intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

675
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của bài tiểu luận với đề tài "Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam" được trình bày thành 3 phần: Một số vấn đề lý luận cơ bản, thực trạng của việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, các giải pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam

  1. ĐỀ ÁN MÔN: NGUỒN NHÂN LỰC Đề tài: Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam. 1
  2. MỞ ĐẦU Việt Nam là một quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời, vốn là 1 đất  nước thuần nông, lao động chủ yếu là thủ công, kỹ thuật còn thô sơ lạc hậu nên  trong một thời gian dài nền kinh tế còn phát triển chậm không theo kip với sự đi  lên nhanh chóng của các nước trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, muốn phát  triển kinh tế nhanh thì trước hết phải xây dựng một nền tảng khoa học kỹ thuật   vững chắc. Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  IX đã đề  ra chiến lược  phát triển kinh tế  xã hội Việt Nam trong 10 năm tới là đẩy mạnh công nghiệp  hoá­hiện đại hoá (CNH­HĐH) theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để  đến năm 2020 nước ta cơ bản là một đất nước công nghiệp. Nước công nghiệp  ở  đây được hiểu là một đất nước có nền kinh tế  mà trong đó lao động công  nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Để thực hiện muc tiêu tổng quát trên một cách thành công đòi hỏi phải có  các tiền đề cần thiết, phát huy được nội lực vốn có như  tài nguyên thiên nhiên,  cơ  sở  hạ tầng kỹ thuật; huy động vốn và sử  dụng vốn 1 cách có hiệu quả, mở  rộng kinh tế  đối ngoại để  tranh thủ  nguồn vốn từ  bên ngoài, để  hoc tập khoa  học kỹ  thuật của họ …, tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà   nước và đặc biệt không thể thiếu là việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có  hiệu quả  vì muốn thực hiện CNH­HĐH phải phát triển một cách tương xứng   năng lực của người quản lý và sử  dụng các phương tiện kỹ  thuật hiện đại.   Nguồn nhân lực đó bao gồm những người có đức có tài, ham học hỏi, được   chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá và kỹ năng nghề nghiệp… 2
  3. Để có nguồn nhân lực phù hợp như vậy thì phải coi việc đầu tư cho giáo  dục đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục và  đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, cần phải đào tạo ra một cơ  cấu nhân lực đồng bộ, bao gồm mọi lĩnh vực và với quy mô tốc độ phù hợp với   từng thời kỳ trong quá trình CNH­HĐH. Đi đôi với việc đào tạo phải bố trí và sử  dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo  ấy để  họ  phát huy được đầy đủ  khả  năng, sở trường và nhiệu tình lao động sáng tạo của họ. Thực tế  trong thời gian qua, nguồn nhân lực của ta tuy đã có sự  nâng cao  để đáp ứng cho quá trình CNH­HĐH của đất nước, tuy nhiên vãn còn chưa theo  kịp với các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới. Một trong những nguyên  nhân là do kết quả  của quá trình đào tạo và sử  dụng nguồn nhân lực chưa cao,  chưa đáp ứng được đòi hỏi của nên CNH­HĐH. Do đó nền kinh tế của nước ta  còn chưa thực sự phát triển mạnh. Chính vì lý do trên mà em chọn đề  tài:  “Phát triển nguồn nhân lực  ở   Việt Nam”  để  tìm những giải pháp để  nâng cao hiệu quả  của đào tạo và sử  dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH­HĐH ở Việt Nam. Đây là một đề tài thuộc cấp vĩ mô, tuy nhiên trong bài viết này em chỉ xin   tìm hiểu về  thực trạng và giải pháp để  nâng cao hiệu quả  của đào tạo và sử  dụng nguồn nhân lực.  Nội dung của đề tài gồm 3 phần cơ bản: * Phần 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản. * Phần 2: Thực trạng của việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở nước   ta trong giai đoạn hiện nay. * Phần 3: Các giải pháp. 3
  4. NỘI DUNG ĐỀ ÁN I. Một số vấn đề lý luận cơ bản 1. Nguồn nhân lực Có thể hiểu nguồn nhân lực là tổng số người trong độ tuổi lao động. Theo  luật lao động Việt Nam thì người trong độ tuổi lao động gồm có: Nam từ 15 đến   60 tuổi và Nữ  15 đến 55 tuổi. Nguồn nhân lực là lực lượng chính tham gia vào   quá trình lao động, tạo ra của cải cho xã hội và thúc đẩy sự đi lên của xã hội. Do  đòi hỏi của quá trình CNH­HĐH nên nguồn lực này cũng phải có năng lực tương   xứng: Có đức có tài, ham học hỏi thông minh sáng tạo, làm việc quên mình vì tổ  quốc, được chuẩn bị  tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về  kỹ  năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh điều hành vĩ mô nền kinh tế  và toàn xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới… Như  