intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Quan hệ giữa các nước lớn: Một số nhân tố tác động đến quan hệ Nga – EU giai đoạn sau chiến tranh lạnh

Chia sẻ: Nguyen Sinh Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

506
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Quan hệ giữa các nước lớn: Một số nhân tố tác động đến quan hệ Nga – EU giai đoạn sau chiến tranh lạnh trình bày khái quát chung về quan hệ Nga – EU, nhân tố năng lượng trong quan hệ Nga – EU, nhân tố Mỹ trong quan hệ Nga – EU.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Quan hệ giữa các nước lớn: Một số nhân tố tác động đến quan hệ Nga – EU giai đoạn sau chiến tranh lạnh

  1. HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO BỘ MÔN QUAN HỆ GIỮA CÁC NƯỚC LỚN TIỂU LUẬN MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGA – EU  GIAI ĐOẠN  SAU CHIẾN TRANH LẠNH Giảng viên hướng dẫn : TS.Đỗ Sơn Hải Sinh viên thực hiện : Nguyễn Sinh Hoàng Lớp : CT38H
  2. Hà Nội, tháng 12 năm 2013 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................1 NỘI DUNG TÌM HIỂU..................................................................................3 I. Khái quát chung về quan hệ Nga ­ EU.................................................3 1. Bối cảnh quốc tế...................................................................................3 2. Tình hình châu Âu, EU và Nga sau Chiến tranh lạnh...........................5 2.1 Bối cảnh Châu Âu sau chiến tranh lạnh.............................................................5 2.2 EU thập niên đầu của thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.........................................5 2.3 Tình hình nước Nga mười năm đầu sau sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết.....6 II. Nhân tố năng lượng trong quan hệ Nga – EU...................................8 1. Tầm quan trọng của năng lượng trong quan hệ Nga – EU..................8 2. Căng thẳng Nga – EU liên quan đến vấn đề năng lượng....................8 III. Nhân tố Mỹ trong quan hệ Nga – EU..............................................10 LỜI KẾT........................................................................................................12 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................13
  3. LỜI NÓI ĐẦU Nga – EU đều nằm trên vùng đất chiến lược của thế  giới lại là hai   thực thể lớn nhất Châu Âu, mối quan hệ hợp tác Nga – EU luôn có ý nghĩa  quan trọng đối với sự ổn định của cả châu lục và thế giới. Tuy nhiên, quan  hệ  hai bên chưa bao giờ   ổn định mà luôn có lúc thăng lúc trầm. “Quan hệ  đối tác với Nga là quan trọng nhất, cấp thiết nhất và là thách thức nặng nề  nhất đối với Liên minh Châu Âu”1.  Quan hệ Nga – EU trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX tương đối nồng  ấm. Điều này xuất phát từ  tình hình nước Nga lúc bấy giờ: Tình trạng  khủng hoảng và suy thoái kéo dài, chính trị  nội bộ  rối ren, vị  thế  quốc tế  suy giảm khiến nước Nga  ở  vào thế  yếu, phải nhượng bộ  phương Tây  trong  mọi   lĩnh  vực   từ  an  ninh,  quân  sự   đến  các  vấn   đề  kinh  tế.  