intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Vịêt Nam

Chia sẻ: Nguyen Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

108
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: nâng cao chất lượng bảo lãnh tại sở giao dịch i ngân hàng đầu tư và phát triển vịêt nam', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Vịêt Nam

  1. TIỂU LUẬN: Nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Vịêt Nam
  2. LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã và đang tiến bước những bước tiến vững chắc hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Sự mở rộng giao lưu và hợp tác kinh tế quốc tế cũng như sự phát triển mạnh mẽ nội tại của đất nước đã hình thành nên nhiều mối quan hệ kinh tế phức tạp hơn. Và để đảm bảo những mối quan hệ này hình thành và phát triển một cách an toàn và chắc chắn hơn dựa trên sự tin cậy giữa các bên thì cần có một biện pháp đảm bảo để các bên thực hiện đúng và đầy đủ những nghĩa vụ của mình, đó chính là điều kiện để bảo lãnh ngân hàng ra đời và phát triển. Bảo lãnh là một nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại, sự ra đời và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ở Việt Nam là một nhu cầu tất yếu và theo đúng quy luật của tiến trình phát triển của nền kinh tế. Bảo lãnh ra đời không những tạo ra sự phong phú trong hoạt động của NHTM mà còn là phương tiện đảm bảo có hiệu quả trong các mối quan hệ kinh tế thương mại. Tuy nhiên hoạt động bảo lãnh ở Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu cả về chất lượng và số lượng của thị trường. Chất lượng bảo lãnh ngân hàng còn ở mức thấp, điều đó không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động chung của các NHTM mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế. Qua quá trình thực tập và nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động của NHTM tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam em đã chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Vịêt Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Thông qua chuyên đề tốt nghiệp này em muốn phân tích tình hình thực trạng chất lượng bảo lãnh ngân hàng của SGD I cũng như của các NHTM để từ đó tìm ra những biện pháp để nâng cao chất lượng bảo lãnh tại SGD nói riêng và tại các NHTM nói chung. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Chuyên đề của em gồm 3 chương chính:
  3. Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động bảo lãnh và chất lượng bảo lãnh của NHTM Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh và chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
  4. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH VÀ CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.Tổng quan về nghiệp vụ bảo lãnh trong NHTM 1.1.1.Khái niệm bảo lãnh ngân hàng: “Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (Bên bảo lãnh) với bên có quyền (Bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (Bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền được trả thay” (Quyết định 26/2006/QĐ – NHNN) 1.1.2. Đặc điểm nghiệp vụ bảo lãnh trong NHTM - Bảo lãnh là một dạng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, xuất hiện ở thị trường nội địa nước Mỹ vào những năm 60 và bắt đầu tham gia vào các giao dịch quốc tế vào những năm 70, sự ra đời của bảo lãnh giúp cho mối quan hệ quốc tế đựơc an toàn hơn và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên tham gia. Khi Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển, hội nhập vào những năm 90 tạo điều kiện thuận lợi và tất yếu của sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh tại Việt Nam. - Nghiệp vụ bảo lãnh trong các NHTM xét về bản chất vẫn được coi là một trong những hình thức tín dụng mặc dù ngay thời điểm kí kết hợp đồng bảo lãnh không có sự chuyển giao vốn giữa TCTD với người được bảo lãnh. Và nghĩa vụ chi trả hộ của ngân hàng chỉ được thực hiện khi có sự vi phạm của khách hàng (bên được bảo lãnh). Đây được xem là một hình thức tài trợ bằng uy tín. - Nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ ngoại bảng điển hình trong các NHTM, nền kinh tế càng phát triển thì các mối quan hệ càng trở nên đa dạng hơn do vậy mà nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng trở nên cần thiết hơn. Trong trường hợp mà khách hàng phải thực hiện việc trả thay cho khách hàng về khoản bảo lãnh thì khoản này sẽ đựơc chuyển vào hạch toán trong tài khoản “nợ xấu” của ngân hàng. Chính vì vậy mà bảo lãnh cũng chứa đựng những rủi ro và cần được phân tích, đánh giá và quản lý một cách chặt chẽ.