chúng ta đã biết, từ  khi xuất hiện con người đã tiến hành các hoạt   động khác nhau như hoạt động kinh tế  ­ xã hội ­ văn hoá… trong đó hoạt động   kinh tế  luôn luôn giữ  vị  trí trung tâm và là cơ  sở  cho các hoạt động khác… để  tiến hành các hoạt động đó, trước hết con người phải tồn tại, phải có thức ăn,   đồ  mặc, nhà  ở, phương tiện và các thứ  cần thiết khác. Do đó, con người phải  tạo ra chúng, hay noi cách khác họ phải sản xuất không ngừng với quy mô ngày  càng mở  rộng. Sản xuất vật chất chính là sự  tác động của con người vào tự  nhiên nhằm biến đổi nó cho phù hợp với nhu cầu của mình. Đây là hoạt động cơ  bản nhất trong tất cả các hoạt động của con người, là cơ sở tồn tại và phát triển   của con người và xã hội loài người. Con người tác động vào tự  nhiên, cải biến   nó cho phù hợp với mình. Ngay từ thời kỳ nguyên thuỷ họ đã biết sử dụng các công cụ lao động làm  từ gỗ, đá… để tác động vào tự nhiên. Dần dần họ sử dụng thành thạo các công  4
  5. cụ này, cùng với việc phát hiện ra một số kim loại như săt, đồng… để tạo ra các  dụng cụ  lao đông mới… nên năng suất lao đông tăng, đời sống của con người   cũng được nâng cao hơn và thúc đẩy xã hội phát triển một cách mạnh mẽ  như  ngày nay. Chính vì vậy có thể  khẳng định rằng nguồn nhân lực chính là lực  lượng chính tham gia vào quá trình sản xuất tạo của cải vật chất cho xã hội và  thúc đẩy sự phát triển không ngừng của xã hội. Để quá trình sản xuất  ấy có hiệu quả  thì yêu cầu được đặt ra cho nguồn  nhân lực là không chỉ dồi dào về số lượng mà còn phải có chất lượng tốt. Đó là  một yêu cầu tất yếu, nhất là trong thời kỳ CNH­HĐH hiện nay, khi mà nền khoa   học kỹ thuật trên thế  giới phát triển mạnh. Và muốn thực hiện có hiệu quả  thì  cũng cần phải hiểu rõ thê nào là CNH­HĐH. 2. Công nghiệp hóa ­ Hiện đại hóa  Ở  thế  kỷ  XVII­XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành  ở  tây  âu, CNH được hiểu là quá trình thay thế  lao động thủ  công bằng lao động sử  dụng máy móc. Nhưng khái niệm này mang tính lịch sử, tức là luôn có sự  thay   đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ. Kế  thừa có chọn lọc tri thức văn minh của nhân loại và rút kinh nghiệm trong lịch sử  tiến hành CNH và từ thực tiễn ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nghị BCH  Trung  ương lần thứ  7 khoá VI và đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  7 Đảng  cộng sản Việt Nam xác định: CNH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các  hoạt đông sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế  ­ xã hội từ  sử  dụng  sức lao động thủ  công là chính sang sử  dụng một cách phổ  biến sức lao động  cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự  phát triển của công nghệ  và tiến bộ  khoa học công nghệ  tạo ra năng suất lao   động cao. Như  vậy có thể  thấy đây là một khái niệm được xác đinh theo tư  tưởng   mới, khong bó hẹp trong phạm vi trình độ  lực lương sản xuất đơn thuần, kỹ  5
  6. thuật đơn thuần mà còn bao gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch   vụ, quản lý kinh tê­xã hội… Có thể  thấy CNH trước hết là phải gắn liền với hiện đại hoá. Hiện nay  trên thế  giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học công nghệ  hiện đại nên  phải tranh thủ   ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng này, tiếp cận   kinh tế  tri thức để  tạo điều kiện thuận lợi cho sự  phát triển của các ngành,các   khâu, các lĩnh vực sản xuất xã hội. Mặt khác có thể thấy CNH nhằm mục tiêu độc lập và CNXH. Hoạt động  này là tất yếu nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tăng thêm sức mạnh bảo  vệ dân tộc. Hơn nữa, hiện nay nước ta phát triển CNH­HĐH trong điều kiện cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý, điều tiết của nhà nước. Để  thực hiện được mục tiêu   này đòi hỏi phải có sự  vận dụng khách quan các quy luật kinh tế, mà trước hết   là quy luật thị  trường. Bên cạnh đó, trong nền kinh tế  mở  hiện nay, thực hiện  cũng có thuận lợi là nước ta có thể tận dụng, tranh thủ thành tựu của thế giới và  sự giúp đữ quốc tế, nhưng cũng có nhiều khó khăn như tác động tiêu cực từ nền  kinh tế thế giới… có thể thấy một trong những yêu cầu của CNH­HĐH là phải  đảm bảo xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế độc lập tự chủ. Từ những đặc điểm trên ta thấy việc tiến hành CNH­HĐH là một tất yếu  khách quan. Việt nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu cơ  sở  vật chất   kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản   xuất XHCN  mới đựơc thiết lập còn chưa hoàn thiện, hơn nữa còn bỏ  qua thời  kỳ  quá độ  lên CNXH nên gặp nhiều khó khăn. Mà CNXH muốn tồn tại, phát  triển được cần phả có một nền kinh tế phát triển và ổn định, có nền tảng cơ sở  vật chất vững chắc. Vì vậy quá trình CNH chính là quá trình xây dựng cơ sở vật  chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật   6
