có lợi cho sự  phát  triển đất nước. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm thực hiện cái quy luật: Quan   hệ  sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất.   Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm để cho sản xuất nước ta phát triển liên tục   không bị  gián đoạn. Phát triển kinh tế  nhiều thành phần nhằm tạo ra sự  cạnh tranh   giữa các thành phần kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta. II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ  KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XàHỘI CHỦ NGHĨA 1. Các giai đoạn nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.1. Thời kỳ  cuối thập kỷ 70 đến thập kỷ  80 của thế  kỷ  XX: Tìm tòi và thử   nghiệm cải cách cục bộ trong khuôn khổ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung Chúng ta đều biết rằng, việc lựa chọn mang tính khẳng định đường lối đổi mới  kinh tế, mô hình kinh tế ở Việt Nam vào cuối những năm 1980 diễn ra dưới áp lực gay   gắt của thực tiễn trong nước và ngoài nước.  Ở  trong nước, mô hình kinh tế  thị  trường và đơn nhất thành phần kinh tế  tỏ  ra  kém hiệu quả.  Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ  tư  bản chủ nghĩa trong hoàn  cảnh một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ phát triển xã hội thấp, lại bị  5
  6. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  chiến tranh tàn phá nặng nề. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như  nhiều nước   xã hội chủ nghĩa khác đã áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xôviết, mô hình kinh  tế  kế  hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, mà thực chất là mô hình kinh tế  cứng   nhắc phi thị  trường, quá đề  cao vai trò của một thành phần kinh tế  xã hội chủ  nghĩa   dưới hai hình thức: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, còn các thành phần kinh tế  khác bằng những chính sách, biện pháp hành chính, áp đặt nóng vội để đẩy nhanh tiến   độ  cải tạo xã hội chủ  nghĩa đối với chúng, với mục tiêu chính không phải là để  huy  động, phát triển, mà là hạn chế thu hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh tế được   gọi là “phi xã hội chủ  nghĩa”. Kết cục là thành phần kinh tế  xã hội chủ  nghĩa (quốc  doanh và tập thể) phát triển nhanh về  số  lượng, mở  rộng quy mô và phạm vi hoạt  động, nhưng hiệu quả sản xuất – kinh doanh thấp và ngày càng có xu hướng giảm sút.  Mặc dù trong một thời gian tương đối dài, mô hình kinh tế  này đã từng phát huy  tác dụng, tích cực trong việc thúc đẩy sự  nghiệp công nghiệp hóa theo kiểu cổ  điển,  tập trung được các nguồn lực, sức người, sức của đáp  ứng yêu cầu của cuộc kháng   chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng càng  về  sau, nó càng bộc lộ  những khiếm khuyết, mà chủ  yếu là các nhu cầu của xã hội  vượt quá khả  năng đáp  ứng của một nền kinh tế  kém hiệu quả, thiếu năng động do  thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu và chế độ  phân phối (về cơ  bản) bình  quân chủ  nghĩa. Chính điều đó đã kìm hãm, làm thui chột động lực và tính cạnh tranh   giữa các lực lượng kinh tế, không huy động và sử  dụng được các nguồn lực của đất  nước để  tạo đà cho sự  phát triển. Cộng với công tác chỉ  đạo, lãnh đạo, quản lý cũng   phạm phải một số sai lầm, mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm ấy là bệnh giáo  điều, chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội, không tôn trọng quy luật kinh tế khách  quan; nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế của Việt Nam, khiến cho  nền kinh tế  lâm vào tình trạng trì trệ  kéo dài, rồi khủng hoảng kinh tế ­ xã hội trầm   trọng và kéo dài: sản xuất phát triển chậm, kém hiệu quả và bấp bênh, tình trạng thiếu   hụt, khan hiếm hàng hóa (kể cả lương thực); lạm phát phi mã (774,7% năm 1986), đời  sống nhân dân rất khó khăn. Vì vậy, đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế cũ, lạc hậu và phát   triển kinh tế đã trở thành đòi hỏi bức thiết và tất yếu đối với Việt Nam lúc bấy giờ.  Trên thế  giới, bắt đầu từ  thập niên 80 của thế  kỷ  XX, nhiều sức ép đối với sự  phát triển kinh tế của Việt Nam cũng đã xuất hiện và gia tăng.  Chính phủ  Mỹ  thi hành chính sách cấm vận kinh tế  đối với Việt Nam từ  cuối   thập niên 70 thế  kỷ XX, nhằm đặt nền kinh tế  Việt Nam vào thế  cô lập, suy yếu và   dẫn tới sự sụp đổ. Dưới áp lực của Mỹ, nhiều chính phủ, tổ  chức kinh tế  ­ tài chính   quốc tế, tập đoàn và công ty trên thế giới cũng buộc phải hạn chế hoặc ngừng quan hệ  với Việt Nam. Tuy chính sách này không làm cho Việt Nam bị cô lập hoàn toàn, nhưng   kéo dài thời gian thi hành chính sách cấm vận ấy đã gây ra hậu quả không nhỏ đối với  nền kinh tế Việt Nam.  Khi Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế ­ xã hội thì Liên Xô, các nước xã hội   chủ nghĩa Đông Âu và nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế  giới cũng   lâm vào tình cảnh tương tự.  6
  7. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  Do khủng hoảng kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa cũng không thể triển khai kế  hoạch hợp tác kinh tế  với Việt Nam một cách bình thường. Do đó, viện trợ  từ  các  nước xã hội chủ nghĩa – nguồn lực phát triển hết sức quan trọng đối với Việt Nam –   bị  suy giảm, hoạt động thương mại của Việt Nam đối với khu vực thị  trường truyền   thống, quan trọng hàng đầu cũng bị  giảm mạnh, làm trầm trọng thêm những mất cân  đối lớn vốn có của nền kinh tế.  Trong khi đó, thành công của Trung Quốc trong việc “cải cách, mở  cửa” (1978)   nền kinh tế  theo định hướng thị  trường nhưng vẫn giữ  được con đường xã hội chủ  nghĩa và nền kinh tế Trung Quốc có sự tăng trưởng phát triển nhanh1. Có thể nói đây là  những gợi ý và tham khảo trong chiến lược phát triển của Việt Nam trong bối cảnh   mới.  Hơn nữa, trên thế  giới cuộc cách mạng khoa học – công nghệ  đang diễn ra với  quy mô lớn chưa từng có, đem lại cho loài người những thành tựu vô cùng to lớn. Dưới  sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nhiều nước trên thế giới thực   hiện cơ cấu lại nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế và phát triển kinh tế thị trường có sự  quản lý của nhà nước.  