  5. 1.1.3. Vai trò và các quan hệ của bảo lãnh 1.1.3.1. Các mối quan hệ trong hợp đồng bảo lãnh Từ định nghĩa về bảo lãnh ta cũng thấy được rằng trong quan hệ về bảo lãnh thì có ít nhất ba bên tham gia: Bên bảo lãnh: Đó chính là các NHTM, các ngân hàng khác, các tổ chức tín dụng - phi ngân hàng khác hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Bên được bảo lãnh: Là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, - các tổ chức tín dụng khác, hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện, các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và đầu tư đấu thầu các dự án tài Việt Nam. Bên nhận bảo lãnh: Là tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước được quyền thụ - hưởng bảo lãnh của TCTD. (2) HĐ mua bán, dự thầu Bên nhận Bảo lãnh Bên được Bảo lãnh Đơn xin bảo lãnh (1) (3) Thư Bảo lãnh Bên bảo lãnh ( NHTM) Sơ đồ 1.1: Quan hệ bảo lãnh 3 bên trong hợp đồng bảo lãnh Để thực hiện một hợp đồng bảo lãnh thì ít nhất phải tồn tại 3 mối quan hệ đi kèm cùng với nó là các văn bản ràng buộc. Thứ nhất là mối quan hệ giữa khách hàng (người được bảo lãnh) với ngân hàng được hình thành trên cơ sở đơn xin bảo lãnh của khách hàng hay hợp đồng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng. Thứ hai là mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh, đây là mối quan hệ gốc và là sở để phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Mối quan hệ này được xác lập trên cơ sở hợp đồng kinh tế giữa hai bên, đây có thể là hợp đồng mua bán hoặc hợp đồng đấu đấu thầu… Thứ ba là mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh với người hưởng bảo lãnh dựa trên sự cam kết bồi thường đầy đủ số tiền bảo lãnh khi có sự vi phạm của người được bảo lãnh, cam kết này
  6. được thể hiện rõ trong thư bảo lãnh hay là hợp đồng bảo lãnh của ngân hàng đối với bên hưởng quyền. Có thể nói rằng bảo lãnh ngân hàng chỉ có thể được thực hiện khi có sự thống nhất giữa các bên và yêu cầu của các mối quan hệ này được giải quyết một cách thoả đáng. Trong trường hợp “Bảo lãnh đối ứng” thì có sự tham gia của một ngân hàng khác gọi là bên đối ứng, bên này sẽ cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh khi phát sinh sự cố. Như vậy trong đối với bảo lãnh ngân hàng thì mối quan hệ không đơn thuần chỉ là mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh với ngân hàng mà còn có các mối quan hệ khác như giữa ngân hàng với người thụ hưởng, giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh hay là quan hệ giữa các bên đối ứng. 1.1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng * Đối với nền kinh tế - Bản thân bảo lãnh là công cụ trợ giúp cho các giao dịch kinh tế, nó là cơ sỏ đảm bảo cho sự tin tưởng lẫn nhau giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Sự tin tưởng giữa các bên là một yếu tố quan trọng để hình thành các mối quan hệ lâu dài, chính nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. - Sự xuất hiện của hoạt động bảo lãnh trong nền kinh tế làm giảm bớt tính rủi ro trong các mối quan hệ kinh tế. Đó là hình thức tín dụng nhằm san sẻ rủi ro cho các đối tượng tham gia đồng thời đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. - Hoạt động bảo lãnh là hoạt động tài trợ dựa trên uy tín của ngân hàng chính vì vậy mà khi được các ngân hàng có uy tín bảo đảm thì các bên được bảo lãnh có thể thực hiện các hoạt động vay vốn trong nước cũng như ở nước ngoài một cách thuận lợi hơn. Điều này giúp cho nền kinh tế có thêm một lượng vốn cho hoạt động đầu tư phát triển, đổi mới công nghệ… So với biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản thì nó mang lại nhiều tiện ích hơn và đạt được hiệu quả cao hơn. * Đối với ngân hàng
  7. - Bảo lãnh là một dịch vụ của ngân hàng, sự ra đời của nó làm đa dạng thêm các sản phẩm của ngân hàng từ đó góp phần hoàn thiện sự đồng bộ trong gói sản phẩm dịch vụ của ngân hàng tạo ra tiện ích lớn nhất cho khách hàng. - So với hoạt động cho vay, hình thức bảo lãnh có chi phí rẻ hơn nhưng mang lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Hơn thế nữa việc ký quỹ của khách hàng được bảo lãnh tạo thêm nguồn tiền trong thanh toán cho ngân hàng. - Trên cơ sở các mối quan hệ bảo lãnh, ngân hàng có thể tăng cường thêm các mối quan hệ khác đối với khách hàng từ đó tìm kiếm những khách hàng tiềm năng và các khách hàng mới. * Đối với khách hàng - Bảo lãnh là một hình thức có thể hạn chế được rủi ro, chống lại những thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra cho người nhận bảo lãnh. - Đây cũng là cách tiếp cận nguồn vốn với chi phí rẻ và mang lại nhiều hiệu quả cho người được bảo lãnh. - Hoạt