Tiểu luận: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 48
download
Tiểu luận trình bày phạm trù thực tiễn và lý luận thực tiễn; phạm trù thực tiễn và lý luận thực tiễn; vai trò nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc phát triển lý luận ở việt nam hiện nay. Để nắm chi tiết nội dung nghiên cứu mời các bạn cùng tham khảo tiểu luận.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam hiện nay
- LỜI MỞ ĐẦU Trong cuộc tấn công, chống phá ta của các thế lực phản động trong và ngoài nước, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bởi đây là lĩnh vực nhạy cảm, có tác động lâu dài và khó lường. Với âm mưu xảo quyệt, các thế lực phản động liên tục và ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình"; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng ta để đi đến tan rã, như sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây. Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch” Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động. 1
- Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam hiện nay”. 2
- NỘI DUNG I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN THỰC TIỄN 1. Phạm trù thực tiễn 1.1 Khái niệm về thực tiễn Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít): Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất – cảm tính có mục đích, mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội 1.2 Đặc trưng của thực tiễn Thứ nhất, theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực tiễn là hoạt động gắn liền với con người, nhưng không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động của vật chất – cảm tính, những hoạt động vật chất cảm giác được. Đó là hoạt động của con người, sử dụng những công cụ vật chất, tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích nhất định. Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử xã hội của con người. Hoạt động thực tiễn phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm người, nhưng các cá nhân phải có quan hệ với nhau và không thể tách tời các quan hệ xã hội. Nghĩa là, thực tiễn chỉ diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo những con người trong xã hội. Đồng thởi, thực tiễn cũng trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể, chịu sự chi phối của ngững điều kiện lịch sử, cả về đối tượng, phương tiện, cũng như mục đích hoạt động của con người. Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích, tính hiện thực trực tiếp. Thực tiễn phải hướng đến cải tạo thế giới, cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ con người, chứ không chỉ là hoạt động bản năng, bằng lòng với những cái có sẵn trong tự nhiên. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác với hoạt động bản năng, thích nghi một cách thụ độngcủa con vật với thế giới xung quanh. 1.3 Các hình thức cơ bản của thực tiễn 3
- Thực tiễn có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động khởi nguyên, đầu tiên, cơ bản nhất của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt động mà con người trực tiếp tác động vào đối tượng vật chất, vào thế giới khách quan, nhằm tạo ra của cải vật chất. Không có sản xuất vật chất con người và xã hội loài người không thể tồn tại, phát triển. Không những thế, sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của các hình thức thực tiễn khác, cũng như tất cả các hoạt động khác của con người. Có thể nói, các hoạt động khác của con người, suy cho cùng đều xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất. Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chúc, các cộng đồng người khác nhau trong xã hội, thể hiện tính tự giác cao của con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội, v.v. tạo ra môi trường xã hội thuận lợi, phù hợp với nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện không có sẵn trong tự nhiên, mà do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái trong tự nhiên, nhằm tìm hiểu các quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu theo mục đích dã đề ra. Trong giai đoạn hiện nay, khoa học đóng một vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát triển của xã hội thì hình thức thực tiễn này ngày càng có vị ttri1 quan trọng trong hoạt động của con người. Ba hình thức cơ bản của thực tiễn nêu trên, có quan hệ chặt chẽ, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học. Ngược lại, hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học tác động trở lại hoạt động sản xuất vật chất. Chính trị xã ho65u ổn định tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, thực nghiệm khoa học phát triển thì năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất sẽ được nâng cao. 4
- Ngoài ba hình thức cơ bản trên, hoạt động thực tiễn còn có những hình thức không cơ bản được thể hiện ở một số lĩnh vực khác nhau như gia1so dục, y tế, nghệ thuật, thể thao,v.v.. 2. Phạm trù lý luận 2.1 Khái niệm lý luận Hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức là hai hoạt động đặc trưng của con người, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, không ta1hc rời nhau. Trong quá trình tác động vào thế giới, cải tạo thế giới, hoạt động nhận thức của con người cũng bắt đầu hình thành. Nhận thức, theo quan điêm của triết học máccxit là quá trình con người rìm hiểu, phản ánh thế giới khách quan, nhưng đó không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động mà là quá trình phản ánh biện chứng. tích cực và sáng tạo trên cơ sở thực tiễn. Đó là sự phản ánh có chọn lọc, chủ động có mục đích để nắm bắt bản chất của hiện thực chứ không phải là sự sao chép nguyên xi. Qua quá trình nhận thức biện chứng, còn hiểu biết riêng lẻ từng mặt, bề ngoài của đối tượng những hiểu biết kinh nghiệm, thông qua các thao tác của tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… lý luận được nảy sinh, hình thành và phát triển 2.2 Đặc trưng của lý luân Thứ nhất, lý luận là một hệ thống trí thức có tính logíc chặt chẽ, tính khái quát cao và tính phổ biến; được thể hiện thông qua những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật… phản ánh bản chất, tính tất yếu của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Thứ hai, bản chất của lý luận là khái quát những trí thức kinh nghiệm thực tiễn, cho nên không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì lý luận không thể nảy sinh, hình thành và phát triển. Thứ ba, lý luận không dừng lại ở việc phản ánh hiện tượng, mà đi sâu vào xem xét bản chất, mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng. Do đó lý luận phản ánh được tính tất yếu, tính quy luật của sứ vật, hiện tượng, đưa ra những dự báo xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. 5