  7. cho CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, góp phần hoàn thiện quan  hệ sản xuất chủ nghĩa. Chính vì tầm quan trọng đó nên từ thập niên 60 của thế kỷ XX Đảng cộng   sản Việt Nam đã đề  ra đường lối CNH và coi đó là nhiệm vụ  trung tâm xuyên   suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Thực hiện CNH là tạo ra điều kiện vật chất kỹ  thuật cần thiết về  con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy sự  chuyển dịch  cơ  cấu kinh tế… để  không ngừng tăng thêm năng suât lao động, tăng hiệu quả  kinh tế, nâng cao được vai trò của con người­nhân tố trung tâm của nền kinh tế  XHCN. CNH­HĐH tạo điều kiện vật chất để xây dựng một nền kinh tế độc lập   tự  chủ  vững mạnh, tạo tiền đề  xây dựng nền quốc phòng an ninh… để  xây  dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Chính vi vậy mà CNH­HĐH được coi là nhiệm  vụ  trung tâm trong suốt  thời kì quá độ  lên CNXH  ở  Việt Nam. Đảng ta đã đề  ra các nội dung cơ  bản,   trước hêt là “phát triển lực lượng sản xuất­cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH   trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu   khoa học công nghệ  hiện đại”; chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại   hoá, hợp lý và hiệu quả  cao; thiết lập quan hệ  sản xuất phù hợp theo định  hướng CNXH. Cụ  thể, trong những năm trước mắt Đảng ta đặc biệt coi trọng   CNH­HĐH nông nghiệp  ở  nông thôn,  ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ  và có   chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng, cải tạo, mở rộng nâng cấp, xây dựng   mới có trọng điểm kết cấu hạ  tầng vật chất của nền kinh tê; phát triển nhanh  dịch vụ, du lịch; phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ  và mở  rọng hoạt động đối  ngoại. Để hoàn thành các nhiệm vụ đã để ra đòi hỏi phải không ngừng tạo dựng   nên các tiền đề  như  nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh tế  đối ngoại và đặc  biệt đầo tạo sử  dụng nguồn nhân lực vì đây cũng là một yếu tố  quan trọng   quyết định thành công sự nghiệp CNH­HĐH. 7
  8. 3. Yêu cầu của quá trình CNH­HĐH đối với nguồn nhân lực Như trên chung ta đã thấy được tầm quan trọng của CNH­HĐH và sự  tác  động to lớn của nó với sự phát triển nền kinh tế xã hội và trong bất kỳ lĩnh vực   gì thì nhân tố con người cũng là một nhân tố quan trọng nhất. CNH­HĐH không chỉ đòi hỏi phải có vốn, kỹ thuật, tài nguyên mà còn cần   phải   phát   triển   một   cách   tương   xứng   năng   lực   của   người   sử   dụng   những   phương tiện đó. Vì để  phát triển đất nước cần phải sản xuất và áp dụng khoa   học công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Muôn bắt kịp sự  tiến bộ của thế giới thì   cần phải đào tạo người lao động về năng lực chuyên môn, kỹ thuật… để có thể  áp dụng một cách tối đa thàh tựu của khoa học vào sản xuất. Nguồn nhân lực   cần phải qua đào tạo, được sử dụng một cách hợp lý. CNH­HĐH đòi hỏi người   lao động phải có sưc khoẻ và thể lực tốt. Muốn vậy phải đảm bảo vấn đề dinh   dưỡng, phát triển y tế, cải thiện môi trường sống… nhằm chăm sóc tốt sức   khoẻ  và nâng cao thể  lực cho người lao động. Trong nguồn nhân lực mới này  việc xây dựng giai cấp công nhân là 1 nhiệm vụ  trọng tâm. Vì chỉ  khi nào giai  cấp công nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, có kiến thức và kỹ  năng nghề nghiệp, có khả năng làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới…   thì mới có thể làm nòng cốt của liên minh công­nông­tri, tập hợp và đoàn kết với  các   thành  phần   khác,   phấn   đấu  xây   dựng   thành   công  sự   nghiệp   CNH­HĐH.  Chúng ta cần phải có 1 nguồn nhân lực đồng bộ  trong mọi lĩnh vực, phải được  tiến hành với tốc độ và quy mô thích hợp với từng thời kỳ phát triển. Vì vậy xác định nguồn nhân lực phải được qua đào tạo và được bố  trí sử  dụng tốt để  họ  có thể  phát huy đầy đủ  khả  năng, sở  trường và nhiệt tình lao  động sáng tạo để tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng gop  xứng đáng vào sự nghiệp CNH­HĐH đất nước. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng  và không kém phần khó khăn với Đảng và nhà nước. 8