động bảo lãnh giúp tăng cường uy tín giữa các bên đối tác với nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.1.4. Chức năng của bảo lãnh Trong các mối quan hệ kinh tế chứa đựng những mối rủi ro nhất định mà người ta khó có thể lường trước được và đôi khi lòng tin giữa các đối tác bị làm cho méo mó đi, chính vì vậy mà cần có một biện pháp chắc chắn đảm bảo cho mối quan hệ thương mại được diễn ra thuận lợi hơn và an toàn hơn đó là nền tảng cho sự ra đời của bảo lãnh. Sự xuất hiện của bảo lãnh đã góp phần tạo ra sự an toàn trong các mối quan hệ thương mại và nó đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Nếu nhìn từ góc độ ngân hàng thì ta có thể thấy rằng bảo lãnh là một hoạt động dịch vụ và nó đem lại nguồn lợi nhuận cho ngân hàng nhờ thu phí bảo lãnh, đây là nghiệp vụ ngoại bảng nên không ảnh hưởng đến việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng. Còn nếu đứng trên góc độ là khách hàng, thì bảo lãnh là một công cụ hỗ trợ cho khách hàng. 1.1.4.1.Bảo lãnh là công cụ bảo đảm
  8. Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bởi vì khi hợp đồng bảo lãnh được kí kết thì bên bảo lãnh sẽ có nghĩa vụ chi trả bồi thường nếu như có sự cố vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh, và như vậy thì ngân hàng với vai trò là người bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho người nhận bảo lãnh. Với sự đảm bảo chắc chắn này thì các bên sẽ có được sự tin tưởng nhau hơn và việc kí kết các hợp đồng cũng sẽ dễ dàng thuận tiện hơn, điều này làm nên sự khác biệt giữa bảo lãnh ngân hàng với tín dụng chứng từ. Nói tóm lại bảo lãnh như là một chất xúc tác trong việc kí kết các hợp đồng thương mại, xây dựng, giao dịch hàng hoá trong nước và quốc tế được diễn ra một cách thuận lợi hơn, đồng thời do chịu trách nhiệm trong việc chi trả bồi thường nếu sự cố xẩy ra nên ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ tăng cường giám sát, kiểm tra và đôn đốc khách hàng được bảo lãnh trong việc thực hiện hợp đồng tạo ra sự lành mạnh hoá trong các mối quan hệ. 1.1.4.2. Bảo lãnh là công cụ tài trợ Đối với người thụ hưởng thì bảo lãnh là một công cụ bảo đảm nhưng đối với người được bảo lãnh thì nó lại là một công cụ tài trợ có hiệu quả tốt. Trong hợp đồng thì phía đối tác sẽ yêu cầu một sự đảm bảo chắc chắn là hợp đồng sẽ được thực thi một cách chính xác và đầy đủ, khi đó nếu như không muốn xuất quỹ để đặt cọc cho phia bên kia thì bên này phải nhờ môt ngân hàng bảo lãnh cho mình. Khi được ngân hàng bảo lãnh, người được bảo lãnh sẽ không phải xuất quỹ ra, hơn nữa còn được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ … và như vậy thì mặc dù không trực tiếp cấp vốn cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ với chi phí hợp lý. 1.1.4.3. Bảo lãnh là công cụ đôn đốc Thật vậy, khi hợp đồng bảo lãnh được xác lập thì các bên phải tuân theo những thoả thuận trong hợp đồng. Và với trách nhiệm là người phát hành bảo lãnh, người thực hiện chi trả những khoản bồi thường khi có sự cố xảy ra ngân hàng phải tích cực đôn đốc người được bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa vụ của mình với bên nhận bảo lãnh, nó tạo ra một áp lực buộc bên được bảo lãnh phải hoàn thành nghĩa vụ. Như vậy có thể nói rằng
  9. bảo lãnh làm tăng thêm tính trách nhiệm của các bên tham gia, làm cho mối quan hệ giữa các bên thêm lành mạnh hơn. 1.1.4.4. Bảo lãnh là công cụ đánh giá Bảo lãnh cũng là một hình thức tín dụng và như vậy trước khi kí kết một hợp đồng bảo lãnh thì người bảo lãnh cũng phải tiến hành các hình thức nhằm đánh giá năng lực tài chính cũng như khả năng hoạt động của khách hàng. Nếu khách hàng đảm bảo đủ các điều kiện của ngân hàng đặt ra thì hợp đồng mới được thông qua. Điều đó có nghĩa rằng một khi hợp đồng bảo lãnh được kí kết thì ngân hàng đã đánh giá khả năng thực hiện nghĩa vụ là có thể chấp nhận được mặc dù đây không phải là chỉ tiêu đánh giá duy nhất và lúc nào cũng chính xác. 1.1.5. Các loại hình bảo lãnh Bảo lãnh ngân hàng có thể được phân thành những loại khác nhau theo các tiêu thức khác nhau 1.1.5.1. Theo bản chất của hoạt động bảo lãnh Có thể chia bảo lãnh thành hai loại sau: Bảo lãnh đồng nghĩa vụ ( bảo lãnh bổ sung) - Là một loại bảo lãnh mang tính truyền thống, với loại bảo lãnh này ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ này nếu không thực hiện đầy đủ thì ngân hàng mới thực hiện nghĩa vụ bổ sung của mình. Và để thực hiện nghĩa vụ của mình thì ngân hàng bắt buộc phải biết rõ tình hình và mối quan hệ của các bên, do đó ngân hàng phải can thiệp sâu vào giao dịch này, chính vì thế mà nó ít được sử dụng trong quan hệ quốc tế. Bảo lãnh độc lập - Được coi như là một dạng bảo lãnh của ngân hàng hiện đại, được sáng tạo từ yêu cầu của thực tiễn. Nó hoạt động dựa trên quy tắc là độc lập và hoàn toàn phù hợp, theo đó thì nghĩa vụ của ngân hàng phát hành bảo lãnh hoàn toàn độc lập với nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Và như vậy thì việc thanh toán chỉ được thực hiện theo những điều khoản đã quy định trong văn bản bảo lãnh, tuy nhiên sự độc lập này cũng có tính tương đối mà thôi. Loại bảo lãnh này đem lại sự thuận lợi cho cả người hưởng bảo lãnh