Ngày  31/12/1999, V. Putin lên thay B. Yeltsin trở  thành tổng thống Liên Bang  Nga. Từ bỏ chính sách phiến diện nghiêng về Phương Tây của người tiền  nhiệm để  theo đuổi đường lối ngoại giao độc lập mang tính thực dụng vì  lợi ích quốc gia, nước Nga dưới sự lãnh đạo của vị Tổng thống mới đã bắt   đầu khôi phục hình ảnh và vị thế cũng như bắt đầu có lập trường của riêng  mình đối với nhiều vấn đề trong quan hệ vơi EU. Quan hệ Nga – EU thiết   lập từ tháng 12/1991 và được định hình theo khuôn khổ đối tác chiến lược   bằng “Hiệp định đối tác và hợp tác” ký kết năm 1994, chính thức có hiệu  lực từ tháng 12 năm 1997. Vậy có những nhân tố nào tác động đến quan hệ   giữa hai thực thể này ? và trong mối quan hệ này ảnh hưởng của nhân tố   Mỹ như thế nào?. Bài tiểu luận này em sẽ đi vào phân tích một số nhân tố  tác động đến quan hệ Nga – Eu giai đoạn sau chiến tranh lạnh, đê làm sáng  1  Phát biểu của Javier Solana – Đại diện cao cấp về chính sách đối ngoại và an ninh chung của Liên  minh châu Âu. Xem: Union europeenne – Russia: quelles relation?, http://www.senat.fr/rap/r06­307/r06­ 3070.html, truy cập ngày 8­4­2010 1
  4. tỏ những bất đồng trong quan hệ  giữa hai thực thể lớn nhất của Châu Âu  này. Do kiến thức của em còn hạn hẹp, trong bài tiểu luận này khó tránh  khỏi những sai sót, kính mong sự  đóng góp của thầy để  bài tiểu luận của   em được hoàn thiện hơn. Bài tiểu luận này em tìm hiểu theo 3 nội dung lớn như sau: I. Khái quát chung về quan hệ Nga – EU II. Nhân tố năng lượng trong quan hệ Nga – EU III. Nhân tố Mỹ trong quan hệ Nga – EU 2
  5. NỘI DUNG TÌM HIỂU I. Khái quát chung về quan hệ Nga ­ EU 1. Bối cảnh quốc tế Sau hơn bốn thập kỷ  đối đầu căng thẳng, Chiến tranh lạnh đã kết   thúc cùng với sự  sụp đổ  của Liên bang Xô Viết, dẫn đến những thay đổi   sâu sắc trong quan hệ  quốc tế. Ý thức hệ  không còn là nhân tố  hàng đầu  trong tập hợp lực lượng, thay vào đó, lợi ích quốc gia trở thành nhân tố chủ  đạo trong hoạch định chính sách của các nước. Vì vậy nên hầu hết tất cả  các nước dù lớn hay nhỏ, trong đó có Liên bang Nga, đều thay đổi chiến   lược đối ngoại của mình sao cho phù hợp với sự  thay đổi về  so sánh lực  lượng và thực trạng an ninh thế giới, nhằm giành được cơ hội thuận lợi để  phát triển đất nước và xác lập một vị  trí có lợi nhất trong trật tự  thế giới   mới đang hình thành. Những năm đầu thập niên 90 của thế  kỷ  XX, cục   diện của thế  giới là nhất siêu đa cường, trong đó các cực, các trung tâm  hoạt động hài hòa, phối hợp chặt chẽ  với nhau chứ không triệt tiêu nhau,   tuy có mâu thuẫn nhưng xu hướng hợp tác vẫn là chủ  yếu, kiềm chế  và  đấu tranh song không đi đến quan hệ đổ vỡ. Bên cạnh đó, sau Chiến tranh lạnh, những nguy cơ an ninh phi truyền  thống  như  an  ninh kinh  tế, an  ninh con  người,   an ninh  sinh  thái –  môi  trường…với những đặc điểm là khả  năng xuyên quốc gia, tính vô chính   phủ  và khả  năng chuyển hóa và vận động mau lẹ  đã trở  thành mối quan   tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế. Sau Chiến tranh lạnh, phát triển kinh  tế trở thành ưu tiên hàng đầu trong chiến lược của các quốc gia, đặc biệt là   các nước lớn. Dưới sự  tác động của quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách  mạng khoa học công nghệ, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia không   chỉ tăng trong lĩnh vực kinh tế mà cả về an ninh chính trị. Như vậy sự sụp   3
  6. đổ của trật tự thế giới đối đầu hai cực đã góp phần tích cực làm cho xu thế  hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển trở thành xu thế lớn của thế giới. 4