Công cuộc tìm tòi, thử nghiệm để thoát khỏi khủng hoảng (trước năm 1986) Để  đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế ­ xã hội, Việt Nam đã  phải trải qua một quá trình tìm tòi, thử  nghiệm, đấu tranh tư  tưởng và tổng kết thực   tiễn rất gian khổ. Điều này thể hiện như sau: Bước đột phá thứ nhất,  Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa  IV (8/1979), với quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”, có thể  coi là sự “đột phá đầu  tiên” trong việc thay đổi chủ  trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý nghĩa là  khắc phục những khuyết điểm sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ  nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ  những rào cản để  cho  lực lượng sản xuất phát triển. Đó là: ­ Ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần lương thực dôi ra được bán cho   Nhà nước theo giá khuyến khích hay thị trường tự do.  ­ Khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, đất hoang hóa… ­ Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, hộ  gia   đình).  ­ Sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất phát triển.  ­ Sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối   theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động.  ­ Điều chỉnh một số chính sách không còn phù hợp, cải tiến chính sách phân phối   lưu thông… Những chủ trương đó đã nhanh chóng được nhân dân cả nước tiếp nhận và biến   thành hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế: 1  Trong khoảng 22 năm, Trung Quốc đã rút ngắn mức độ chênh lệch thu nhập bình quân đầu  người của mình so với mức bình quân trên thế giới 7,3 lần xuống còn 1,9 lần. Theo Hồ An  Cường: Trung Quốc: Những chiến lược lớn, NXB.Thông Tấn, H.2003 7
  8. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  ­ Sau hơn 3 tháng thực hiện,  ở  Hà Nội đã có 1,529 hộ  đăng ký kinh doanh sản   xuất công nghiệp và thủ công nghiệp.  ­ Kinh tế gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển nhanh. ­ Tỉnh Long An từ 1981 đã thực hiện thí điểm mô hình theo cơ chế “mua cao, bán  cao” thay cho “mua cung, bán cấp”, bù giá vào lương.  ­ Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Nghệ An… được thí điểm hình thức khoán trong các hợp  tác xã nông nghiệp. Trên cơ sở ấy, ngày 13/1/1981, Chỉ thị 100­CT/TW của Ban Bí thư  Trung ương Đảng đã ra đời. “Khoán 100” đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong  sản xuất nông nghiệp.  Trong công nghiệp: nổi lên là các Quyết định số 25/CP và 26/CP của Chính phủ.  Trước tình trạng đình trệ trong sản xuất công nghiệp, lãnh đạo một số địa phương đã  tìm cách khắc phục. Thành phố  Hồ  Chí Minh thực hiện giao quyền tự chủ cho các xí  nghiệp đạt được những kết quả  ban đầu khích lệ. Thành phố  Hải Phòng thực hiện  giao  quỹ   lương  cho  xí   nghiệp  đánh  cá   Cát  Bà   và   cho  phép  khoán  sản  phẩm  từng   chuyến đi biển. Hàng trăm cơ  sở  sản xuất kinh doanh khác trong khu vực nhà nước  theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung  ương 6, Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị  đã  làm thử  việc trả  lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng linh hoạt các hình thức   khoán tiền thưởng.  Sau khi nghiên cứu tổng kết những  điểm làm thử, ngày 21/1/1981, Hội  đồng   Chính phủ đã ra Quyết định số  25/CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát  huy quyền chủ  động sản xuất kinh doanh và quyền tử  chủ  về  tài chính của các xí  nghiệp quốc doanh và Quyết định số  26/CP về  mở  rộng hình thức trả  lương khoán,   lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị  sản xuất kinh  doanh của Nhà nước. Trong hai quyết định này thì Quyết định số 25/CP có tác động rõ   nhất đến tình hình sản xuất công nghiệp ở Việt Nam. Nội dung chính của Quyết định   số 25/CP là kế hoạch ba phần: ­ Phần Nhà nước giao có vật tư  bảo đảm (kế  hoạch A): Nhà nước sẽ  cung  ứng   vật tư và sản phẩm làm ra phải bán theo địa chỉ và giá do Nhà nước quy định.  ­ Phần xí nghiệp tự  làm (kế  hoạch B): là phần mà xí nghiệp phải tự  lo nguyên  liệu, vật tư (mua trên thị trường) để sản xuất thêm sản phẩm trong nhiệm vụ thiết kế  của xí nghiệp.  ­ Phần sản phẩm phụ (kế hoạch C): xí nghiệp sản xuất ra những mặt hàng không  nằm trong diện mặt hàng Nhà nước giao từ  những sản phẩm phế  thải. Ví dụ, xí  nghiệp gỗ lấy gỗ thừa làm đồ chơi trẻ em, xí nghiệp bông lấy bông thừa làm chăn tiết   kiệm,… Sau một thời gian thực hiện thì kế hoạch 3 phần bị biến dạng dần. Các phần kế  hoạch bị lẫn lộn. Các xí nghiệp đều tìm mọi cách để có lợi cho công nhân của mình. ­ Trên lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa, tư tưởng sử dụng các thành phần kinh tế  đã được đặt ra, từ hiệu quả  kinh tế mà vận dụng các hình thức sản xuất kinh doanh   phù hợp, chính sách đối với kinh tế cá thể từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với  thực tế… 8
  9. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  Tóm lại, những tư tưởng đột phá về kinh tế trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa   IV của Đảng, trong Chỉ  thị  100­CT/TW và trong các quyết định của Chính phủ  Việt   Nam trong thời kỳ này là: ­ Đây là những ý tưởng ban đầu, tuy còn sơ  khai, chưa cơ  bản và toàn diện,   nhưng đó là “sự mở đầu” có ý nghĩa quan trọng. ­ Điểm nổi bật trong những tìm tòi thử  nghiệm là   “giải phóng lực lượng sản   xuất” mà tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra” là tiền đề, trên cơ sở khắc phục những   sai lầm, khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động  lực cho sản xuất, chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn đến lợi ích thiết thân của  người lao động.  ­ Tác động thực tiễn của những tìm tòi, thử  nghiệm ban đầu  ấy có nhiều hạn   chế. Tuy vậy, nó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho sự đổi mới toàn diện, sâu sắc này.  Tuy nhiên, những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua những thử thách rất   phức tạp. Trước những khó khăn về  kinh tế  và đời sống, cũng như  khuynh hướng   muốn quay lại với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khóa V (12/1983)   vẫn xem sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân   của tình trạng khó khăn về  kinh tế  ­ xã hội và chủ  trương phải đẩy mạnh hơn nữa  công cuộc cải tạo xã hội chủ  nghĩa. Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xóa bỏ  thị  trường tự  do về lương thực và các nông, hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá,   bảo đảm cung cấp đủ  9 mặt hàng theo đúng định lượng cho người ăn lương, lập cửa  hàng cung cấp… Trong hợp tác xã nông nghiệp thì quản lý, điều hành chặt chẽ tất cả các khâu theo  kế  hoạch. Hội nghị  Trung  ương 6 khóa V (7/1984) vẫn tiếp tục chủ  trương   “đẩy   mạnh cải tạo xã hội chủ  nghĩa”, đẩy mạnh thu mua, nắm nguồn hàng, cải tạo thị  trường tự do… Điều đó cho thấy, sự đổi mới tư duy là không đơn giản, quan niệm cũ   về cải tạo xã hội chủ nghĩa còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người. Trên thực tế khủng  hoảng kinh tế ­ xã hội ngày một nghiêm trọng, đời sống nhân dân, nhất là người làm   công ăn lương ngày càng khó khăn”2 Bước đột phá thứ hai,  Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ  trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá,   xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh   doanh sang cơ  chế  hạch toán kinh doanh xã hội chủ  nghĩa; chuyển ngân hàng sang  nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị lần thứ  8 Ban Chấp hành Trung  ương khóa V, đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của kinh tế hàng hóa.  Tháng 9/1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền được thực hiện.  Đợt điều chỉnh giá – lương – tiền được tiến hành sau Hội nghị  Trung  ương 8.   Điều chỉnh giá, lương, tiền đồng thời một lúc, bắt đầu từ  ngày 1/10/1985. Nhà nước  thực hiện một giá kinh doanh, xóa bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ   Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Chấp hành Trung ương – Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận:  2 Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986­2006), Nxb.  Chính trị quốc gia, H.2005, tr.45­46 9
  10. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  giữ lại sổ gạo cho cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, đối tượng chính   sách để bảo hiểm khi giá lương lực có đột biến. Tổng điều chỉnh toàn bộ hệ thống giá   nhà nước chỉ đạo, lấy giá lúa thị trường tháng 8/1985 đưa toàn bộ mặt hàng giá chỉ đạo   lên khoảng 10 lần so với trước tháng 10/1985. Tiền lương được tính lại trên cơ  sở  mức giá mới, theo mức tăng giá. Quyết định đổi tiền ngày 4/9/1985 đưa mệnh giá tiền   mới gấp 10 lần tiền cũ. Đây là cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền, tiến hành toàn   diện trong một thời gian ngắn đã gây ra cú sốc cho nền kinh tế cũng như đời sống, tâm  lý xã hội. Hệ quả làm cho “giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng   không tốt đến nhiều hoạt động kinh tế ­ xã hội. Lạm phát phi mã. Sự chênh lệch giữa   giá và lương, giữa lương danh nghĩa và lương thực tế quá lớn. Chính vì vậy, đầu năm   1986, lại phải lùi một bước: Thực hiện chính sách hai giá. Trên lĩnh vực phân phối lưu   thông, làm phát ở mức 3 con số trong nhiều năm, đỉnh cao là 774,7% năm 1986. Lượng  lưu thông tiền tệ  cuối năm 1984 bằng 8,4 lần cuối năm 1980. Nhiều vấn đề  nóng  bỏng, phức tạp chưa được giải quyết, có mặt ngày càng trầm trọng hơn. Đây là những  sai lầm trong việc đổi tiền, muốn tăng giá trị  đồng tiền khi cơ  sở đảm bảo cho việc   tăng đó chưa có (quan hệ tiền – hàng mất cân đối nghiêm trọng). Bước đột phá thứ ba,  Tháng 5/1986, Hội nghị  lần thứ  10 Ban Chấp hành Trung  ương Đảng Cộng sản  Việt Nam khóa V khẳng định một lần nữa tính đúng đắn của Nghị quyết Trung ương 8   (6/1985), trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng,   Bộ Chính trị đã nêu ra những kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh   tế: 1/ Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận  hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có  chọn lọc.  2/ Trong cải tạo xã hội chủ  nghĩa, xác định cơ  cấu kinh tế  nhiều thành phần là  một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.  3/ Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trọng tâm, đồng thời phải vận  dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa, tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu  bao cấp, chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ  chế một   giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng   Cộng sản Việt Nam.  Tóm lại, dưới áp lực của thực tiễn, thời kỳ cuối thập niên 70 đầu thập niên 80  thế  kỷ  XX, trong nền kinh tế  nước ta đã diễn ra những cải cách cục bộ  theo hướng  bước đầu thừa nhận thị trường là công cụ bổ sung cho kế hoạch, chủ yếu để tổ  chức   hoạt động kinh doanh  ở  cấp vi mô. Với sự  thừa nhận này, thị  trường không bị  coi là  đối lập với chủ nghĩa xã hội và có thể  chấp nhận trong quá trình xây dựng xã hội xã   hội chủ nghĩa.  Tuy có sự chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng nhưng những cuộc thử  nghiệm, tìm tòi ấy chưa đủ sức mang tính đột phá để tạo ra bước ngoặt căn bản trong   quan điểm lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường  định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì: 10
  11. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  1/ Thị trường chỉ được coi là công cụ bổ sung cho kế hoạch, công cụ chủ yếu để  quản lý, tổ chức và điều hành nền kinh tế vẫn là kế hoạch pháp lệnh;  2/ Về thực chất, những cải cách cục bộ   ấy vẫn trong khuôn khổ  của cơ  chế  kế  hoạch hóa tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế vận hành theo cơ  chế  đó; 3/ Giá cả  một số  mặt hàng thiết yếu (gạo, chất đốt, thịt…) và yếu tố  đầu vào  của sản xuất, như lương (giá cả sức lao động), lãi suất, tỷ giá hối đoái… vẫn là giá phi   thị trường; 4/ Trong nhận thức lý luận vẫn chưa thừa nhận đa sở hữu, đa thành phần, kinh tế  tư  nhân còn bị  phân biệt đối xử, doanh nghiệp nhà nước chưa được tự  chủ  về  tài   chính, tự chủ kinh doanh; nền kinh tế vận hành không theo quy luật kinh tế thị trường,  phủ  nhận thị  trường, giá cả  thị  trường, cạnh tranh… nền kinh tế  giẫm chân tại chỗ,   lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Chủ trương công nghiệp hóa là đúng, nhưng đường  lối và phương pháp tiến hành không hợp lý. Đại hội lần thứ  VI của Đảng năm 