  9. II. Thực trạng của việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của nước   ta hiện nay 1. Thực trang của nguồn nhân lực Như phần lý luận đã trình bày, việc đào tạo nguồn nhân lực cho phù hợp   là một vấn đề  không đơn giản, đòi hỏi phải có những biện pháp, đường lối  chính sách cụ thể. Thực tế trong thời gian vừa qua nguồn lực này đã được Đảng  và nhà nước quan tâm hơn, đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể. Có thể thấy  Việt Nam là một đất nước đang phát triển có dân số  khá đông, lượng dân trong   độ tuổi lao động cao. Nêu được đào tạo đúng hướng và sử dụng có hiệu quả thì   chắc chắn sẽ  góp phần thúc đẩy cho sự  phát triển đi lên của CNH­HĐH đất  nước. Nhìn nhận một cách tổng thể  khách quan, trong quá trình lao động sản  xuất, người Việt Nam mạng nhiều  ưu điểm và cũng có những nhược điểm cần  phải khắc phục. Trước hết chúng ta được kế thừa truyền thống lâu đời của dân  tộc. Đó là tính cách chịu thương chịu khó, là sự  cần cù, chăm chỉ, ham học hỏi;   không những thế, họ còn là những người rất khéo léo trong công việc, có đầu óc   thông minh và sự sáng tạo… từ sưa đến nay ông cha ta luôn đề cao sự chăm chỉ  cần cù trong lao động, chịu đựng vất vả  để  sản xuất. Khi khoa học kỹ  thuật  chưa phát triển, máy móc còn ít, lao động chủ  yếu  ở  nước ta là lao động thủ  công bằng tay chân và các công cụ  thô sơ, họ  đã biết lợi dụng tự nhiên, bắt tự  nhiên phục vụ  mình, nhìn  nhân được một cách tổng quan về  thiên nhiên để  từ  đó rút ra những kinh nghiêm quý báo cho lao động sản xuất, đã được thể  hiện  trong những câu ca dao, tục ngữ  còn lưu truyền đến ngay nay. Đó chính là sự  thông minh sáng tạo của người xưa, dựa trên đức tính chịu thương chịu khó vượt   qua khó khăn vất vả  để  xây dựng nên một nền văn hóa truyền thống lâu đời…  Cho đến nay, mỗi người dân trong đất nước Việt Nam đều được kế  thừa các   9
  10. truyền thống ây nên có thể  nói rằng nguồn nhân lực nước ta có một tiềm năng   lớn, nếu được đào tạo và sử dụng đúng cách thì điều đó giúp cho việc sản xuất   trở  nên thuận lợi hơn rất nhiều và sẽ  góp phần đẩy nhanh tiến trình thực hiện  mục tiêu CNH­HĐH đất nước. Tuy nhiên, không phải là hoàn toàn hoàn hảo mà nguông lực này cũng có  một số  nhược điểm nhất định mà nếu không được khắc phục kịp thời sẽ  làm  cho việc thực hiện mục tiêu CNH­HĐH gặp khó khăn không nhỏ. Trước hết đó là trình độ chuyên môn kỹ thuật còn chưa cao. Do Việt Nam   là một đất nước nông nghiệp lạc hậu, xuất phát điểm thấp, lại trải qua một thời   gian dài sống trong chiến tranh, trong khi đó các nước trên thê giới đã có một nền   kinh tế khá ổn định, đã thực hiện được các cuôc cách mạng công nghiệp nên họ  co 1 trình độ kỹ thuật cao, có cơ sở, nền tảng để phát triển công nghiệp… Điều  đó tạo nên một khoản cách về  trình độ  giữa người lao động Việt Nam và của  các nước tiến bộ  khac trên thê giới. Khi nước ngoài sử  sử  dụng chủ  yếu máy  móc hiện đại, công nghệ kỹ thuật cao thì nước ta mới bắt đầu xây dựng cơ  khí  hoá với tay nghề còn non kém, vẫn mang tính chất thủ công thô sơ, năng xuất lao  động còn chưa cao nên không bắt kip với sự phát triển ngay một nhanh của nên   khoa học kỹ thuật  ở các nước phát triển. Đây cũng là nhược điểm lớn nhất của   nguồn nhân lực Việt Nam. Không những thế, do nước ta mới chuyển từ  cơ  chế  quản lý tập chung  bao câp sang cơ  chế  mới nên chất lượng quản lý chưa cao, chưa tổ  chức được  thành một hệ  thống quản lý xuyên xuốt, còn thiếu những nhà tổ  chức có đầu  óc… mà muốn xây dựng thành công sự  nghiệp CNH­HĐH thì cần phải có một   bộ  máy nhà nước làm nhiệm vụ  quản lý tốt và đưa ra các định hướng cho sự  phát triển… Chính vì vậy việc thiếu người có trình độ  quản lý dẫn đến chất  lượng quản lý chưa cao cũng gây cho ta nhiều khó khăn. 10
  11. Một thực trạng của nguồn nhân lực nước ta cũng cần được khắc phục đó  là việc sử dụng và phân công lao động không đồng đều, Một số đông người lao  động có những tác phong không phù hợp như  thụ động, tư  tưởng làm ăn nhỏ…  Tất cả những điều trên đều là khuyết điểm không nhỏ, gây nhiều khó khăn cho  việc đào tạo cũng như  sử  dụng có hiệu quả  nguồn nhân lực phục vụ  cho sự  nghiệp xây dựng tổ quốc. 2. Thực trạng của công tác đào tạo Từ sau đổi mới và xuất phát từ đặc điểm của nguồn nhân lực Đảng và nhà  nước đề  cào tới vấn đền giáo dục đào tạo nhằm đáp  ứng nguồn nhân lực cho   thời kỳ  mở  cửa. Tuy nhiên trong công tác đào tạo vẫn còn biểu hiện nhiều bất  cập. Thứ nhất, đó là tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Lao động phổ thông là   chủ yếu. Năm 1997, tỉ lệ được qua đào tạo là 12,2%, năm 1998 là 13,3%. Tuy tỉ  lệ  này vẫn tăng sau các năm nhưng tốc độ  còn chậm.  