intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Nâng cao chất lượng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm

Chia sẻ: Nguyen Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

99
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau khi Việt Nam ra nhập WTO, việc mở rộng thị trường tài chính ngân hàng ngày càng được mở rộng, các ngân hàng trong nước, các ngân hàng trên thế giới và các tổ chức phi ngân hàng được tạo điều kiện để thành lập tại Việt Nam. Xu hướng này đặt các ngân hàng trước một áp lực cạnh tranh gay gắt hơn. Một trong các biện pháp cần thiết để các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường sức cạnh tranh là đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Nâng cao chất lượng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm

  1. TIỂU LUẬN: Nâng cao chất lượng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm
  2. ỜI MỞ ĐẦU Sau khi Việt Nam ra nhập WTO, việc mở rộng thị trường tài chính ngân hàng ngày càng được mở rộng, các ngân hàng trong nước, các ngân hàng trên thế giới và các tổ chức phi ngân hàng được tạo điều kiện để thành lập tại Việt Nam. Xu hướng này đặt các ngân hàng trước một áp lực cạnh tranh gay gắt hơn. Một trong các biện pháp cần thiết để các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường sức cạnh tranh là đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ. Trong thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm, tôi nhận thấy tại NHNo&PTNT Hà Nội nói chung và tại phòng giao dịch chợ Hôm nói riêng các loại hình dịch vụ đóng góp một phần doanh thu khá lớn, đặc biệt là hoạt động bão lãnh. Tuy nhiên, so với nhiều hoạt động khác tại ngân hàng thì hoạt động bão lãnh còn chưa được quan tâm đúng mức và còn nhiều mặt hạn chế. Trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế, các giao dịch kinh tế trong và ngoài nước ngày càng được mở rộng. Đi cùng với mỗi một hợp đồng kinh tế luôn tồn tại các rủi ro trong đó có rủi ro thực hiện hợp đồng. Vì vậy, hơn lúc nào hết hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm cần được phải được nâng cao chất lượng để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mà còn hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế nói chung. Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm” làm đề tài cho chuyên đề thực tập. Trên cơ sở phân tích lý thuyết và đánh giá thực trạng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm, mục đích cuối cùng của đề tài là đưa ra các giải pháp để nâng cao dịch vụ bảo lãnh đối tại ngân hàng.
  3. Chuyên đề của tôi được gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bão lãnh ngân hàng - Chương 2: Thực trạng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- - phòng giao dịch chợ Hôm Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng - No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1 Khái quát chung về bảo lãnh 1.1.1 Sự hình thành và phát triển chung của bảo lãnh Bảo lãnh là một khái niệm xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người. Mặc dù không thể xác định chính xác thời gian ra đời của bảo lãnh cũng như xuất xứ của bão lãnh nhưng có thể khẳng định rằng bảo lãnh đã có từ thời trung cổ Hy Lạp với hình thức rất sơ khai bằng những giao dịch giữa cá nhân trong quan hệ thường. Vào những năm 50, 60 của thế kỷ trước, công nghiệp dầu mỏ lớn mạnh làm gia tăng quan hệ giao dịch giữa các nước Trung Đông và Tây Âu. Những hợp đồng khai thác, mua bán dầu khí, khí đốt, xây dựng cơ sở hạ tầng có giá trị lớn đòi hỏi sự đảm bảo của ngân hàng trong tài trợ và thực hiện nghĩa vụ các bên. Đồng thời, nền mậu dịch phát triển trong những năm 70 giữa thế giới thứ 3 với khối các nước giàu như Tây Âu, Bắc Mỹ, Trung Đông… làm tăng thêm nhu cầu đa dạng hóa và hợp pháp hóa các công cụ tài trợ và đảm bảo quốc tế ngoài phương thức tín dụng chứng từ truyền thống. Các phải thể hiện tính linh hoạt, tiện lợi, phù hợp với tập quán quốc tế nhưng không trái với hệ thống pháp luật quốc gia. Bão lãnh phát triển trong bối cảnh như vậy và đáp ứng được những yêu cầu đó. Đến nay, bảo lãnh ngày càng phát triển và trở thành một công cụ hữu hiệu đảm bảo thực
  4. thi nghĩa vụ, đặc biệt là nghĩa vụ tài chính trong các giao dịch quốc tế cũng như các giao dịch ở thị trường nội địa của hầu hết các quốc gia trên thế giới. 1.1.2 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng Theo luật Việt nam, điều 366 định nghĩa: “Bảo lãnh là người thứ 3 (gọi là người bảo lãnh) cam kết với người có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (thường là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Như vậy có thể thấy rằng bản chất của bảo lãnh là sự cam kết của người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh trong trường hợp người này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trong mỗi giao dịch bão lãnh thường có ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Người bảo lãnh có thể là các doanh nghiệp, các cá nhân hay các tổ chức tài chính, tín dụng. Hiện nay, do uy tín của các và khả năng tài chính cũng như vai trò trong việc cung cấp các dịch vụ cho nền kinh tế, người bảo lãnh chủ yếu là các tổ chức tín dụng. Bão lãnh do các tổ chức tín dụng phát hành gọi là bảo lãnh ngân hàng. Để điều chỉnh hoạt động bảo lãnh của các tổ chức tín dụng với khách hàng, trong quy chế “bảo lãnh ngân hàng” ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ- NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc NHNN Việt Nam, bảo lãnh ngân hàng được định nghĩa: “ Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng( Bên bảo lãnh) với bên có quyền ( Bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng ( Bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”. 1.1.3 Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng a) Cam kết bảo lãnh là sự thỏa thuận của ba bên: Theo định nghĩa của bảo lãnh, giao dịch bảo lãnh ngân hàng thường có ba bên: Người được bảo lãnh, ngân hàng bảo lãnh (ngân hàng phát hành cam kết bảo lãnh) và người nhận bảo lãnh (người thụ hưởng) với ba mối quan hệ của ba hợp đồng: - Hợp đồng cơ sở: Quan hệ người được bảo lãnh- người nhận bảo lãnh.