  7. 2. Tình hình châu Âu, EU và Nga sau Chiến tranh lạnh 2.1 Bối cảnh Châu Âu sau chiến tranh lạnh Lịch sử thế kỷ XX đã chứng kiến châu  Âu trở thành nơi tranh chấp  ảnh hưởng một cách quyết liệt giữa hai siêu cường hàng đầu thế  giới.  Chiến tranh lạnh kết thúc, môi trường an ninh, chính trị của Châu Âu đã có   những thay đổi căn bản. Sự đối đầu của hai siêu cường Mỹ là Liên Xô với   hai khối quân sự  NATO – Vacsava không còn, do đó nguy cơ  châu Âu bị  biến thành chiến trường tranh chấp ảnh hưởng đã được đẩy lùi. Tuy nhiên,  an ninh châu Âu lại rơi vào tình trạng không  ổn định mới. Liên Xô tan rã  dẫn đến sự  ra đời của một loạt các chủ  thể  với tư  cách là các quốc gia  châu Âu, đồng thời dẫn đến sự phân hóa nội bộ sâu sắc trong các tầng lớp   xã hội Nga cũng như  các nước Đông Âu. Những nhân tố  này đang đe dọa   nghiêm trọng đến sự   ổn định của Châu Âu. Nguy cơ  tiềm tàng của chiến  tranh quy mô lớn đến từ một phía trước đây đã bị thay thế bởi sự “uy hiếp”   và “thách thức” đến từ  nhiều phía2. Trong bối cảnh đó, hợp tác Nga – EU  không chỉ nhằm củng cố an ninh của cả hai bên, thúc đẩy hợp tác kinh tế,   giải quyết các vấn đề buôn lậu và các vấn đề biên giới lãnh thổ nhằm đảm  bảo một châu Âu an ninh,  ổn định mà còn nhằm hạn chế   ảnh hưởng của   Mỹ   ở  Châu Âu, phát huy cai trò của Nga cũng như  EU trong nền an ninh  châu lục. 2.2 EU thập niên đầu của thời kỳ sau Chiến tranh lạnh Ngày 7/2/1992 Hiệp  ước Mastricht được ký kết là một bước ngoặt  lớn ở Tây Âu, nó đánh dấu sự thành lập chính thức của Liên minh châu Âu   (EU). Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử mới sau Chiến tranh lạnh kết thúc, EU   có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít những khó khăn. Thuận lợi: Hiệp ước Mastricht thể hiện chính sách thích ngi mới của   Cộng đồng châu Âu khi quyết định đặt vấn đề  nhất thể  hóa châu Âu làm    Vương Dạt Châu, An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội ­ 2004 2 5
  8. mục tiêu nền tảng cho sự phát triển trong kỷ nguyên mới, nhằm tạo dựng  một liên minh ngày càng chặt chẽ  giữa nhân dân các nước châu Âu. Việc  thống nhất thị trường của các nước thành viên EU  với các nước trong hiệp   hội mậu dịch tự do châu Âu trong một “không gian kinh tế  châu Âu” cũng   như sự nhất trí của các nước thành viên EU trao quyền đại diện cho Ủy ban   Châu Âu trong tổ  chức thương mại thế  giới (WTO) đã tạo nên một sức  mạnh lớn chi phối các vấn đề  kinh tế, thương mại quốc tế. Nhìn chung,   thập niên đầu tiên của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, EU đã xây dựng được  những cơ sở làm tiền tệ cho quá trình nhất thể hóa của mình. Khó khăn: Về  kinh tế, do có sự  khác biệt về  lợi ích giữa các nước  thành viên trong nhiều vấn đề  khác nhau nên vẫn còn tồn tại nhiều bất   đồng liên quan đến tiến trình nhất thể hóa. Về chính trị, các nước EU mặc  dù đều là những nền kinh tế  phát triển nhưng bị  phụ  thuộc gần như  toàn  vào nguồn năng lượng từ bên ngoài. Về mặt xã hội, dân số già kéo theo sự  suy giảm sức sản xuất và gánh nặng về phúc lợi xã hội cũng như tỷ lệ thất  nghiệp cao, chênh lệch khoảng cách giàu nghèo lớn, những nguyên nhân  tiềm tang gây bất ổn xã hội đang lo lắng của chính phủ các nước EU. Việc   kết nạp thành viên mới, biên giới EU được mở rộng nhưng đồng thời cũng  đẩy EU tiếp giáp với nhiều khu vực bất ổn định. Vấn đề xung đột sắc tộc,   tôn giáo và các làn sóng ly khai cực đoan khiến tình hình  ở những khu vực  này trở nên bất ổn hơn bao giờ hết, đe dọa trực tiếp đến an ninh của Châu   Âu, trong đó có EU. 2.3 Tình hình nước Nga mười năm đầu sau sự  sụp đổ  của Liên bang Xô   Viết Cuối năm 1991, sau khi Liên bang Xô Viết với tư  cách là một siêu   cường tan rã, nước Nga lại xuất hiện với tư cách là một quốc gia độc lập.  6