1986   nhận định: “Trên thực tế chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi  chưa có đủ tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý lỗi thời”. Chúng  ta thiên về  xây dựng công nghiệp nặng, không tập trung sức phát triển nông nghiệp,   công nghiệp nhẹ, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và tổ  chức lại sản xuất  công nghiệp, chủ quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và bảo thủ, trì trệ trong   quản lý kinh tế, lực lượng sản xuất bị kìm hãm; quan hệ  sản xuất trở  thành lực cản   phát triển do chậm đổi mới3 1.2. Đại hội lần thứ  VI của Đảng thực sự  là đại hội của những quyết sách   lớn nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển của   đất nước  Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội VI đã chỉ rõ: Đó là thời  kỳ  lâu dài, khó khăn, gồm nhiều chặng đường; một thời kỳ  cải biến cách mạng sâu  sắc, toàn diện và triệt để. Nước ta phải xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về  lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.  Đại hội VI cũng đã khẳng định phải từ  bỏ  quan niệm giản đơn, tư  tưởng nóng  vội chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn.  Đại hội VI của Đảng đã giữ lại luận điểm về chặng đường đầu tiên của thời kỳ  quá độ  mà Đại hội V nêu ra và quyết định phải đi tiếp chặng đường đầu tiên, đồng   thời xác định nhiệm vụ  bao trùm và mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của  chặng đường đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế ­ xã hội, tiếp tục xây dựng  những tiền đề  cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ  nghĩa trong  chặng đường tiếp theo”4 3  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật,  H.1987, tr.19 4  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật,  H.1987, tr.42 11
  12. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  Từ  nhiệm vụ  bao trùm và mục tiêu tổng quát nêu trên, Đại hội VI đã xác định 5   mục tiêu cụ thể về kinh tế ­ xã hội.  1/ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy 2/ Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất.  3/ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất.  4/ Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội.  5/ Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh5. Và rút kinh nghiệm của Đại hội lần thứ V, Đại hội VI đã không đề  ra một thời   hạn nhất định khi nào kết thúc chặng đường đầu tiên, mà “cái mốc đánh dấu chặng  đường đầu tiên kết thúc là đạt được năm mục tiêu nói trên. Độ  dài của chặng đường   đầu tiên tùy thuộc một phần quan trọng vào việc vận dụng những bài học đã rút ra từ  thực tiễn mười năm qua, để  đẩy nhanh nhịp độ  phát triển kinh tế  ­ xã hội trong thời  gian tới”6.  Báo cáo chính trị tại Đại hội VI cũng chỉ rõ: để thực hiện được những nhiệm vụ,   mục tiêu của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên thì điều quan trọng hàng   đầu là phải đổi mới chính sách kinh tế, đồng thời với việc đổi mới chính sách xã hội,   đặt hai loại chính sách này trong mối tương quan mật thiết cùng tác động và thúc đẩy   lẫn nhau. Và muốn đổi mới chính sách kinh tế và chính sách xã hội, nhất thiết phải đổi  mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội.  ­ Trên cơ  sở  nhận thức đúng đắn hơn về  chủ  nghĩa xã hội và con đường đi lên  chủ nghĩa xã hội  ở  Việt Nam, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề  ra đường  lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng   chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới: phát triển nền kinh tế  nhiều   thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng việc kết hợp lợi ích cá   nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức   mới về chính sách xã hội.  Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989) phát triển thêm một bước đã đưa ra quan  điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế  hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ  nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có   tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ  nghĩa xã hội” và thực hiện tinh thần dân chủ  về kinh tế, đảm bảo cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật. ­ Phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần, với nhiệm  vụ bao trùm và mục tiêu tổng quá của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là  ổn định mọi mặt tình hình kinh tế ­ xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề  cần thiết  cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ  nghĩa ở  giai đoạn tiếp sau. Trong lúc  tình hình kinh tế ­ xã hội đang mất ổn định, Đại hội VI xác định nhiệm vụ  ổn định là   hoàn toàn đúng, có ổn định mới phát triển được, có phát triển mới tạo ra sự ổn định cao   5  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật,  H.1987, tr.43 6  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật,  H.1987, tr.45­46 12
  13. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  hơn,  ổn định gắn liền với phát triển trong quá trình đổi mới, tiến lên phía trước của  nước ta.  ­ Trên cơ  sở  nhiệm vụ  bao trùm và mục tiêu tổng quát mà tiến hành cơ  cấu lại   nền kinh tế, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Đại hội VI chỉ rõ “nền kinh tế quốc dân có   một cơ cấu hợp lý là nền kinh tế mà trong đó các ngành, các vùng, các thành phàn, các   loại hình sản xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối,   liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển   ổn định” và “phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, trước hết là cơ  cấu các   ngành kinh tế”. Do đó, “trong toàn bộ  quá trình xây dựng chủ  nghĩa xã hội, kể  cả  chặng đường hiện nay, không được tách rời nông nghiệp với công nghiệp, không thể  coi trọng nông nghiệp hay công nghiệp”. Trong chặng đường hiện nay phải “tập trung  sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, gắn công nghiệp   nhẹ và tiểu thủ công nghiệp với sản xuất nông nghiệp, gắn nông nghiệp với chế biến   nông, lâm, thủy, hải sản. Ngành dịch vụ cũng được đặt ra để chú ý phát triển ­ Đại hội VI xây dựng và tập trung nguồn lực cho thực hiện ba chương trình mục   tiêu: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba chương trình mục  tiêu này cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ  nghĩa. Bước đầu   sản xuất có tính yếu tố đầu vào, đầu ra, thị trường và nhu cầu tiêu dùng, cũng như  là  tiềm năng, thế mạnh của các ngành, vùng, tổ chức kinh tế.  