Tiểu luận môn Tài chính phát triển: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ nợ công và tăng trưởng kinh tế (Liên hệ ở Việt Nam)
lượt xem 19
download
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và có nhiều chuyển biến khó lường, điển hình là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ cuối năm 2008, đầu năm 2009, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đang lan sang một số nước châu Âu, nợ công và quản lý nợ công trở thành vấn đề nóng được các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập niên 80 của Thế kỷ XX. Năm 1982, Mê-hi-cô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được nợ vay Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Đến tháng 10-1983, 27 quốc gia với tổng số nợ lên tới 240 tỉ USD đã tuyên bố hoặc chuẩn bị tuyên bố hoãn trả nợ (1). Tuy nhiên, đến nay xung quanh khái niệm và nội hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận môn Tài chính phát triển: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ nợ công và tăng trưởng kinh tế (Liên hệ ở Việt Nam)
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KINH TẾ TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN Nhóm … TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ (LIÊN HỆ Ở VIỆT NAM) Cần Thơ, tháng 12/2019
- MỤC LỤC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ .............................................................................................. 1 MỤC LỤC ................................................................................................................................... 2 ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................................. 3 PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................................... 4 1.TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ................... 4 1.1.KHÁI QUÁT VỀ NỢ CÔNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA NỢ CÔNG ..................... 4 1.2.KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 6 ... 2.NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ................................................................................................................................................ 8 2.1.NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 8 .. 2.2.NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH Tế 10 ..... Bảng 1: Các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam ....................................... 11 Bảng 2. Cac chi tiêu vê n ́ ̉ ̀ ợ công va n ̀ ợ nước ngoai cua quôc gia giai đo ̀ ̉ ́ ạn 2014 2018 12 ....... 2.3.HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NỢ CÔNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ................................................................................................................................... 17 NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................... 25 2
- ĐẶT VẤN ĐỀ Việc đi vay nợ để thúc đẩy phát triển đối với một quốc gia cũng giống như một doanh nghiệp, đó chính là cách để huy động vốn cho sự phát triển quen thuộc trên thế giới. Trong kinh doanh, không ở đâu có thể phát triển mà không đi vay mượn. Thực tế cho thấy những nền kinh tế lớn nhất trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, cũng chính là những con nợ kếch xù. Nợ công, dùng để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của Chính phủ nhằm các mục đích khác nhau, chiếm một phần trong những khoản vay đó. Tuy nhiên, thực tế các nước cho thấy, việc vay nợ và chi tiêu lãng phí, sử dụng kém hiệu quả đồng nợ của Chính phủ đã khiến cho nhiều nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ công mà các nước Châu Âu, điển hình là Hy Lạp là ví dụ. Đây cũng là vấn đề được các nước đặc biệt quan tâm, trong đó có Việt Nam. Nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu về ngưỡng nợ mà tại đó tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ tối đa và khi vượt qua ngưỡng này thì tăng trưởng kinh tế giảm sút rồi từ đó đưa ra những kiến nghị cho quốc gia đó về vấn đề quản lý nợ công. Tuy nhiên, mỗi nước khác nhau có ngưỡng nợ công khác nhau. Từ những vấn đề nêu trên, nhóm chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của nhóm. 3