  9. Liên bang Nga bước ra vũ đài quốc tế sau “Chiến tranh lạnh”, với quy chế  đặc biệt: “quốc gia kế tục Liên Xô”. Về  kinh tế, thừa hưởng tiềm lực kinh tế  của Liên Xô, nước Nga  phải gánh chịu những hậu quả  nặng nề  của cuộc khủng hoảng kinh tế  trầm trọng và kéo dài suốt từ khi Liên Xô tan rã cũng như các món nợ nước   ngoài rất lớn của Liên Xô. Tính đến năm 1992, khoản nợ mà Nga kế  thừa  từ  Liên Xô là 103 tỷ  USD, trong đó nợ  đến hạn phải trả  ngay trong năm  1992 là 6 tỷ  USD3. Thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, tăng trưởng GDP  của Nga liên tục âm. Suy thoái kinh tế  kéo dài khiến nước Nga “tuột dốc”  khi đồng rúp mất giá, đến mức phải tuyên bố không nợ nước ngoài. Về  chính trị ­ xã hội, chính trường Nga những năm 1990 trở  nên bất   ổn định với những cuộc tranh giành quyền lực gay gắt. Đó là sự  đối đầu  giữa các phe nhóm, đảng phái với những mối quan tâm khác nhau. Tập  trung và biểu hiện sâu sắc nhất cho những mâu thuẫn đó là cuộc đấu tranh  giữa một bên phe của Tổng thống Yltsin và một bên là phe của Chủ tịch Xô  Viết tối cao Khabulatov để  thiết lập chế  độ  Cộng hòa Tổng thống hay  Cộng hòa Nghị  viện (9/1993)4, dẫn đến việc Tổng thống dùng biện pháp  bạo lực để  giải tán Đuma. Những mâu thuẫn trong hệ  thống chính trị  Nga  trở thành một rào cản lớn đối với chính phủ Nga trong hoạch định và thực  hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế.  Với tình hình trên Nga đang phải đứng trước những khó khăn, thách  thức lớn để  xác lập vị thế cường quốc xứng đáng với tiềm lực, lịch sử và   truyền thống của mình. Như  vậy, Sau khi Liên bang Xô Viết tan rã vị  thế  của nước Nga bị giảm sút đáng kể. Khủng hoảng trầm trọng cùng với thực  tế  bất lợi sau trật tự  thế  giới hai cực tan rã tạo ra nhiều khó khăn, thách  3  Hà Mỹ Hương, Nước Nga trên trường quốc tế hôm qua, hôm nay và ngày mai, NXB chính trị quốc gia,  Hà Nội – 2007, trg. 72 – 73. 4  Nguyễn Thị Huyền Sâm, “Kinh tế LB Nga thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Boris Yltsin: Thực trạng  và nguyên nhân”, Tạp chí nghiên cứu Châu âu, số 1, 2005, trg.39 7
  10. thức không nhỏ cho nước Nga trong con đường xác lập vị thế cường quốc  khu vực cũng như vị thế cường quốc thế giới. II. Nhân tố năng lượng trong quan hệ Nga – EU 1. Tầm quan trọng của năng lượng trong quan hệ Nga – EU Năng lượng có tầm quan trọng đặc biệt trong quan hệ  Nga – EU.   Việc Nga ngừng cung cấp khí gaz cho Ukraina (1/2006) và dầu cho Belarut   (1/2007) đã  ảnh hưởng đến toàn bộ  hệ  thống  ống dẫn khí và dẫn dầu  ở  Châu Âu. Đồng thời qua hai cuộc khủng hoảng này, EU đã nhận ra họ phụ  thuộc năng lượng vào Nga nhiều như  thế  nào. Thậm chí báo chí Phương   Tây còn mô tả rằng nước Nga đủ sức sưởi ấm và tan băng giá cả Châu Âu.  