Ở  nước ta tuy dân số  có  đông, số  người trong độ  tuổi lao động khá cao nhưng chủ  yếu vẫn là lao động  phổ  thông  đơn  giản. Số  người   được   đào tạo qua các trường  dạy nghề, các  trường cao đẳng, đại học sau đại học là chưa cao, chiếm tỷ  lệ  nhỏ  trong phần  đông dân số. Chính vì thế  mà chất lượng của người lao động Việt Nam còn   thấp. Thứ hai là chất lượng của công tác đào tạo chưa cao. Hiện nay trên 61 tỉnh   thành của đất nước các trường dạy nghề, cao đẳng, đại học mở  ra khá nhiều,   cũng đào tạo được một số  khá đông các công nhân, cử  nhân, kỹ  sư  để  phục vụ  cho đất nước. Tuy nhiên việc đào tạo này còn chưa thật tốt. Phương pháp giảng   dạy và học tập chủ  yếu thiên về  lý thuyết, việc học còn thụ  động, không kích   thích được sự  sáng tạo của học sinh, sinh viên.  ở  đây họ  chỉ  được nghiên cứu   một cách may móc, học trên sách vở là chủ  yếu vì cơ  sở  trang thiết bị còn ít và  lạc hậu. Các trường dạy nghề  ít được đầu tư  trang thiết bị  vật chất kỹ  thuật,   11
  12. máy móc thường không đủ công nghệ thường không tiên tiến…, còn các trường   đại học tuy có được quan tâm đầu tư hơn nhưng cũng chưa đủ đáp ứng nhu cầu   học tập, nghiên cứu và chưa theo kịp được sự phát triển ngày một mạnh mẽ của   nền khoa học kỹ thuật trên thế giới. Vì thế  mà chất lượng đào tạo của nước ta  còn chưa cao, mặt khác những người sau khi ra trường được trang bị nhiều kiến   thức về  khoa học kỹ  thuật, quản lý… nhưng cũng không tránh khỏi những bỡ  ngỡ  trước một nền khoa học phát triển của các nước khác trên thế  giới, làm  chậm tiến trình tiến hanh CNH­HĐH ở nước ta.  Thứ  ba là đào tạo còn chưa gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế  ­ xã  hội. Yêu cầu đặt ra là việc đào tạo cần phải được định hướng đúng với những  ngành nghê mà CNH­HĐH đòi hỏi. Quá trình đào tạo ở nước ta hiện nay đang ở  trong tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Tâm lý chung của học sinh cũng như  phụ  huynh là muốn vào các trường đại học chứ  không phải trong các trường dạy  nghề. Do đó xảy ra tình trạng cử nhân kỹ sư ra trường vẫn thất nghiệp mà trong   xã hội lại thiếu công nhân lành nghề. Sự  thiếu hụt cụ  thể  năm 1999 cho thấy,  trong tổng số lao động có bằng cấp thì: Công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp  vụ  chiếm 30,3%. Lao động có trình độ  cao đẳng và đại học chiếm 31,6%. Lao  động có trình độ  trên đại học chiếm 1,3%. Cơ  cấu của nó như  sau cứ  một lao  động có trình độ cao đẳng, đại học có0,95 công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp  vụ; có 1,16 lao động có trình độ  trung học chuyên nghiệp (tỷ  lệ  1:0,95:1,16),  trong đó tỷ lệ này ở các nước phát triển là 1:4:10. Đây là vấn đề bất cập mà nhà   nước cần phải giải quyết kịp thời để có thể điều chỉnh hợp lý cơ cấu lao động. Bên cạnh đó có thể thấy, một số ngành có số lựng người tăng vọt như các  ngành kỹ  thuật về  điện tử, tin học, năng lượng… trong đó một số  ngành lại ít  thu hút người học như nông, lâm, ngư nghiệp. Đây cũng là một điều bất hợp lý.   Vì Việt Nam là một đất nước nông nghiệp (80% dân số sống bằng nghề nông),  đi lên từ nông nghiệp, hơn nữa lại được thiên nhiên  ưu đãi cho rừng vàng biển  12
  13. bạc. Nếu không biết khai thác thế  lợi đó thì chúng ta đã bỏ  qua một cơ  hội để  phát triển một số ngành nghề như đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản, khai thác rừng,   và xuất khẩu lương thực, thực phẩm… Biết rằng đạo tạo các ngành nghề  kỹ  thuật là cần thiết để  bắt kịp với tốc độ  phát triển của thời đại song cũng cần   phải có cơ cấu hợp lý hơn nữa để tránh tình trạng một số ngành thì thiếu các lao  động lành nghề  còn một số  không nhỏ  cử  nhân, kỹ  sư  ra trường thì lại rơi vào  tình trạng thất nghiệp. Đó là những khó khăn, bất cập trước mắt trong công tác đào tạo nguồn  nhân lực phục vụ  cho sự nghiệp CNH­HĐH  ở  Việt Nam và đòi hỏi phải được   nhà nước giải quyết một cách triệt để. Tuy nhiên cũng không thể không đề  cập  đến những cố gắng của nhà nước đã làm để nâng cao chất lượng cho nguồn lực  này. Từ sau khi xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở cửa nền kinh tế  cùng với mô hình kinh tế thị trường đinh hướng XHCN được đưa ra thì nhà nước  cũng đã rất chú trọng đi vào công tác đào tạo nguồn nhân lực để  có thể  bắt kịp  với tốc độ  phát triển của khoa học công nghệ  tiên tiến trên thế  giới. Hiện nay,  không chỉ đào tạo ở trong nước mà nước ta con gửi những người có trình độ cao,  những người có khả  năng ra nước ngoài học tập, muc đích chính là để  họ  có   điều kiện cọ xát với nền khoa học của các nước phát triển, học tập họ  và đưa  về áp dụng ở Việt Nam. Ngoài ra nhà nước còn mở nhiều trung tâm dạy nghề ở các tỉnh thành, ưu   tiên giúp đỡ  các gia đình thương binh liệt sỹ, những gia đình có hoàn cảnh khó   khăn,  ở  diện chính sách… tạo điều kiện cho con em họ  học tập, nghiên cứu.  Những chính sách như  miễn giảm học phí, trợ  cấp, bố  chí việc làm cho những  người thuộc diện đặc biệt này không chỉ giúp họ có công ăn việc làm giải quyết   được vấn đề  thất nghiệp mà còn góp phần nhỏ  vào công cuộc xây dựng CNH­ 13