  5. - Hợp đồng cung cấp dịch vụ hoặc tài trợ giữa khách hàng và ngân hàng: Quan hệ người được bảo lãnh- người nhận bảo lãnh (người phát hành bảo lãnh). - Cam kết bão lãnh của ngân hàng đối với khách hàng: Quan hệ người nhận bảo lãnh (người hưởng) - người phát hành bảo lãnh. Ba mối quan hệ trên được hình thành theo trình tự: người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký hợp đồng cơ sở; người được bảo lãnh dựa trên hợp đồng cơ sở làm thủ tục và yêu cầu phát hành bảo lãnh, đề nghị ngân hàng phát hành cam kết bảo lãnh; ngân hàng sẽ xem xét các yếu tố đảm bảo thanh toán của doanh nghiệp, các yếu tố về nghiệp vụ kỹ thuật và nội dung yêu cầu trước khi phát hành cam kết bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh hưởng. Khi cam kết bảo lãnh có hiệu lực có nghĩa là cả ba bên liên quan đã thỏa mãn với bảo lãnh ấy. Ngược lại, nếu có bất đồng về cam kết bảo lãnh thì ngân hàng không chấp nhận yêu cầu phát hành bảo lãnh của người được bảo lãnh hoặc người hưởng sẽ không yêu cầu sửa đổi cam kết bảo lãnh. Để tránh những trở ngại trong việc phát hành cam kết bảo lãnh, người nhận bảo lãnh cũng như người hưởng bảo lãnh cần quan tâm đến vai trò ngân hàng khi ký kết hợp đồng cơ sở. b) Tính độc lập về quan hệ, tính quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia Sở dĩ bảo lãnh được coi là công cụ vạn năng sử dụng trong tất cả các giao dịch vì nó có đặc điểm nổi bật là tính độc lập về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. Các hợp đồng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau. Hợp đồng thứ nhất là gốc để hợp đồng thứ hai và thứ ba hình thành, và các hợp đồng sau ra đời cũng nhằm phục vụ cho hợp đồng thứ nhất. Một hợp đồng sẽ không được thực hiện đầy đủ nếu các hợp đồng còn lại không có hiệu lự c. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng này lại không ràng buộc hay phụ thuộc lẫn nhau. Ngân hàng, người cung cấp dịch vụ và cam kết thanh toán có hai mối quan hệ với hai đối tượng khác nhau và phải hành động mang tính độc lập trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của từng hợp đồng: ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện cam kết của mình khi bị người hưởng đòi tiền nếu người hưởng đã thỏa thuận đầy đủ những quy định của cam kết bảo lãnh cho dù ngưởi ủy nhiệm phá sản, mất khả năng thanh toán hay đang có
  6. tranh chấp giữa người được bảo lãnh và ngư ời hưởng. Sau đó ngân hàng có quyền đòi thanh toán từ người được bảo lãnh. Người được bảo lãnh thực hiện nguyên tắc: “thanh toán trước, khiếu kiện sau” tức là họ có nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng bảo lãnh (trong trường hợp bị người bảo lãnh đòi tiền) và sau đó có quyền khiếu nại người hưởng bếu bị người hưởng lạm dụng. Người hưởng có quyền đòi tiền ngân hàng bảo lãnh dựa vào các điều kiện của bảo lãnh nhưng họ cũng có nghĩa vụ trả lời khiếu nại của đối tác nếu có tranh chấp phát sinh trong mối quan hệ của hợp đồng cơ sở. Tuy nhiên, mức độ độc lập của bảo lãnh chỉ là tương đối, nó phụ thuộc vào chính các điều khoản của cam kết bảo lãnh, đặc biệt là điều khoản quy định các chứng từ mà người hưởng phải xuất trình cho ngân hàng bảo lãnh khi đòi tiền. Nếu bảo lãnh quy định xuất trình chứng từ của phía thứ 3 như văn bản chứng thực của cơ quan độc lập về sự vi phạm của người được bảo lãnh, phán quyết của tòa án hay quyết định của trọng tài… thì tính độc lập của bảo lãnh sẽ giảm đi. c) Giao dịch bằng chứng từ và trên cơ sở chứng từ Trong giao dịch bảo lãnh, chứng từ cơ bản và không thể thiếu được mà người hưởng xuất trình để đòi tiền ngân hàng bảo lãnh là “yêu cầu trả tiền (Demand for payment)” và “tuyên bố vi phạm (Statement for default)”. Đây là bằng chứng để ngân hàng thực hiện nghĩa vụ trả tiền và yêu cầu người được bảo lãnh hoàn trả. Ngoài ra, với bảo lãnh có điều kiện còn có thể có các loại chứng từ khác như hối phiếu, hóa đơn, biên bản nghiệm thu… tùy theo từng giao dịch bảo lãnh cụ thể. Có một số quan niệm cho rằng, đặc điểm này của bảo lãnh là không rõ ràng hoặc giao dịch bảo lãnh hoàn toàn không phải là giao dịch chứng từ vì biên bản đòi tiền chỉ là thủ tục, là văn bản cần thiết của người hưởng để thực hiện việc đòi tiền ngân hàng. Tuy nhiên, nếu xét rộng hơn thì bảo lãnh là một cam kết bằng văn bản, việc thực hiện quyền của người hưởng cũng bằng văn bản và ngân hàng đòi người được bảo lãnh hoàn trả cũng căn cứ vào văn bản. Ngân hàng mặc dù không kiểm tra nội dung chi tiết văn bản đòi tiền của người hưởng nhưng chỉ thanh toán khi bề mặt chứng từ do người hưởng xuất trình thỏa mãn những yêu cầu của bảo lãnh. d) Ngân hàng là người đảm bảo trong bảo lãnh ngân hàng