  10. và ngân hàng phát hành bảo lãnh nên nó được sử dụng rộng rãi trong các quan hệ quốc tế. 1.1.5.2. Theo mục đích bảo lãnh - Bảo lãnh dự thầu Là cam kết của TCTD với bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Khi xảy ra sự cố vi phạm quy định đấu thầu mà khách hàng phải nộp phạt nhưng không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì TCTD sẽ thực hiện thay. Bảo lãnh dự thầu đảm bảo cho bên mời thầu có được sự chắc chắn về quyền lợi của mình ngay cả khi bên đấu thầu không tham gia đấu thầu theo như đã thoả thuận. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Là loại bảo lãnh được sử dụng trong các hợp đồng mua bán, hợp đồng xây dựng, cung ứng thiết bị công nghệ….trong nước cũng như nước ngoài. Nó nhằm để thay thế cho việc ký quỹ của người mua hàng đối với người cung ứng hàng hoá để đảm bảo bồi thường vi phạm hợp đồng, tạo ra sự chống đỡ rủi ro cho người thụ hưởng (bên bán hàng). Giá trị tối đa của bảo lãnh được tính bằng tỷ lệ % trên giá trị của hợp đồng và thường giao động ở mức 10%-15%, nó tương đương với mức bồi thường vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ theo thoả thuận trong hợp đồng thì TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Bảo lãnh hoàn thanh toán - Là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành cam kết hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh có sự vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng giữa hai bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh mà bên được bảo lãnh không hoàn trả được hoặc hoàn trả không đầy đủ số tiền ứng trước. Loại bảo lãnh này thường được sử dụng trong các hợp đồng thương mại mà người đặt hàng đã ứng trước một khoản tiền nhất định cho bên cung ứng, nó đảm bảo quyền lợi và tâm lý an toàn hơn cho người mua khi phải bỏ ra một khoản tiền ứng trước để mua hàng hay dịch vụ, đồng thời việc người mua chấp nhận ứng trước tiền cho nhà cung ứng sẽ tạo điều kiện thuận lợi về vốn để sản xuất hàng hoá dịch vụ, giảm thiểu khó khăn tạm thời về ngân quỹ. Tuy nhiên, việc thực hiện bảo lãnh
  11. này cũng cần phải lưu ý để tránh sự lạm dụng của người thụ hưởng, vì vậy mà bảo lãnh này chỉ có hiệu lực khi có sự ứng trước của người thụ hưởng. Bảo lãnh thanh toán (bảo lãnh trả chậm) - Là loại bảo lãnh được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị trả chậm. Ở đây người mua và người bán đã tạo ra một mối quan hệ tín dụng thương mại với việc người bán chấp nhận cho người mua trả tiền tại một thời điểm khác trong tương lai theo kỳ hạn nợ. Và để đảm bảo chắc chắn người mua trả nợ thì bên bán yêu cầu phải có một sự bảo đảm từ một tổ chức có uy tín như một ngân hàng và đó chính là bảo lãnh thanh toán. Bảo lãnh thanh toán được sử dụng rất rộng rãi trong các quan hệ thương mại đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nó có thể thay thế cho hình thức tín dụng chứng từ. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm - Là một loại bảo lãnh theo đó ngân hàng phát hành sẽ phải bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì ngân hàng phát hành sẽ thực hiện thay nghĩa vụ đã cam kết đó. - Ngoài ra còn có các loại bảo lãnh tài chính khác nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hàng trong trường hợp vi phạm và người hưởng bảo lãnh trong các loại bảo lãnh này thường là các cơ quan nhà nước như hai quan, cơ quan thuế…Loại bảo lãnh này chỉ giúp khách hàng tạm thời chưa thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, nó cũng chỉ kéo dài trong một thời gian hạn chế nhưng có thể làm cho khách hàng thoát khỏi khó khăn tạm thời về tài chính. 1.1.5.3. Theo phương thức phát hành bảo lãnh - Bảo lãnh trực tiếp Đây là loại bảo lãnh mà ngân hàng phát hành bảo lãnh theo yêu cầu trực tiếp của khách hàng và khi mà ngân hàng đã thực hiện bồi thường về khoản vi phạm cho khách hàng thì ngân hàng sẽ trực tiếp thu hồi khoản bồi hoàn từ khách hàng được bảo lãnh đó. Bảo lãnh trực tiếp thường có ba bên tham gia: Ngân hàng phát hành (bên bảo lãnh), người yêu cầu bảo lãnh (người được bảo lãnh), người thụ hưởng (bên nhận bảo lãnh).