- PHẦN NỘI DUNG 1. TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1.1. KHÁI QUÁT VỀ NỢ CÔNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA NỢ CÔNG 1.1.1. Khái quát về nợ công Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và có nhiều chuyển biến khó lường, điển hình là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ cuối năm 2008, đầu năm 2009, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đang lan sang một số nước châu Âu, nợ công và quản lý nợ công trở thành vấn đề nóng được các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập niên 80 của Thế kỷ XX. Năm 1982, Mêhicô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được nợ vay Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Đến tháng 101983, 27 quốc gia với tổng số nợ lên tới 240 tỉ USD đã tuyên bố hoặc chuẩn bị tuyên bố hoãn trả nợ (1). Tuy nhiên, đến nay xung quanh khái niệm và nội hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và IMF, nợ công, theo nghĩa rộng, là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước (NSNN) quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh thanh toán. Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công bao gồm: nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo đó, nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành. Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, nhà nước phải đi vay (trong 4
- hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Hay nói cách khác, việc nhà nước đi vay nợ chẳng qua là một hình thức thu thuế trước. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế). 1.1.2. Nguyên nhân gây ra nợ công Việc vay nợ của chính phủ nếu xét từ góc độ vay để đầu tư phát triển thì nếu đầu tư có hiệu quả thì sẽ tạo được khoản thu thuế trong tương lai, tạo điều kiện cho việc trả hết nợ. Nhưng nếu việc tiếp cận với nguồn vốn đầu tư nước ngoài quá dễ dãi mà việc sử dụng nguồn vốn đầu tư không hiệu quả sẽ dẫn đến chính phủ vay nợ để đầu tư quá nhiều lĩnh vực cùng một lúc nhưng chậm và khó thu hồi vốn để trả nợ vay. Để giải quyết vấn đề này, chính phủ lại phải tiếp tục vay nợ mới để trả nợ cũ. Tình trạng này dẫn đến nợ công kéo dài. Và nếu như tốc độ tăng trưởng kinh tế tụt giảm, chính phủ sẽ không thể tăng thu thuế để bù đắp. Đều này sẽ dẫn đến gia tăng nợ công. Một ví dụ điển hình cho nguyên nhân gây ra nợ công từ việc đầu tư công không hiệu quả nói trên là tình trạng ở Việt Nam trong thời gian qua. Ở nước ta hiện có 194 khu công nghiệp với tổng diện tích gần 46.600 ha, cùng với 1.643 cụm công nghiệp với gần 73.000 ha do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch đến năm 2020. Chính phủ cũng đã phê duyệt 15 dự án khu kinh tế ven biển với tổng diện tích 662 nghìn ha (2% diện tích tự nhiên của Việt Nam), ước tính cần 2.000 tỷ đôla (bằng toàn bộ đầu tư cả nước trong 50 năm nữa) để đầu tư. Năm 2011, cả nước thực hiện xiết chặt đầu tư công theo tinh thần Nghị quyết 11/CP, nhưng vẫn có đến 333 dự án mới sai đối tượng, không thuộc danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ mà vẫn được khởi công ... Nhìn tổng quát, tốc độ tăng đầu tư công trong mười năm qua cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực DNNN (doanh nghiệp nhà nước) được hưởng nhiều nguồn lợi nhất và chiếm tỷ trọng đầu tư xã hội cao nhất lại có hiệu quả đầu tư thấp nhất. Đầu tư công cao và kém hiệu quả trong bối cảnh tiết kiệm của Việt Nam giảm là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát tăng, lãi suất thị trường tăng cao và nhất là làm nợ công tăng nhanh. Nguyên nhân thứ hai có thể kể đến là việc vay nợ để chi thường xuyên dẫn đến thâm hụt ngân sách mà không được bù đắp. Nguyên nhân này xuất phát từ nhiều vấn đề khác nhau như: tình trạng tham nhũng làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức, vấn đề trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm làm giảm nguồn thu ngân sách, việc tiết kiệm 5
- trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công. Đối với cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu trong thời gian qua, có nhiều nguyên nhân được các chuyên gia chỉ rõ. Với từng quốc gia, đó là khả năng quản trị công yếu kém, chi tiêu thiếu hợp lý, hoặc mất kiểm soát các hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng... Với cả khu vực, đó là thói quen "chi nhiều hơn thu" kéo dài và hệ thống phúc lợi xã hội ngày càng phình to. Để đối phó cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, châu Âu dễ dàng vay mượn quá mức, không tương thích tốc độ tăng trưởng kinh tế và vì thế đẩy tình trạng thâm hụt ngân sách và mức nợ công tăng chóng mặt, vượt khả năng kiểm soát. 1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế Có nhiều quan điểm về tăng trưởng kinh tế (TTKT), nhưng về cơ bản đều thống nhất khi cho rằng, TTKT được hiểu là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Có thể khẳng định rằng: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về sản lượng hàng hóa, sự mở rộng về quy mô sản xuất, sự tăng lên của thu nhập quốc dân (GDP) và sự tăng lên của thu nhập quốc dân đầu người nhưng không làm tổn hại đến tương lai. Để phản ánh mức độ TTKT, các nhà kinh tế thường dùng nhóm chỉ số dưới đây: Tổng giá trị sản xuất (GO); Tổng sản phẩm quốc nội (GDP); Tổng thu nhập quốc gia (GNI); Tổng sản phẩm quốc gia (GNP); Tổng sản ph ẩm quốc dân ròng (NNP); Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI); Thu nhập quốc gia trên đầu người. GNP, GNI, GDP, NNP, NDI, GO và thu nhập quốc dân trên đầu người là các thước đo trạng thái tăng trưởng kinh tế. Mỗi chỉ tiêu đều có ý nghĩa nhất định và được sử dụng tùy theo mục đích nghiên cứu. Nó là những số đo mang tính chất tương đối các trạng thái và tốc độ biến đổi của TTKT. Trong các chỉ tiêu nói trên thì tổng sản phẩm quốc nội GDP là phương thức tốt nhất để đo lường hoạt động kinh tế của một quốc gia. 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Từ lý thuyết và thực nghiệm của các trường phái kinh tế khác nhau về TTKT, có thể thấy ở các nền kinh tế khác nhau, các yếu tố chính quyết định đến TTKT đều bao gồm: vốn, lao động, khoa học và công nghệ, tài nguyên,... Dựa vào tính chất và nội dung, các nhân tố này có thể được phân chia thành các nhóm khác nhau. Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung: Những nhân tố tổng cung 6
- ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế gồm: Vốn (K); Lao động (L); Khoa học và công nghệ (T); Tài nguyên thiên nhiên (R). Các nhân tố tác động đến tổng cầu: Kinh tế học vĩ mô đã cho thấy có 4 nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu, bao gồm: Chi cho tiêu dùng cá nhân (C); Chi tiêu của Chính phủ (G); Chi cho đầu tư (I); Chi qua hoạt động xuất nhập khẩu (NX = X – M). 7
- 2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 2.1. NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Chúng ta có thể thấy mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng rõ nét nhất khi nghiên cứu về cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước phát triển, đển hình là Liên minh châu Âu và Mỹ. Khủng hoảng nợ công gia tăng ở Liên minh châu Âu (EU) cùng sự sụt giảm nhanh chóng của đồng USD kéo nền kinh tế thế giới đi xuống. Chính vì lẽ đó, các Bộ trưởng Tài chính toàn cầu trong cuộc họp thuộc khuôn khổ Hội nghị thường niên IMF và WB sáng 13/10/2012 tại thủ đô Tokyo (Nhật Bản) đã hối thúc các quốc gia thành viên sớm hoàn tất chính sách quản lý tài chính mới, giảm triệt để nợ công để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước và thế giới. Trong một thông cáo được đưa ra ngày 13/10/2012, Ủy ban tài chính và tiền tệ quốc tế (IMFC) thuộc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã kêu gọi các nước phải nhanh chóng hành động và hành động một cách có hiệu quả nhằm bảo toàn sự phát triển của nền kinh tế hiện tại, xây dựng lại lòng tin và cuối cùng là thúc đẩy kinh tế phát triển hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với tuyên bố trước đó của Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde rằng, nợ công của các nước phát triển đã lên đến mức 110% GDP năm 2012 và lên đến 113% GDP trong năm 2013. Hai năm qua, sự tiến triển chậm chạp trong việc giải quyết vấn đề nợ công ở châu Âu đã gây tổn thất 2.800 tỷ euro tài sản. Và nếu các nhà hoạch định chính sách châu Âu không thực hiện cam kết về thiết lập một cơ quan giám sát ngân hàng và các nước ngoại vi không triển khai các chương trình điều chỉnh, con số thậm chí có thể lớn hơn, với 4.500 tỷ euro tài sản bị mất và kèm theo là những ảnh hưởng đối với thị trường việc làm và đầu tư. Ông Lael Brainard – Thứ trưởng Bộ Tài chính Mỹ đã nói trong một bài trả lời phỏng vấn