  7. Về nguyên tắc, bảo lãnh có thể được phát hành bởi bất cứ pháp nhân hay thể nhân nào. Tuy nhiên, những người nhận bảo lãnh hay người thụ hưởng bảo lãnh nhận thấy việc chấp nhận bảo lãnh được phát hành bởi các cá nhân hay các doanh nghiệp là vô cùng rủi ro do khó xác định được năng lực tài chính, năng lực pháp lý của người phát hành bảo lãnh, đặc biệt là trong giao dịch quốc tế. Trên thực tế, hầu hết các bảo lãnh là do các ngân hàng thương mại phát hành. Chức năng của ngân hàng trong giao dịch bảo lãnh trước hết là tài trợ. Phát hành bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng nhằm đảm bảo sự chi trả phát sinh giữa các đối tác theo hợp đồng cơ sở. Ngân hàng coi việc phát hành bảo lãnh như một hình thức cấp tín dụng cho người được bảo lãnh và người được bảo lãnh phải có tài sản thế chấp cho khoản tín dụng này. Điều này tạo ra sự tin tưởng cao cho người thụ hưởng vào khả năng thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng còn là nơi cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Do vậy, ngân hàng phải có một bộ máy tổ chức tốt, phù hợp đảm bảo chất lượng dịch vụ về nhân sự, về kỹ thuật chuyên môn. Quan trọng hơn, các NHTM luôn phải đề cao uy tín của mình nên khả năng ngân hàng từ chối nghĩa vụ trả nợ theo bảo lãnh là rất thấp. Đây là ưu thế vượt trội của NHTM so với các doanh nghiệp. Ngân hàng không phải là người trung gian hòa giải hoặc là người xem xét giao dịch thực tế của hợp đồng cơ sở. Ngân hàng chỉ làm dịch vụ theo yêu cầu của hai phía và thể hiện bằng những cam kết độc lập trong bảo lãnh. e) Tính tương đối của cam kết vô điều kiện trong bảo lãnh độc lập Bảo lãnh ngân hàng thường là bảo lãnh vô điều kiện. Trong thư bảo lãnh, ngân hàng phát hành cam kết thanh toán vô điều kiện khi nhận được thư đòi tiền và tuyên bố vi phạm của người hưởng và không thể viện dẫn bất kỳ lý do nào ngoài nội dung thư bảo lãnh để từ chối thanh toán trừ khi ngân hàng phát hiện được người hưởng lạm dụng, gian lận hay lừa đảo. Tuy nhiên, cam kết thanh toán vô điều kiện của ngân hàng chỉ là tương đối. Trước hết, người hưởng chỉ được thanh toán vô điều kiện với điều kiện nếu họ thực hiện đúng các điều khiển trong bảo lãnh: xuất trình từ hoàn hảo, trong thời kỳ hiệu lực của bảo lãnh, số tiền không vượt giá trị bảo lãnh… Nếu không đáp ứng đúng các yêu
  8. cầu của bảo lãnh thì người hưởng không thể được thanh toán ngay cả khi thực tế người được bảo lãnh có vi phạm hợp đồng cơ sở. Tính tương đối của cam kết vô điều kiện của ngân hàng phát hành bảo lãnh còn được thể hiện bằng sự can thiệp của Luật quốc gia. Bảo lãnh giao dịch trên thị trường quốc tế tuân thủ theo các điều luật, các thông lệ quốc tế của Phòng thương mại quốc tế, Liên hiệp quốc… nhưng khi phát sinh tranh chấp, Luật quốc gia của nước được dẫn đến kết quả xét xử khác nhau và làm ảnh hưởng đến bản chất của cam kết vô điều kiện trong bảo lãnh. 1.1.4 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng 1.1.4.1Đối với nền kinh tế Sự tồn tại của bảo lãnh ngân hàng là một khách quan đối với nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu làm cho nền kinh tế ngày một phát triển. Đây chính là chất xúc tác làm điều hòa, xúc tiến hàng loạt các quan hệ trong hợp đồng kinh tế. Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể tin tưởng yên tâm tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế và có trách nhiệm với hợp đồng mà mình đã ký kết. Bảo lãnh ngân hàng đem lại lợi ích cho các bên tham gia và là công cụ thúc đẩy trao đổi buôn bán giữa các bên do đó có tác dụng thúc đẩy kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng có vai trò rất quan trọng với việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các chủ thể nền kinh tế. Các đơn vị kinh tế có thể dễ dàng tìm kiếm những nguồn vốn rẻ trong và ngoài nước khi có sự bảo lãnh của ngân hàng. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường mở, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng tạo dựng uy tín của các Doanh nghiệp Việt Nam, giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị trường ra nước ngoài, tăng vị thế của hàng Việt Nam, đồng thời tạo được nguồn thu ngoại tệ, giúp cân bằng cán cân thanh toán, ổn định đồng tiền nội tệ. Bảo lãnh ngân hàng cũng là một trong những giải pháp để phòng chống rủi ro có hiệu quả và được sử dụng phổ biến trong các hoạt động tín dụng, xây dựng và thương mại. Do đó với bảo lãnh ngân hàng, nền kinh tế có điều kiện để phát triển một cách ổn định và an toàn hơn. 1.1.4.2Đối với ngân hàng