  12. Trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài thì có thể thông qua một ngân hàng khác ở cùng quốc gia với người thụ hưởng gọi là ngân hàng thông báo. Bảo lãnh gián tiếp - Đây là loại bảo lãnh mà phải thực hiện qua hai ngân hàng, một ngân hàng nhận yêu cầu bảo lãnh từ phía khách hàng được bảo lãnh gọi là ngân hàng chỉ thị, và một ngân hàng thực hiện cam kết bảo lãnh cho người thụ hưởng gọi là ngân hàng phát hành bảo lãnh. Đối với loại bảo lãnh này thì ngân hàng phát hành sẽ không nhận bồi hoàn từ khách hàng được bảo lãnh mà nhận khoản đó từ ngân hàng chỉ thị thông qua một cam kết nữa gọi là bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng chỉ thị đưa ra. Mối quan hệ trong bảo lãnh gián tiếp là mối quan hệ bốn bên nên nó phức tạp hơn nhưng lại đảm bảo chắc chắn hơn, nó thường được sử dụng trong các hợp đồng với các đối tác nước ngoài. Đồng bảo lãnh - Khi thực hiện những dự án có giá trị lớn, để giảm thiểu các rủi ro thì các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Để thực hiện được hoạt động đồng bảo lãnh này thì một trong số các ngân hàng tham gia phải đóng vai trò là ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh, còn các ngân hàng khác là thành viên tham gia. Trong trường hợp phải bồi hoàn cho người thụ hưởng thì ngân hàng đầu mối có thể đòi tiền từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ thoả thuận trước và các ngân hàng này sẽ đòi nợ từ khách hàng được bảo lãnh. 1.1.5.3. Dựa trên điều kiện thanh toán của bảo lãnh thành các loại: Bảo lãnh theo yêu cầu - Với loại bảo lãnh này thì người thụ hưởng chỉ cần xuất trình yêu cầu thanh toán cho ngân hàng phát hành là được ngân hàng thanh toán. Văn bản yêu cầu thanh toán ở đây hoàn toàn do người thụ hưởng đơn phương lập ra và nó không cần xác nhận của bên được bảo lãnh. Do đó trong loại bảo lãnh này thì người thụ hưởng sẽ được lợi nhất, ngân hàng cũng không mấy khó khăn trong việc làm thủ tục thanh toán cho người thụ hưởng. Tuy nhiên, đây chính là điều bất lợi cho người được bảo lãnh vì có thể sẽ phải gặp phải rủi ro do sự lừa dối của bên thụ hưởng. Bảo lãnh kèm chứng từ -
  13. Trường hợp này người thụ hưởng muốn được ngân hàng thanh toán thì phải cung cấp chứng từ có xác nhận của một bên thư ba có đủ chuyên môn về sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh . So với bảo lãnh yêu cầu thì loại bảo lãnh này đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng nhiều hơn và cũng có nghĩa là ưu quyền của người thụ hưởng sẽ bị giảm đi, còn đối với ngân hàng thì việc kiểm tra chứng từ sẽ trở nên phức tạp hơn. Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hay toà án. - Một yêu cầu quan trọng khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong loại bảo lãnh này phải có sự phán quyết của toà án hoặc trọng tài về sự vi phạm hợp đồng và trách nhiệm của các bên tham gia, tuy nhiên việc này đòi hỏi nhiều thời gian và gây ra nhiều rắc rối nên loại này ít được sử dụng.
  14. 1.1.6. Quy trình bảo lãnh Tuỳ thuộc vào từng loại bảo lãnh và từng ngân hàng khác nhau mà quy trình bảo lãnh có những điểm khác nhau. Tuy nhiên thì để thực hiện được một hợp đồng bảo lãnh thì phải qua các bước cơ bản sau: Bước 1: Tiếp nhận và hoàn thiện hồ sơ Ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ tiếp nhận hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng, nếu thấy chưa hợp lệ và đầy đủ thì điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hồ sơ. Đối với từng loại bảo lãnh khác nhau thì bộ hồ sơ cũng có những yêu cầu khác nhau phù hợp với từng đặc điểm riêng của hoạt động bảo lãnh. Bước 2: Quyết định bảo lãnh Bộ hồ sơ hoàn chỉnh sẽ được tiếp nhận và chuyển lên các phòng chuyên môn để thẩm định và ra quyết định có thực hiện phát hành bảo lãnh hay không. Nếu như được phê duyệt thì thực hiện tiếp bước 3 Bước 3: Phát hành bảo lãnh Các cán bộ có thẩm quyền thực hiện ký kết hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh trong thời hạn quy định Bước 4: Xử lý sau khi phát hành thư bảo lãnh Sau khi phát hành bảo lãnh ngân hàng phải theo dõi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thực hiện việc hạch toán số dư bảo lãnh, thực hiện việc thu phí bảo lãnh theo quy định và theo dõi việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh để có những biện pháp giải quyết kịp thời khi có sự cố xẩy ra. Bước 5: Kết thúc bảo lãnh Ngân hàng thực hiện tất toán bảo lãnh, giải toả tài sản đảm bảo, ký quỹ (nếu có), đánh giá kết quả bảo lãnh và rút kinh nghiệm và thực hiện lưu trữ hồ sơ theo quy định.