  14. HĐH đất nước vì lao động không ít thì nhiều cũng sẽ góp phần thúc đẩy xã hội  phát triển không ngừng. 3. Thực trạng về sử dụng nguồn nhân lực Việc sử dụng nguồn nhân lực đạt hiệu quả một cách tối đa và hợp lý luôn  là thách thức, khó khăn với mọi quốc gia chứ không riêng ở Việt Nam. Sử dụng   nguồn nhân lực một cách hợp lý không phải là một điều đơn giản, song nếu làm  được điều đó thì sẽ thúc đẩy việc sản xuất có hiệu quả hơn rất nhiều, năn xuất   lao động sẽ  tăng, phuc lợi xã hội tăng cùng với sự  tiến bộ  của khoa học công   nghệ  ở  nước ta và làm cho sự nghiệp lớn là xây dựng CNXH thành công nhanh   chóng. Hiện nay việc sử  dụng nguồn nhân lực vẫn là một đề  tài bất cập và còn  mang lai nhiều thách thức với các nhà quản lý. Trước tiên dễ thấy nhất đó là tỷ  lệ thất nghiệp ở nước ta hiện nay là khá cao.  Năm 1997 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,1% Năm 1998 là 6,9% Năm 1999 là 7,4% Nguyên nhân là do  ở thành thị luôn tập trung đông các nhà máy xí nghiệp,   các công ty sản xuất kinh doanh… được đầu tư nhiều. Đời sống của người dân  ở  thành thị  luôn cao hơn ở các vùng khác. Hơn nữa nhiều trường cao đẳng, đại  học được đặt tại đây, một phần đông số sinh viên sau khi ra trường không muốn   về  quê hương mà  ở  lại thành phố  để  tìm việc. Vì thế  mà lao động  ở  các nơi  khác luôn có xu hướng dồn về  các thị  xã thành phố  với mong muốn tìm được   công việc phù hợp có đông lương cao. Điều này đẩy các thành thị  đứng trước  một hiện thực là số lượng người quá đông mà công việc ở đây cũng chỉ có hạn,  hơn nữa có thể  còn đòi hỏi phải có trình độ  chuyên môn kỹ  thuật cao nên thất   nghiệp là một điều tất yếu sẽ xảy ra. 14
  15. Nếu như   ở  các thành phô, trung tâm kinh tế  xảy ra nan thất nghiệp thì  ở  nhiều nơi lại thiếu ngươi lao động. Ví dụ  như   ở  các vùng miền núi, hải đảo,  vùng sâu vùng xa thì tỷ  lệ  dân cư  lại quá ít. Hiện nay  ở  nhiều nơi đất đai còn  chưa được khai thác hết hoặc chưa được quan tâm sử dụng có hiệu quả triệt để  gây khó khăn cho việc sản xuât. Cũng căn cứ vào các ngành nghề, vị trí khác nhau mà người lao động trong   từng ngành nghề   ấy có đặc điểm riêng có những lao động quá nhàn rỗi nhưng   cũng có những lao động làm việc quá sức mình. Ví dụ  như  ở  nông thôn thì thời  gian lao động chưa được sử dụng là khá nhiều còn ở các trung tâm công nghiệp,  kinh tế…, ở một số công ty, đặc biệt là các công ty liên doanh với nước ngoài thì   người lao động luôn phai làm việc với cường độ và công suât lớn, thời gian làm   việc kéo dài (có khi lên đến trên 10 tiếng một ngày) Số liệu cho thất ở nông thôn   tỷ lệ thời gian lao động chưa được sử dụng là 26,6% năm 1996 25,5% năm 1997 28,3% năm 1998 30% năm 1999 Một phần là do ở nông thôn lao động chủ yếu là trồng lúa nước, trồng hoa   màu, chăn nuôi nhỏ (lợn, gà…) khi đến thời vụ thì công việc của họ  tương đối  bận rộn nhưng sau đó, sau khi thu hoạch, thời gian của họ còn dư ra là rất nhiều,  trừ  một số  vùng nông thôn ngoài làm nông nghiệp họ  còn có một số  nghề  gia  truyền như  nghề  dát vàng (Hà Tây), đóng đồ  gỗ, làm gốm (Bát Tràng), dệt lụa  (Hà Tây)… Thời gian hao phí như  vậy là rất lớn, chưa được sử  dụng một cách  hợp lý và có hiệu quả cao. Nhà nước cần phải quan tâm phát triển thêm một số  ngành nghề cho phù hợp với điều kiện của nông thôn, giảm thời gian hao phí và  tăng năng suất lao động. Thực trạng của việc sử  dụng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay vẫn   còn có nhiều bất cập như trên nhưng thực sự đã có cố gắng rất nhiều trong việc   15
  16. phân bổ và sử dụng. Đa số lao động đã làm đúng với ngành  nghề của mình được  đào tạo, phát huy được những ưu điểm như thông minh sáng tạo, cần cù và nhiệt  tình trong công việc, từng bước theo kịp với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến trên  thế  giới, thúc đẩy sự  phát triển của sản xuất, đẩy nhanh tiến trình thực hiện   CNH­HĐH. Tuy nhiên, muốn làm tốt hơn thì cần phải giải quyết được những bất cập  đề  ra  ở  trên. Mà để  lam được điều đó trước hết phải thấy được nguyên nhân  gây ra chúng. Nguyên nhân đầu tiên có thể  thấy là do cơ  cấu và phương pháp đào tạo  chưa hợp  lý, còn thiên về  nghiên cưu  hơn thực hành, các trường  trung học,   trường dạy nghề còn trưa thu hút được đông học viên theo học, trong khi đó số  sinh viên của các trường đại học, cao đẳng lại rất đông. Tâm lý chung của nhiều  người là chỉ  theo học đại học… hơn nữa, hiện nay đào tạo thiên nhiều về  các  lĩnh vực khoa hoc kỹ  thuật­kinh tế, nhiều ngành ít người theo học như  ngành  nông lâm ngư nghiệp, gây lên sự mất cân đối trong các ngành nghề. Mặt khác đội ngũ quản lý của nước ta có trình độ chuyên môn chưa cao và   số  lượng chưa nhiều nên gây khó khăn cho việc phân công lao động hợp lý. Số  lượng lao động đã qua đào tạo phân bố không đều giữa các vùng, các ngành, các  thành phần kinh tế.  