  9. Bảo lãnh ngân hàng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cấp. Nhờ thế ngân hàng có khả năng mở rộng thêm khách hàng, một mặt là đáp ứng nhu cầu, gắn bó hơn với khách hàng truyền thống và một mặt là thu hút được các khách hàng mới. Bảo lãnh đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng đó là phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng một khoản tiền không nhỏ, chiếm một tỷ trọng lớn trong lợi nhuận từ các loại hình dịch vụ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các chủ thể kinh tế ngày càng sử dụng nhiều hơn các hình thức của bảo lãnh ngân hàng. Phí bảo lãnh được tính như sau: Phí bảo lãnh = tỷ lệ phí(%) * số tiền bảo lãnh * Thời gian bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng còn góp phần hỗ trợ các hình thức thanh toán của ngân hàng như thanh toán quốc tế (Bảo lãnh hối phiếu, Bảo lãnh L/C trả chậm). 1.1.4.3Đối với doanh nghiệp Trong các quan hệ kinh tế không phải khi nào cũng có thể tin tưởng nhau do rất nhiều nguyên nhân, đặc biệt là đối với 2 khách hàng mới làm ăn với nhau hay do làm ăn chưa lâu dài. Vì thế, để đảm bảo quan hệ làm ăn và để giảm thiểu rủi ro, bên cung cấp thường yêu cầu bên đối tác phải có bảo lãnh ngân hàng thì mới thực hiện giao dịch. Do đó, bảo lãnh ngân hàng đôi khi là yêu cầu bắt buộc, là chìa khóa để doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với hợp đồng kinh doanh. Ngoài ra, bảo lãnh ngân hàng còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm được khoản vay vốn đáng kể, có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động và doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản phí tương đối thấp. - Với bên hưởng bảo lãnh: Bảo lãnh ngân hàng giúp doanh nghiệp yên tâm hơn khi ký hợp đồng và thực hiện hợp đồng mà không tốn nhiều thời gian và chi phí. Giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội làm ăn ngay cả khi còn chưa tin tưởng vào đối tác lắm, nhờ đó mà tăng cường năng lực cạnh tranh. Giúp doanh nghiệp chọn được bạn hàng tốt nhất, giảm thiểu được rủi ro và khi có rủi ro xảy ra thì vẫn được bảo đảm bù đắp mọi thiệt hại, do đó sẽ không bị ảnh hưởng nhiều đến công việc kinh doanh. - Với bên được bảo lãnh: Bảo lãnh ngân hàng giúp doanh nghiệp có thể ký kết được hợp đồng làm ăn và nắm bắt được cơ hội tốt nhất ngay cả khi chưa xây dựng được lòng tin của đối tác. Bảo lãnh ngân hàng còn giúp doanh nghiệp nhận được nguồn tài trợ từ đối tác (đối với bảo lãnh tiền ứng trước) hoặc từ các tổ chức tín dụng khác (bảo lãnh
  10. cho vay vốn), lúc đó có thể giúp doanh nghiệp thực hiện hợp đồng, tham gia giao dịch và ký kết được hợp đồng. 1.1.5 Các hình thức của bảo lãnh ngân hàng 1.1.5.1 Phân loại bảo lãnh theo tính chất và điều kiện thanh toán Bão lãnh vô điều kiện Bão lãnh vô điều kiện là cam kết bão lãnh của ngân hàng bảo lãnh trả ngay một số tiền bồi thường cho người hưởng khi nhận được văn bản khiếu nại đầu tiên tuyên bố bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ được bảo lãnh trong trường hợp mà không kèm theo bất cứ một loại chứng từ chứng minh nào. Loại bảo lãnh này còn được gọi là bảo lãnh theo yêu cầu đầu tiên (Bank first demand guarantee) hay bảo lãnh độc lập (independent guarantee). Người được bảo lãnh trong loại bảo lãnh này luôn phải tuân thủ theo nguyên tắc: “trả tiền trước, khiếu nại sau”. Trường hợp người được bảo lãnh không vi phạm hợp đồng thì họ có quyền kiện người hưởng để đòi lại số tiền ngân hàng đã thanh toán cho người hưởng. Tuy nhiên, việc đòi thanh toán qua xét xử tạo tòa án lại mất thời gian và chi phí. Loại bảo lãnh này được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế. Bảo lãnh có điều kiện Là loại bảo lãnh mà ngân hàng bảo lãnh chỉ thực hiện việc thanh toán khi người thụ hưởng bảo lãnh xuất trình đầy đủ các giấy tờ theo yêu cầu của cam kết bảo lãnh chứng minh sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh hoặc phải có phán quyết của tòa án hay quyết định của trọng tài về việc vi phạm của người được bảo lãnh. Bảo lãnh này còn được gọi là bảo lãnh dự phòng (accessory guarantee), bảo lãnh có tính chất bảo hiểm (suretyship guarantee) hoặc bảo chứng (bond). Việc trả tiền trong bảo lãnh này gắn liền với những điều kiện chứng minh sự vi phạm của người được bảo lãnh do vậy đả m bảo được quyền lợi cho người được bảo lãnh những phức tạp và chậm trong việc đòi tiền nên người thụ hưởng ít chấp nhận. 1.1.5.2Phân loại bảo lãnh theo mối quan hệ giao dịch Bão lãnh trực tiếp Sơ đồ 1.1 Bảo lãnh trực tiếp: Ngân hàng phát hành