- II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận Điều đó có nghĩa, thực tiễn là nền tảng, là điểm xuất phát của lý luận. Chính trên nền tảng của hoạt động thực tiễn con người mới có nhu cầu tìm hiểu, khám phá thế giới, hoạt động nhận thức, lý luận mới nảy sinh. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho chúng bộc lộ những thuộc tính, tính chất, quy luật…Trên cơ sở đó, con người mới có hiểu biết về sự vật và khái quát những hiểu biết ấy dể hình thành, phát triển lý luận. Như vậy, chính nhở có hoạt động thực tiễn, lý luận mới ra đời, phát triển. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “…chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cái biến tự nhiên” Có thể nói, mọi hiểu biết của con người dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người khác, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận,…suy cho cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Nếu không có hoạt động thực tiễn, con người không thể có được lý luận khoa học, cách mạng. Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng mới cho lý luận, đòi hỏi lý luận phải giải quyết. Vì thế, nó luôn bắt con ngưởi phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng sự hiểu bết hiện có, đánh giá kiểm tra lại kiến thức cũ, cách tiếp cận cũ, thậm chí phải thay thế những tri thức cũ, lạc hậu bằng những tri thức mới. Trên cơ sở đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển. Đúng như Ph.Ăngghen đã nói, khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nó thúc đẩy khoa học phát triển hơn mười trường Đại học. Thực tiễn còn là cơ sở góp phần rèn luyện các giác quan và tư duy của con người, làm cho chúng ta phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, năng lực tư duy loogic không ngừng được củng cố và phát triển. trên cơ sở đó, 6
- giúp con người nhận thức đối tượng ngày cảng chính xác hơn, sâu sắc hơn, khái quát lý luận đúng đắn hơn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người còn chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc hiện đại, như kính hiển vi, kính thiên văn, tàu vũ trụ… góp phần hỗ trợ con người “nối dài” các giác quan trong quá trình khám phá chinh phục thế giới. Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận Thực tiễn là đích cuối cùng lý luận phải hướng tới, phải giải quyết. Chính nhu cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh. Nghĩa là , nhận thức con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cẩu thực tiễn; ngược lại kết quả của nhận thức, của lý luận sẽ phục vụ cho chính thực tiễn phát triễn. Lý luận không đáp ứng được mục đích thực tiễn đặt ra, lý luận đó sẽ không có giá trị. Những tri thức – kết quả của nhận thức, những lý luận – kết quả của khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá trị, có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiển; cụ thể là vận dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học phục vụ con người. Lý luận có mục đích tự thân, nó chỉ có giá trị khi thâm nhập vào thực tiễn, được vật chất hóa, biến tri thức khoa học thành phương tiện ttrong việc biến đổi hiện thực. Thứ tứ, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra của lý luận Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ xác nhận được tri thức là đúng hay sai, chân lý hay sai lầm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Mọi sự biến đổi của sự nhận thức hay lý luận suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Con người có được những hiểu biết về thế giới thông qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, chính thực tiễn là tiêu chuẩn, là thước đo giá trị của những tri thức mà con người đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời, nó bổ sung, điều chỉnh, phát triển những tri thức lý luận đã có, làm cbo lý luận ngày càng đầy đủ hơn và sau sâu sắc hơn. C. Mác, trong luận cương về Phoiobac đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của 7
- con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh trãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy” Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể kiểm tra tính đúng, sai của lý luận, khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tất cả những tri thức chứ được thực tiễn kiểm tra, xác nhận đều không có cơ sở khẳng định tính đúng đắn của nó. Tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện ở chỗ, nó luôn vận động, biến đổi, phát triển, do đó, với tư cách là tiêu chuẩn chân lý nó không cho phép người ta xem bất kỳ một tri thức nào là bất di bất dịch, không thay đổi. Vì vậy, khi thực tiễn thay đổi thì nhận thức, lý luận cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với thực tiễn mới. Không có chân lý vĩnh viễn, bất di bất dịch; mọi tri thức dù là đúng vẫn phải tiếp tục kiểm tra, để kịp thời bổ sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn ở mỗi lĩnh vực nhất định chỉ đủ sức kiểm tra những tri thức nảy sinh trong phạm vi lĩnh vực đó. Như vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của lý luận, mà còn là nơi lý luận phải luôn hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn của mình. 2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “ thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”. Điều này có nghĩa rằng, lý luận mặc dù do thực tiễn quyết định, nhưng bản thân quyết định, nhưng bản thân lý luận khi đã hình thành thì lại có một vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận khoa học được thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, lý luận đóng vai trò là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn. 8