Như vậy, Đại hội VI của Đảng đặt ra vấn đề  phát triển kinh tế hàng hóa nhiều   thành phần định hướng xã hội chủ  nghĩa, đồng thời hướng tới phát triển một cơ  cấu  kinh tế đa sở hữu với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, thực   hiện hoạch toán kinh doanh xã hội chủ  nghĩa. Các khái niệm của kinh tế  thị  trường   như: cung – cầu, lỗ, lãi, giá cả  thị  trường… bắt đầu được làm quen và bắt đầu được   sử dụng. Sự tồn tại của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà  nước thừa nhận và có chính sách khuyến khích phát triển. Cơ  chế  kế  hoạch hóa tập   trung dần dần được thay thế bằng cơ chế quản lý hoạch toán kinh doanh. Các chỉ tiêu   pháp lệnh và chế độ phân phối qua tem phiếu dần dần được loại bỏ.  Những thay đổi về tư duy kinh tế và những đổi mới về cơ chế kinh tế, điều hành   vĩ mô đã được nền kinh tế  từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng và giải phóng một  bước lực lượng sản xuất. Song trong giai đoạn này vẫn còn hạn chế cả về tư duy kinh  tế và thực tiễn vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới. Đó là: + Nhận thức về kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chưa đầy đủ, dẫn đến các   bước tiến hành cải cách trong thực tiễn chậm chạp và ngập ngừng.  + Các thị trường chưa hình thành, hoặc sơ khai, tự phát. Hệ  thống pháp luật cho  sự phát triển một nền kinh tế hàng hóa và sự vận hành của thị  trường chưa được ban  hành đầy đủ.  + Còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế qua cơ chế, chính sách  giá cả, thuế, lãi suất… công bằng xã hội chưa được quan tâm và xử lý có hiệu quả + Nhà nước kiểm soát trực tiếp trên phạm vi lớn các yếu tố thị trường (giá cả, lãi   suất, tỷ  giá…). Mức độ  cạnh tranh thấp… Nhà nước có  ảnh hưởng to lớn đến thị  13
  14. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  trường nhưng trên thực tế  không có khả  năng điều tiết các hoạt động kinh tế  qua thị  trường bằng công cụ kinh tế do thiếu nguồn lực và thiếu năng lực quản lý kinh tế… 1.3. Những năm 1990: Dứt khoát chuyển sang kinh tế thị trường định hướng   xã hội chủ nghĩa ­ Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam với sự kiên định chủ trương:   “phát triển kinh tế ­ xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ   nghĩa xã hội  ở  nước ta là quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại   trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có kỷ cương, có văn hóa, xóa bỏ áp bức,   bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống  ấm no, tự  do, hạnh phúc” , có  điều kiện phát triển7  đã xác định mô hình kinh tế  nước ta là  “nền kinh tế  có nhiều   thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp   với trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả nền   sản xuất xã hội”8 và “nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của   nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”,  với các tiêu chí:  “Mọi đơn vị  kinh tế  không phân biệt quan hệ  sở  hữu đều hoạt động theo cơ  chế  tự  chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật” + “Khuyến khích tính năng động sáng tạo đi đôi với thiết lập trật tự, kỷ cương  trong hoạt động kinh tế” + “Hiệu quả kinh tế ­ xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển” + “Tăng trưởng kinh tế  phải gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển  văn hóa, bảo vệ môi trường”9 Từ đó đã chỉ rõ: “Đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự  cấp,  tự túc sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ  chế  thị trường có sự  quản lý của nhà nước” nhằm “vừa giải phóng và phát huy được tiềm năng sản xuất   trong xã hội”, vừa khắc phục những hạn chế và tiêu cực của kinh tế thị trường10 ­ Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng   quát của nước ta. Đó là “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành   theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước  theo  định hướng xã hội chủ   nghĩa”11. Và đề  ra mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ  bản trở  thành nước công  nghiệp theo hướng hiện đại. Về quan hệ sản xuất, chế độ  sở hữu, cơ chế quản lý và   chế  độ  phân phối gắn kết với nhau. Về  đời sống vật chất và văn hóa, nhân dân có   7  Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ  nghĩa xã hội, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8 8  Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế ­ xã hội đến năm 2000,  Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8 9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế ­ xã hội đến năm 2000,  Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8,9 10  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật,  H.1991, tr.23­26 11  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị  quốc gia, H.1996, tr.82 14
  15. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  cuộc sống no đủ, có nhà  ở  tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về  học hành, đi lại,   chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá.  Đại hội VIII xác định rõ hơn mô hình kinh tế  tổng quát ở  nước ta là ở  chỗ: Đại  hội VIII làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng  hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước.   Chúng ta đều biết, vấn đề  định hướng xã hội chủ  nghĩa đã được nêu từ  Đại hội VII  của Đảng. Để làm rõ thế nào là định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền kinh   tế  hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ  công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,   Đại hội VIII đã nêu ra 6 điểm: + “Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều  thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên  trong và bên ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã  hội, cải thiện đời sống nhân dân, làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát  triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.  + Chủ  động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả  kinh tế  nhà nước, kinh tế  hợp tác xã, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần   trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để  các nhà kinh doanh   tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa  kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ  biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.  + Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản   xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.  + Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả  lao động và  hiệu quả  kinh tế  là chủ  yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn  lực khác với kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa   nhận sự  tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để  biến  thành quan hệ  thống trị  dẫn tới sự phân hóa xã hội hình thành hai cực đối lập. Phân  phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với   xóa đói giảm nghèo, không để  diễn ra chênh lệch quá đáng về  mức sống và trình độ  phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư. +Tăng cường lực lượng quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để  vai trò  tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ  chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi   doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế.  + Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ  kinh tế với bên ngoài”12 Nắm vững sáu nội dung trên thì nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần mà chúng   ta xây dựng và phát triển sẽ  không chệch sang quỹ  đạo tư  bản chủ  nghĩa. Dĩ nhiên,  thực hiện được những nội dung trên hoàn toàn không đơn giản và qua thực tiễn kiểm   nghiệm, những nội dung trên cần phải được cụ  thể  hóa, phải được điều chỉnh, bổ   Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị  12 quốc gia, H.1996, tr.91­92 15
  16. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  sung để  việc định hướng cho nền kinh tế  nước ta phát triển theo định hướng xã hội   chủ nghĩa ngày càng vững chắc.  1.4. Đại hội lần thứ  IX của Đảng là Đại hội khẳng định mô hình kinh tế   nước ta là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4/2001) đã chỉ rõ: “Thực hiện   nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần vận  động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa; đó chính là  nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa”. Với sự  xác  định như  vậy, Đại hội IX của Đảng đã tiến một bước dài trong việc định hình và cụ  thể  hóa mô hình kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa của Việt Nam. Đại  hội xác định  “mục đích của nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa là   phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất ­ kỹ thuật   của chủ  nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”,  “phát huy cao độ  nội lực, đồng   thời tranh thủ  nguồn lực bên ngoài và chủ  động hội nhập kinh tế  quốc tế  để  phát   triển nhanh, hiệu quả, bền vững; tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa,   thực hiện tiến bộ  và công bằng xã hội, bảo vệ  môi trường thiên nhiên; kết hợp phát   triển kinh tế ­ xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh”; và chủ  trương “sử  dụng   cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế   thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn   chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường”13. Đại hội X của Đảng (2006) nêu rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng   xã hội chủ  nghĩa là để  “thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,   dân chủ, văn minh”. Đại hội khẳng định “Quyền sở  hữu tài sản và quyền tự  do kinh   doanh được pháp luật bảo hộ”, mọi công dân có quyền bình đẳng trong đầu tư  kinh   doanh, tiếp cận cơ  hội, nguồn lực kinh doanh” và lần đầu tiên xác định “kinh tế  tư  nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Doanh   nghiệp cổ  phần ngày càng phát triển, trở  thành hình thức tổ  chức kinh tế  phổ  biến,   thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu”. Để nâng cao hiệu lực quản lý của  nhà nước, Đại hôi yêu cầu “Tách chức năng quản lý hành chính nhà nước khỏi chức   năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ “chế độ chủ quản”; tách hệ thống   cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp”14 … Đại hội XI của Đảng (2011) xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định  hướng xã hội chủ  nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược để  phát triển đất nước.  Đại hội chỉ rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa  “là một hình thức   kinh tế  thị  trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên   cơ  sở  và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ  nghĩa xã   hội” và yêu cầu “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại”. Đối với  13  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị  quốc gia, H.2005, tr.635­637. 14  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Hà Nội, Nxb  CTQG, 2006, tr.77, 86, 83, 79 16
  17. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  kinh tế tư nhân, Đại hội chủ trương “Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh   tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”. Về hội nhập kinh  tế quốc tế, Đại hội chủ trương “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ   vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế” . Tiếp tục đổi mới quản lý nhà  nước về  kinh tế, Đại hội yêu cầu “Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế  của   nhà nước và chức năng của tổ chức kinh doanh vốn và tài sản của nhà nước” , “nghiên  cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài   sản của nhà nước, khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp   vào các hoạt động kinh doanh thông qua các mệnh lệnh hành chính”.  Đại hội đã đưa  vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,   phát triển năm 2011) quan điểm “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội   chủ nghĩa” và xác định đây là một trong tám phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ  lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam15. Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước, Đại hội XII của Đảng thể hiện những nhận   thức mới nhất, đầy đủ nhất (cho đến hiện nay) về nền kinh tế thị trường định hướng  xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam   “là nền kinh tế  vận hành đầy đủ, đồng bộ  theo các quy luật của kinh tế  thị  trường,   đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển   của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự  quản lý   của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,   nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ; “trong đó, kinh   tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền   kinh tế. Thị  trường đóng vai trò chủ  yếu trong huy động và phân bổ  có hiệu quả  các   nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực   nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị   trường”. Đại hội yêu cầu  “Hoàn thiện thể  chế  bảo vệ  nhà đầu tư, quyền sở  hữu,   quyền tài sản; hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ  chế  thị  trường” ;  đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế; chủ  động lựa chọn dự  án đầu tư  nước ngoài có công nghệ  hiện đại, liên kết với doanh   nghiệp trong nước, có vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển đồng bộ các yếu tố  thị trường và các loại thị trường, “thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường”, “không   lồng ghép các chính sách xã hội trong giá”, thực hiện cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm  định giá; “tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà nước và chức năng quản lý   nhà nước. Xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân   dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Thành lập một cơ  quan chuyên   trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”16.  2. Đánh giá khái quát 15  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Hà Nội, Nxb  CTQG, 2011, tr.107, 209, 205, 207,215. 16  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội,  VPTW, 2016, tr.102, 103, 105, 106, 109. 17
  18. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  Trong hơn 30 năm đổi mới, nhận thức, quan điểm, chủ  trương của Đảng, Nhà  nước ta về  nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa Việt Nam đã từng   bước hình thành, được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện, phù hợp với quy luật  khách quan, thực tiễn của đất nước và xu hướng chung của thế giới, của thời đại. Cụ  thể là: 2.1. Nhận thức chung về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Từ nhận thức, quan điểm phủ nhận kinh tế thị trường, xem kinh tế thị trường là  đặc trưng riêng có của chủ  nghĩa tư  sản, đối lập kinh tế  thị  trường với chủ  nghĩa xã  hội, Đảng đã từng bước thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất yếu, cần thiết của kinh  tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá trình này kéo dài   15 năm, từ  Đại hội VI đến Đại hội IX của Đảng, đi từ  thừa nhận, cho phép tồn tại,   phát triển nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đến thừa nhận phát triển  nền kinh tế hàng hóa; từ xác định đó là nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch, kế hoạch là  “tính thứ nhất”, hàng hóa là “tính thứ hai” của nền kinh tế, tới xác định đó là nền kinh   tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà   nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận cơ chế thị trường, nhưng chưa thừa   nhận kinh tế thị trường. Chỉ đến Đại hội IX của Đảng (năm 2001), 15 năm sau khi bắt   đầu sự nghiệp đổi mới, Đảng mới xác định nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ  lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa, cho rằng   kinh tế thị trường là sản phẩm chung của văn minh nhân loại; trong thời kỳ quá độ lên   chủ  nghĩa xã hội  ở  một nước nghèo, kinh tế  kém phát trển, chưa qua giai đoạn phát  triển tư bản chủ nghĩa như  nước ta, nhất định phải phát triển nền kinh tế  thị  trường,   sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.  Nền kinh tế  thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa được Đảng xác định là mô hình  kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa cũng   được nhận thức ngày càng rõ, được bổ  sung, phát triển ngày càng hoàn thiện qua các   nhiệm kỳ  Đại hội Đảng. Đại hội XII của Đảng thể  hiện rõ, đầy đủ  nhất (đến thời  điểm hiện nay) quan điểm của Đảng ta về  nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội   chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ,  đồng bộ  theo các quy luật của kinh tế  thị  trường; đồng thời, có sự  quản lý của Nhà   nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo đảm định hướng  xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, nhằm mục tiêu  “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 2.2. Nhận thức về vai trò và chủ  trương phát triển đa dạng các hình thức sở   hữu, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ   nghĩa Từ chỗ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát triển hai hình thức sở hữu toàn dân (nhà   nước) và tập thể  về  tư  liệu sản xuất, hai thành phần kinh tế  là kinh tế  nhà nước và  kinh tế tập thể, Đảng đã thừa nhận sự tồn tại, khuyến khích phát triển nhiều hình thức   18
  19. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa. Quyền sở  hữu, quyền tài sản, quyền tự  do kinh doanh được bảo vệ. Các hình  thức sở hữu, các thành phần kinh tế được khẳng định tồn tại lâu dài, là yêu cầu khách  quan, tất yếu, là đặc trưng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở  Việt Nam. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự chủ, hợp tác, cạnh tranh  bình đẳng theo pháp luật. Đối với kinh tế tư nhân, từ  chủ trương phát triển kinh tế  hộ  gia đình trong nông  nghiệp, Đảng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài, khuyến khích phát triển kinh tế  tư nhân   trong các lĩnh vực, các ngành kinh tế, rồi đi tới xác định kinh tế tư nhân có vai trò quan  trọng, là một động lực của nền kinh tế. Hiện nay, kinh tế  tư  nhân được xác định là  một động lực quan trọng của nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa.   Doanh nghiệp tư  nhân được kinh doanh  ở  mọi ngành, lĩnh vực mà pháp luật không  cấm. Nhà nước tạo điều kiện, khuyến khích hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế  tư nhân và tư nhân góp vốn, mua cổ phần của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Cùng với   phát triển kinh tế tư nhân trong nước, Đảng chủ trương thu hút mạnh  đầu tư trực tiếp   nước ngoài (FDI), thu hút vốn, công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại, mở rộng thị  trường xuất, nhập khẩu để phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây, việc thu hút  đầu tư nước ngoài yêu cầu phải được chọn lọc, ưu tiên thu hút những dự án đầu tư có  trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, có liên kết, chuyển giao công nghệ  cho doanh nghiệp trong nước, tạo cơ  hội cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào  các chuỗi giá trị toàn cầu. Kinh tế nhà nước được xác định có vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể từng  bước trở thành nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng  thời, Đảng yêu cầu phải tăng cường quản lý tài sản công, các nguồn lực nhà nước (đất   đai, tài nguyên, vốn nhà nước); cơ  cấu lại, nâng cao hiệu quả  đầu tư  công và đẩy  mạnh sắp xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả  các doanh nghiệp nhà nước. Doanh   nghiệp nhà nước được yêu cầu sắp xếp lại, đổi mới bằng việc cho giải thể, phá sản,   bán lại tài sản đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ,  ở  những lĩnh vực không cần   thiết phải có doanh nghiệp nhà nước; thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực có hiệu  quả  thấp, không phải là lĩnh vực kinh doanh chính của doanh nghiệp; chuyển doanh   nghiệp nhà nước thành các công ty trách nhiệm hữu hạn và nhất là đẩy mạnh cổ phần  hóa để  trở  thành các công ty cổ phần có vốn nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, nhất  là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, trong những năm gần đây, được cơ  cấu lại,   định hướng tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan  trọng và quốc phòng, an ninh. Tổ chức bộ máy và phương thức quản lý, quản trị doanh  nghiệp được đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế.  Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị công ích. Đối với các tổ  chức kinh tế  tập thể, kinh tế hợp tác, Đảng chủ  trương đổi mới  cả về tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với cơ  chế thị  trường. Các hợp tác  xã phải hình thành trên cơ  sở  liên kết tự  nguyện của các thành viên, làm chức năng  cung cấp dịch vụ cho các thành viên, hỗ trợ cho các thành viên trong vay vốn, ứng dụng   tiến bộ khoa học­công nghệ, tiêu thụ sản phẩm… để giảm chi phí, nâng cao năng suất,   19
  20. Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ  chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đối với các đơn vị sự nghiệp công, Đảng  chủ trương đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động, chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu   trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, về tài chính và thực hiện xã hội hóa lĩnh vực  dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này. 2.3. Nhận thức về  phát triển đồng bộ  các yếu tố  thị  trường và các loại thị   trường  Từ  chỗ  tất cả  giá cả  sản phẩm hàng hóa mua bán, lưu thông đều do Nhà nước  quyết định, khi chuyển sang phát triển kinh tế  hàng hóa, ban đầu, Đảng chủ  trương   thực hiện cơ  chế  hai giá, một giá vẫn do Nhà nước quyết định (đối với một số  hàng   hóa có  ảnh hưởng, tác động lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân) và một giá do   người sản xuất, kinh doanh quyết định (đối với các hàng hóa do họ  sản xuất kinh   doanh). Sau đó, cùng với phát triển kinh tế  thị  trường, giá cả  cũng được chuyển sang   thực hiện theo cơ  chế  thị  trường đối với hầu hết các hàng hóa, chỉ  trừ  một số  hàng   hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước (điện, xăng dầu,…) và dịch vụ xã hội  cơ bản như y tế, giáo dục. Các quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông hàng hóa, cạnh  tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thực hiện.  Cơ  chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá được mở  rộng. Phạm vi giá cả  hàng hóa do   nhà nước quy định ngày càng thu hẹp. Các tổ  chức sự  nghiệp công lập được chuyển  sang cơ chế tự chủ và việc cung cấp các dịch vụ công được xã hội hóa; giá các dịch vụ  xã hội cơ  bản, như  y tế, giáo dục cũng từng bước chuyển sang cơ  chế  thị  trường,   không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá; chuyển từ  cơ  chế  cấp phát sang cơ  chế  đặt hàng, từ  hỗ  trợ  cho đơn vị  cung cấp dịch vụ  sang hỗ  trợ  trực tiếp cho  đối  tượng hưởng thụ. Đảng chủ trương phát triển đồng bộ, theo hướng hiện đại, vận hành thông suốt   các loại thị  trường. Phát triển thị  trường hàng hóa, dịch vụ  đa dạng, theo các phương   thực giao dịch, mua bán ngày càng hiện đại (sàn giao dịch, siêu thị, thương mại điện tử, …), bảo vệ  lợi ích của người tiêu dùng, nhất là về  giá cả, chất lượng hàng hóa, vệ  sinh an toàn thực phẩm, các dịch vụ  bảo hành, bảo dưỡng sau bán hàng; bảo vệ  thị  trường trong nước, không để nước ngoài thâu tóm. Phát triển thị trường tài chính đồng  bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh, cả thị trường tài chính, thị  trường tiền tệ, thị trường chứng   khoán, thị  trường cổ  phiếu, trái phiếu, các công cụ  tài chính phái sinh, thị  trường cho   thuê tài sản, mua bán nợ, thị trường các dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, tư  vấn thuế… Cơ  cấu lại thị  trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa hệ  thống tài  chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Phát triển   thị  trường bất động sản, bao gồm quyền sử  dụng đất và bất động sản gắn liền với  đất, làm cho đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển; yêu cầu việc phân  bổ  và sử  dụng đất đai phải theo quy hoạch, kế  hoạch, thông qua đấu thầu, đấu giá   cạnh tranh để sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả. Phát triển thị trường sức lao động; thực  hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm,  phát triển hệ thống thông tin về thị trường lao động, bảo đảm quyền lợi của cả người   lao động và sử dụng lao động; hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, bảo hiểm,   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2