  11. (2) (3) (1) Người được Người thụ hưởng bảo lãnh bảo lãnh (1) Hợp đồng chính được ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh (2) Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh (3) Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng (sau khi xét duyệt và chấp nhận) Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh mà ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh cam kết trực tiếp trả tiền cho người hưởng. Nếu phát sinh thanh toán, người hưởng lập chứng từ đòi tiền theo quy định và xuất trình cho ngân hàng bảo lãnh. (Việc thông báo thư bảo lãnh va xuất trình chứng từ đòi tiền có thể thông qua ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng phục vụ người hưởng- việc thông báo và làm dịch vụ đòi tiền không ảnh hưởng đến cam kết trực tiếp của ngân hàng bảo lãnh). Thông thường loại bảo lãnh này chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật nước nơi phát hành. Khi sử dụng bảo lãnh trực tiếp, ngân hàng phát hành dễ gặp rủi ro do khó kiểm tra tư cách pháp lý của người hưởng cũng như chứng từ đòi tiền. Người hưởng có thể gặp rủi ro trong việc đòi tiền do không xác định được năng lực tài chính của ngân hàng bảo lãnh và sự khác biệt về phát luật mỗi nước. Bão lãnh gián tiếp Sơ đồ 1.2 : Bảo lãnh gián tiếp (3) NH phát hành NH chỉ thị (NH (NH thứ 2) thứ 1)
  12. (4) (2) (1) Người thụ hưởng Người được bảo lãnh hưởng bảo lãnh (1) Hợp đồng chính được ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh (2) Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân hàng chính phát hành bảo lãnh. (3) Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh, đồng thời cam kết bồi hoàn bảo lãnh đối ứng. (4) Ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh: có thể chuyển trực tiếp cho người thụ h- ưởng Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh mà theo yêu cầu của người được bảo lãnh, ngân hàng trong nước ủy nhiệm cho một ngân hàng đại lý ở nước ngoài hưởng phát hành bảo lãnh với cam kết sẽ hoàn trả số tiền ngân hàng phát hành thanh toán cho người hưởng. Trong loại hình này, ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh gửi chỉ thị gồm yêu cầu phát hành, cam kết thanh toán cùng nguyên văn thư bảo lãnh cho ngân hàng đại lý tại nước ngoài. Chỉ thị này gọi là bảo lãnh đối ứng (counter guarantee) hay bảo lãnh thứ yếu (secondary guarantee). Ngân hàng phát hành bảo lãnh trực tiếp (bảo lãnh chính yếu- primary guarantee) cho người hưởng được gọi là ngân hàng phát hành. Người hưởng sẽ đòi tiền tại ngân hàng phát hành nếu người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Sau đó ngân hàng phát hành sẽ đòi thanh toán từ ngân hàng yêu cầu bảo lãnh theo cam kết trong bảo lãnh đối ứng. Bảo lãnh gián tiếp đảm bảo cho quyền lợi của người thụ hưởng do ngân hàng phát hành ở cùng nước người hưởng, giao dịch giữa các ngân hàng sẽ thuận tiện và nhanh chóng hơn. Người hưởng thường chọn bảo lãnh gián tiếp khi không tin tưởng khả năng tài chính của ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh, khi giao dịch với khách hàng mới hoặc đối tượng được bảo lãnh có giá trị lớn, có nhiều rủi ro. 1.1.5.3Phân loại bảo lãnh theo đối tượng bảo lãnh
  13. Bảo lãnh hoàn trả Là cam kết sẽ thanh toán của ngân hàng bảo lãnh với bên cho vay hoặc bên ứng trước số tiền mà người đi vay hoặc người nhận ứng trước phải trả (số tiền đi vay và lãi phát sinh, số tiền ứng trước có hoặc không cộng thêm lãi) nếu người đi vay không trả nợ đầy đủ, đúng thời hạn hoặc người nhận ứng trước không giao hàng hoặc thực hiện hợp đồng. Đối tượng được đảm bảo trong bảo lãnh hoàn trả là các hợp đồng tín dụng, hợp đồng tài trợ hoặc các thư tín dụng có điều khoản ứng trước. Loại bảo lãnh này được sử dụng khi khoản ứng trước hoặc cho vay bằng tiền. Bảo lãnh sẽ hết hạn sau khi người đi vay trả xong nợ/ người bán giao đủ hàng hoặc sau ngày đáo hạn trả nợ/ ngày giao hàng cuối cùng một thời gian đủ để người mua hoặc người cho vay lập thủ tục đòi tiền nếu người đi vay không trả nợ hoặc người bán không giao hàng. Theo hợp đồng cơ sở, việc trả nợ hoặc giao hàng có thể được thực hiện làm nhiều lần, do vậy giá trị thư bảo lãnh sẽ tự động giảm thiểu tương ứng với từng lần trả nợ hay từng lần giao hàng và nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh sẽ kết thúc khi giá trị của bảo lãnh bằng 0. Theo nhiều quan điểm, có thể phân loại chi tiết bảo lãnh hoàn trả thành bảo lãnh tín dụng (letter of guarantee for loan) và bảo lãnh tiền ứng trước (advance payment gurantee). Bảo lãnh tín dụng thường bảo lãnh cho toàn bộ giá trị hợp đồng tín dụng còn bảo lãnh tiền ứng trước thường bảo lãnh cho số tiền ứng trước bằng khoảng 5% đến 20% giá trị hợp đồng. Bảo lãnh thanh toán Là cam kết sẽ thanh toán của ngân hàng bảo lãnh với người bán mà người mua phải trả (tiền thi công công trình, tiền thuê máy móc, tiền bán hàng hóa…) nếu người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ. Đối tượng trong bảo lãnh này là các hợp đồng xây dựng, hợp đồng thương mại. Đặc biệt nó thường được sử dụng khi các tổ chức, doanh nghiệp phát hành các loại chứng từ có giá như thương phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu… Sự đảm bảo mua lại các NHTM có uy tín sẽ khiến người mua yên tâm và tin tưởng hơn.