ở những nơi có nhiều cơ  quan xí nghiệp thì tập trung đông   người lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp,  ở  những nơi vùng sâu vùng xa  lại thiếu lao động. Chính vì thế mà việc sử dụng lao động còn bị mất cân đối và   chưa hợp lý. Một nguyên nhân nữa là hiện nay con xảy ra hiện tượng chảy máu chất   xám. Nhiều người được đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thường có   xu hướng ra nươc ngoài làm việc vì ở đó họ có khả năng phát triển tay nghề, thu   nhập lai cao hơn hẳn so với trong nước. Đây là vấn đề không chỉ của riêng Việt   Nam mà còn là chung đôid với các nước đang phát triển. 16
  17. Việc sử dụng nguồn nhân lực chưa phù hợp còn là do chất lượng lao động  chưa đáp  ứng được nhu cầu của các nhà tuyển dụng.  ở  Việt Nam, sau khi mở  cửa kinh tế  và phát triển nền kinh tế  thị  trường nhiều thành phần thì thu hút  được  rất nhiều các công ty nước ngoài đầu tư vào. Họ xây dựng các nhà máy, xí  nghiệp, tuyển dụng công nhân Việt Nam vào làm việc… và thường có một yêu  cầu khá khắt khe về  trình độ  kỹ  thuật và ý thức trong công việc của những  người này. Vì nước ta cũng chỉ mới tiếp cận khoa học kỹ thuật vài năm gần đây  nên không thể  tránh khỏi những khó khăn trong việc sử  dụng máy móc, dây  chuyền hiện đại của nước ngoài. Mặt khác một số người lao động vẫn có nhiều  tác phong chưa tốt như thụ động, tư tưởng làm ăn nhỏ, không tuân thủ giờ giấc   công nghiệp… gây khá nhiều khó khăn cho việc sản xuất dẫn đến năng suất lao   động chưa cao. Chính điều đó cũng góp phần cho việc sử dụng nguồn nhân lực ít  hiệu quả. Từ việc phân tích những nguyên nhân trên em xin đưa ra một số giải pháp   nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho phù hợp. III. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả  đào tạo và sử  dụng nguồn   nhân lực 1. Giải pháp trong việc đào tạo nhân lực Như  Bác Hồ  đã từng nói “Vì sự  nghiệp 10 năm trồng cây, vì sự  nghiệp   trăm năm trồng người”, công tác đào tạo bao giờ  cũng phải đặt lên trên hàng  đầu. Nừu như  được đào tạo đúng cách đúng hướng sẽ  mang lại hiệu quả  cao   cho công việc sau này. Đảng và nhà nước bao giờ cũng luôn đề cao công tác giáo  dục, coi đó là nhiệm vụ  quan trọng hàng đầu. Sau năm 1995, khi cách mạng  tháng 8 thành công, Bác đã đề ra chủ trương diệt “giặc đói, giặc dốt” mở các lớp   xoá mù chữ cho dân. Hiện nay, nước ta đã phổ  cập giáo dục ở  bậc tiểu học và  tiến tới là ở  bậc trung học. Vì nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của vấn đề  17
  18. này nên đã đề  ra chính sách đường lối để  nâng cao hiệu suất của công tác giáo  dục­đào tạo. Trong những năm gần đây nhà nước đã đưa ra nhiều phương pháp  đổi mới trong việc giảng dạy cho phù hợp và hiệu quả hơn. Cải cách trong giáo  dục để  người học dễ  tiếp thu, Song song với đó là việc phát triển một cách đa  dạng các loạ  hình đào tạo. Có nhiều hình thức đào tạo, nhiều bậc  đào tạo.   Người học nghề  thì có các trường dạy nghề, cao hơn có bậc trung cấp, trung  học dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học, trung tâm đào tạo các ngành có  chuyên môn cao (như FPT), đào tạo bận thạc sỹ, tiến sỹ… Để phù hợp với hoàn  cảnh, điều kiện của từng học viên, ngoài hệ  học dài hạn tập trung, chính quy  các trường còn mở nhiều hệ  đào tạo khác như  các lớp tại chức, có các lớp học   ban ngày hoặc buổi tối, đào tạo từ xa đặt tại các tỉnh khác. Ví dụ như tại Hà Nội  có rất nhiều các trường dạy nghề  như sửa chữa ô tô, xe máy, sử  chữa đồ  điện,  điện tử… Sau khi qua các khoá học này các học viên sẽ  có khả  nang trở  thành  những người thợ với tay nghề thành thạo, có thể  có việc làm phù hợp hơn. Các  trường này ngày một nhiều  ở  các tỉnh thành khảctong cả  nước, thu hút được   phần đông số  người theo học. Bên cạnh đó, các trường cao đẳng đại học cũng   mở các trung tâm phân viện đào tạo ở các tỉnh khác. Như học viện ngân hàng có  mở nhiều phân viện ở thành phố  Hồ  Chí Minh, Bắc Ninh, Đà Nẵng… để  phục   vụ  cho những người không có điều kiện ra Hà Nội học. Chính điều đó thu hút   được khá đông sinh viên theo học và sau khi ra trường họ sẽ ở lại quê hương xây  dựng quê hương. Không chỉ  đưa ra các loại hình đào tạo mà nhà nước đầu tư  kinh phí cho  đào tạo, trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, giúp người đọc có khả  năng nắm bắt nhanh các tiến bộ của khoa học kỹ thuật để đưa vào áp dụng hiệu   quả trong công việc. Nhà nước luôn quan tâm tới các cơ sở đào tạo, cấp kinh phí  cho việc xây dựng cơ  sở  vật chất, mở  rộng các phòng học, xây dựng thêm các   trung tâm nghiên cứu, thực hành, phòng thí nghiệm… Nước ta vừa mở thêm các  18