hôm 12/10/2011 rằng cuộc khủng hoảng nợ của khu vực đồng tiền chung châu Âu “là hiện thân cho những sự rủi ro nghiêm trọng đối với sự phục hồi của toàn cầu hiện nay”. Theo nhận định của các nhà phân tích cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước eurozone cùng với các kế hoạch cắt giảm chi tiêu, cứu trợ kinh tế tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế của eurozone. Việc cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ. Kế hoạch cứu trợ kinh tế của các nước tiếp theo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… sẽ tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế của khu vực Euro. 8
- Vì thế, Châu Âu đã rơi vào cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2011 và tình trạng trì trệ vào những năm tiếp theo. Do đó, tăng trưởng kinh tế của khu vực này chậm hơn các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nền kinh tế phát triển khác. Điều đáng lo ngại, như Tổng Giám đốc IMF từng cảnh báo, là những vấn đề của khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) có thể lan tới các thị trường mới nổi, nơi tăng trưởng kinh tế đang chậm lại. Trong khi đó, các nước ở Trung và Đông Âu trong tình trạng dễ bị tổn thương nhất trước các cú sốc tài chính, do gắn nhiều với Eurozone và các món nợ nước ngoài. Vào thời điểm đó, kinh tế Mỹ vẫn trầy trật trên con đường phục hồi, với mức tăng trưởng chỉ đạt 1,3% trong quý 2/2012. Dù tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính G7 ngày 11/10/2012, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Timothy Geithner đã cam kết rằng chính phủ nước này sẽ dốc sức giúp Quốc hội đạt được một thỏa thuận nhằm tránh để khả năng xấu nhất xảy ra. Theo báo cáo sơ bộ của Phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO) ngày 5/10/2012 cho biết, thâm hụt ngân sách liên bang Mỹ trong tài khóa 2012 đã giảm trong năm thứ tư liên tiếp, mặc dù vẫn ở cao hơn mức 1.000 tỷ USD. Ngày 12/10/2012, Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde một lần nữa nhắc lại lời kêu gọi Mỹ hợp tác để thực hiện ngay gói cải cách quản lý quỹ này. Bà Christine Lagarde cho rằng kế hoạch cải cách 2010 cho thấy “sự thay đổi quản lý lớn nhất” trong lịch sử IMF, với 6% quyền bỏ phiếu được chuyển sang các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển. Đây là điều hoàn toàn phù hợp bởi trong thời gian vừa qua, các nền kinh tế mới nổi và các 9
- nước đang phát triển đã thể hiện được sức mạnh và sự ưu việt của mình trong cách đối phó với khủng hoảng nợ công và suy thoái kinh tế thế giới. 2.2. NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH Tế Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa kinh tế và đạt được những bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng lên gấp 3 lần, từ 32,7 tỷ USD năm 2001 lên 102 tỷ USD nam 2010. Trong giai đoạn này, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền kinh tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam cần sự hỗ trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế. 2.2.1. Quy mô nợ công Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP và hiện tại, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến năm 2010, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm (Biểu đồ 1). 10
- Theo số liệu chính thức của Bộ Tài chính Việt Nam, tỷ lệ nợ công ở Việt Nam đã ở mức trên 50% GDP kể từ năm 2010 (bảng 1), mặc dù đã giảm trong giai đoạn 20112012 ở mức 50,8%. Tuy nhiên, nó đã bắt đầu tăng từ 54,5% năm 2013 lên 58,0% năm 2014 và 62,2% năm 2015; hiện chiếm 65% và có dấu hiệu tiếp tục vượt quá 65% ngưỡng GDP theo quy định của Quốc hội Việt Nam. Cần lưu ý rằng, vì cách tính nợ công của Việt Nam không được đồng bộ hóa với các tiêu chuẩn thế giới, nên có sự khác biệt đáng kể giữa các số liệu do Chính phủ công bố và cách tính của các tổ chức độc lập. Theo báo cáo của Chính phủ, nguyên nhân của nợ công tăng trong những năm gần đây là do thu ngân sách khó khăn trong khi nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng; để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước, thì phải duy trì thâm hụt ngân sách ở mức cao, cụ thể: 2011: 4,4% GDP; 2012: 5,4% GDP; 2013: 6,6% GDP; 2014: 5,3% GDP; 2015: 5% GDP. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến 2015 nợ công đã tăng khoảng 7% GDP do yêu cầu tăng vay để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Bảng 1: Các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam 2010 2011 2012 2013 2014 Tỷ lệ nợ công trên tổng sản phẩm 56,3 54,9 50,8 54,5 58,0 quốc nội (GDP) (%) Tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP của 42,2 41,5 37,4 37,3 38,3 quốc gia (%) Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài quốc gia trong trung và dài hạn trên tổng 3,4 3,5 3,5 4,3 4,1 11
- kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (%) Số dư nợ của chính phủ so với 44,6 43,2 39,4 42,6 46,4 GDP (%) Số dư của chính phủ đối với các 157,9 162,0 172,0 184,4 211,5 khoản thu của ngân sách nhà nước (%) Nghĩa vụ nợ của chính phủ đối 17,6 15,6 14,6 12,6 13,8 với các khoản thu của ngân sách nhà nước (%) Nợ dự phòng cho các khoản thu 5,5 6,7 9,8 9,7 8,5 (%) Giới hạn cho vay ngoại thương và 2.000 3.500 3.500 1.800 2.800 bảo lãnh cho các khoản vay nước ngoài của Chính phủ (triệu USD) Nguồn: Bộ tài chính Việt Nam Theo dự báo của IMF, Việt Nam là quốc gia duy nhất có nợ công/GDP tiếp tục tăng gần 68% vào năm 2020 và cao hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực ASEAN. Đáng chú ý, tỷ lệ này có xu hướng giảm hoặc khá ổn định ở các nước khác từ năm 2006, trong khi ở Việt Nam nó đã tăng mạnh, đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay. Mặc dù tỷ lệ nợ công của Việt Nam vẫn dưới ngưỡng 90% theo tính toán của Reinhart C.M. et al (2012), ngưỡng này được tính cho các quốc gia có thị trường tài chính phát triển cao; Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, tỷ lệ tối ưu có thể ở mức thấp hơn nhiều. Bảng 2. Cac chi tiêu vê n ́ ̉ ̀ ợ công va n ̀ ợ nước ngoai cua quôc gia giai đo ̀ ̉ ́ ạn 2014 2018 Chỉ tiêu 2014 2015 2016 2017 2018 Nợ công so vơi GDP (%) ́ 58 61 63,7 61,4 61,0* Nợ nươć ngoaì cuả quôć gia so vơí 38,3 42 44,8 48,9 49,7* GDP(%) Nghiã vụ trả nợ nươć ngoaì trung, 4,1 4,0 3,9 6,1 daì haṇ cuả quôć gia so vơí tông̉ kim ngacḥ xuât́ khâủ hang ̣ vụ ̀ hoá và dich (%) 12
- Dư nợ Chinh phu so v ́ ̉ ơi GDP (%) ́ 46,4 49,2 52,7 51,7 52,1 Dư nợ Chinh phu ́ ̉ so vơi ́ thu ngân 211,5 206,8 215,0 201,0 sach ́ (%) Nghiã vụ trả nợ cuả Chinh ́ phủ so vơí 13,8 14,9 20,5 18,3 thu NSNN(%) Nghiã vụ nợ dự phòng so với thu ngân 8,5 11,8 8,1 7,5 sach ́ (%) Haṇ mức vay thương maị nươć ngoaì 2.800 2.500 1.500 700 và baỏ lãnh vay nươć ngoaì cuả Chinh ́ phủ (triệu USD) ̀ ản tin Nợ công Bộ Tài chính Nguôn: B Trong thời gian qua, Việt Nam tiếp tục tái cơ cấu nợ công theo hướng bền vững, hiệu quả theo hướng tích cực về cơ cấu, kỳ hạn, lãi suất, đảm bảo khả năng trả nợ. Tốc độ tăng trưởng nợ công so với GDP là 12,2%/năm cho giai đoạn từ 2014 2015. Đây là một vấn đề đáng lo ngại vì Việt Nam nằm trong những quốc gia có tỷ lệ nợ trên GDP tăng nhanh nhất (tăng trên 10%/năm) cho dù có thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Đến cuối năm 2015, tổng nợ công của Việt Nam là 125 tỷ USD, tương đương 61% GDP, bình quân mỗi người dân gánh số nợ công là 1.384 USD, tương đương 30 triệu, ngang với Trung Quốc, Philippines và Malaysia. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2016 2018, tốc độ tăng của nợ công của Việt Nam đã giảm xuống bình quân còn 8,6%/năm, riêng năm 2018 chỉ còn ở mức 6%. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nếu như trong giai đoạn 2014 2015, tốc độ tăng của nợ công của Việt Nam ở mức bình quân là 18,1%/năm thì giai đoạn 2016 2018 đã kéo xuống bình quân còn 8,6%/năm, riêng năm 2018 chỉ còn ở mức 6%. Trong khi đó, về trần nợ công, tỷ lệ nợ công giảm từ mức cuối năm 2016 là 63,7% GDP xuống còn 61,4% GDP cuối năm 2017. Đến cuối 2018, dư nợ công của năm 2018 ở mức dưới 61% GDP. 2.2.2. Cơ cấu nợ công Theo Luật quản lý nợ công thì nợ công bao gồm nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và vay nợ của chính quyền địa phương. Trong cơ cấu nợ công thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là nợ được Chính phủ bảo lãnh (Hình 3). Quy mô nợ của chính quyền địa phương nhìn chung chiếm tỷ trọng còn khá thấp (1% GDP). 13