- Lý luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo yêu cầu, mục đích phát triển của con người và xã hội. Nếu thực tiễn không được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực tiễn đó sẽ mất phương hướng, “ lúng túng như nhắm mắt mà đi”, rơi vào mò mẫm, vòng vo, có khi lại quay trở lại xuất phát điểm ban đầu, không hiệu quả, gây tốn kém, lãng phí thời gián, công sức. Thứ hai, lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng nảy sinh, hình thành và phát triển Không có lý luận cách mạng không thể có phong trào cách mạng. Lý luận khoa học, cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập quần chúng để tạo nên những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng. Nhờ có lý luận khoa học, phong trào cách mạng của quần chúng không còn mang tính tự phát, trở thành hoạt động , chủ động, tự giác, tích cực. C.Mác nhấn mạnh:… “lý luận cũng se4tro73 thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” Thứ ba, lý luận góp phần dự báo tương lai Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề, mầm mống và khả năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu phản ánh đúng bản chất, nắm được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Như vậy,dự báo tương lai là kết quả của thao tác tư duy, như phân tích và tổng hợp, lo6gic và lịch sử…tức là quá trình nhận thức, phản ánh, phán đoán về sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng. Dự báo tương lai là một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Khi con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo. Chính vì vậy, chức năng dự báo là một chức năng rất quan trọng của lý luận. Như vậy, thực tiễn và lý luận không tách rời nhau, giũa chúng có sự liên hệ, xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Vì thế, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là nguyên tắc căn bản 9
- của chủ nghĩa Mácle6nin. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới ờ nước ta hiện nay. III. VAI TRÒ NGUYÊN TẮC THÔNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn của nhận thức. 1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn). Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn. Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức. Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên. Thư nhất, Thực tiễn là động lực của nhận thức Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật. Thứ hai,Thực tiễn là mục đích của nhận thức 10
- Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn. Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Thứ tư,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý a) Chân lý Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người) Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý tôn giáo). Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá trình nhận thức của nhân loại. b) Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không. Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau. +Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển. 11
- +Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm. Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức. c) Ý nghĩa: Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ. Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn 2.1. Lý luận a. Khái niệm: Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan. 12
- b. Đặc điểm: Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng. Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học. 2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người. a) Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến. b) Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn Ví dụ: lý luận Mác Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận. Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập. c) Lý luận và thực tiễn là thống nhất Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự 13
- thống nhất đó là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác Lênin. d) Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động. *Ý nghĩa: Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác Lênin và các lý luận về kinh tế. Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của con buôn (PhơBách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”. V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980) Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế 14
- nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển. Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI. e) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”1996) *Con đường biện chứng của sự nhận thức: Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”. +Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng... 15
- +Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại. Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với thực tiễn vì: + Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. +Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm. +Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức. Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan. 3. Thực trạng lý luận ở nước ta hiện nay Từ khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa MácLeenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước,Đảng ta không ngừng phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định. Về mô hình chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề cập sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn 16
- diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Tại Đại hội X, mô hình xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng ta bổ sung, phát triển với tám đặc trưng: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước phát quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Trên cơ sở kế thừa, phát triển tư tưởng Đại hội X, quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triểm năm 2011) thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã được hoàn thiện hơn một bước: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Như vậy, có thể nói rằng trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, lý luận của Đảng ta về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn, cụ thể hơn. Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận thức ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với 17
- thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội. Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (1991) đề ra bảy phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội: + Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh công nhân nông dân trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. + Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm. + Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. + Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan MácLênin và tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh giữ được vị trí chủ đạo trong đờ sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt d0e5p của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người. + Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị tất cả các nước trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. + Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. 18
- + Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, đồng thời kế thừa Cương lĩnh đại hội VII, trong Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011), Đảng ta đưa ra tám phương hướng lớn: + Đẩy mạnh công nghiệp công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên môi trường. + Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. + Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. + Bảo đảm vững chăc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. + Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập. tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. + Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. + Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. + Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh! Như vậy Đảng ta không chỉ xác định được xã hội mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội như thế nào, mà còn xác định đúng đắn, sáng tạo những phương hướng cơ bản, coi đây là những vấn đề có tính quy luật của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở thực tiễn của đất nước, ngay từ khi đổi mới. Đảng ta đã xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự “ quá độ gián tiếp” trong Cương lĩnh (1991) đã sử dụng cụm từ “ bỏ qua chế độ tư bản” và xác định: “ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nữa phong kiến lực lượng sản xuất rất thấp” 19
- Qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển luận điểm trên cụ thể hơn: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ n ghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Tiếp theo Cương lĩnh ( bổ sung phát triển năm 2011) chỉ rõ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhất thiết phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội đan xen. Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc rằng, với đặc điểm của một nước thuộc địa nữa phong kiến, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì không thể quá độ trực tiếp mà phải quá độ gián tiếp theo phương thức “phát triển rút ngắn” lên chủ nghĩa xã hội. Đây là bước phát triển tất yếu khách quan, hợp qui luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên, là con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động việt nam. Về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đại hội VI Đảng ta đã xác định mô hình quản lý kinh tế tập trung, bao cấp không còn phù hợp và nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ. Vì vậy Đại hội VII đã khẳng định đó là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước” Đồng thời, cụ thể hóa một bước về chế độ công hữu, đó là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đến đại hội IX khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định rõ hơn nữa: “ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận - Mối liên hệ lý luận và thực tiễn
26 p | 4439 | 1499
-
Tiểu luận triết học: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam
26 p | 3465 | 263
-
Tiểu luận: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng ACB chi nhánh Tiền Giang
33 p | 573 | 158
-
Tiểu luận:THIẾT KẾ BẢNG CÂU HỎI
16 p | 530 | 88
-
Tiểu luận: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghịa Mác –Lenin trong việc giảng dạy ngành điện công nghiệp ở Quảng Ngãi
22 p | 365 | 75
-
Tiểu luận môn Triết học: Phân tích và chứng minh luận điểm: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông
14 p | 372 | 34
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay
43 p | 134 | 33
-
Tiểu luận: Ứng dụng các nguyên tắc sáng tạo trong quá trình xây dựng và phát triển Iphone
35 p | 317 | 31
-
Đề tài triết học " PHƯƠNG ĐÔNG - PHƯƠNG TÂY: TỪ MỘT BÀI THƠ, SUY NGHĨ VỀ KHÁC BIỆT VÀ THỐNG NHẤT "
13 p | 124 | 26
-
Bài thuyết trình Lý luận dạy học
20 p | 202 | 23
-
Tiểu luận Quản lý nhà nước của các cơ quan quyền lực nhà nước: Tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay
28 p | 34 | 17
-
Tiểu luận: Khế ước xã hội và quyền công dân
2 p | 288 | 15
-
Tiểu luận:CÁC PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO KHOA HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH (SMARTPHONE)
19 p | 93 | 11
-
Tiểu luận:NHỮNG NGUYÊN TẮC SÁNG TẠO ỨNG DỤNG TRONG MÔ HÌNH XỬ LÝ CÚ PHÁP VÀ NGỮ NGHĨA CHO CÂU HỎI TIẾNG VIỆT TRONG HỆ THỐNG TÌM KIẾM THƯ VIỆN
31 p | 111 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Xây dựng đảng và Chính quyền nhà nước: Thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị giai đoạn hiện nay
215 p | 55 | 10
-
Tiểu luận: Cơ cấu tổ chức của chính quyền Trung ương
9 p | 108 | 9
-
Tiểu luận: NHỮNG NGUYÊN TẮC SÁNG TẠO ỨNG DỤNG TRONG MÔ HÌNH XỬ LÝ CÚ PHÁP VÀ NGỮ NGHĨA CHO CÂU HỎI TIẾNG VIỆT TRONG HỆ THỐNG TÌM KIẾM THƯ VIỆN
31 p | 93 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn