intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Triết học: Phân tích và chứng minh luận điểm: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông

Chia sẻ: Nguyễn Hữu Khánh Khánh73 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

374
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là nêu và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác-Lênin, từ đó tìm hiểu và phân tích việc áp dụng những nguyên tắc đó của Đảng và nhà nước Việt Nam trong việc đề ra các chính sách đổi mới đất nước từ khi giành được độc lập cho đến nay để chứng minh cho luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Triết học: Phân tích và chứng minh luận điểm: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng ta đều biết, chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống hoàn chỉnh những quan điểm triết học, kinh tế chính trị, xã hội, là học thuyết khoa học về sự phát triển lịch sử tự nhiên của nhân loại. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là một chuyển biến cách mạng vĩ đại trong đời sống chính trị của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học về các quy luật của tự nhiên và xã hội, khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội cộng sản. Đó là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, điều kiện và phương pháp giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, bất công và đói nghèo trên thế giới. Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác - Lênin nói chung. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì “Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”. Vì vậy, có thể nói rằng thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Mặt khác, con người muốn cải tạo được thế giới cần phải có những hiểu biết về nó, nhưng những hiểu biết ấy không có sẵn trong con người. Muốn có hiểu biết, con người phải tác động vào thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn và trên cơ sở đó con người tích lũy được những tri thức kinh nghiệm. Tuy nhiên, những tri thức kinh nghiệm đó mới chỉ đem lại sự hiểu biết về từng mặt riêng lẻ, bề ngoài của sự vật. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”. Do đó, để hiểu được tính tất yếu, bản chất của sự vật, con người phải khái quát những tri thức, kinh nghiệm thành lý luận. Lý luận và thực tiễn có quan hệ biện chứng với nhau. Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức của loài người. Lênin đã chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không có phong trào cách mạng”. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận khi đã thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất. Ngược lại: Thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Thực tiễn còn vạch ra tiêu chuẩn cho lý luận. Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo thế giới khách quan. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến vấn đề lý luận, Người
  2. 2 cho rằng: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Từ những lý do trên và qua tìm hiểu, nghiên cứu những chính sách của Đảng và nhà nước cùng với tình hình thực tế tại Việt Nam, bản thân tôi có mong muốn đi sâu về vấn đề này đồng thời cũng muốn chứng minh cho luận điểm mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói ở trên nên tôi chọn đề tài “Phân tích và chứng minh luận điểm: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” cho bài tiểu luận cuối khóa môn Triết học của mình. Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Hà Thiên Sơn, người thầy đã rất tận tâm và nhiệt tình trong việc truyền đạt những kiến thức chuyên sâu về triết học Mác-Lênin đến cho học viên, giúp chúng tôi nhận ra đây không phải là một môn học nhàm chán như những gì chúng tôi đã cảm nhận khi còn là sinh viên Đại Học, mà nó là một môn khoa học ứng dụng trong việc giải quyết những hiện tượng thế giới quan, hay đơn giản chỉ là những vấn đề xã hội thường gặp. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu: Nêu và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác-Lênin, từ đó tìm hiểu và phân tích việc áp dụng những nguyên tắc đó của Đảng và nhà nước Việt Nam trong việc đề ra các chính sách đổi mới đất nước từ khi giành được độc lập cho đến nay để chứng minh cho luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nêu và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, mối quan hệ giữa trong triết học Mác-Lênin. - Phân tích về việc áp dụng những nguyên tắc đó của Đảng và nhà nước Việt Nam trong việc đề ra các chính sách đổi mới đất nước từ khi giành được độc lập cho
  3. 3 đến nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc vận dụng những nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác-Lênin vào trong chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi không gian: Tình hình đổi mới về kinh tế-xã hội tại Việt Nam - Phạm vi thời gian: Từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, đất nước Việt Nam giành được độc độc lập từ tay thực dân Pháp đến trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII vào tháng 01 năm 2021. 4. Phương pháp nghiên cứu - Về phương pháp luận: Dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm lý luận, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra. - Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: tiến hành thu thập thông tin theo các đối tượng mục tiêu nghiên cứu bao gồm những tài liệu về Triết học Mác-Lênin, những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các số liệu, các báo cáo tham luận của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc. 5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ một số lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: Phạm trù thực tiễn là gì, phạm trù lý luận là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa chúng như thế nào. - Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài làm rõ thực trạng vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác Lênin của Đảng và nhà nước trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước. Phân tích ưu điểm, hạn chế của quá trình thực hiện. Từ đó có thể vận dụng vào trong việc giải quyết những vấn đề của bản thân. 6. Kết cấu của tiểu luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của tiểu luận có cấu trúc gồm 2 chương như sau: - Chương 1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác-Lênin - Chương 2. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
  4. 4 NỘI DUNG CHƯƠNG I. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN I. Cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 1. Phạm trù thực tiễn Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác – Lênin nói chung và của lý luận nhận thức Mácxít nói riêng, đây là một phạm trù đã được nghiên cứu từ rất lâu với nhiều quan điểm khác nhau: + Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội. + Chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Khắc phục sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra một định nghĩa đúng đắn về thực tiễn như sau: “Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội”. Thực tiễn được định nghĩa là những hoạt động vật chất có mục đích của con người nhằm biến đổi giới tự nhiên và xã hội. Do vậy, thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất chứ không phải là hoạt động tinh thần hay còn gọi là hoạt động lý luận. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể (tức là con người) và khách thể (tức là giới tự nhiên), là dạng hoạt động vật chất trong đó chủ thể chủ động làm biến đổi khách thể. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất cũng như sức mạnh vật chất của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tạo, làm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của mình. Con người không thỏa mãn những gì tự nhiên sẵn có, bằng thực tiễn con người thay đổi sự vật. Vì vậy, có thể nói thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản nhất của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
  5. 5 Hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội vì nội dung, phương pháp, phương tiện cũng như phạm vi ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người. Hoạt động thực tiễn được thể hiện qua ba hình thức cơ bản sau đây: Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là hình thức nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn. Hình thức cơ bản thứ hai của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn cao nhất. Hình thức cơ bản thứ ba của thực tiễn là hoạt động quan sát và thực nghiệm khoa học kỹ thuật. Với sự ra đời và phát triển của khoa học làm xuất hiện hình thức này. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc biệt nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học. Hình thức hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại. 2. Phạm trù lý luận Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh mối liên hệ bản chất của sự vật, những tính quy luật của thế giới khách quan. Lý luận được hiểu theo một cách khác là hệ thống hoá các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật; trong đó quy luật là cái cốt lõi, là sản phẩm của hoạt động nhận thức của con người. Để hình thành lý luận phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. • Tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm là cấp độ thấp của nhận thức lý tính, nảy sinh trực tiếp cuộc sống và thực tiễn. Tri thức kinh nghiệm có hai lọai: Tri thức kinh nghiệm thông thường và Tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm bị giới hạn: sự kiện, miêu tả, phân loại các sự kiện…một cách rời rạc. Tri thức kinh nghiệm có tính trừu tượng, khái quát song chỉ là bước đầu, rất hạn chế. Tri thức kinh nghiệm chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh. Tuy nhiên không được coi thường hay cường điệu tri thức kinh nghiệm.
  6. 6 • Tri thức lý luận. Tri thức lý luận là cấp độ cao của nhận thức lý tính, được khái quát từ tri thức kinh nghiệm. Tri thức lý luận tồn tại trong: khái niệm, phạm trù, quy luật. Lý luận mang tính trừu tượng, khái quát cao thể hiện tính bản chất, tất nhiên, quy luật. Phạm vi ứng dụng của tri thức lý luận rộng hơn tri thức kinh nghiệm. Nó góp phần làm biến đổi thế giới thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn. Lý luận có thể phản ánh đúng hiện thực khách quan và dự báo tương lai. Khác với các quan điểm duy tâm, tôn giáo, Triết học Mác-Lênin khẳng định lý luận là kết quả của quá trình nhận thức. Quá trình nhận thức đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu, trình độ thấp của quá trình nhận thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy luận. Như vậy lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức. 3. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn 3.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận - Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của lý luận. Thông qua các hoạt động thực tiễn, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận được hình hình thành. Cũng thông qua các hoạt động thực tiễn mà lý luận được điều chỉnh và được khái quát ở mức cao hơn. - Thực tiễn là động lực của lý luận. Ngay từ đầu, lý luận xuất phát từ thực tiễn và do thực tiễn quy định. Thực tiễn tác động vào đối tượng, sự vật bộc lộ thuộc tính, mối liên hệ, con người nhận thức. Thực tiễn làm biến đổi thế giới đồng thời biến đổi hoàn thiện con người. Thông qua thực tiễn, con người chế tạo các công cụ, phương tiện hỗ trợ nhận thức. - Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao những hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo lên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích
  7. 7 của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người. - Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn. Lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn bởi vì chỉ có thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý để kiểm nghiệm lại lý luận đúng hay sai. Nếu lý luận xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu. 3.2. Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn Lý luận đóng vai tro soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện, làm hoạt động thực tiễn trở nên tự giác, hiệu quả, đạt mục đích. Lý luận định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, dự báo cả những rủi ro, những hạn chế những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiện quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý luận có vai trò giác ngộ lý tưởng, hòa giải, liên kết cộng đồng tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Lý luận có tính lịch sử cụ thể nên khi vận dụng lý luận phải xuất phát từ tình hình cụ thể. Cuối cùng, lý luận có thể lạc hậu, vượt trước thời đại. II. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 1. Xuất phát từ hoạt động thực tiễn Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn là hai dạng hoạt động của con người. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn. Hai hoạt động này thống nhất không tách rời nhau, gắn bó xâm nhập, làm cơ sở, tiền đề cho nhau phát triển. Giữa thực tiễn và lý luận
  8. 8 có mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, và trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định. Sai lầm của CNDT và CNDV trước Mác là không xuất phát từ con người thực tiễn. Mác không chỉ xuất phát từ con người sinh học xuất phát từ con người hoạt động thực tiễn. Con người thực tiễn là qua công cụ biến đổi thế giới, năng lực nhận thức được nâng lên. Lý luận phải bám sát thực tiễn, luôn tự đổi mới để phù hợp với thực tiễn. 2. Chỉ đạo thực tiễn bằng lý luận khoa học Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Bởi vì, chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng và khoa học, vạch ra quy luật và xu thế phát triển tất yếu khách quan của xã hội loài người và con đường đấu tranh để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta; là hệ thống quan điểm cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam; là sự kế thừa và phát huy những tinh hoa tư tưởng của dân tộc và nhân loại; là đạo đức cách mạng của mọi người. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; Đại đoàn kết dân tộc; Tư tưởng về Đảng và xây dựng đảng và tư tưởng nhân văn. Khi vận dụng lý luận Mác – Lênin phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể. 3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều Bệnh giáo điều là bệnh tuyệt đối lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, không tính đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Chỉ căn cứ trên câu chữ trong sách vở, không nắm bắt được bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Áp dụng lý luận một cách cứng nhắc không tính đến điều kiện cụ thể. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là do hiểu lý luận một cách nông cạn, chưa nắm được bản chất của lý luận, vận dụng những lý luận chưa được vận dụng vào thực tiễn, chưa được kiểm nghiệm nên vẫn chỉ là lý luận thuần túy thậm chí vận dụng lý luận sai vào thực tiễn. Không mang lại hiệu quả cho hoạt động thực tiễn, làm mất lòng tin vào lý luận. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt nước XHCN ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng máy móc vào thực tiễn hiện nay mặc dù nó đã thay đổi. Người mắc
  9. 9 bệnh kinh nghiệm thường thỏa mãn với kinh nghiệm sẵn có của bản thân, không chịu khó học tập lý luận, không tiếp thu và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong công tác, xem thường giới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ. Coi thường lý luận, không tin vào lý luận và không chịu khó vận dụng lý luận vào thực tiễn Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là sự yếu kém về lý luận và thiếu hiểu biết thực tiễn, chủ nghĩa cá nhân. Để khắc phục bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm, cần phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tăng cường nghiên cứu, đổi mới nâng cao trình độ lý luận, tổng kết thực tiễn, từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, gắn lý luận với thực tiễn, bám sát thực tiễn. Khi thực tiễn thay đổi thì lý luận phải được bổ xung. Phải tùy vào từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà điều chỉnh trình độ lý luận.
  10. 10 CHƯƠNG II: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 1. Thực trạng xã hội Việt Nam trước thời kỳ đổi mới Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á ra đời, thực hiện nhiệm vụ quản lý đất nước, tổ chức nhân dân tiến hành cuộc Kháng chiến thần thánh chống thực dân xâm lược Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn tới việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, hòa bình lập lại trên miền Bắc, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu quá trình xây dựng, phát triển đất nước quá độ lên CNXH, thực thi đồng thời hai nhiệm vụ: Xây dựng CNXH trên miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 thắng lợi, đất nước thống nhất một nhà, cả nước bắt tay vào sự nghiệp xây dựng CNXH. Trên cơ sở nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ và học tập kinh nghiệm của các mô hình XHCN hiện thực trên thế giới, mô hình CNXH của Việt Nam cho đến trước Đổi mới bao gồm các đặc trưng chủ yếu: Chế độ xã hội dựa trên nguyên tắc “nhân dân làm chủ tập thể”; nền kinh tế kế hoạch hóa với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu và tập thể về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên cũng có lúc Đảng ta mắc phải sai lầm, thiếu tôn trọng nguyên tắc về sự thống giữa lý luận và thực tiễn, chẳng hạn là đã cho rằng quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất, vì vậy đã duy trì kéo dài (từ năm 1960 đến trước khi thực hiện đổi mới 1986) nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp với hai thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, phủ nhận vai trò của các thành phần kinh tế khác trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Sự sai lầm trong nhận thức và lý luận đó đã làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Năm 1986, đất nước khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát 774,7%, tổng thu nhập quốc dân khoảng 14 tỷ USD với hơn 50 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người khoảng 280 USD. Đặc biệt, hệ thống XHCN thế giới chia rẽ, suy yếu và đi đến sụp đổ năm 1991 đã đặt Việt Nam vào hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. 2. Thay đổi nhận thức về lý luận của Đảng áp dụng vào trong sự nghiệp đổi mới đất nước Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của đất nước - cũng là kết quả của tổng kết thực tiễn quá trình xây