- Hình 3. Cơ cấu dư nợ công năm 2017 (%) (Nguồn: Bộ Tài chính) Như vậy, so với nhiều nước đang phát triển thì tỷ lệ nợ công và nợ Chính phủ của Việt Nam cũng thuộc nhóm tương đối cao (Hình 4). Các hệ số an toàn về nợ công của Việt Nam tuy vẫn còn trong giới hạn nhưng đã tiệm cận ở mức cao, đó còn chưa tính đến yếu tố hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn vay cũng đang là một vấn đề đặt ra hiện nay. Ngoài ra, khi Việt Nam không còn là nước thu nhập thấp thì điều kiện vay nợ nước ngoài sẽ khó khăn hơn với chi phí cao hơn. Quy mô của các khoản vay ưu đãi giảm dần. 14
- Hình 4. Mức nợ công/GDP của Việt Nam so với một số nước trong khu vực (% GDP danh nghĩa) Dư nợ công thời gian qua tăng lên chủ yếu là do tăng các khoản vay trực tiếp trong nước và ngoài nước của Chính phủ để bù đắp cho bội chi NSNN và gia tăng nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh cho một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Nợ Chính phủ Về nợ Chính phủ, trong cơ cấu nợ công, nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng mở rộng đáng kể trong thời gian qua. Năm 2018, dự nợ Chính phủ bằng khoảng 52,1% GDP, tăng so với con số 46,4% của năm 2010. Các khoản nợ Chính phủ chủ yếu là vay ODA và vay ưu đãi, các khoản phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước (theo Bảng 1 và 2). Hiện nay, khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vượt ngưỡng nước có thu nhập thấp thì các điều kiện vay ODA sẽ ngày càng kém ưu đãi hơn. Theo đó, chi phí trả lãi vay hàng năm dự báo sẽ tăng lên. Đây là một thách thức, đòi hỏi việc quản lý sử dụng vốn vay phải hiệu quả hơn. Quy mô chi NSNN tăng khá cao (năm 2016 tăng trên 70% so với năm 2010) nhưng cũng chỉ mới đáp ứng nhu cầu chi tối thiểu của nhiều ngành, lĩnh vực. Cân đối NSNN ngày càng khó khăn hơn do nợ công sắp đến giới hạn cho phép; nhu cầu chi đầu tư phát triển (ĐTPT) vẫn còn rất lớn. Chi tiêu của Chính phủ so với GDP vẫn duy trì ở mức cao. Cơ cấu chi thay đổi theo hướng chi thường xuyên chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Tổng chi NSNN bao gồm cả chi từ nguồn trái phiếu bình quân chiếm 29,2% GDP trong giai đoạn 20112015, so với 28,9% trong giai đoạn trước và ở mức cao so với khu vực và các quốc gia có mức phát triển tương đương. Tỷ lệ so sánh giữa chi thường xuyên và đầu tư là khoảng 70:30 trong thời kỳ 20112015 so với 63:37 của thời kỳ 20062010. Chi thường xuyên tăng lên và cao hơn mức tăng thu chủ yếu là do tăng chi để thực hiện các chính sách mới về an sinh xã hội, chi lương và phụ cấp và chi trả lãi các khoản vay. Chi đầu tư từ NSNN, mặc dù giảm tỷ trọng trong tổng chi tiêu của Chính phủ, nhưng vẫn duy trì ở mức cao so với khu vực và thế giới. Nếu so với tổng đầu tư toàn xã hội, chi đầu tư từ NSNN chiếm 29,1% trong giai đoạn 20112015, tăng nhẹ so với mức 28,4% của thời kỳ 20062010, cho thấy đầu tư của Nhà nước vào hạ tầng công cộng vẫn tiếp tục được duy trì trong thời gian qua, chủ yếu do cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện đang còn ở mức thấp, chưa phát triển. Cân đối cán cân thương mại luôn trong tình trạng nhập siêu và ít có dấu hiệu cải thiện. Trong mười năm 20012010, tổng giá trị hàng hóa nhập siêu gần 81,7 tỷ USD, bằng 20,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Trị giá nhập siêu hàng hóa năm 2010 ước tính gần 12,4 tỷ USD, gấp trên 10,7 lần 15
- mức nhập siêu hàng hóa năm 2000. Tính ra, trong những năm 20012010, tốc độ tăng nhập siêu bình quân mỗi năm gần 26,8%. Do bội chi ngân sách kéo dài, nợ công tiếp tục tăng lên trong năm 2016, tiến sát đến hạn mức quy định là 65% GDP. Bội chi NSNN thực hiện năm 2017 ước khoảng 174,3 nghìn tỷ đồng, bằng 3,48% GDP, thấp hơn dự toán là 3,5% GDP. Bội chi ngân sách bình quân trong giai đoạn 2011 2016 là 5,8% so với 2,2% GDP giai đoạn 2006 2010. Dữ liệu cho thấy ngân sách vẫn gặp áp lực năm 2016 với mức bội chi ước bằng khoảng 6,5% GDP. Bất cân đối ngân sách tăng lên chủ yếu do suy giảm cơ cấu về tỷ lệ thu ngân sách trên GDP, giảm từ 27% GDP năm 2011 xuống khoảng 23% GDP năm 2016. Trong khi đó, tỷ lệ chi ngân sách trên GDP được duy trì tương đối ổn định, bình quân bằng khoảng 29% GDP trong 05 năm qua. Theo các báo cáo của Chính phủ, tổng nợ công của Việt Nam (gồm nợ Chính phủ, nợ được khu vực công bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương) đã lên đến 63,7% GDP trong năm 2016 cao hơn khoảng 15 điểm phần trăm so với 2010. Cụ thể, thu chi ngân sách được thể hiện trong hình 5. Hình 5. Thu chi ngân sách Việt Nam giai đoạn 2000 2018 Nợ Chính phủ bảo lãnh Nợ được Chính phủ bảo lãnh là các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh cho một số tập đoàn, tổng công ty Nhà nước trong việc thực hiện một số dự án đầu tư (đầu tư công), trong các lĩnh vực như dầu khí, điện, xi măng, hàng không, viễn thông.... Nguồn vốn này chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của các DNNN thời gian qua. Trong cơ cấu nợ được Chính phủ bảo lãnh có xu hướng tăng lên và hiện chiếm khoảng 5% tổng dư nợ công năm 2017 (theo hình 3). Nợ Chính quyền địa phương Đối với nợ của Chính quyền địa phương: nợ của chính quyền 16