Mặc dù có một nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế  giới với  công nghệ hiện đại nhưng do thiếu nguồn tài nguyên năng lượng, nên phần  lớn nhiên liệu phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của EU là khu vực nhập   khẩu năng lượng nhiều nhất trên thế giới: chiếm 2,9% sản lượng dầu mỏ  và 7,1% sản lượng khí đốt nhưng EU lại tiêu thụ  đến 18,6% dầu lửa và   17% khí đốt của toàn thế giới.5  2. Căng thẳng Nga – EU liên quan đến vấn đề năng lượng. Mối quan hệ giữa Nga và EU kể từ sau năm 1999 vốn tồn tại nhiều   bất đồng liên quan đến lĩnh vực năng lượng. Điển hình là việc Nga sử  dụng con bài năng lượng như  một vũ khí nhằm trừng phạt hữu hiệu đối   với những nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ không tuân theo yêu cầu của  Nga hoặc thực hiện chính sách ưu tiên các mối quan hệ với Phương Tây, và  tạo thế mặc cả cho Nga trong quan hệ với EU đã tạo ra vết nứt, thậm chí   dẫn đến những cuộc đối đầu cang thẳng giữa hai bên trong vấn đề này.  5  Thông tấn xã Việt Nam, “Châu Âu bị gạt ra ngoài lề”, Tài liệu tham khảo chủ nhật, số 37 – TTX ngày  14/9/2008, trg.19. 8
  11. Phương Tây thường ví: “nếu như Brejnev có tên lửa thì Putin có khí  đốt”6 câu nói này ngụ ý rằng nước Nga kể từ sau năm 1999 đã sự dụng dầu   khí làm vũ khí chiến lược. Thực tế, ngày nay năng lượng đối với Nga có  một vai trò quan trọng giống như vũ khí nguyên tử đối với siêu cường Liên  Xô. Giá dầu hỏa và khí đốt càng cao thì Moscow laị càng khai thác triệt để,  tận dụng nhiên liệu như  một loại vũ khí chiến lược.7 Trong “Cuộc chiến  năng lượng đến năm 2020”, Moscow đã nhận định: vai trò của Nga trên thị  thường năng lượng thế giới sẽ quyết định một phần lớn ảnh hưởng địa vị  chính trị và dầu khí là một phương tiện chính trị đối nội và đối ngoại.8 Bên  cạnh  đó   những   bất   đồng  xung  quanh  nội  dung  bản  Hiến  chương  năng  lượng mới càng làm cho mâu thuẫn trong vấn đề  năng lượng giữa Nga và  EU trở  nên phúc tạp và căng thẳng. EU sau nhiều lần bị  biến thành nạn   nhân trong cuộc chiến năng lượng giữa Nga và các nước láng giềng đã  nhận thấy mối đe dọa từ tình trạng phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ Nga.   Chính   vì   vậy,  họ   gây  sức   ép   buộc   Nga   nhanh   chóng  phẻ   chuẩn  “Hiến  chương năng lượng” để  thể  chế  hóa việc Nga bảo đảm cung cấp năng  lượng cho các nước EU. Tuy nhiên cho đến nay Nga vẫn chữa phê chuẩn   nội dung của Hiến chương năng lượng của EU bởi theo họ, nó không phản  ánh một cách công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa một bên là EU – thị  trường tiêu thụ, và bên kia là Nga – nước sản xuất, cung cấp dầu khí và   dầu mỏ9. Các nhà lãnh đạo Nga lên án bản Hiến chương là “chỉ tính đến lợi  ích của những nước tiêu thụ  trong khi lại hoàn toàn bỏ  qua lợi ích của các  nước sản xuất”.10 Ngày 6/8/2009 Thủ tướng Nga Putin đã ký sắc lệnh chính  6  Đỗ trọng Quang, “Tập đoàn khí đốt khổng lồ Gazprom và tầm cỡ của nó trên thị trường năng lượng thế   giới”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 1 (103) 2009, trg.11  7  Nguyễn Cảnh Toàn, “Xung đột Nga – Gruzia: liều thuốc thử?”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 8 –  2008, trg.31. 8  Nguyễn Cảnh Toàn, “Dầu khí và chiến lược năng lượng của Nga”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 9  (96) 2009, trg. 27­28 9  Ngô Duy Ngọ, “Hệ lụy của những rào cản trong quan hệ Nga – EU, Tạp chí nghiện cứu Châu Âu, số 7  (82) 2007, trg.19. 10  Xem Union Europeenne – Russia: Quelles relations?, tlđd. 9
  12. thức bác bỏ  việc Nga tham gia Hiệp  ước Hiến chương Năng lượng của  EU, điều này càng làm cho những mâu thuẫn, căng thẳng giữa hai bên trở  nên trầm trọng. Ngoài ra, bất đồng trong vấn đề  năng lượng còn là một  trong những nguyên nhân chính khiến EU luôn cản trở con đường gia nhập  WTO của Nga, từ  đó trở  thành vật cản trong quá trình phát triển quan hệ  Nga – EU, khiến quan hệ hai bên thêm trì trệ.  Tóm lại, không thể  phủ  nhận tầm quan trọng của năng lượng trong  quan hệ Nga – EU. Tuy nhiên, nó cũng là một rào cản lớn cản trở mối quan   hệ giữa hai bên.  III. Nhân tố Mỹ trong quan hệ Nga – EU Mỹ  có một vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng trong chính sách  của EU cũng như Nga. Thực tế, EU và Mỹ có mối quan hệ đặc biệt về lịch  sử,chính trị lẫn kinh tế. Trong lịch sử, Mỹ đã từng là thuộc địa của người   Anh và đã từng nhận được sự  giúp đỡ  của người Pháp trong cuộc chiến  tranh giành độc lập giữa thế kỷ XVIII. Cũng trong khoảng thời gian này, đã  có khoảng 60 triệu người Châu Âu di cư  sang Mỹ  tạo nên thành phần cơ  bản của cư dân Mỹ ngày nay. Do đó, có thể nói nền văn minh và chế độ xã  hội của Mỹ  có nguồn gốc từ  Châu Âu.11  Chính những giá trị  chung đó là  một trong những hòn đá tảng của quan hệ đồng minh giữa hai bên.  Về mặt kinh tế, cả Mỹ và EU đều phụ thuộc chặt chẽ vào nhau, cả  hai luôn là những đối tác thương mại và đầu tư  lớn nhất của nhau. Giá trị  trao đổi thương mại hai bên tăng lên một tỷ đôla mỗi ngày. EU chiếm 42%  tổng số  vốn đầu tư  nước ngoài của Mỹ  trong khi đó đầu tư  của EU vào  Mỹ chiếm khoảng 56% tổng đầu tư nước ngoài của EU. Về an ninh chính trị, cả Mỹ và EU đều cần đến sự hợp tác của nhau  để giải quyết các vấn đề quan trọng có tính toàn cầu và khu vực. Đặc biệt,   Nguyễn Thị Quế, “tầm quan trọng của Châu Âu đối với Mỹ sau chiến tranh lạnh”, Tạp chí nghiên cứu  11 Châu Âu, số 6 (66) 2005, trg. 16. 10
  13. sau sự  kiện 11/9/2001, tầm quan trọng của EU đối với Mỹ  càng tăng. Mỹ  rất cần sự  hỗ  trợ  của EU trong cuộc chiến khủng bố, nhất là khi cộng  đồng Hồi giáo  ở  EU rất lớn và nhiều tổ  chức Hồi giáo có trụ  sở   ở  các   nước thành viên EU. Còn đối với Nga, thực tế  không thể  phủ  nhận rằng tương quan về  sức mạnh tổng hợp của Nga sau Một thập kỷ dưới sự lãnh đạo của Tổng  thống B.Yltsin so với nước Mỹ  là quá chênh lệch: Về  kinh tế, GDP của   Nga chỉ bằng 1/30 GDP của Mỹ; Về quân sự, ngoại trừ kho vũ khí hạt nhân  có khả năng tiêu diệt toàn bộ nước Mỹ thì lực lượng quân đội có khả năng   tác chiến cũng như  vũ khí chiến lược của Nga bị  giảm sút nhanh chóng.  Trong khi Mỹ  là cường quốc số  một thế  giới cả  về  kinh tế, chính trị  lẫn  quân sự  thì Nga vẫn phải “chật vật” trên con đường khôi phục lại vị  thế  cường quốc của mình. Có thể nói, lúc này nước Nga đã không còn đủ khả  năng để  cân bằng địa vị  với Mỹ. Vì thế, các nhà lãnh đạo Nga nhận định  muốn trở  thành cường quốc thế  giới thực sự  thì quan hệ  với Mỹ  có tầm  quan trọng hàng đầu và phải cải thiện mối quan hệ  với Mỹ  chứ  không   phải đối đầu với họ. Trong bối cảnh đó, sự  kiện 11/9/2001  ở  Mỹ  đã tạo  điều kiện cho Nga thực hiện được mục tiêu này. Việc Tổng thống Nga  V.Putin là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên gọi điện cho tổng thống Mỹ  bày tỏ  lời chia buồn và thông cảm sâu sắc với những nạn nhân của vụ  khủng bố, và sau đó không những  ủng hộ  mà còn tham gia vào liên minh   chống khủng bố do Mỹ đứng đầu, tất cả đã cho thấy mong muốn của Nga   cải thiện và phát triển mối quan hệ  tốt đẹp với Mỹ. Giữ  một vị  trí quan  trọng trong chính sách đối ngoại của EU và Nga như vậy, cùng với thực lực  và khả năng thực hiện sức mạnh của mình, Mỹ đã có những tác động quan   trọng đến quan hệ Nga – EU. 11
  14. LỜI KẾT Quan hệ  Nga – EU được coi là một trong những cặp quan hệ  giữa   các nước lớn quan trọng nhất sau Chiến tranh lạnh. Nằm trên vùng đất  chiến lược của thế giới lại là hai thực thể lớn nhất Châu Âu, mối quan hệ  giữa Nga – EU có ý nghĩa chiến lược rất lớn, đảm bảo an ninh, ổn định và  phát triển của cả  Châu lục và là một nhân tố  quan trọng của cả  cấu trúc   quan hệ quốc tế trong thế kỷ XXI. Mặc dù vậy, thập niên đầu của thế kỷ  mới đã cho thấy rằng giữa Nga và EU không chỉ có hợp tác mà luôn tồn tại  một số bất đồng tiêu cực đến quan hệ giữa hai bên. Đó là những bất đồng  liên quan đến vấn đề quan hệ giữa Nga với các nước Bantich, quy chế độc  lập cho  Kosovo  hay cạnh  tranh  kinh  tế,… trong  đó  đáng chú  ý nhất  là  những bất đồng, mâu thuẫn liên quan đến vấn đề  dân chủ, nhân quyền,  vấn đề mở rộng EU về phía Đông và vấn đề năng lượng.  Những bất đồng, mâu thuẫn này đã là rào cản cản trở quan hệ Nga –   EU trong một thời gian dài và sẽ  còn tiếp tục là nhân tố  tác động quan  trọng trong tương lai. Mặc dù vậy, thực tế đã chứng minh rằng chúng chưa   đủ khả  năng để đẩy quan hệ Nga – EU đến một nguy cơ  bị đổ  vỡ, vì vậy  hai bên đều nhận thức được tầm quan trọng của việc hợp tác với bên còn   lại, bế  tắc trong quan hệ  song phương sẽ  chỉ  đi ngược với lợi ích chiến   lược của cả hai. Nhìn một cách tổng thể, những rào cản đã được phân tích  không chỉ  chi phối mối quan hệ  Nga – EU, mà còn có tác động nhất định  đối với tình hình an ninh, ổn định phát triển của cả Châu Âu.  12
  15. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hà Mỹ Hương, Quan hệ Nga – Mỹ sau chiến tranh lạnh , NXB Chính trị  quốc gia, Hà Nội, 2003 2. Vũ Dương Huân, Hệ thống chính trị Liên bang Nga: cơ cấu và tác động   đối với quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, NXB Chính trị quốc  gia, Hà Nội, 2002. 3. Đỗ  Trọng Quang, “Tập đoàn khí đốt khổng lồ  Gazprom và tầm cỡ  của  nó trên thị trường năng lượng”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 4 (103)  – 2009. 4. Ngô Duy Ngọ, “Sự  rạn nứt trong quan hệ  Nga – Mỹ”,  Tạp chí nghiên   cứu Châu Âu, số 6 (81) ­ 2007. 5. Nguyễn Thị  Huyền Sâm, “Kinh tế  LB Nga thời kỳ  cầm quyêng của  Tổng thống Boris Yltsin: thực trạng và nguyên nhân”, Tạp chí nghiên  cứu Châu Âu, số 1 2005, trg. 39 6. Nguyễn Cảnh Toàn, “Xung đột Gruzia – Nga: Liều thuốc thử”,  Tạp chí   nghiên cứu Châu Âu, số 8 (95) – 2008.  7. Nguyễn Thanh Hiền, “Tổng thống Putin và chính sách ngoại giao, an   ninh của Liên bang Nga”,  Tạp chí nghiên cứu Châu Âu,  số  11 (86) –  2007. 8. Thông tấn xã Việt Nam, “Tổng thống Putin trong con mắt Phương Tây”,   Tài liệu tham khảo đặc biệt – TTX ngày 23/1/2008, trg.19. 9. Viện nghiên cứu Châu Âu, “Thông điệp Liên bang của Tổng thống Putin  ngày 8/7/2000”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 2 (63), 2001. 10. Nguyễn Thị Quế, “Tầm quan trọng của Châu Âu đối với Mỹ  sau chiến   tranh lạnh”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 6 (66) – 2005. 13
  16. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2