  15. 1.1.7. Các rủi ro phát sinh từ hoạt động bảo lãnh và nguyên nhân phát sinh - Các rủi ro từ hoạt động bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh mang bản chất là một hoạt động tín dụng nên nó cũng chứa đựng những rủi ro nhất định. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình đối với bên hưởng bảo lãnh thì ngân hàng sẽ là người trực tiếp chi trả các khoản bồi thường cho bên thụ hưởng. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ của mình đối với bên thụ hưởng thì ngân hàng có quyền đòi tiền từ phía bên được bảo lãnh. Và các khoản nợ này sẽ được hạch toán như một khoản nợ xấu đối với khách hàng và ngân hàng đó có thể phải chịu rủi ro mất vốn nếu như không có biện pháp bảo đảm trước đó. - Nguyên nhân xảy ra các rủi ro bảo lãnh Nguyên nhân khách quan Do có sự thay đổi về tình hình chính trị xã hội hoặc có những biến cố về thiên tai mà làm thay đổi kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như làm giảm khả năng tài chính của người được bảo lãnh dẫn tới việc thanh toán cho ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn. Nguyên nhân chủ quan + Từ phía ngân hàng Ngân hàng thực hiện bảo lãnh không theo đúng quy trình chặt chẽ, không đánh giá đúng năng lực tài chính và khả năng hoạt động của bên được bảo lãnh dẫn đến việc quyết định sai lầm khi bảo lãnh. + Từ phía người được bảo lãnh Người được bảo lãnh có thể cung cấp sai thông tin về doanh nghiệp của mình với mong muốn có được hợp đồng bảo lãnh từ phía ngân hàng theo yêu cầu của bên thụ hưởng mà không tính đến khả năng của doanh nghiệp gây ra sự sai lệch trong đánh giá của ngân hàng. Rủi ro từ phía người được bảo lãnh thường là các rủi ro đạo đức do các doanh nghiệp cố ý lừa đảo ngân hàng hoặc tạo ra sự thua lỗ khiến cho việc thu nợ của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Có những doanh nghiệp do tính toán không chính xác nên đầu tư vào những dự án không hiệu quả cũng dẫn đến tình trạng giảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó. + Từ phía người thụ hưởng
  16. Người thụ hưởng có thể cố tình lừa dối ngân hàng, hoặc cản trở việc thực hiện nghĩa vụ của bên đối tác để bên đối tác không thể hoàn thành đúng nghĩa vụ theo hợp đồng được. 1.2.Chất lượng hoạt động bảo lãnh của NHTM 1.2.1. Các quan điểm về chất lượng bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh là hoạt động mang trong nó nhiều mối quan hệ với nhiều bên do đó việc đánh giá chất lượng bảo lãnh đối với các chủ thể khác nhau cũng có những điểm khác nhau. Đứng trên góc độ ngân hàng Chất lượng bảo lãnh được thể hiện ở mức độ an toàn của khoản bảo lãnh trong hoạt động chung của ngân hàng, những rủi ro mà các khoản bảo lãnh này đưa đến nằm trong dự phòng và nó không làm ảnh hưởng đến hoạt động chung cũng như uy tín của ngân hàng. Không chỉ thế, chất lượng bảo lãnh còn được thể hiện ở lợi nhuận mà khoản bảo lãnh mang lại, đó là khoản thu nhập từ việc thu phí bảo lãnh và việc khai thác tiền kỹ quỹ của khách hàng. Một khoản bảo lãnh có chất lượng tốt là khoản bảo lãnh vừa có tính an toàn lại cho hiệu quả hoạt động kinh doanh đạt được ở mức cao nhất. Hơn thế nữa, chất lượng bảo lãnh còn được ngân hàng đánh giá cao khi nó mang lại lợi thế cạnh tranh và vị thế, uy tín của ngân hàng. Đứng trên giác độ của người được bảo lãnh Với những người được bảo lãnh thì khoản bảo lãnh như là khoản tài trợ của ngân hàng do vậy họ nhìn nhận bảo lãnh có chất lượng tốt mà nó đáp ứng kịp thời nhu cầu của họ trong thời gian nhanh nhất có thể với thủ tục gọn nhẹ và mức phí hợp lý. Bên được bảo lãnh cũng mong muốn rằng không phải sử dụng nhiều tài sản đảm bảo hoặc mức ký quỹ lớn để có được khoản bảo lãnh này của ngân hàng. Nếu thoả mãn được những yêu cầu đó thì khoản bảo lãnh đã mang lại cho bên được bảo lãnh những điều kiện thuận lợi để ký kết và tham gia vào những dự án hợp đồng kinh tế quan trọng. Trên giác độ là người thụ hưởng Mục đích của người thụ hưởng bảo lãnh khi yêu cầu người được bảo lãnh phải có sự bảo lãnh của một ngân hàng có uy tín là để đảm bảo chắc chắn cho quyền lợi của mình,
  17. do vậy mà chất lượng bảo lãnh đối với những người thụ hưởng là sự đáp ứng đầy đủ mục đích này của họ. Mức độ tin tưởng của người thụ hưởng thể hiện ở độ tín nhiệm đối với ngân hàng phát hành và uy tín của chính ngân hàng đó trên thị trường. Chất lượng bảo lãnh được thể hiện ở khả năng chi trả những khoản bồi thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp đồng một cách kịp thời. Trên giác độ nền kinh tế Chất lượng bảo lãnh có được khi khoản bảo lãnh đó mang lại những hiệu quả cao cho nền kinh tế, thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế và góp phần vào sự phát triển chung của các ngành nghề, đặc biệt là những ngành mũi nhọn của đất nước. Mỗi bên có một quyền lợi riêng và ai cũng mong muốn nó được đáp ứng khi hoạt động bảo lãnh được thực hiện vì thế để nói đến chất lượng bảo lãnh thì phải tổng hoà các quyền lợi này, phải thoả mãn được các yêu cầu của các bên tham gia. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng bảo lãnh Việc đánh giá chất lượng bảo lãnh là một việc rất cần thiết và giữ một vị trí quan trọng, nó không chỉ giúp cho ngân hàng biết được khả năng hoạt động của mình mà còn có thể đưa đến cho ngân hàng những điều chỉnh hợp lý để nâng cao chất lượng bảo lãnh, tăng tính cạnh tranh cho ngân hàng. Ta có thể thấy rằng chất lượng bảo lãnh đối với mỗi người được nhìn nhận theo những hướng khác nhau vì thế mà để đánh giá được chất lượng của hoạt động này thì cần phải có sự kết hợp nhiều chỉ tiêu khác nhau. Nhóm các chỉ tiêu này có thể phân thành nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng. 1.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu định tính - Thời gian cung ứng dịch vụ bảo lãnh, một dịch vụ bảo lãnh có chất lượng tốt phải đáp ứng được nhu cầu về tính kịp thời nhanh nhạy trong việc ra quyết định của ngân hàng để đảm bảo cho hoạt động của khách hàng. Thủ tục đưa ra càng đơn giản càng linh hoạt càng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. - Thái độ phục vụ của cán bộ công nhân viên ngân hàng đối với khách hàng, đây là một yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng và tăng tính cạnh tranh cho ngân hàng. Nếu như thái độ và trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ không đúng mực có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng từ đó làm mất
  18. đi những mối quan hệ tiềm năng và giảm uy tín, giảm tính cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. - Sự phong phú các loại hình bảo lãnh: Chẩt lượng dịch vụ tốt có thể đánh giá dựa vào việc nơi cung ứng co thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng đến đâu. Một ngân hàng không thể được coi là có chất lượng bảo lãnh tốt nếu như ngân hàng đó không đáp ứng được nhu cầu về bảo lãnh của khách hàng trong những trường hợp khác nhau được. Bởi vì trong các hoạt động kinh tế thì có các mối quan hệ liên quan đến nhau và để giải quyết được mối quan hệ này đôi khi cần đến nhiều mối quan hệ khác và các quan hệ này cũng đòi hỏi cần có được một biện pháp bảo đảm an toàn cho nó và khi đó khách hàng cần có một sự cung ứng trọn gói cho các sự bảo đảm này. Điều đó có nghĩa là họ sẽ tìm đến những nơi mà được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu này để đơn giản hoá một số khâu trong quá trình giải quyết vấn đề, đồng thời việc này cũng sẽ làm giảm bớt chi phí về tìm kiếm, thẩm định khách hàng. 1.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính - Doanh số bảo lãnh Chỉ tiêu này phản ánh tổng giá trị bảo lãnh của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định. Khi được đưa ra làm chỉ tiêu đánh giá người ta sẽ so sánh tương đối và tuyệt đối chỉ tiêu này trong năm nay so với trong năm trước đó để xem xét quy mô tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng của bảo lãnh. Doanh số bảo lãnh càng tăng theo thời gian thì chứng tỏ rằng quy mô của hoạt động bảo lãnh ngày càng được mở rộng và sự tăng trưởng của hoạt động này có tính bền vững. Và như vậy cũng có nghĩa là chất lượng bảo lãnh của ngân hàng cũng được đánh giá cao. Doanh số bảo lãnh cao là dấu hiệu tốt thể hiện uy tín ngân hàng cũng được nâng lên và càng ngày càng có người tìm đến với ngân hàng hơn trong các hoạt động của họ. Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng thì cũng chưa thực sự chuẩn xác vì nó còn phụ thuộc vào mức độ rủi ro của các khoản bảo lãnh đó, nếu quy mô bảo lãnh lớn nhưng không an toàn thì rủi ro là rất lớn và một khi ngân hàng phải thực hiện thanh toán thay những khoản bảo lãnh này cho khách hàng thì nó sẽ chuyển thành khoản nợ xấu, khi đó nó sẽ tác động đến hoạt động của ngân hàng.