  14. Ngoài yêu cầu đòi tiền và tuyên bố vi phạm như các bảo lãnh vô điều kiện khác, bảo lãnh thanh toán thường yêu cầu người hưởng phải xuất trình chứng từ chứng minh người bán đã giao hàng như hóa đơn thương mại (có hoặc không có xác thực của hải quan) hoặc biên bản nghiệm thu công trình nếu đối tượng bảo lãnh là hợp đồng xây dựng. Bảo lãnh dự thầu Là cam kết của ngân hàng phát hành sẽ thanh toán một số tiền nhất định cho chủ thầu khi người dự thầu có những vi phạm quy chế đấu thầu hoặc không ký hợp đồng hay không cung cấp bảo lãnh thực hiện hợp đồng khi trúng thầu. Giá trị bảo lãnh dự thầu thường bằng 1-5% giá trị gói thầu. Mục đích của bảo lãnh đấu thầu nhằm đảm bảo người dự thầu tham gia dự thầu một cách nghiêm túc, không bỏ dở dự thầu, không sửa đổi hồ sơ trong thời gian dự thầu. Bảo lãnh dự thầu còn là hình thức đảm bảo với chủ thầu người bán sẽ thực hiện hợp đồng nếu trúng thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng sẽ được phát hành. Nhờ việc ràng buộc trách nhiệm người dự thầu khi dự thầu và trúng thầu, hình thức này giúp chủ thầu hạn chế những người dự thầu không nghiêm túc, không có khả năng thực hiện hợp đồng. Nếu người dự thầu trúng thầu, thời hạn bảo lãnh dự thầu thường kết thúc khi hợp đồng được ký kết và bảo lãnh thực hiện hợp đồng có hiệu lực. Trường hợp người dự thầu không trúng thầu, cam kết bảo lãnh tự động hết hiệu lực và thường được quy định trả lại bản gốc cho ngân hàng phát hành. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Là bảo lãnh của ngân hàng đối với người thụ hưởng về việc thực hiện hợp đồng của người nhận bảo lãnh. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là đảm bảo cho người nhập khẩu trong trường hợp người bán không giao hàng hoặc giao hàng không đúng hợp đồng về số lượng, chất lượng hay thời hạn… Là đảm bảo cho người xuất khẩu trường hợp người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như bảo lãnh nghĩa vụ giao hàng trong thương mại quốc tế, bảo lãnh hoàn thành công trình trong xây dựng, lặp đặt thiết bị, bảo hành máy. Thông thường giá trị thư bảo lãnh thường bằng 5% đến 10% giá trị hợp đồng và số tiền có thể giảm thiểu theo tiến độ thực hiện hợp đồng.
  15. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh kết thúc khi người được bảo lãnh thực hiện xong nghĩa vụ của mình trong hợp đồng cơ sở. Bảo lãnh bảo hành Bảo lãnh bảo hành là cam kết của ngân hàng bảo lãnh sẽ thanh toán cho người được thụ hưởng nếu người nhận bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo hành máy móc thiết bị hoặc công trình đã được quy định trong hợp đồng. Trị giá thư bảo lãnh thường bằng 5% đến 10% giá trị hợp đồng. Thời hạn của bảo lãnh thường chấm dứt sau khi nghĩa vụ bảo hành chấm dứt một thời gian ngắn. Hình thức bảo lãnh này đòi hỏi người bán quan tâm đến chất lượng hàng hóa đã cung cấp vì họ còn có trách nhiệm trong khoản thời gian vận hành, chạy thử máy móc thiết bị, kiểm nghiệm công trình xây lắp. Bảo lãnh này thường được áp dụng trong trường hợp nhập khẩu thiết bị toàn bộ. 1.1.5.4Các loại bảo lãnh khác Thư tín dụng dự phòng Theo định nghĩa của ICC, thư tín dụng dự phòng là cam kết của ngân hàng phát hành đối với người thụ hưởng sẽ thanh toán cho họ một khoản tiền nợ hoặc ứng trước của người mở L/C hoặc bồi hoàn những thiệt hại do người mở không thực hiện nghĩa vụ của mình. Giống như bảo lãnh độc lập, thư tín dụng dự phòng là một công cụ đa năng, sử dụng trong mọi lĩnh vực tài chính và phi tài chính như đảm bảo thanh toán cho các khoản vay, ứng trước, đền bù tổn thất do vi phạm cam kết, không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng… Bảo lãnh nhận hàng Bảo lãnh nhận hàng là đề nghị giao hàng cho người được bảo lãnh khi không có vận đơn gốc và cam kết bồi thường mọi tổn thất của ngân hàng phát hành (thường là ngân hàng phát hành L/C hoặc thông báo nhờ thu) đối với đại lý giao nhận hàng, hãng tàu hoặc đơn vị hải quan… do việc nhận hàng không có vận đơn gây ra đồng thời cam kết trả lại vận đơn gốc khi nhận được. Trường hợp lô hàng nhận được thanh toán bằng L/C thì ngân hàng khi phát hành bảo lãnh nhận hàng sẽ không còn quyền từ chối bộ chứng từ sai sót được xuất trình theo
  16. L/C. Vì vậy, trong yêu cầu bảo lãnh nhận hàng, người nhập khẩu cần có cam kết sẽ thanh toán L/C ngay cả khi bộ chứng từ có sai sót. Bảo lãnh thuế quan Là cam kết của ngân hàng phát hành với cơ quan thuế vụ sẽ thực hiện trách nhiệm của người nộp thuế đến hạn mà người nộp thuế không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế. Loại bảo lãnh này được sử dụng khi doanh nghiệp chưa có tiền nộp hoặc chưa muốn tạm nộp vì khoản thuế đang có khiếu nại; doanh nghiệp tạm nhập tái xuất không muốn tạm nộp khoản thuế nhập khẩu. 1.2 Chất lượng bảo lãnh ngân hàng 1.2.1 Khái niệm chất lượng bảo lãnh Trong bất kỳ một nghiệp vụ nào của ng ân hàng nói chung hay của hoạt động bảo lãnh nói riêng đều phát sinh từ yêu cầu của chủ thể tham gia, tùy vào từng nghiệp vụ thì các chủ thể tham gia nhiều hay ít. Trong nghiệp vụ bảo lãnh có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể,đó là người yêu cầu bảo lãnh, ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh Để nâng cao chất lượng của hoạt động bảo lãnh thì cần đảm bảo lợi ích tốt nhất của các chủ thể tham gia. Vậy chất lượng của bảo lãnh là việc ngân hàng bảo lãnh đáp ứng được yêu cầu bảo lãn h, làm thỏa mãn được lợi ích của khách hàng ( bao gồ m bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh ), đồng thời vẫn đảm bảo được sự h oạt động hiệu quả của Ngân hàng và phù hợp với sự phát triển kinh tế. 1.2.1 Các tiêu chí phản ánh chất lượng bảo lãnh Như trên ta thấy chất lượng bảo lãnh là một chỉ tiêu tổn g hợp được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Ta sẽ xem xét chất lượng của hoạt động bảo lãnh dưới giác độ của Ngân hàng, của khách hàng cũng như dưới giác độ của nền kinh tế. 1.2.1.1 Xét trên góc độ của khách hàng: Ngân h àng là loại hình doanh nghiệp mà hoạt động của nó cần phải dựa trên mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Ngân hàng cần phải hiểu rõ nhu cầu của khách hàng, đảm bảo thỏa mãn một cách tối ưu những nhu cầu đó. Trong nền kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam ra nhập WTO, sự cạnh tranh của các Ngân hàng hơn bao giờ hết càng trở
  17. nên mạnh mẽ hơn, thì chất lượng của các nghiệp vụ là yêu cầu hàng đầu. Hoạt động bảo lãnh xét trên góc độ của khách hàng được đánh giá cao khi: - Với người được bảo lãnh: Ngân hàng phải tạo cho khách hàng nhiều cơ hội kinh doanh hơn, có khả năng được ký nhiều hợp đồng lớn, thu hút được nhiều nguồn vốn lớn, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng bảo lãnh phụ thuộc vào: + Thời gian và thủ tục tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh (có đơn giản, gọn nhẹ và thuận tiện cho khách hàng hay không?). + Mức phí, mức kỹ quỹ, tỷ lệ tài sản đảm bảo thấp + Hạn mức bảo lãnh + Các dịch vụ đi kèm, có hấp dẫn khách hàng không, có thiết thực cho những hoạt động của khách hàng hay không? - Với người nhận bảo lãnh: Với người nhận bảo lãnh, chất lượng hoạt động bảo lãnh là phải tạo dựng được niềm tin về sự an toàn khi ký kết các hợp đồng đối với đối tác. Chất lượng đó được đánh giá trên cơ sở: + Bảo lãnh phải đảm bảo khả năng thanh toán chắc chắn cho bên được hưởng bảo lãnh trong trường hợp có xảy ra rủi ro theo quy định của hợp đồng bảo lãnh + Đảm bảo thủ tục nhanh gọn, thuận tiện chính xác khi thanh toán bảo lãnh. + Tạo được niềm tin cho người nhận bảo lãnh khi trao các hợp đồng hay rót vốn đầu tư cho đối tác. 1.2.1.2 Xét trên giác độ của nền kinh tế: Nghiệp vụ bảo lãnh ra đời xuất p hát từ những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Xét trên giác độ của nền kinh tế, thì chất lượng bảo lãnh được đánh giá cao khi: - Thông qua bảo lãnh theo ngành nghề kinh tế phù hợp với cơ cấu khinh tế của đất nước, phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn, thay đổi chuyển dịch cơ cấu theo hướng dịch vụ- công- nông nghiệp. - Đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn và công nghệ của nền kinh tế,tạo thêm công ăn việc làm, thúc đẩy ph át triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân…
  18. - Thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hình ảnh, vị thế và uy tín của quốc gia trên thương trường quốc tế. 1.2.1.2 Xét trên giác độ của Ngân hàng: Doanh số bảo lãnh và dư nợ bảo lãnh: Doanh số bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh phát sinh trong năm. Dư nợ bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Doanh số bảo lãnh (dư nợ bảo lãnh) tăng lên qua các năm cho thấy hoạt động bảo lãnh của N gân hàng được mở rộng, phát triển, chứng tỏ sự ổn định trong hoạt động của Ngân hàng, điều này cũng có nghĩa là chất lượng hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng ngày càng được nâng cao . Đây cũng là nhân tố quan trọng để tạo dựng được niềm tin của khách hàng và thu hút khách hàng đến với dịch vụ bảo lãnh của Ngân hàng cũng như các dịch vụ khác của Ngân hàng. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, nếu dư nợ bảo lãnh cao không phù hợp với cơ cấu tài sản của Ngân hàng cũng có thể đặt Ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro nhất là khi danh mục bảo lãnh của Ngân hàng tập trung quá lớn vào một loại hình bảo lãnh, cũng có thể dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán nếu như các biện pháp phòng ngừa rủi ro được thực hiện không tốt. Như vậy, chất lượng bảo lãnh được đánh giá cao khi doanh số bảo lãnh tăng trưởng đều qua các năm, phát triển phù hợp với xu hướng phát triển của Ngân hàng và điều đặc biệt quan trọng là phù hợp với khả năng cân đối Nguồn vốn của Ngân hàng. Đây là một chỉ tiêu quan trọng để phản ánh chất lượng bảo lãnh, tuy nhiện không phải là chỉ tiêu duy nhất, Ngân hàng cần phải kết hợp phân tích nhiều chỉ tiêu khác để đưa ra được kết luận chính xác hơn, ví dụ như các chỉ tiêu về doanh thu từ hoạt động bảo lãnh, dư nợ bảo lãnh quá hạn… Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh: Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh là một chỉ tiêu quan trọng và có tính chất bao trùm hơn cả trong các chỉ tiêu định lượng. Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh phản ánh trực tiếp khả năng sinh lời từ hoạt động bảo lãnh. Một hoạt động được đánh giá là chất lượng cao khi đem lại thu nhập cao cho Ngân hàng. Nguồn thu bảo lãnh được tính từ tổng số
  19. phí thu được mà khách hàng tham gia bảo lãnh trả và các khoản tiền thu được thông qua khoản tiền ký quỹ của khách hàng. Doanh thu bảo lãnh lớn và tăng trưởng đều qua các năm sẽ phản ánh chất lượng của hoạt động bảo lãnh ngày một tốt hơn. Ngoài ra, Ngân hàng còn phải xem xét doanh thu bảo lãnh trong mối quan hệ tương quan với doanh thu từ các hoạt động khác của Ngân hàng. Đó là các tiêu chí sau: Tỷ trọng doanh thu từ Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh hoạt động bả o lãnh = x100% Tổng doanh thu từ dịch vụ trong thu dịch vụ Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời và vị trí của hoạt động bảo lãnh trong toàn bộ các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn, càng chứng tỏ tầm quan trọng của bảo lãnh trong hoạt động dịch vụ của Ngân hàng. Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo = x100% Tổng doanh thu lãnh trong tổng doanh thu Chỉ tiêu này thể hiện vị trí của hoạt động bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ vị trí của hoạt động bảo lãnh ngày càng quan trọng trong các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và điều đó cũng chứng tỏ hoạt động của Ngân hàng ngày càng được đa dạng hóa hơn. Dư nợ bảo lãnh quá hạn: Đây là khoản vốn Ngân hàng trả thay bảo lãnh đã đến hạn thanh toán, không được gia hạn nợ mà khách hàng vẫn chưa bồi hoàn lại cho Ngân hàng. Dư nợ bảo lãnh lớn thể hiện Ngân hàng đang đứng trước nguy cơ mất vốn, chất lượng bảo lãnh không tốt, đặc biệt là chất lượng công tác thẩm định của Ngân hàng là không tốt. Ngược lại, nếu dư nợ bảo lãnh quá hạn nhỏ chứng tỏ Ngân hàng đã quản lý rất tốt nguồn vốn của mình. Khi xem xét đến dư nợ bảo lãnh, ta cũng cần xem xét trong mối quan hệ với doanh số bảo lãnh trong năm, thông qua chỉ tiêu sau: Tỷ lệ bảo lãnh quá hạn = Dư nợ bảo lãnh quá hạn x100%
  20. Dư nợ bảo lãnh Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng doanh số bảo lãnh quá hạn trong tổng doanh số bảo lãnh, phần trăm doanh số bảo lãnh đã phát sinh rủi ro. Khi dư nợ bảo lãnh lớn thì điều này chứng tỏ hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng chưa thực sự an toàn và hiệu quả. Ngược lại, một tỷ lệ dư nợ bảo lãnh thấp là biểu hiện của một hoạt động bảo lãnh có chất lượng tốt. Vì vậy, Ngân hàng nên duy trì tỷ lệ này càng thấp càng tốt, tuy nhiên không nên chỉ chú trọng vào việc đó vì nếu như thế sẽ hạn chế đến việc mở rộng hoạt động bảo lãnh. Sau khi Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thanh toán bảo lãnh của mình, Ngân hàng sẽ ghi nợ vào tài khoản tiền gửi của khách hàng, có quyền truy đòi số tiền đã thanh toán. Nếu đến hạn gia nợ mà khách hàng vẫn chưa trả hết hay trả đủ số tiền thì Ngân hàng sẽ đưa khoản tiền đó vào nợ quá hạn và áp dụng lãi phạt cho khách hàng. Nếu khoản nợ quá hạn phát sinh từ một khoản bảo lãnh cs thời hạn trên một năm thì tính chính xác của hai chỉ tiêu trên không còn cao nữa. Do đó, cần phải xem xét kết hợp với các chỉ tiêu khác, xem xét thêm chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng và tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi. Cụ thể: Dư nợ bảo lãnh quá hạn từ 6 tháng đến dưới 1 năm Tỷ lệ nợ quá hạn khê x100% = đọng Tổng dư nợ bảo lãnh Dư nợ bảo lãnh quá hạn trên 1 năm Tỷ lệ nợ quá hạn khó = x100% đòi Tổng dư nợ bảo lãnh Việc phân loại nợ như thế sẽ giúp cho Ngân hàng trong việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Các chỉ tiêu khác:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2