  11. 11 dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1976-1986) một cách có lý luận và đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm. Có thể nói, chính đường lối đổi mới của Đảng cũng là kết quả tổng kết thực tiễn hơn 10 năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước cũng như tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng CNXH của các nước XHCN khác. Chẳng hạn, đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN được Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện. Đại hội VI coi phát triển kinh tế nhiều thành phần “là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý”. Tinh thần đó đã được Hội nghị Trung ương 2 (khoá VI) nhất là Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán, có ý nghĩa chiến lược lâu dài... Năm 1988, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã ra Nghị quyết 10 nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tổng kết quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI về phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã cụ thể hơn nữa chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt nhấn mạnh tới định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần: “chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tổng kết thực tiễn 10 năm đổi mới đã rút ra sáu bài học, trong đó có bài học: “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đây vừa là bài học kinh nghiệm vừa là sự hoàn thiện, bổ sung, phát triển đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Đại hội IX của Đảng (4/2001) tiếp tục khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Đại hội X (4/2006) tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội IX về phát triển kinh tế thị trường đã phát triển thêm đường lối này và đề ra nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Đại hội XI (1/2011) tiếp tục tán thành với những
  12. 12 định hướng về thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, nhất trí với những nội dung về giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. 3. Kết quả sau 35 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng lần VI Đến trước Đại hội XIII của Đảng (tháng 01/2021) sau 35 năm đổi mới Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; năm 2008, ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức thu nhập trung bình và năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển. Thực tiễn kết quả xây dựng và phát triển của Việt Nam sau 35 năm thực hiện chính sách đổi mới vừa qua cho thấy Đảng Cộng sản việt Nam đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo các nguyên tắc, quy luật của phép biện chứng duy vật của triết học Mác- Lê nin vào trong đường lối chính sách cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và các điều kiện cụ thể trong nước. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính nguyên tắc, đây là yêu cầu chính trị hàng đầu đặt ra đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc của đổi mới, đồng thời cũng là chủ trương, quan điểm của Đảng ta trong hội nhập quốc tế, mà thực chất là sự kiên định mục tiêu lý tưởng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội./. Như vậy có thể nói, mỗi kỳ Đại hội là một lần Đảng tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện, phát triển chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN một cách sâu sắc hơn, cụ thể hơn, toàn diện hơn cho phù hợp với điều kiện tình hình trong nước và quốc tế. Không những vậy, Đảng còn luôn tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để chỉ đạo phát triển kinh tế nhiều thành phần sao cho không chệch hướng XHCN.
  13. 13 KẾT LUẬN Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý … luôn là chìa khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Từ mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ta có thể rút ra một số kết luận sau: Để có nhận thức đúng, có chủ trương chính sách đúng cho hoạt động đổi mới kinh tế-xã hội nhất thiết phải đảm bảo được sự phù hợp với thực tiễn, gắn chủ trương chính sách với thực tiễn, phải sâu sát thực tiễn, phải quán triệt sâu sắc quan điểm triết học Mác-Lênin, quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận. Để khắc phục được sự lạc hậu về nhận thức, về chủ trương chính sách thì nhất thiết nhận thức cũng như chủ trương chính sách phải thường xuyên được bổ sung hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn. Không được coi trọng lý luận mà xem thường thực tiễn, điều đó sẽ dẫn tới mắc bệnh chủ nghĩa giáo điều, ngược lại không được coi trọng thực tiễn mà xem thường lý luận, dẫn tới mắc bệnh chủ nghĩa kinh nghiệm. Trên đây là toàn bộ nội dung mà tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu về lý luận và thực tiễn và việc áp dụng của Đảng và Nhà nước vào trong sự nghiệp đổi mới của nước ta đồng thời cũng chứng minh rằng luận điểm “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” là đúng đắn. Do kiến thức và thời gian có hạn nên bài tiểu luận chắc chắn còn những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Thầy và các anh chị để bài tiểu luận lần sau được hoàn thiện hơn.
  14. 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác - Lênin (dành cho HV cao học và NCS không thuộc ngành Triết) 2. C. Mác và Ph. Angghen-toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1994 3. Hồ Chí Minh - toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996 4. V.I. Lênin-toàn tập 5. Tạp chí tổ chức Nhà nước 6. Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, XIII của Đảng cộng sản Việt Nam
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2