  19. - Tỷ lệ bảo lãnh mà ngân hàng phải thực hiện thay, tỷ lệ này phụ thuộc vào số tiền mà ngân hàng phải trả thay cho khách hàng khi xảy ra sự vi phạm đối với người thụ hưởng mà đã được xác nhận. Số tiền ngân hàng phải thực hiện nghĩa Tỷ lệ bảo lãnh NH phải vụ thay cho khách hàng thực hiện nghĩa vụ thay = Doanh số bảo lãnh phát sinh cho khách hàng trong năm Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng bảo lãnh của một ngân hàng, chỉ tiêu này càng thấp càng tốt bởi vì chỉ tiêu này thấp chứng tỏ các khoản bảo lãnh mà ngân hàng thực hiện đạt được một hiệu quả tốt, ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận cao mà không phải chịu rủi ro thanh toán. Khi tỷ lệ bảo lãnh ngân hàng trả thay cho khách hàng ở mức cao nghĩa là khi đó ngân hàng sẽ phải thực hiện việc tài trợ bắt buộc với một lượng lớn và điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng và thu nhập cũng sẽ bị giảm sút. - Tỷ lệ bảo lãnh có tài sản đảm bảo hay phải ký quỹ. Số dư bảo lãnh có TSĐB hoặc ký quỹ Tỷ lệ bảo lãnh có = TSĐB hoặc ký quỹ Tổng số dư bảo lãnh Đối với người được bảo lãnh thì mức độ ký quỹ hay giá trị TSĐB càng thấp càng tốt vì nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn khi không phải chịu mức vốn không sinh lãi, tuy nhiên đối với ngân hàng thì tỷ lệ này càng cao càng tốt vì nh ư thế sẽ tránh được rủi ro có thể xảy ra.. Tuy nhiên không phải cứ có tỷ lệ ký quỹ cao hay có TSĐB có giá trị thì chất lượng bảo lãnh là tốt mà nhiều khi nếu ngân hàng áp đặt mức này quá cao thì rất có thể ngân hàng đã bỏ qua những khách hàng tiềm năng có thể mang lại lợi nhuận lớn. Điều này cũng có nghĩa là ngân hàng chưa thực sự phân tích và dự đoán đúng về tình hình tài chính cũng như khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì thế mà khi xem xét chỉ tiêu này cần dựa trên mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và nhu cầu của khách hàng để có thể nhìn nhận một cách tổng quát hơn. - Nợ bảo lãnh quá hạn
  20. Là cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với khách hàng không được thanh toán. Khoản nợ bảo lãnh quá hạn lớn là một điều bất lợi cho ngân hàng và chứng tỏ là khoản bảo lãnh có rủi ro lớn vì chỉ tiêu này cho biết sự vi phạm của khách hàng là người được thụ hưởng đối với ngân hàng. Do phải chờ đợi đến lúc khoản thanh toán của khách hàng đến hạn thanh toán mới biết được nó có thực hiện đúng trong thời hạn quy định không hay quá hạn nên chỉ tiêu này có độ trễ nhất định. Độ trễ của chỉ tiêu làm cho sự đánh giá không được kịp thời như các chỉ tiêu khác. Ngoài ra ta cũng cần phải xem xét giá trị tương đối của chỉ tiêu này, nó cần được so sánh với mức dư nợ bảo lãnh đến hạn ở cùng thời điểm của ngân hàng. Dư nợ bảo lãnh quá hạn Tỷ lệ bảo lãnh = quá hạn Tổng số dư bảo lãnh đến hạn - Mức phí bảo lãnh Bảo lãnh là một trong những dịch vụ của ngân hàng và khách hàng sẽ lựa chọn những ngân hàng nào có mức phí hấp dẫn nhất. Và như vậy các ngân hàng sẽ phải xây dựng cho mình một biểu phí sao cho hợp lý, vừa đảm bảo cạnh tranh được với các ngân hàng khác vừa đem lại được lợi nhuận cho ngân hàng. Mức phí bảo lãnh có thể linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng và mục tiêu chiến lược của từng thời kỳ. Ngoài ra, nhằm nâng cao hiệu quả của việc đánh giá chất lượng thì cần có sự sánh giữa chi phí bỏ ra để có được khoản bảo lãnh và mức thu nhập từ khoản bảo lãnh đó, tỷ lệ này càng thấp thì càng chứng tỏ sự hiệu quả của hoạt động bảo lãnh và càng thấp thì càng tốt. Vì vậy mà ngân hàng luôn tính toán sao cho tối thiểu hoá chi phí để tối đa hoá lợi nhuận, để đạt được mục đích này thì ngân hàng luôn coi trọng các khách hàng có quan hệ lâu năm và có uy tín, tạo ra sự đồng bộ trong các phương thức bảo lãnh để cùng một lúc đáp ứng những nhu cầu khác nhau của khách hàng. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng phải tiếp thị quảng cáo để thu hút thêm những khách hàng mới, tuy nhiên cần căn nhắc sao cho tốc độ tăng chi phí thấp hơn tốc độ tăng doanh thu. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh của NHTM
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2