  19. trường đại học ở một số  tỉnh (như đại học An Giang) cho phép mở  các trường   dân lập với chất lượng cao, Thực tế có ngày càng nhiều các trường đại học dân  lập được mở  ra với quy mô lớn thu hút được nhiều sinh viên như  đại học dân  lập Quản lý và kinh doanh Hà Nội, đại học dân lập Hồng Bàng, đại học dân lập  Văn Hiến, đại học dân lập Phương Đông… Các trung tâm các trường học được   trang bị  cơ  sở  vật chất kỹ  thuật và thiết bị  giảng dạy hiện đại, thường xuyên   được đổi mới… Như ông cha ta đã nói “học đi đôi với hành” bao giờ cũng hiệu   quả hơn học chỉ thiên vè lý thuyết. Đặc biệt là ở  các trường kỹ thuật nhà nước   hàng năm vẫn cấp một phần kinh phí không nhỏ  trang bị các cơ  sở  vật chất kỹ  thuật mới, tiên tiến của các nước trên thế giới. Sinh viên được tiếp cận với khoa   học kỹ  thuật mới đó rồi đưa vào áp dụng trong công việc sản xuất kinh doanh  sau này. Bên cạnh đó nhà nước còn cho mở  ra các cuộc thi với quy mô lớn để  khuyến khích nghiên cứu áp dụng khoa học như  cuộc thi Robocom, các công  trình nghiên cứu khoa học mà đề tài rộng như nghiên cứu về thực trạng nền kinh   tế  Việt Nam hiện nay. Qua đó giúp người học có khả  năng nám chắc các kiến   thức đã được học, nghiên cứu đề  xuất các ý tưởng mới. Có làm như  vậy thì  nước ta mới có khả  năng tiếp cận nhanh với sụ  tiến bộ của nền khoa học trên   thế  giới, mau chóng đi trước đón đầu công nghệ  để  có thể  theo kịp các nước   khác. Việc đào tạo đã được chủ  trưng đầu tư  như  vậy nhưng đầu ra cũng cần   phải được quan tâm. Hầu hết các sinh viên ra trường hiện nay đều phải tự  tìm   cho mình một công việc phù hợp dẫn đến một số không nhỏ sinh viên phải làm   việc trái ngành trái nghề. Một giải pháp được đề  ra là phải đào tạo đúng ngành   nghề mà xã hội đang cần. Vì vậy cần phải có sự liên kết giữa cơ sở đào tạo và   doanh nghiệp cụ  thể  là các nhà tuyển dụng để  định hướng trong việc đào tạo.   Đây là một mô hình đang phát triển nhiều. Ví dụ như các công ty may thường có  các cơ sở dạy nghề may. Sau khi học xong họ lại được nhận vào làm cho công  19
  20. ty (công ty may 10, công ty may Thăng Long, công ty giây Thượng Đình…) Như  thế thì những học viên sau khi được đào tạo sẽ  không bị rơi vào tình trạng thất  nghiệp. Khi đó việc sản xuất được chuyên môn hoá cao hơn, năng xuất lao động  cũng tăng nhanh. Để  làm tốt được các công việc đó thì cần phải có một đường lối chính   sách đúng đắn, có sự hướng dẫn chỉ bảo của các cán bộ quản lý, giảng dạy nên   một trong những giải pháp cho việc đào tạo nguồn nhân lực chính là phải nâng   cao được đội ngũ cán bộ giảng dạy. Nước ta cần có nhiều người có khả năng tổ  chức để phân bổ lợp lý nguồn nhân lực cho sản xuất. Họ cũng cần phải có một  trình độ khoa học kỹ thuật cao để có thể truyền đạt lại cho người học, giúp cho  các học viên tiếp thu một cách tốt nhất, hiệu quả nhất kiến thức ấy. Làm được những điều đó thì chắc chắn rằng chất lượng của nguồn nhân  lực sẽ  được nâng cao rõ rệt, theo kịp với sự  phát triển mạnh mẽ  của nền khoa   học trên thế  giới. Tuy nhiên để  hoàn thành được sự  nghiệp CNH­HĐH thì còn  phải sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo một cách hợp lý hơn nữa. 2. Giải pháp sử  dụng hiệu quả  nguồn nhân lực phục vụ  cho CNH­ HĐH Như trên đã trình bày, nguồn nhân lực nước đa đã đang và sẽ được đào tạo   một cách hợp lý. Một yêu cầu được đặt ra là phải sử  dụng sao cho hiệu quả  nhất. Nguồn nhân lực này cần được sử dụng linh hoạt trong các ngành nghề theo   đúng trình độ và chuyên môn được đào tạo. Họ cần được làm đúng với những gì  đa được học và tích luỹ. Trong quá trình làm việc thì cũng cần phải được học   thêm   để  nâng cao tay  nghề, bổ  xung kiến thức  còn  thiếu và học  thêm  kinh   nghiệm của các lớp đàn anh đi trước vì thường những người đi trước có kinh   nghiệm hơn. Ngoài ra nhà nước cũng cần phải có các chính sách dụng nhân tài  như tiếp nhận, sắp xếp công việc cho những người đạt bằng giỏi, những người   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2