- địa phương chủ yếu là vay nợ cho đầu tư xây dựng cơ bản. Mức dư nợ của chính quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của Luật NSNN không quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của các địa phương. Nhìn chung, so với nhiều nước thì việc vay nợ của chính quyền địa phương ở Việt Nam là khá thấp và hiện chiếm khoảng 1% tổng dư nợ công năm 2017 (theo hình 3). 2.3. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NỢ CÔNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 2.3.1. Về tính trung lập của nợ chính phủ Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có tác động đến nền kinh tế hay không. Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và thu nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn. Quan điểm BarroRicardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá. Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi của người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng. 2.3.2. Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau: Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút. Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh 17
- nghiệp hạn chế đầu tư. Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên). Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu. Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công trái) và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát). Như đã trình bày, nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ. Hiệu quả sử dụng các khoản vay là một vấn đề rất quan trọng vì từ đó mới bảo đảm được dòng tiền trả nợ trong tương lai. Hiện nay, Việt Nam mới chú trọng đến khía cạnh giải ngân cho các khoản vay, bán cho được trái phiếu, thu tiền về đã được xem là thành công. Còn theo nhiều đánh giá, các khoản đầu tư của Nhà nước vẫn bị coi là dàn trải, chậm tiến độ, thất thoát, lãng phí lớn vốn nhà nước nhưng hiệu quả đầu tư thu được thấp và những “căn bệnh” kinh niên của các dự án đầu tư công không hề giảm mà vẫn có chiều hướng tăng nhanh. Một trong những lý do trên là do công tác buông lỏng quản lý và giám sát đầu tư. Việc chấp hành chế độ báo cáo của các bộ, 18
- ngành, địa phương và các chủ đầu tư chưa thực sự nghiêm túc, có hiện tượng buông lỏng trong thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư. Số tiền thất thoát từ nợ công sẽ lan tỏa vào xã hội dưới dạng đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua sắm, du lịch… Sự “năng động” của thị trường do những đồng vốn vay chưa trả thất thoát này tạo ra đang làm mờ đi sự phát triển thực sự từ vốn tự có, từ nội lực kinh tế. Mức tiêu dùng mạnh mẽ tại các thành phố lớn ngày càng hấp dẫn và tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy không chỉ Chính phủ, mà các tỉnh, các doanh nghiệp quốc doanh liên tục vay nợ, tạo dựng các dự án, đề án dù chưa biết lỗ lãi ra sao. Có thể đó cũng là một trong các nguyên nhân làm cho tốc độ nợ công tăng lên nhanh chóng trong thời gian gần đây. Từ năm 2003, Việt Nam đã hết thời gian ân hạn 10 năm, bắt đầu phải trả cả gốc lẫn lãi. Lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9% trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Bên cạnh đó, từ năm 2010, Việt Nam đã bước ra khỏi danh sách các nước nghèo kém phát triển và trở thành nước có mức thu nhập trung bình thấp, điều đó cũng có nghĩa là các khoản vay hiện nay của Chính phủ sẽ tương đương với các khoản vay thương mại mà gần như không có thêm ưu đãi. Do đó, bên cạnh việc trả nợ thì Việt Nam sẽ phải thận trọng và tính toán kỹ càng cho các khoản vay mới và ngay khi vay đã phải chuẩn bị trả nợ đúng hạn. Nợ, thâm hụt ngân sách, lạm phát và dự trữ ngoại tệ luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Các tỷ lệ nợ nước ngoài của nền kinh tế trên GDP và tỷ lệ nợ phải trả trên xuất khẩu thường được dùng để phân tích khả năng trả nợ của một nền kinh tế. Khi phân tích nợ và khả năng chi trả của Chính phủ ảnh hưởng thế nào tới chính sách vĩ mô (tài khóa và tiền tệ) thì phải tính đến cả nợ nước ngoài lẫn nợ trong nước. Năm 2016, nợ công đến hạn của Việt Nam là 280.000 tỷ đồng, nhưng chỉ trả được 150.000 tỷ đồng và phải vay thêm 130.000 tỷ đồng, xấp xỉ 6 tỷ đô la Mỹ. Như vậy, khả năng trả nợ ngày càng gặp nhiều thách thức. Nợ ở Việt Nam hiện nay chưa tính đủ vì còn thiếu nợ của khu vực kinh tế nhà nước mà Chính phủ phải chịu trách nhiệm trả nợ (phần nợ này không được hiển thị hoặc không thấy trong số liệu thống kê). Ngay trong số liệu dự toán ngân sách thì phần trái phiếu chính phủ vẫn được để ngoài cân đối ngân sách. Việc quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia cũng gần như bị lọt lưới vì sự chia cắt trong quản lý. Đó là sự thiếu minh bạch trong quản lý, thậm chí che giấu những sai sót do sự yếu kém trong quản lý. Việc quản lý nợ công được chia cho nhiều cơ quan nhà nước thực hiện, cấp bảo lãnh cho doanh nghiệp vay nợ cũng phân cho nhiều cơ quan, số liệu thực tế vì vậy không được cập nhật, thiếu nhất quán dẫn tới tình trạng thiếu minh bạch. 19
- 2.3.3. Một khoản nợ chính phủ lớn làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn và tỷ lệ của nó so với GDP cao, làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau: Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút. Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu giấy nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư. Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out, đó là đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên. Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu. Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ nhờ phát hành công trái và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực tế (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát). Hôm nay chúng ta đang sống trong tâm bão lạm phát, bạn cảm thấy điều này hơn ai hết. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận môn Kiểm toán căn bản: Sự hình thành và phát triển của Kiểm Toán
46 p | 1774 | 476
-
Luận văn tốt nghiệp: Tìm hiểu hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk
46 p | 726 | 333
-
Tiểu luận nhóm môn tài chính tiền tệ: Đánh giá thực trạng thị trường chứng khoán VN
71 p | 897 | 330
-
Bài tiểu luận môn lý thuyết tài chính tiền tệ: Cổ phiếu
20 p | 1212 | 257
-
Bài tiểu luận môn Phân tích chính sách kinh tế xã hội: Phân tích chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Tỉnh Thừa Thiên Huế
17 p | 1298 | 250
-
Bài Tiểu Luận Môn Lịch Sử Việt Nam
9 p | 1349 | 136
-
TIểu luận tài chính quốc tế: Nợ công và tình hình nợ công của Việt Nam
27 p | 445 | 136
-
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP " Cổ phiếu
105 p | 329 | 95
-
Tiểu luận Kinh tế phát triển: Hướng đến phát triển kinh tế bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
105 p | 191 | 60
-
Tiểu luận môn Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật vận động tiếp cận với các chính sách và dịch vụ công tác xã hội tại tỉnh Quảng Ngãi
25 p | 1917 | 36
-
Bài tiểu luận môn Marketing dịch vụ: Nghiên cứu hoạt động Marketing của doanh nghiệp Bamboo Airways
33 p | 157 | 30
-
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước
18 p | 205 | 27
-
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư
45 p | 156 | 25
-
Tiểu luận Triết học: Vấn đề khoán trong nông nghiệp ở Việt Nam, hiện tại và triển vọng - Đề xuất những chính sách chủ yếu để phát triển nền nông nghiệp bền vững
14 p | 101 | 15
-
Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác-Lênin: Kinh tế nông nghiệp công nghệ cao - Động lực phát triển kinh tế huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang
31 p | 85 | 15
-
Bài tập nhóm Môn Tài Chính Chứng Khoán: Bằng phương pháp phân tích cơ bản anh chị nhận định xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán VN trong năm 2012, … 2015
23 p | 128 | 14
-
Tiểu luận Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Trình bày triết lý, chiến lược kinh doanh của Viettel
22 p | 53 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn