Tiểu luận: Sự lựa chọn và thích nghi trong chiến lược và thay đổi
lượt xem 9
download
Tiểu luận: Sự lựa chọn và thích nghi trong chiến lược và thay đổi với mục đích xem xét các tác động của các lý thuyết khác nhau về thích ứng và lựa chọn cho chiến lược và thay đổi. Xem xét lại các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm rằng thông báo việc thích ứng cấp tổ chức như là một kết quả trực tiếp của quản trị chiến lược và thay đổi tổ chứ hoặc có ý nghĩa cho sự thay đổi tổ chức.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Sự lựa chọn và thích nghi trong chiến lược và thay đổi
- Tiểu luận Sự lựa chọn và thích nghi trong chiến lược và thay đổi
- Quan điểm về sự thay đổi chiến lược trong tổ chức Arie Y. Lewin, Carmen B. Weigelt, & James D. Em ery Nghiên cứ u về thay đổi tổ chức, như nhiều chương trong cuốn sổ tay này thể hiện, phản ánh phong phú và đ a d ạng quan điểm lý thuyết và phương pháp tiếp cận thực nghiệm. Tr ong chương này chúng tôi quay trở lại một cuộc tranh luận kiểm tra việc lựa chọn thích ứng (Baum, năm 1996, Lewin và Volberda, 1999). Mục đích của chúng tôi là xem xét các tác động của các lý thuyết khác nhau về thích ứng và lự a chọn cho chiến lư ợc và thay đổi. Đặc biệt, chúng tôi xem xét lại các lý thuy ết và nghiên cứ u thực nghiệm rằng thông báo việc t hích ứng cấp tổ chức như là m ột kết quả trự c tiếp của quản trị chiến lược v à thay đổi tổ chứ c hoặc có ý nghĩa cho sự t hay đổi tổ chức, nhưng làm không có giả định trự c tiếp hoặc rõ ràng về chủ ý quản lý. Trong chương này chúng tôi không xem xét lại các lý thuyết và hậu quả của thay đổi nơi đơn vị phân tích là cá nhân hoặc nhóm . Chúng tôi thừa nhận rằng các nhà quản lý và cá nhân khác nhau rất nhiều trong xử lý thông tin của họ và ra quyết định do nhận thứ c xã hội, nhận thức chọn lọc, quản lý xây dựng môi trư ờng, đặc điểm cá nhân, bản án và quyết định những thành kiến, sự leo thang của cam k ết, và kết quả tương t ác theo ngữ cảnh. Quản lý chủ yếu là tự học, cấu trúc của kiến thức của họ và quá trình nhận thức được neo trong kinh nghiệm trự c tiếp, và hình dạng kinh nghiệm, đến m ột mức độ lớn, những gì họ biết và nhữ ng gì họ làm. N ó cũng vư ợt ra ngoài phạm vi của chương này để xem lại những bằng chứng thự c nghiệm liên quan đến việc giải thích theo ngữ cảnh không biết nguyên nhân của sự thích nghi cụ thể tổ chứ c (Desanctis và Poole, 1994; Sydow và W indeler năm 1998; W alsh, 1995). Trong việc hình thành cấu trúc chương này, chúng tôi nhận ra rằng dữ liệu thực nghiệm hỗ trợ việc quan sát rằng hầu hết công ty đư ợc chọn ra. T uy nhiên, lý thuyết
- không phân biệt giữa những cơ hội sống còn của công ty đư ợc quản lý trong thời gian tương đối dài với những cơ hội được quản lý trong thời gian ngắn. Lý thuyết chọn lựa – thích nghi theo kinh nghiệm là m ột phạm vi lớn bằng cách đáp lại biện pháp sống còn t ác động tư ơng tự là sự hỗ trợ trực tiếp đối với việc thích nghi cụ thể hay lý thuyết chọn lọc. Các lý thuyết thích nghi chiến lư ợc giải thích sự sống còn là chứ ng cớ mà công ty nằm trong dấu hỏi có tài nguy ên và khả n ăng duy nhất hay chế độ công việc thường ngày cao hơn hay chiến lư ợc chỉ định tài nguyên tốt nhất giải thích ưu điểm cạnh tranh, và vì vậy tồn tại. Lý thuyết s inh thái học dân số giải thích sự sống sót là chứng cớ mà những người mới vào nghề là dạng tổ chứ c sống còn và các công ty hiện thời được chọn ra. Tuy nhiên, về m ặt lý thuyết hay kinh nghiệm, lý thuyết sinh thái học dân số không có liên quan với việc học thích nghi của công ty cá thể. Vì vậy, lý thuyết hay cuộc nghiên cứu theo kinh nghiệm không đưa ra sự hiểu biết sâu sắc về công ty cá thể thích nghi và thay đổi thành công khi dân số gốc cùng tiến triển thành dạng tổ chứ c m ới do những ngư ời mới gia nhập đại diện. Một kết luận nổi bật lên từ việc xét lại này là cuộc nghiên cứu lựa chọn và thích nghi đại diện hai mức độ phân tích không phân cắt. Vì vậy, nhiều cuộc tranh luận chọn lựa thích nghi không phải là một cuộc tranh luận nào cả. Lý thuyết thích nghi chiến lược không có liên quan với thích nghi mứ c độ vĩ m ô (thống kê) và lý thuyết mức độ dân số thích nghi bỏ qua mứ c độ vi mô. Hơn nữa, lý thuyết t hích ứng chiến lược chính nó là khuyết t ật bằng cách phân chia và không kết nối giữa các tổ chức vĩ mô và lý thuyết chiến lư ợc thích ứng và thay đổi. Mặc dù các kết luận chung của các nghiên cứu thống kê về sự sống còn được hỗ trợ bởi cơ sở lý thuyết thự c nghiệm còn sinh tồn (hầu hết các công ty được lự a chọn ra), chúng tôi cung cấp, trong phần cuối cùng của chương này, một sự giải thích lần nữa tại sao các công ty sống sót có thể chống lại quán tính cấu trúc, cùng tiến triển, điều chỉnh, và tự tái t ạo t heo thời gian. Chương này được tổ chức thành bốn phần chính: (1) các lý thuyết cấp công ty liên kết khả năng cấp công ty và chiến lư ợc với thích nghi và sống sót, (2) lý thuyết trung mô (m esolevel) hoặc lý thuyết ranh giới liên kết công ty với môi trường vĩ mô và mô i trường thể chế, (3) các lý thuyết liên kết với công ty đối với môi trường vĩ mô, và (4) tác động đối với thích ứng và thay đổi và n ghiên cứu trong tương lai. Hình 5,1 mô tả một cái nhìn cùng phát triển của các lý thuy ết phê bình trong chương này, vị trí
- của mình tr ong cuộc tranh luận thích ứ ng lựa chọn, hư ớng nhân quả của họ, và mức phân tích. Cụ thể, chúng tôi xem xét các lý thuyết rằng sự tập trung về các chiến lư ợc nội bộ công ty và thay đổi, lý thuyết trung mô (mesolevel) tập trung vào ranh giới giữa công ty và môi trư ờng cạnh tranh của nó, lý thuyết về vai trò của môi trường thể chế về công nghiệp và thích ứ ng công ty, và các lý thuyết về động thái mức độ t hống kê liên quan đến nhữ ng công ty mới gia nhập và lực lư ợng của sự thay đổi vĩ mô như là các tiến bộ công nghệ và phong trào xã hội. Chúng tôi xem xét lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm có nguồn gốc ở xã h ội học (sinh thái học thống kê, lý thuyết thể chế), kinh tế (các tổ chứ c công nghiệp, kinh tế phát triển, kinh tế chi phí giao dịch, hành vi lý thuyết về hành vi của công ty), và quản lý chiến lư ợc (sự phụ thuộc t ài nguyên, nhấn mạnh sự cân bằng, sự lựa chọn chiến lư ợc, quan điểm dựa vào việc học và tài nguyên) khi họ thông báo thích ứng tổ chức. Mục tiêu tổng quát của chương này là một tổng hợp thống nhất của nhữ ng gì Pfeffer (1993) mô tả như là một “bản vá cỏ dại" cơ sở lý thuyết của các lý thuyết phát triển hạt nhân thúc đẩy nghiên cứ u mô dường như cạnh tranh và mâu thuẫn, hỗ trợ bởi các biện pháp riêng, các điều khoản của họ, và khái niệm. M ặc dù nó có thể được an ủi để đăng ký vào kết luận của Pfeffer r ằng rất khó để phân biệt trong nhữ ng gì hướng kiến thứ c về khoa học tổ chức đang tiến triển, chúng tô i tin rằng lý thuyết và nghiên cứu xem xét trong chư ơng này thông báo cho nhiều mặt của chiến lược và nghiên cứ u thích ứng. Phần chính yếu của nghiên cứu này có thể được xem là thông báo quan điểm thích ứng đa biến, hoài bão, cùng phát triển. Hơn thế nữa, chúng tôi tin rằng nhiều ống kính trong một khuôn khổ cùng phát triển là cần thiết cho một sự hiểu biết toàn diện hơn của thích ứ ng t ổ chức và thay đổi như nhúng trong ngữ cảnh m ôi trường và thể chế lớn hơn. Trong phần 4, chúng tôi thảo luận về tác động của đ ánh giá của chúng tôi đối với thích ứng và thay đổi tổ chức và đặc biệt xem xét tại sao các công ty ít thành công trong việc tồn tại, thích nghi, và cùng phát triển qua thời gian với một số tác động đối với nghiên cứu tương lai về sự thích nghi và t hay đổi.
- H ình 5.1 Khung cơ sở l ý thuyế t của sự lựa chọn / thí ch nghi. Các lý thu yết tập trung vào công ty Mô tả của công ty là "một gói các nguồn tài nguy ên" bư ớc đầu đã được kết nối bởi Penrose (1959), người đóng khung ý tưởng về tính không đồng nhất "của các dịch vụ sản xuất có sẵn hoặc có khả năn g có sẵn từ nguồn lực của n ó cung cấp cho mỗi công ty tính độc đáo của nó" (trang 75). Trong khuôn khổ này, các nguồn lực công ty được xác định là t ài sản hữu hình và vô hình (ví dụ như t ài sản vật chất, tài sản con người, cũng như các nguồn lực tổ chức như các thuộc tính công ty , vốn, hoặc các quá trình tổ chức) đã được gắn vào trong công ty (Barney, năm 1991; Wernerfelt, 1984). M ặc dù lý thuyết dựa vào tài nguyên tập trung vào các điều kiện m à các nguồn lực công ty dẫn đến lợi thế cạnh tranh bền vững, nó thích hợp nhận ra rằng không phải tất cả các nguồn lự c là một n guồn lợi thế bền vững. Chỉ có những nguồn t ài nguyên có giá trị, quý hiếm, mô phỏng không hoàn hảo, và duy nhất về chiến lược không thể thay thế được cho là nguồn cung cấp lợi thế cạnh tranh bền vững (Barney, 1991).
- Những giả định và trọng tâm nghiên cứu Quan điểm dựa trên nguồn lực tập trung vào các công ty là cấp phân tích và các nguồn tài nguy ên của nó như là đơn vị phân tích. M ục tiêu trung tâm của quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên chỉ ra là các công ty cá thể tận dụng các nguồn lực để xây dựng lợi thế cạnh tranh bền vững. Lý thuyết dựa vào tài nguyên được xây dựng trên một số giả định quan trọng bao gồm tính không đồng nhất nguồn lực, sự tồn tại nguồn lực duy nhất hay mô phỏng, làm giới hạn tính di động nguồn lực và cạnh tranh, và vai trò của khả năn g động lực học chẳng hạn sáng t ạo kiến thứ c và hội nhập. Lý thuyết dựa trên tài nguyên cũng đã có xu hướng xem sự thay đổi từ một quan điểm cân bằng theo định hư ớng; quan điểm này có nhữ ng tác động đối với các sáng kiến nghiên cứu trong tương lai bao gồm cả cơ hội để hội nhập với quan điểm lý thuyết khác. Chúng tôi thăm dò mỗi điểm này dư ới đây. Ngư ợc lại với giả định đặc trư ng ở lý thuyết kinh t ế về tính đồng nhất trong số các công ty trong ngành công nghiệp, quan điểm dựa vào nguồn lự c giả định tính đồng nhất nguồn lực trong số các công ty. Tính không đồng nhất trong yểm trợ t ài nguyên giữa các công ty xuất phát từ sự khác biệt trong thu thập thông tin, may m ắn, khả năng quản lý, hoặc bí quyết kỹ thuật. Các khác biệt nguồn tài nguyên này có thể trình bày một nguồn t iền thu ê và lợi thế bền vững (Barney, 1986, 1991; Mahoney và Pandian, 1992). Trong đó, thẩm quyền riêng biệt của một doanh nghiệp để sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên duy nhất khả năng của nó có th ể cho phép công ty cho thuê phù hợp bền vững (Penrose, 1959; Hitt và Ireland, 1985). Vì vậy, thay vì tập trung vào “ công ty đại diện " và h ành vi của mình, quan điểm dựa vào tài nguyên t ập trung vào các nguồn tài nguy ên độc đáo và đ ặc trưng cho công ty đó phân biệt các công ty và hiệu năng trong một ngành công nghiệp (Mahaney và Pandian năm 1992; Prahalad và Hamel, 1990 ). Theo quan điểm này, nguồn lự c đư ợc coi là có giá trị nếu họ cho phép một công ty để tăng năng suất và hiệu quả, và hiếm khi họ cho phép một công ty thực hiện chiến lược mà không thể thực hiện đồng thời bởi các công ty khác (Barney, 1991). Hơn nữa, nguồn tài nguyên quý hiếm và có giá trị là một n guồn lợi thế cạnh tranh bền vững chỉ
- khi chúng không thể bắt chước được bởi đối thủ cạnh tranh và bất động, do đó làm cho các công ty khác không có đư ợc chúng (Barney, 1991; Peteraf, 1993). N guồn tài nguyên nói chung được xem là không t hể bắt chư ớc được nếu (a) chúng được gắn vào lịch sử công ty , (b) mối quan hệ kết quả thự c hiện mơ hồ về nhân quả (Lippman và Rumelt, 1982), hoặc (c) chúng phứ c tạp về mặt xã hội (Dierickx và Cool, 1989). Giới hạn tính di động nguồn lực có thể phát sinh tương tự từ một số yếu tố. Một số nhà nghiên cứu đã thăm dò các khái niệm rào cản để đi vào cấp độ công ty (Bain, 1956) và hàng rào di động ở cấp độ nhóm chiến lược (Caves và Porter, 1977). Một số đã thảo luận về "cơ chế cô lập" để mô tả nhữ ng hiện tư ợng tìm chỗ nương tự a cho tài nguyên chiến lược công ty từ việc mua lại hoặc bắt chư ớc (Rumelt, 1984). Ví dụ, các cơ chế cô lập như vậy có thể được phản ánh trong quyền sở hữu trí tuệ cũng như trong t hông tin hoặc học tập không cân xứng (Rum elt, 1987). Các n hà nghiên cứu, chẳng hạn như Pet eraf (1993), đã nhấn mạnh những giới hạn với sự cạnh tranh nguồn lực là quan trọng đối với lợi t hế cạnh tranh bền vữ ng dựa trên sự khác biệt giữa các công ty tài nguyên. Thường thì tài nguyên duy nhất, không thể bắt chư ớc, và bất động phụ thuộc đường dẫn; có nghĩa là, các nguồn lực này đã p hát triển trong m ột tổ chức theo thời gian và do đó không thể mua trên thị trường cũng không thể bắt chước trong thời hạn ngắn. Teece, Pisano, và Shuen (1997) đề nghị khả năng năng động, các cơ chế m à qua đó các công ty phát triển và tiêu tan khả n ăng m ới, tạo thành một nguồn chính của lợi thế cạnh tranh. Như vậy, nguồn lự c phát triển bên trong và lề thói thư ờng ngày cụ thể với tổ chứ c coi thư ờng việc b ắt chư ớc và xây dự ng lợi thế chiến lư ợc, dẫn đến quan điểm cho rằng kiến thức tạo và hội nhập có lẽ là tài sản quan trọng nhất của công ty (Conner và Prahalad, 1996; Dierickx và Cool, 1989; Grant, 1996; Leonard-Barton, 1992). Cuối cùng, lý thuyết dựa vào nguồn tài nguyên xem xét các tác đ ộng biến đổi môi trường trên các nguồn lợi thế cạnh tranh của công ty. Sự thay đổi và hỗn loạn m ôi trường được cho là xói mòn lợi thế cạnh tranh bằng cách dự ng hình yểm trợ chiến lư ợc tài nguyên duy nhất lỗi thời. Vì vậy, để duy trì lợi thế cạnh tranh theo t hời gian, các công ty có lợi thế nhất quán theo thời gian, các công ty phải liên tục tái sinh và phát triển các cơ sở tài nguyên của họ. Wernerfelt (1984) nói rằng "sự p hát triển tối ưu của công ty liên quan đến một sự cân bằng giữa khai thác [tối đa hóa việc sử dụng]1 của
- nguồn lực hiện có và p hát triển những cái mới" (trang 178), ngụ ý một quá trình th ay đổi năng động. Tuy nhiên, lý thuyết dự a trên nguồn t ài nguyên có xu hư ớng cân bằng theo định hướng. Ví dụ, Dierickx và Cool (1989) thông qua một viễn cảnh tĩnh của lý thuyết dựa trên nguồn t ài nguyên bằng cách cho rằng thay đổi khoản hiến tặng tài nguyên của công ty có t hay đổi đáng kể dài hơn thay đổi chiến lư ợc thị trư ờng. Giả định chính của họ là mức độ thích hợp của việc thay đổi tổ chứ c ở tỷ lệ chậm hơn những thay đổi môi trường, công nghệ, quy định, và xã hội. Vì vậy, họ cho rằng lý thuyết dựa vào tài nguyên có thể có lợi từ một mô hình hướng tới quá trình nhiều hơn, ví dụ, liên quan sự tổng hợp lý thuyết phát triển (Foss, Knudsen, và M ontgomery năm 1995). Sự tập trung thực nghiệm chính Cách tiếp cận dựa trên tài nguyên đã ảnh hưởng một số dòng nghiên cứ u thực nghiệm, bao gồm: (a) thời gian đi vào thị trường mới (M ahoney và Pandian, 1992) và lợi thế người tiên phong (Lieberman và M ont gom ery năm 1998), (b) đa dạng hóa, và (c) sáp nhập và mua lại. Chúng tôi kiểm tra m au lẹ các khu vực nghiên cứu này trong phần này. Mối quan hệ của thời gian gia nhập thị trường để thực hiện công ty này từ lâu đã quan tâm đến cả hai nhà nghiên cứ u và quản lý. Nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm về thời gian gia nhập đã cho thấy nguồn tài nguyên công ty, như khả năng công nghệ và tiếp thị, đư ợc kết hợp cụ thể với thời gian gia nhập (Mitchell, 1989; Schoenecker và Cooper, 1998). Robinson, Fornell, và Sullivan (1992) cũng tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa các kỹ năng tài chính mạnh m ẽ của công ty và sự gia nhập thị trường tiên phong. Những ưu thế người tiên phong thường đư ợc coi là quan trọng như là m ột nguồn của các rào cản gia nhập thị trư ờng một. Tro ng quan điểm dự a trên nguồn tài nguyên, chiến lược, khan hiếm và không thể bắt chước được có thể dẫn đến nhữ ng ưu thế tiên phong đầu tiên (Lieberman và M ont gomery, 1988, 1998; M akadok, 1998). Theo Barney (1991, trang. 102) tính bền vững của lợi t hế cạnh tr anh "phụ thuộc vào khả năng sao chép cạnh tranh" hơn là trên lịch thời gian trôi qua. Vì vậy, "một lợi thế cạnh tranh được duy trì chỉ khi nó tiếp tục tồn tại sau khi các nỗ lực để trùng lặp r ằng lợi thế đã chấm dứt." Nghiên cứu ngành công nghiệp tư ơng trợ thị trư ờng tiền tệ,
- M akadok (1998) cho thấy những ưu thế người tiên phong về thị phần chỉ từng bư ớc bị ăn mòn dần và khiêm tốn bởi người mới vào nghề. Ông ấy cũng lưu ý rằng nó có vẻ mất một số lượng ngư ời mới vào nghề cho các lợi thế tiên phong để xói mòn. Ông ấy đã quy cho các ưu thế tiên phong với xói mòn với việc sở hữ u nguồn tài nguyên không thể bắt chước. Quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên khẳng định rằng nguồn tài nguyên công ty có thể là người lèo lái sự đa dạn g hóa và đạt được, ngoài lợi thế ngư ời tiên phong và các rào cản gia nhập (Barney năm 1991; Conner, 1991); Penrose, 1959; W ernerfelt, 1984, 1989). Phần chính y ếu nghiên cứ u cụ thể về sự đa dạng hóa đã bị ảnh hưởng bởi các lý thuy ết dựa trên nguồn tài nguyên. Quan điểm dựa trên nguồn tài nguy ên đã được sử dụng để giải thích các giới hạn của sự tăng trư ởng thông qua đa dạng hoá, động lự c cho đa d ạng hóa, và trở về khác nhau đối với các loại đa dạng khác nhau. Quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên cũng đã đư ợc sử dụng để cung cấp một cơ sở lý thuyết để dự đoán theo hướng đa dạng hóa (Ramanujam và Varadarajan, 1989). Ví dụ, quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên dự đoán rằng các công ty nên đư ợc hưởng lợi nhiều nhất từ sự đa dạng hóa vào thị trư ờng, trong đó sứ c mạnh t ài nguyên hiện t ại của họ có thể đư ợc áp dụng (Chang, 1996; Chatterjee và Wernerfelt năm 1991; M ontgomery và H ariharan, 1991). Nhiều nghiên cứ u thực nghiệm về đa dạn g hóa và hiệu suất đã hỗ trợ dự báo này bằng cách tìm các kết quả hiệu suất cao hơn cho các liên quan, chứ không phải là đa dạng hóa không liên quan (Rumelt, 1974; M ontgomery và W ernerfelt, 1988; Palepu, 1985; Singh và M ont gom ery năm 1987; Varadarajan và Ramanujam, 1987 ). Chang (1996) cũng đã ch ỉ ra r ằng không giống nhau trong các cấu nguồn nhân lự c giữa các công ty kinh doanh cốt lõi và một thị trường tiềm năng mới có thể làm giảm khả năng của một công ty khi nhập thị trường. Hơn nữa, ông đã chứng minh rằng công ty có nhiều khả năng để t hoát ra ngành nghề kinh doanh mà thiếu nguồn tài nguyên tương tự với kinh doanh cốt lõi của họ (Chang và Singh, 1999). Tuy nhiên, một số chứng cứ mâu thuẫn tồn tại, như một số nghiên cứu đã thất bại để tìm hỗ trợ cho các m ối quan hệ tích cực giữ a mối quan hệ xác thực giả thuyết giữa nguồn lực và thự c hiện sau khi gia nhập (Sharma và Kesner, 1996). Kể từ khi nguồn tài nguyên chiến lược và cho thuê tạo ra, đư ợc giả định là không thương mại hay di động qua các công ty, sáp nhập và sự đạt được chỉ là cách duy nhất
- để có đư ợc các bó tài nguy ên chiến lược (Wernerfelt, 1984). Quan điểm dự a trên nguồn tài nguyên giả đ ịnh rằng các công ty đa ngành có đư ợc lợi thế bền vữ ng nguồn tài nguyên duy nhất chỉ có thể được chia sẻ một cách hiệu quả giữa các đơn vị (Robins và W iersem a, 1995) hoặc sự thu đư ợc chỉ tạo ra giá trị bất thường nếu người đạt đư ợc và nguồn t ài nguy ên mục tiêu có thể đư ợc kết hợp duy nhất và có chiến lư ợc (Barney, 1988). Với những tiên lư ợng trư ớc này, có lẽ là không đáng ngạc nhiên rằng các dòng của nghiên cứu về sáp nhập và mua lại đã không được tìm thấy hỗ trợ cho ngư ời thu được có đư ợc số tiền thanh toán bằng cách này và việc hoàn lại trên bình t hường từ mua lại (Agrawal, Jaffe, và Mandelker năm 1992; M alatest a, 1983). Xây dự ng trên lý thuyết dự a trên nguồn tài nguyên, Barney (1986, 1988) tranh luận rằng giá thuê sẽ đổ dồn vào ngư ời thu nếu công ty đấu thầu sở hữu thông tin cá nhân, may mắn, hoặc hiệp trợ cụ th ể v ới m ục tiêu t iềm năng m à không phải là d ễ dàng bắt chước bởi ngư ời thu tiềm năng khác. Kết quả, một số nhà nghiên cứu đã cho rằng hiệp lực như vậy có nhiều khả năng trong việc mua lại có liên quan (Chatterjee, 1990). Do đó, trong khi các lý thuy ết dự a trên nguồn tài nguyên đã tạo ra vô số nghiên cứ u thực nghiệm, các kết quả đôi khi không rõ ràng của những nghiên cứu này đã tạo ra những tranh cãi đối với quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên. Những cuộc tranh luận Một số thách thức chính hư ớng vào việc nghiên cứu thự c n ghiệm kết hợp quan điểm dựa trên nguồn tài nguy ên dự a trên lưu ý rằng (a) một số khái niệm q uan trọng như nguồn lực hay khả năng khó thực hiện hoặc biện pháp trực tiếp (Godfrey và Hill, 1995; Reed và DeFillippi năm 1990; Robins và Wiersema, 1995) và (b) các lý thuyết không rõ ràng cho dù đó là một sự kết hợp các nguồn lực hoặc một tài nguyên duy nhất cung cấp các nguồn lợi thế cạnh tranh. Những lời chỉ trích chứ ng minh đầy thử thách trong ngành công nghiệp đa dạng, lớn, và nhữ ng nghiên cứu xuyên khu vực là nghiên cứu chiến lược tiêu biểu (Ram anujam và Varadarajan năm 1989; Rouse và Daellenbach, 1999). Kết quả là, các nghiên cứu thực nghiệm thường sử dụng các biện pháp ủy nhiệm, từ xa đối với nguồn lực công ty như cường độ R và D, quảng cáo cường độ, và cường độ vốn để giải quyết những hạn chế này. Những quan hệ mật thiết giữa thích nghi và thay đổi
- Do tập trung mạnh m ẽ về tài nguyên công ty cụ thể và lợi thế cạnh tranh ở cấp độ tổ chức, quan điểm dựa tr ên nguồn tài nguyên có một định hướng thích ứng mạnh mẽ. Duy trì hiệu suất cao do yểm trợ t ài nguyên duy nhất dự kiến sẽ tăng sự tồn tại vững chắc và khả năng thích ứ ng với thay đổi môi trư ờng và nhận ra cơ hội m ới. Từ quan điểm này, quản lý của công việc là đ ể phát hiện, tích luỹ, phát triển và sử dụng nguồn tài nguyên chiến lư ợc có giá trị để đạt đư ợc lợi thế cạnh tr anh bền vững cũng như để bảo vệ nhữ ng nguồn lực và các dòng họ tiền thuê chống lại đối thủ cạnh tranh (Amit và Schoemaker, 1993; Pet eraf, 1993). Lý thuyết hành vi của công ty Học thuyết hành vi của Công ty (Cyert, M arch, 1963) tối đa hóa lợi nhuận cả những thách thức như là mục tiêu duy nhất của các tổ chức và kiến thức hoàn hảo làm cơ s ở hoạt động công ty. Sử dụng công ty là đơn vị phân tích, Lý thuyết hành vi của Công ty (BTOF) thúc đẩy lý thuyết quá trình thực hiện quyết định tổ chức và thích nghi. Một số lý thuyết gần đây, chẳng hạn như kinh tế học phát triển (Nelson và Wint er, 1982) và học tổ chức (Hedberg, 1981; Levinthal và March, 1981, 1993; M arch, 1991), xây dựng trên chính những cấu trúc và ý tư ởng của BTOF. Những giả định và trọng tâm nghiên cứu BTOF quan sát việc tổ chức là sự liên minh mà các thành viên và chủ sở hữu tìm cách tối đa hóa mụ c tiêu cá nhân của họ trong khi đáp ứng các nhu cầu của tổ chức. Vì vậy, thay vì xem các tổ chức như là một thực thể tối đa hóa lợi nhuận, như trong quan điểm kinh tế cổ điển của công ty, quản lý đư ợc xem là cân đối nguồn lự c để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của nhiều bên liên quan. Mục tiêu t ổ chức đư ợc dựa vào m ức độ mong muốn trên kinh nghiệm quản lý, hiệu suất trước đây và các mục t iêu, hiệu suất của các đối thủ cạnh tranh, và kinh nghiệm ngành công nghiệp. Các giả định chính dưới BTOF là "dạng gần như là quyết định của xung đột, tránh tình trạng không rõ ràng, tìm kiếm mơ hồ, và học tập có tổ chức" (Cy ert, March, 1963, trang. 116). Trư ớc khi giải quyết nhữ ng giả định quan trọng này, trư ớc tiên chúng t a chuyển sang đánh giá ngắn gọn về khái niệm đoạn chùng t ổ chứ c, một trọng điểm và tích hợp xây dựng trong BTOF.
- Đoạn chùng tổ chức được định nghĩa là “sự khác biệt giữa tổ ng số tài nguy ên và các khoản thanh toán t ổng số cần thiết" (Cyert, March, 1963, trang. 36). Nó phục vụ để đệm tổ chứ c từ sự không chắc chắn môi trường, ổn định tổ chức liên minh do biến ở các mức hiệu suất làm m ịn và cung cấp các nguồn tài nguy ên cho sự đổi mới. Thông qua các cơ chế này, tổ chức đoạn chùng đóng một vai trò trung ương đến các giả định quan trọng của BTOF. Trong thời hạn BTOF, xung đột có t hể nảy sinh từ một số nguồn, bao gồm: (a) thay đổi điều kiện môi trư ờng tạo ra sự không chắc chắn cho các công ty, (b) sự khác biệt giữ a các mục tiêu cá nhân của người quản lý khác nhau trong công ty, và ( c) sự khác nhau giữa các mục tiêu quản lý cá nhân và các mục tiêu của nhiều bên liên quan khác của tổ chứ c. Bởi vì đoạn chùng tổ chứ c cung cấp các nguồn lực cho phép công ty đáp ứ ng với điều kiện môi trư ờng khác nhau và sự khác biệt giữa các công ty, cá nhân, và mục tiêu của các bên liên quan, đoạn chùng tổ chức đóng một vai trò quan trọng trong cuộc xung đột trung gian cho công ty. Một giả định chính khác của BTOF liên quan đến việc cần phải làm giảm sự không chắc chắn môi trư ờng mô tả như là h ành vi tránh sự không chắc chắn. Các tổ chức tìm cách giảm sự k hông chắc chắn của mô i trường đàm phán của họ và sử dụng đoạn chùng tổ chứ c cho bộ đệm biến đổi trong hoạt động. Th ay vì xử lý m ôi trường như là ngoại sinh và xác định (Hannan và Freeman, 1977), BTOF miêu tả tổ chức như tìm cách kiểm soát nó. Các tổ chứ c thương lượng và ảnh hư ởng môi trường của họ thông qua kế hoạch, tiêu chuẩn công nghiệp, sắp xếp hợp đồng, và h ợp thứ c hợp với thông lệ công nghiệp và chỉ tiêu thể chế. Các chiến lư ợc giảm sự không chắc chắn BTOF tương tự những chiến lư ợc được yêu cầu trong lý thuy ết phụ thuộc nguồn lực (Pfeffer và Salancik, 1978). Ví dụ, trong lý thuyết phụ thuộc vào nguồn t ài nguyên chiến lư ợc giảm không chắc chắn bao gồm hình thành các hiệp hội ngành công nghiệp, liên minh, hoặc ban giám đốc phối hợp chặt chẽ. Sự t ìm kiếm mơ hồ là quá trình lèo lái thất bại cơ bản phản ánh sự hợp lý r àng buộc giải thích khi nào và làm thế nào đư ợc cải thiện t hói quen và tính chất của quá trình giải quyết. Sự tìm kiếm mơ hồ là thúc đẩy bởi công nhận hoặc xác định một vấn đề cụ thể liên kết với thự c t ế hoạt động (thường xuyên). Cường độ của quá trình tìm
- kiếm tổ chứ c phụ thuộc vào sự khác biệt giữa các mục tiêu tổ chứ c và thành tích. Khi thực hiện vượt quá mục tiêu, tìm cường độ giảm và đoạn chùng tổ chức phát triển. Đoạn chùng tổ chứ c tích lũy thời gian khi thực hiện vượt quá mức độ mong muốn, nói chung, khi môi trư ờng là không giới hạn. Trong điều kiện môi trư ờng bất lợi, BTOF giả định rằn g công ty hợp lý hóa đoạn chùng thông qua một số chiến lư ợc chuyển dịch cơ cấu như một p hương tiện để đạt đư ợc mứ c hiệu suất. Vì vậy, đoạn chùng tổ chức đại diện cho một bước đệm của sự trung hòa giữa sự không chắc chắn của môi trường và lỗi trong kết quả thự c hiện. Sự t ìm kiếm mơ hồ và thự c hiện phư ơng pháp giải quyết vấn đề thích ứng cũng là quá trình quan trọng liên kết với tổ chức học t ập. Cuối cùng, bởi vì đoạn chùng t ổ chức cung cấp tài nguyên cho sự t ìm kiếm m ơ hồ. Một lần nữa xem như là một cần thiết, nhưng chưa đủ điều kiện để đổi m ới và thích ứng. Nghiên cứu thực nghiệm chính Nghiên cứu t hực nghiệm về BTOF đã có nhiều hình thức, bao gồm cả các nghiên cứu mô phỏng (March và Olsen, 1976). Nhiều nghiên cứu thự c n ghiệm hỗ trợ các giả định và dự đoán BTOF bắt nguồn từ các nghiên cứu thự c nghiệm áp dụng kinh tế học phát triển hoặc học tập tổ chức. Nghiên cứ u thự c tế về đoạn chùng tổ chức đã có kết quả khác nhau (Tư sản, 1981; Singh, 1986) và các điểm đến một số thách thức liên kết với BTOF. Những cuộc tranh luận Tương tự như một số các lời chỉ trích hư ớng vào các nguồn t ài nguyên dự a trên xem, BTOF chịu vấn đề đặc hữu của điều tra các khái niệm như khả năng công ty năng động (T eece et al., 1997). Tr ong khi các khái niệm này có quyền giải thích và đư ợc trực quan hấp dẫn, họ đã chứng minh khó áp dụng ante cũ. Những quan hệ mật thiết giữa thích nghi và thay đổi
- Tương tự như nhiều lý thuyết khác tập trung vào các công ty, BTOF lượt xem các công ty như sở hữ u " phạm vi rộng đáng kể trong việc lựa chọn những chiến lư ợc của họ để đối phó với môi trường của họ" (Child, 1972, p. 2444). Một giả định chính của BTOF là tổ chức có khả năng thay đổi m ục tiêu của m ình, tập trung sự chú ý, và quá trình tìm kiếm như là một kết quả của việc học tổ chứ c. Hơn nữ a, BTOF dường như đi một bước xa hơn so với một s ố lý thuyết có quan điểm t hích ứng m ạnh mẽ bằng cách gợi ý rằng các công ty có thể tác động hay thậm chí làm thay đổi môi trường bên ngoài, trong đó họ hoạt động. Tuy nhiên, BTOF dư ờng như ít chú trọng vào một số yếu tố quán tính tạo sức đề kháng với sự thích nghi và thay đổi cho các tổ chức. Học tập mang tính tổ chức Một học thuyết hành vi của Công ty (Cyert và March, 1963) giới thiệu học t ập mang tính tổ chức như một tính năng của sự thích nghi tổ chứ c bằng cách xem các tổ chức là " các hệ thống học tập thích nghi", trong đó hành vi là do thủ tục, thói quen, và học tập gia t ăng. T uy nhiên, nghiên cứu tiếp theo trong việc học tổ chức đã thay đổi rất nhiều trong học tập được định nghĩa như thế nào và khía cạnh gì được nhấn mạnh. Ví dụ, việc học đã được xác định là kiến thức mới hay những hiểu biết (Argyris và Schoen, 1978), cấu trúc mới (Chandler, 1962), hoặc chỉ đơn thu ần là thay đổi m ột trong các hoạt động (Cy ert và March, 1963). M arch và O lsen (1975) t ập trung vào những hạn chế nhận thức của việc học và Huber (1991) đóng khung về tổ chứ c học tập trong một góc độ xử lý thông tin. Tại thời điểm khác, các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh học tập như thư ờng lệ trên, phụ thuộc lịch sử, và định hướng mục tiêu (Levitte và M arch, 1988). Mặc dù thiếu hội tụ về một định nghĩa và nhữ ng khái niệm hóa rộng rãi khác nhau cho việc học tổ chức (Huber, 1991), dường như có khái niệm thỏa thuận mạnh về một m ối quan hệ tích cực giữa tổ chức học tập và hiệu suất trong tương lai (Fiol và Lyles, 1985; Levitt và M arch, 1988). Những giả định và trọng tâm nghiên cứu Lý thuyết học tập tổ chức tìm cách giải thích làm thế nào các cá nhân và tổ chức của họ có được, xử lý, phân phối, tích hợp, và t iêu t an các thông tin liên kết với các chức năng của công ty. M ột số giả định là không thể thiếu cho việc nghiên cứ u tổ chức học tập, bao gồm (a) học tập xảy ra trên nhiều cấp độ, (b) xảy ra thông qua cơ chế học
- tập nhiều, (c) học tập góp phần vào thành công của tổ chức thông qua cả quá trình thích ứng và khai thác, và (d) tỷ lệ học có thể có cả hậu quả tích cực và tiêu cự c cho các tổ chức. Chúng tôi kiểm tra lần lượt mỗi giả định này. Học tập mang tính tổ chức là một hiện tượng hoài bão có thể xảy ra ở cấp độ của cá nhân, nhóm, tổ chức, hoặc tập hợp tổ chức (Fiol và Lyles, 1985; Cross an, Lane, và White, 1999). Ở cấp độ cá nhân, việc học đã tập trung vào việc thu lại các kỹ năng mới, kiến thức, định mức, và các giá trị (Argyris và Schoen, 1978), và về quá trình học tập bằng cách thử và sai (M iner và M ezias, 1996). Học tập ở cấp độ nhóm đã nhấn mạnh "hiệu suất phản hồi, chia sẻ sự hiểu biết, và điều phối hành vi" (Miner và M ezias, 1996, p. 91). Ở cấp độ t ổ chức, việc học đã thường chỉ ra sự t ác động lẫn nhau giữa các cấp mong muốn, chuy ển giao kiến thứ c trong tổ chức, và xử lý thông tin (Miner và Mezias, 1996). Gần đây, các n hà nghiên cứu đã nghiên cứu các quá trình học tập ở cấp độ tập hợp tổ chứ c với các nhóm của các tổ chức có được kiến thức m ới và thói quen thông qua kinh nghiệm chung hoặc vật mô phỏng (Barnett và Handsen năm 1996; Darr, Argot e, và Epple, 1995; Ingram và Baum, 1997a, 1997b; Mezias và Lant, 1994). Những phát hiện từ nghiên cứu này đã cho rằng trong quá trình khuếch tán công nghệ một số tổ chức tìm hiểu quá sớm và những ngư ời khác thì quá muộn (Miner và Haunschild, 1995). Cũng như việc học xảy ra ở nhiều cấp, nhiều cơ chế khác nhau được cho là đóng góp vào việc học của tổ chức. Ví dụ, học tập có thể là kết quả của quá trình xã hội hóa thông qua t ăng cường các thói quen và sự quốc tế của thủ tục công ty. Học t ập cũng có thể xảy ra như là kết quả của các hoạt động cố ý hướng vào việc cải t hiện hiệu năng tổ chức và / hoặc thói quen (Huber, 1991). Quy trình hướng dẫn thường sử d ụng xác định rõ ràng t ìm kiếm và thủ tục thẩm định, mặc dù thử nghiệm-và-lỗi thử nghiệm cũng có thể xảy ra trong đó các quá trình thành công được giữ lại và tăng cường, trong khi các quy trình không thành công đang bị bỏ rơi (Cyert và March, 1963; Levitt và March năm 1988; March và Olsen, 1976; March và Sim on, 1958). Hơn nữa, tổ chức học hỏi từ cả hai kinh nghiệm của riêng mình và kinh nghiệm của các công ty khác thông qua mô phỏng t hực hành thành công hoặc thông qua việc mua lại (Herriott, Levint hal, và M arch, 1985; Huber, 1991). Hơn nữ a, tổ chức có t hể tham gia v ào cuộc đua học tập cạnh tranh với các công ty khác, kết quả là "Red Queen" có hiệu lực, trong đó các
- công ty phù hợp với nhau càng nhanh càng tốt, nhưng công ty không đạt được một lợi thế lâu dài (Barnett và H ansen, 1996). Tuy nhiên, để đồng hóa kiến thức bên ngoài thành công mới, kinh nghiệm tích lũy và phát triển khả năng hấp thụ được giả định là khả năng tổ chức cần thiết (Cohen và Levinthal năm 1990; Lane và Lubatkin, 1998). Các động lực cho việc học tổ chức có thể đến từ bên trong tổ chức, nó có thể do thay đổi môi trư ờng. Không ngạc nhiên, việc thay đổi thói quen tổ chức có nhiều khả năng đư ợc khởi xư ớng trong thời gian khi thực hiện không đạt được m ục tiêu thiết lập hơn trong thời gian khi thực h iện vư ợt quá mục tiêu. Thông t hường những lư ợng giảm hiệu suất xảy ra trong thời gian bất ổn môi trư ờng, khi lề thói hàng ngày tổ chức thành công trư ớc đó trở nên lỗi thời, dẫn đến rơi vào bẫy năng lực "" (Levitt và March năm 1988; March, 1981). Để tránh các bẫy năng lực, sự t hích ứ ng và phục hồi tổ chức lâu dài thành công yêu cầu tổ chức khai thác và t inh chỉnh thói quen hiện có và khả năng gắn vào kiến thức cũ " và, đồng thời, để thăm dò các cách t iếp cận mới có thể thay th ế thực hành lạc hậu, khả năng, và cơ sở tri thức (tháng , 1991; Crossan et al, 1999.). Vì vậy, March (1991) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm kiếm một sự cân bằng giữa thăm dò và khai thác trong tổ chứ c học tập để thúc đẩy tổ chức thích ứng và tồn tại. Hơn nữ a, học tập và không học tập là cả hai đư ợc cho là cần thiết cho sự hiểu biết thích ứng và thay đổi tổ chức (Hedberg, 1981). Thói quen cũ không học sẽ m ở ra khả năng cho học tập mới xảy ra (Hedberg, 1981; Huber, 1991), tr ong khi tích lũy học tập củng cố các kỹ năng hiện có và cải thiện vị trí tổ chức trên đường cong học t ập (Dutton, Thom as, và Butler, 1984; Levitt và M arch, 1988). Tuy nhiên, thông tin hiện t ại đánh giá quá cao tại các chi phí của triển vọng dài hạn hoặc quá nhấn mạnh thành công trong quá khứ và tìm kiếm địa phương có thể dẫn đến việc học, mà có thể ức chế khả năng thích ứng dài hạn (Levinth al và March, 1993). Tránh bẫy năng lực và thiển cận trong việc không ngừng chuyển các môi trư ờng yêu cầu các tổ chức đồng t hời nhấn m ạnh thăm dò các thói quen mới và khai thác về chuyên môn (Levinthal và March năm 1993; Lewin, Long, và Carroll, 1999; M arch, 1991). Trong khi lợi ích của việc cân bằng giữa khai thác và thăm dò trong việc học tổ chức đã đạt đư ợc sự đồng thuận rộng, lợi thế về tốc độ trong việc học tổ chức đã t ạo ra
- sự hỗ trợ hỗn hợp. Học nhanh đã được đư a ra giả thuyết để ảnh hưởng đến khả năng thích ứng tổ chức và sự sống còn với các hậu quả mà thư ờng t ổ chức lựa chọn kỹ năng mua lại hơn phát triển kỹ năng nội bộ (Cohen và Levinthal, 1990). Kết quả của nghiên cứu mô phỏng cho thấy các tổ chứ c học tập nhanh chóng đạt đến giám định và cân bằng trong các thói quen mới sớm hơn chậm tổ chức học tập (March, 1991). Do đó, trong các m ôi trường ổn định nhanh chóng học tập là tích cực liên kết với hiệu suất. Tuy nhiên, trong môi trường thay đổi nhanh chóng, nơi thói quen trở n ên lỗi thời ở mức độ khác nhau và các yêu cầu thay đổi nhanh chóng, nhanh chóng học tập là dễ bị nguy cơ bẫy năng lực và chuyên môn thích nghi không tốt (Levinthal v à March năm 1993; Levitt và March, 1988). Nghiên cứu thực nghiệm chính Nghiên cứu thực tế về tổ chức học tập bao gồm các nghiên cứ u mô phỏng (Lant, năm 1992; March, 1991), trư ờng hợp nghiên cứu (Garud và Van de Ven, năm 1992; Kim, 1998), và m ột vài nghiên cứu định lư ợng (Barnett và Burgelman năm 1996; Lant, Milliken, và Batra, 1992). Nghiên cứu này đã t ập trung vào một số khía cạnh của tổ chức học tập, bao gồm (a) cơ chế học tập, (b) ảnh hư ởng của kinh nghiệm trư ớc và các y ếu tố ngữ cảnh khác, (c) tỷ lệ chuyển giao kiến thức và phân rã, và (d) việc học dựa trên tổng t hể ngành công nghiệp so với học hỏi từ đối t hủ cạnh tranh cụ thể. Do nhiều cơ chế xác đ ịnh là quan trọng với học tập tổ chứ c, nó không phải là điều ngạc nhiên khi nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã được phát triển để kiểm tra các cơ chế này. Trong một nghiên cứ u trường hợp chuyển đổi công nghệ tại Công ty Hyundai Motor 1967-1995, Kim (1998) minh họa tổ chứ c học tập thông qua mô phỏng các quá trình và thông qua việc xây dựng có chủ ý của các cuộc khủng hoảng. Trong nghiên cứu này, K im đã chỉ ra rằng Hyundai đã đạt được quan hệ đối t ác thông qua kiến thứ c k inh nghiệm với Ford và H yundai chủ động tạo ra các cuộc khủng hoảng liên quan đến m ột khoảng cách giữa thực tế và h iệu năng mong m uốn để t ăng cường những nỗ lự c tìm kiếm các lựa chọn thay thế trong khi ức chế sự tích tụ của quán tính cấu trúc mà có thể ức chế sự thay đổi trong tương lai . Garud và Van de Ven (1992) nghiên cứu quá trình học tập thử nghiệm-và-lỗi của công ty mạo hiểm bao gồm các liên doanh 12 năm của cấy ghép ốc tai. Họ đã chứng minh rằng nguyên nhân m ơ hồ,
- không chắc chắn, và nguồn lực đoạn chùng sẵn có cao ảnh hưởng lớn việc học tập thử nghiệm-và-lỗi là một quá trình thích nghi. Cụ thể, họ đã chứ ng minh rằng sự hiện diện của các cấp cao về tài nguy ên đoạn chùng và mơ hồ nhân quả, công ty liên doanh không thành công có xu hư ớng kéo dài lâu hơn liên doanh phát triển trong các tình huống không có chùng hoặc mơ hồ. Sử dụng m ột mẫu của công ty trong ngành công nghiệp đồ nội thất và phần mềm máy tính, Lant et al. (1992) đã thử nghiệm ảnh hưởng của hiệu suất trước đây và giải thích quản lý của việc học qua, bao gồm cả mối quan hệ nhân quả-và-có hiệu lực, về khả năng định hướng lại và thay đổi chiến lược. Họ thấy rằng khả năng định hướng lại và thay đổi tổ chứ c khác nhau như là một chứ c năng của bối cảnh ngành công nghiệp, hiệu suất trư ớc đây, và giải thích quản lý và đặc điểm. Mô phỏng mức độ thích ứng mong muốn ở cấp độ nhóm, Lant (1992) thấy rằng các nhóm phản ứng với thông tin phản hồi hiệu suất và điều chỉnh mức mong muốn cá nhân của họ tư ơng tự như quá trình thử nghiệm-và-lỗi. Một số nghiên cứu khác đã xem xét mối quan hệ của k inh nghiệm trước, kiến thức về hiệu suất, tổ chứ c học tập, và thay đổi. Ví dụ, trong một nghiên cứu về ngành công nghiệp Greve phát sóng (1998) đã chứng minh tác dụng tích cực của các cấp mong m uốn về đánh giá hiệu năng và thay đổi tổ chức trong tương lai. Greve cũng chứng m inh rằng kiến thứ c hiện tại và khả năng nhận thức về hiệu suất thành công là nhạy cảm đến mức mong m uốn trong quá k hứ và kinh nghiệm. Tư ơng tự như vậy, Cohen và Levinthal (1990) mô phỏng khả năng hấp thụ của một tổ chức bắt chư ớc và tiếp thu kiến thức bên ngoài như là m ột chứ c năng của kinh nghiệm kiến thức và cường độ của các n ỗ lực. Cuối cùng, nghiên cứu lịch sử đa dạng hoá 14 doanh nghiệp phi tài chính ở Hà Lan trong một khoảng thời gian 23 năm , Pennings, Barkem an, và Douman (1994) nhận thấy hàng tích lũy và quá khứ học tập để chỉ di chuyển đa dạng hóa trong tương lai. Công ty có nhiều khả năng đa dạng hóa vào các lĩnh vực kiến thức mà yêu cầu đư ợc liên quan đến khả năng quá khứ của họ hơn vào lĩnh vực mới hoàn toàn không liên quan - một việc tìm kiếm tương thích với các kết quả của Chang (1996) về việc đ a dạng hóa trong các công ty Mỹ.
- Nghiên cứu thực tế trong việc học tổ chức cũng đã kiểm tra tỷ lệ chuyển giao kiến thứ c và tình trạng suy sụp. Nghiên cứ u chuyển giao tổ chức học tập qua xưởng đóng tàu, Argote, Beckman, và Epple (1990) tìm thấy hỗ trợ cho chuyển giao kiến thức cũng như kiến thức lạc hậu nhanh chóng. Họ cũng tìm thấy các tổ chức tham gia vào quá trình s ản xuất ở giai đoạn sau để đạt được năng suất hơn. Trong nghiên cứ u của họ về học tập trong 36 cử a hàng pizza ở tây nam Pennsylvania, Darr et al. (1995) cho thấy rằng việc học đã đư ợc chuy ển giữa các cửa hàng thuộc sở hữu của cùng m ột nhượng quy ền thư ơng mại, nhưng không qua quyền thương mại. N ghiên cứu này cũng được hỗ trợ Argote et al 's. (1990) phát hiện trên mứ c giá của việc học hao mòn theo thời gian. Một dòng khác của tổ chức học tập, nghiên cứu đã tập trung vào hình thức mà tổ chức học. T rong nghiên cứu của họ về mối qu an hệ giữa các hãng hàng không đa thị trường đi lại hai chiều California, Korn và Baum (1999) báo cáo rằng ngoài việc học hỏi từ kinh nghiệm riêng của họ, các hãng hàng không bắt chư ớc các chiến lư ợc thành công của đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứ u ngành công nghiệp khách sạn Hoa Kỳ 1896- 1985, Ingram và Baum ( 1997a) nhận thấy rằng khách sạn có kinh nghiệm học hỏi từ cả hai ngành công nghiệp và kinh nghiệm tổ chứ c với tổ chức học tập từ kinh nghiệm của m ột ngư ời tự cho là y ếu hơn tổng quát hơn cho các chuyên gia. Hơn nữ a, những phát hiện của họ ngụ ý rằng ngành công nghiệp kinh nghiệm có thể được lợi hơn cho các tổ chức trong thời gian dài do không đúng của nó cao hơn và thiếu sự p hụ thuộc vào đường dẫn vào bất kỳ tổ chức cụ t hể, do đó làm giảm khả năng học tập cận thị. Trong m ột nghiên cứ u có liên quan đến sự sống còn của chuỗi kh ách sạnM anhattan, Ingram và Baum (1997b) cho thấy rằng việc học trong chuỗi đã đư ợc tích cự c liên quan đến việc cải thiện sự sống còn tổ chứ c. Cuối cùng, học tập giữ a các tổ chức trong các liên minh chiến lược và sự hợp nhất là sự tập trung của m ột số nghiên cứu gần đây thực nghiệm về t ác dụng của việc học về liên minh trong tương lai hay thực hiện sáp nhập (Ham el, năm 1991; Koza và Lewin, 1998; M akhija và Ganesh, 1997). Lane và Lubatkin (1998), ví dụ, nghiên cứu vai trò của các công ty khả năng hấp thụ giữ a các công ty trong liên minh. Họ thấy rằng các cấu trúc, cơ sở kiến t hức, và logic thống lĩnh càng tương tự, hiệu quả của việc học giữa tổ chứ c càng mạnh. Cuộc nghiên cứ u thực n ghiệm về hành vi sáp nhập công
- ty theo thời gian đã chỉ ra rằn g nhữ ng cái giành được của công ty sau đó hư ởng lợi từ cái giành được trước kia, cho thấy có sự hiện diện của học tập (Haleblian và Finkelst ein, 1999; Pennings et al, 1994.). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của họ về hành vi sáp nhập của 47 ngân hàng lớn Hoa Kỳ 1982-1998, Weigelt và Lewin (2000) thấy rằng ngân hàng đã đư ợc thời gian học tập hiệu ứng phụ thuộc và rằng một chiến lư ợc của sự h ợp nhất khai thác lặp đi lặp lại (liên quan đến sản phẩm k ết hợp khai hiện có) không cho kết quả tăng hiệu quả, cho thấy rằng hầu hết các tổ chức thiếu hoặc không áp dụng thói quen cụ thể như sự phản ánh và làm m ới theo đề nghị của mùa đông và Sz ulanski (2001). Những cuộc tranh luận Cũng giống như chiến lược khác và lý thuyết thích ứ ng và các khuôn khổ, tổ chức học tập phải đối mặt với những thách t hức kết hợp với phân tích thự c nghiệm của nó. Ví dụ, sáng tạo kiến thứ c định lượng tiếp tục là một thách thứ c lớn (Grandori và Kogut, 2002). Hơn nữ a, việc học tập kiến thứ c và quá trình học tập trong các hệ thống yêu cầu thông t in liên quan đến con đư ờng dọc theo chiều dọc liên quan các mô hình năng động và thành lập công ty của nhiều cấp độ phân tích vẫn còn nhiều hy vọng hơn so với hiện thự c. Tuy nhiên, tầm quan trọng của việc học để thay đổi tổ chứ c và hoạt động đảm bảo rằng nó sẽ tiếp tục là một lĩnh vực nghiên cứu sôi động cho các nghiên cứu chiến lư ợc. Ý nghĩa đối với thích ứng và thay đổi Mặc dù một sự đ ồng thuận mạnh tồn t ại trong cơ sở lý thuyết về mối quan hệ tích cự c giữ a học t ập tổ chứ c và thích ứng, mối quan hệ không phải theo một phương hướng duy nhất hay thậm chí nhân quả không chắc chắn. Về chiến lược thích ứng, học hỏi khung chiến lư ợc là một quá trình khẩn cấp. Nó giải quyết và ô n hòa sự thích ứng và được làm thuận lợi và cản tr ở b ởi kinh nghiệm. Việc học bị ảnh hưởng bởi sự ưu tiên cho việc trở lại khoảng cách gần được bảo đảm hoặc ít đảm bảo. Nó có thể là nguyên nhân gây ra quán tính cấu trúc, và nó đánh giá t hấp và làm suy sụp với việc không dùng đến và với các ứng dụng lặp đi lặp lại. Học là do so s ánh với đối thủ cạnh tranh nhưng là đội ngũ năng lực hấp thụ vào công ty. Những tiền đề cơ bản của việc học là sử dụng kiến thức hiện có, như trong kích hoạt các thói quen hiện có, gia t ăng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài “ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN TRÀ THẢO MỘC DR.THANH ĐẾN SỰ LỰA CHỌN CỦA SINH VIÊN ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HCM "
25 p | 857 | 443
-
Tiểu luận "Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam".
18 p | 292 | 101
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn điểm đến của người dân Hà Nội: Nghiên cứu trường hợp điểm đến Huế, Đà Nẵng
0 p | 234 | 42
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn điểm đến của người dân Hà Nội: Nghiên cứu trường hợp điểm đến Huế, Đà Nẵng
0 p | 490 | 38
-
10 mẫu bìa Tiểu luận đẹp nhất
12 p | 224 | 31
-
Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngân hàng của khách hàng cá nhân tại thành phố Huế
143 p | 91 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sự lựa chọn ngành học của sinh viên Trường Đại học Bạc Liêu
187 p | 24 | 15
-
Đề tài: “Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam”
28 p | 158 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn Ngân hàng vay vốn của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Bản Việt - Trung tâm kinh doanh
145 p | 14 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn dịch vụ kế toán của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình Dương
186 p | 38 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngân hàng của khách hàng cá nhân
99 p | 66 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn điểm bán lẻ của khách hàng - Nghiên cứu thực nghiệm tại các siêu thị Quảng Ngãi
26 p | 62 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn trường mẫu giáo cho con của phụ huynh tại thành phố Hồ Chí Minh
137 p | 60 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Sự lựa chọn đối tác trong hôn nhân của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
172 p | 18 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn của khách hàng cá nhân đối với dịch vụ tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Văn Lang
99 p | 28 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn điểm bán lẻ của khách hàng - Nghiên cứu thực nghiệm tạo các siêu thị Quảng Ngãi
110 p | 10 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn trường mẫu giáo cho con của phụ huynh tại TP.HCM
137 p | 17 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn