intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng

Chia sẻ: Đàm Liên | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

514
lượt xem
51
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng trình bày cơ sở lý thuyết tác động của du lịch, tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng, các biện pháp khắc phục vấn đề tồn tại về tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng

  1. Tổng quan du lịch Nhóm 5 MỤC LỤC. MỤC LỤC 1 LỜI MỞ ĐẦU 2 I/ CƠ SỞ LÝ THUYẾT TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH. 3 1. Quan niệm về tác động kinh tế. 3  Hiệu quả bội (Multiplier effect) 3  Sự rò rỉ làm giảm hiệu quả bội. 5 2. Các lợi ích về kinh tế. 5 2.1. Cải thiện cán cân thương mại quốc gia. 5 2.2. Tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới. 6 2.3. Quảng bá cho sản xuất địa phương. 6 2.4. Tăng nguồn thu cho Nhà nước. 7 2.5. Tạo cơ sở để giúp phát triển các vùng đặc biệt. 7 2.6. Khuyến khích nhu cầu nội địa. 8 II/ TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI ĐÀ NẴNG. 8 1. Khái quát về du lịch Đà Nẵng 8 2. Các tác động kinh tế gắn với du lịch Đà Nẵng 9 2.1 Cải thiện cán cân thương mại quốc gia. 9 2.2 Tạo cơ hội việc làm. 10 2.3 Quảng bá cho sản xuất địa phương. 11 2.4 Tăng nguồn thu cho nhà nước. 12 2.5 Tạo cơ sở để giúp phát triển các vùng đặc biệt 13 2.6 Khuyến khích nhu cầu nội địa. 15 2.7 Một số vấn đề tồn tại. 15 III/ CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC VẤN ĐỀ  TỒN TẠI VỀ  TÁC ĐỘNG  KINH TẾ CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI ĐÀ NẴNG. 17 1. Đào tạo nguồn nhân lực 17 2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 17 3. Các chính sách đầu tư, hỗ trợ từ nhà nước 18 4. Khắc phục tính thời vụ 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 20 KẾT LUẬN 21 1
  2. Tổng quan du lịch Nhóm 5 LỜI MỞ ĐẦU. Hiện nay, du lịch được xem là ngành kinh tế  không khói quan trọng của nhiều  quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Du lịch trở nên phổ biến và là nhu cầu   không thể thiếu của con người khi đời sống tinh thần của họ ngày càng phong phú. Với lịch sử hàng ngàn năm văn hiến, nước ta có nguồn tài nguyên du lịch nhân  văn phong phú đậm đà bản sắc dân tộc, cùng với nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên   đa dạng với nhiều cảnh đẹp, là nền tảng cho sự phát triển du lịch và có giá trị  cao  đối với việc thu hút du khách đến tham quan tìm hiểu.Trong những năm gần đây,   luồng đầu tư  vào du lịch tại Việt Nam không ngừng tăng, doanh thu mà ngành này   mang lại tăng nhanh đáng kể. Tuy nhiên, để du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi   nhọn thì cần có chiến lược phát triển cụ thể. Trong những năm gần đây thành phố  Đà Nẵng dần trở thành một điểm đến hấp dẫn nhất Việt Nam, đối với cả khách du  khách trong và ngoài nước. Việc ngành du lịch Đà Nẵng phát triển sẽ gây ra những  tác động nhiều mặt như kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường. Thể hiện rõ nhất  là các tác động kinh tế  đối với Đà Nẵng: là những lợi ích và chi phí trực tiếp và  gián tiếp về kinh tế nhận được từ  sự  phát triển và sử  dụng các tiện nghi, dịch vụ  du lịch. Nhận thức được tầm  ảnh hưởng của du lịch đối với kinh tế  như  vậy, việc  nghiên cứu về nó là hết sưc cần thiết. Từ đó có thể tìm ra những tích cực, tiêu cực  để phát huy điểm mạnh khắc phục điểm yếu để giúp ngành du lịch Đà Nắng ngày   càng phát triển bền vững hơn. 2
  3. Tổng quan du lịch Nhóm 5 NỘI DUNG. I/ CƠ SỞ LÝ THUYẾT TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH. 1. Quan niệm về tác động kinh tế. Tác động kinh tế  là những lợi ích và chi phí trực tiếp và gián tiếp về  kinh tế  nhận được từ sự phát triển và sử dụng các tiệc nghi và dịch vụ du lịch. Vai trò của du lịch được đánh giá rất khác nhau giữa các nước. Ở  một số nơi   nó được coi là cách thức tốt nhất để kiếm được những đồng ngoại tệ quý giá, cải   thiện mối quan hệ với các nước khác và quảng bá với thế  giới về  một đất nước  tươi đẹp, được quản lý và điều hành tốt. Du lịch có thể tạo ra sự kích thích thúc đẩy phát triển kinh tế. Khi du lịch phát   triển sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ  cho nhiều ngành kinh tế khác như: nông nghiệp,  thủy sản, công nghiệp chế  biến thực phẩm, thủ  công mỹ  nghệ, bưu chính viễn   thông… Tiêu thụ sản phẩm thông qua việc bán các sản phẩm cho khách du lịch và   doanh nghiệp du lịch. Tuy nhiên cần phải xét đến tính hai mặt của vấn đề: nếu nói   du lịch luôn mang lợi ích về kinh tế  là không chính xác, ngược lại nói du lịch  ảnh  hưởng xấu đến nền kinh tế cũng là không đúng. Chúng ta phải xem xét kĩ hai mặt   của vấn đề để có phương pháp tốt nhất phát triển du lịch. Du lịch có hiệu quả trực tiếp đối với một số ngành và lĩnh vực kinh doanh như:   Giao thông vận tải, các dịch vụ giải trí, lưu trú và ăn uống thông qua doanh thu của   các bộ  phận này tăng đáng kể. Hiệu quả  gián tiếp tới một số  ngành khác có liên   quan tới du lịch như công nhiệp hàng tiêu dùng, sản phẩm của ngành nông nghiệp,   thủ công mỹ nghệ và một số sản phẩm đặc trưng của đất nước cũng có lợi ích từ  du lịch. Hiệu quả bội  (multiplier effect) Hiệu quả bội là hiệu quả tăng thêm về thu nhập của một khu vực từ những thu  nhập ban đầu của du lịch (hoặc chi tiêu của khách du lịch). Đồng tiền do khách du lịch tiêu là đồng tiền “mới” tại một khu vực vì khách đã   mang tiền từ nơi này đến nơi khác, những đồng tiền mới này được xử dụng để chi  trả cho các khoản phát sinh trong quá trình du lịch, nghỉ dưỡng của khách. Bảng hiệu quả bội của du lịch: Khách du lịch chi têu Ngành du lịch chi têu 1. Dịch vụ lưu trú Tiền lương và tiền công 2. Các bữa ăn Tiền thưởng, tiền bồi dưỡng 3. Đồ uống Bảo hiểm xã hội 4. Giao thông nội hạt Hoa hồng 5. Tham quan Âm nhạc và giải trí 3
  4. Tổng quan du lịch Nhóm 5 6. Giải trí Dịch vụ pháp lí 7. Quà   và   hàng   lưu  Mua thực phẩm, đồ uống niệm Mua vật liệu và vật phẩm cung cấp 8. Chụp ảnh Sửa chữa và bảo dưỡng  9. Hóa mỹ phẩm Quảng cáo, xúc tiến và tuyên truyền 10. Quần áo, giầy dép Dịch vụ công cộng: điện, gas, nước 11. Các thứ khác Vận tải Giấy phép kinh doanh Phí bảo hiểm Thuê nhà đất và trang thiết bị Mua sắm đồ đạc và tải sản cố định Trả lãi tiền vay ngân hang Thuế thu nhập và các thuế khác Thay thế tài sản vốn Hoàn vốn đầu tư Những người hưởng lợi cuối cùng Bác sĩ Đầu bếp Người kinh doanh bất  động  Báo chí, đài phát thanh Đại lý du lịch sản Các câu lạc bộ Đại lý ô tô Người làm đồ  thủ  công mỹ  Các cơ sở giặt khô Đại lý sản xuất nghệ Các cơ sở bán buôn Garage sửa chữa ô tô Người làm vườn Các sự kiên thể thao Hoá chất Người nhập khẩu Các tổ chức văn hóa Khu ngỉ mát Người sản xuất bánh kẹo Các câu lạc bộ đêm Họa sĩ Nha sĩ Chính phủ Kiến trúc sư Nhà cung cấp tài chính  Dịch vụ công cộng Kĩ sư  Nhà hàng ăn uống Đường   sắt   và   đường  Luật sư Nhà in/vẽ biển quảng cáo bộ Ngân hang Nhà quản lý Giáo dục Ngư dân Nhà xuất bản Phát triển Người bán sữa  Nhân viên kế toán Sức khỏe Người bán thảm Nhân viên phục vụ phòng Chủ sở hữu đất Người bán thực phẩm N/v quảng cáo và giao tế cc Công đoàn Người   cho   thuê   đồ  Nông dân Công ty bảo hiểm dung bãi biển Rạp chiếu phim Cổ đông Người   chuyên   chở  Taxi/dịch vụ cho thuê ô tô Cửa hàng bành kẹo hang Thợ điện Cửa hàng lưu niệm Người   cung   cấp   thiết  Thợ đường ống nước Cửa hàng quần áo bị văn phòng Thủ quỹ Cửa hàng tạp hóa Người đấu thầu Thư ký Cửa hàng trang thiết bị Người giặt là Trạm bán xăng Của hàng sản xuất đồ  Người khuân vác Từ thiện bạc 4
  5. Tổng quan du lịch Nhóm 5 5
  6. Tổng quan du lịch Nhóm 5 Với khoảng 11 khoản chi trực tiếp đối với ngành du lịch: mua sắm, lưu trú   ăn uống vui chơi giải trí,…. từ du khách tạo thành các khoản thu cho các cơ sở kinh   doanh du lịch. Chi phí mua nguyên vật liệu, thuê nhân công, xây dựng cơ  sở  vật   chất,.. của các cơ  sở  kinh doanh du lịch tạo thành khoản thu cho các ngành nghề  khác,.. Tạo thành chuỗi chi tiêu thu nhập lan khắp địa phương: Chi tiêu ban đầu của  du khách ­> thu nhập của ngành du lịch ­> chi tiêu của ngành du lịch ­> thu nhập   của các cơ sở kinh doanh khác ­> … ­> người được hưởng lợi cuối cùng.  Chuỗi chi tiêu thu nhập có thể  được xác định bằng cách nhân thêm một hệ  số  vào lượng thu nhập ban đầu của du lịch. Còn có thể  gọi là “hiệu quả  số  nhân   trong du lịch”. Chuỗi chi tiêu thu nhập này sẽ liên tục không dứt và nó chỉ chấm dứt   khi có sự rò rỉ. Sự rò rỉ (leakage) Sự  rò rỉ: là sự  thất thoát về  thu nhập du lịch do sự truyền ra khỏi địa phương  của nguồn thu nhập đó. Tuy nhiên, không phải tất cả số tiền nhận được sẽ cần thiết phải chi tiêu hết   hoặc đọng lại toàn bộ  trong nên kinh tế  của địa phương. Một số nhân viên sẽ  để  dành (tiết kiệm) tiền, những nhân viên không phải là người địa phương có thể  gửi  tiền về quê, các cơ sở kinh doanh nhập khẩu nguyên vật liệu, các công ty chi nhánh   của công ty đa quốc gia sẽ gửi lợi nhuận về công ty chính của mình ở  nước khác.  Do đó, những khoản tiền này được đưa ra khỏi chuỗi chi tiêu – thu nhập của khu   vực. Sự  rò rỉ  này sẽ làm giảm hiệu quả  của thu nhập từ  du lịch tại một khu vực.   Nếu khu vực tự cung tự cấp nhiều hơn thì lợi ích thu được từ du lịch càng nhiều. Do đó, khi đánh giá tác động kinh tế của du lịch cần xét dựa vào mối quan hệ  giữa hiệu quả bội và sự rò rỉ.  2. Các lợi ích về kinh tế. 2.1. Cải thiện cán cân thương mại quốc gia. Hoạt động du lịch có tác động làm biến đổi cán cân thương mại của 1 quốc gia.   Bằng việc khách du lịch quốc tế đến mang theo tiền từ các quốc gia khác, góp phần  làm tăng dự  trữ  ngoại tệ  của 1 quốc gia. Du lịch được coi như  một loại hàng hóa   xuất khẩu có thể có giá trị như khoáng sản hoặc nông sản ở một số đất nước có lẽ  nó có giá trị hơn vì nó không làm cạn kiệt các tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Ngoại tệ là một nguồn tài chính cho sự phát triển kinh tế, giúp chi trả cho việc   nhập khẩu công nghệ,… của quốc gia. Lợi ích trên có được với điều kiện lượng   ngoại tệ thu được không bị rò rỉ khỏi nền kinh tế. Đồng thời, các du khách quốc tế  đến và chi tiêu nhiều hơn công dâ quốc gia đó đi du lịch nước ngoài. Nếu người Việt Nam đi nước ngoài trong các kỳ nghỉ mang theo tiền bạc (dưới  dạng ngoại tệ hoặc séc du lịch) và chi tiêu tiền bạc ở nước ngoài thì lợi ích kinh tế  6
  7. Tổng quan du lịch Nhóm 5 của du lịch sẽ  bị   ảnh hưởng. Nếu như  nguồn thu ngoại tệ từ khách du lịch trong   nước nhỏ hơn lượng ngoại tệ bị rò rỉ ra do khách du lịch trong nước đi du lịch nước  ngoài thì sẽ làm thâm hụt cán cân thanh toán. Các quốc gia đều mong muốn có thặng dư, vì vậy họ hạn chế đi du lịch nước   ngoài bằng một số cách: áp dụng thị thực hoặc giấy phép cho người đi du lịch nước   ngoài. Hạn chế  số  tiền người đi có thể  mang khỏi đất nước, thủ  tục visa phiền   hà,.. Ngoài ra, tỷ giá trao đổi cũng có thể ảnh hưởng tới số người đi du lịch ở nước   ngoài. Khi tỷ giá trao đổi các ngoại tệ mạnh biến động một cách đột nhiên sẽ dẫn   đến sự thay đổi đáng chú ý của mô hình du lịch. 2.2. Tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới. 1.2.1 Tác động tích cực. Du lịch là một ngành tạo ra nhiều việc làm với phạm vi rộng nhưng điều quan  trọng là phải xem xét thận trọng loại công việc mà nó tạo ra. Công việc mà du lịch  tạo ra có phạm vi rộng bao gồm các lĩnh vực quản lý, tài chính, điều hành, thông tin  truyền thông, bán và maketing. Tuy nhiên, phần lớn cơ hội việc làm ở phạm vi điều   hành và tác nghiệp. Du lịch tạo công việc cho các nhà quản lý như  quản lý văn phòng, quản lý   khách sạn, quản lý nhà hàng, bếp trưởng hoặc giám đốc marketing. Các công việc  này đều đòi hỏi người có trình độ điều hành, quản trị tác nghiệp. Còn lại phần lớn  công việc đòi hỏi kĩ năng không cao, làm tay chân, làm theo ca  như: phục vụ phòng,   phụ bếp, dọn dẹp, khuân vác. Ngành du lịch là ngành dịch vụ mang tính thủ công nên tỷ lệ phát triển ngành tỷ  lệ  thuận với tăng việc làm. Du lịch phát triển kéo theo nhiều cơ  hội việc làm cho  những ngành khác: sản xuất hàng tiêu dùng, giao thông vận tải, nuôi trồng thủy  sản, thủ công mỹ nghệ, bưu chính viễn thông … 1.2.2 Một số mặt hạn chế. Điều kiện làm việc không thuận lợi: làm việc theo ca kíp,bvào các ngày nghỉ  lễ. Những người công nhân sẵn sàng chuyển nghề nếu tìm được công việc ưa thích   có giờ giấc tốt và lương cao hơn.Ở một số nước phát triển, còn xảy ra tình trạng  “công nhân khách” tức là phải thu nhận lao động nước ngoài do lao động trong  nước không đáp ứng được. Đối với các nước đang phát triển, lao động địa phương thường được tuyển  dụng vào những vị trí quan lý thấp do họ chưa đủ  điều kiện về giáo dục, trình độ  hoặc có thể do chính sách của công ty. Vị trí quản lý chính thường do người nước   ngoài đảm nhận dẫn đến sự không thỏa mãn của nhân viên bản xứ. Lĩnh vực khách sạn và ăn uống: các nhân viên làm việc trong lĩnh vực này   thường có sự  luân chuyển công việc do họ  không thấy thỏa mái hay hài lòng với  công việc dẫn đến vấn đề duy trì nhân lực. 7
  8. Tổng quan du lịch Nhóm 5 2.3. Quảng bá cho sản xuất địa phương. Ngành du lịch tạo sự  nổi tiếng cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp địa  phương thông qua việc đáp ứng nhu cầu của khách du lịch về các sản phẩm lương  thực, thực phẩm, dụng cụ, đồ đạc, xây dựng… Đồng thời, tạo khả năng tăng khối  lượng sản xuất địa phương: để đáp ứng nhu cầu mới, nhu cầu bổ sung thêm từ  du  khách. Ngoài ra, những sản phẩm thủ công, hàng lưu niệm,... từ  những làng nghề  đang bị mai một vì người địa phương không còn quan tâm đến thì sẽ lại được khôi  phục và phát triển.  Du lịch mang lại lợi ích phát triển sản xuất địa phương chỉ áp dụng cho những   nước nhận khách du lịch. Nhưng nếu các vật liệu mới cần cho ngành du lịch mà   phải nhập khẩu từ  nước ngoài thì lợi ích này sẽ  bị  giảm thiểu. Nếu lượng nhập   khẩu tăng thì du lịch sẽ không mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Nguyên liệu, hàng   hóa vật phẩm cung cấp sản xuất tại địa phương hoặc trong nước mới tạo lợi ích   cho nước chủ nhà. Tuy nhiên, du lịch cũng có mặt tác động tiêu cực tới sản xuất địa phương. Quy   hoạch du lịch làm cho đất đai sản xuất bị  co hẹp. Các làng nghề  thủ  công truyền  thống bị  mai một. Các sản phẩm truyền thống thủ  công bị  giảm đi giá trị  vốn có  của mình. Du lịch phát triển cũng dẫn đến giá cả, đất đai ở địa phương đó tăng lên.  Ảnh hưởng tới sinh hoạt cũng như sản xuất địa phương. 2.4. Tăng nguồn thu cho Nhà nước. Khách du lịch cũng có nghĩa vụ phải nộp các loại thuế. Có thể là thuế trực tiếp  như thuế khởi hành phải trả ở các sân bay hoặc thuế phòng cộng thêm vào hóa đơn  thanh toán lưu trú tại khách sạn. Cũng có thể  là thuế  gián tiếp như  thuế  máy bay   tiếp đất, thuế  nhiên liệu máy bay hoặc thuế  giá trị  gia tăng đối với các hàng hóa   dịch vụ. Đây là những khoản thuế làm tăng nguồn thu cho nhà nước. Tuy nhiên, những lợi ích từ nguồn thu nhập thêm này phải được cân nhắc với   những trách nhiệm và chi phí của nhà nước phải tăng thêm. Trong một số  trường  hợp chính phủ buộc phải giảm thuế đế khuyến khích đầu tư. Trong các trường hợp khác, các thu nhập thu được thực sự  có thể  bị  giảm do  chi phí du lịch tăng. Một quốc gia khuyến khích phát triển du lịch nên hiểu rõ ràng  để  hấp dẫn du khách 1 cách thực sự  cần phải phát triển cơ  sở  hạ  tầng của đất   nước như  đường xá giao thông công cộng, sân bay, nhà ga, bến tàu, điện nước và  thông tin liên lạc. Việc xây dựng các tiện nghi này đạt được các tiêu chuẩn cần   thiết đòi hỏi khoản đầu tư lớn. Tuy nhiên đây cũng là các tiện nghi để bổ sung cải  thiện đời sống cho cả dân cư địa phương. Các khoản chi đầu tư  vào ngành du lịch sẽ  làm thâm hụt ngân sách nhà nước  nếu chi không có kế hoạch, không đúng mục đích, không đạt hiệu quả. 8
  9. Tổng quan du lịch Nhóm 5 2.5. Tạo cơ sở để giúp phát triển các vùng đặc biệt. Du lịch thường được gọi là ngành công nghiệp sạch. Đó là một hoạt động sinh   lợi mà không bị hệ lụy do ô nhiễm môi trường từ chất thải công nghiệp. Thêm nữa,  hoạt động du lịch xem ra có vẻ  dễ  làm, đơn giản hơn công nghiệp; sinh lợi như  công nghiệp mà lại không cần phải có hầm mỏ, nhà máy, ống khói,... Du lịch được coi là ngành tăng trưởng nhanh. Một khi các yêu cầu cơ bản được   đáp  ứng (lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, mua sắm,...) thì số  lượng khách du  lịch có thể tăng lên nhanh chóng, với một tỉ lệ cao. Việc phát triển du lịch sẽ giúp tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc phát  triển các vùng có những vấn đề  khó khăn nhất định như: vùng núi, hải đảo, vùng   sâu, vùng xa,... Không chỉ  đem lại những lợi ích đã nói  ở  trên mà còn làm cho các   vùng này thu hút được sự quan tâm của công chúng trong và ngoài nước. Để  phát triển du lịch tại các vùng đặc biệt này cần phải nhận được sự  quan   tâm, giúp đỡ  rất nhiều từ  phía địa phương và Nhà nước. Đồng thời mục tiêu phát   triển phải tránh mâu thuẫn, tranh chấp với các mục tiêu quân sự, đảm bảo an ninh   quốc gia. Ngoài ra, khi một khu vực có tầm quan trọng về quân sự, chính trị  và tôn giáo  được mở  cửa để  đón khách du lịch và trở  thành điểm đến du lịch phổ  biến thì có   thể làm giảm sự đối đầu hoặc thù địch với các dân tộc khác, nước khác. 2.6. Khuyến khích nhu cầu nội địa. Khi  một khu vực thu hút được du khách quốc tế sẽ làm tăng sự quan tâm trong  nước đối với các điểm hấp dẫn ở khu vực đó. Khi các khách sạn mới, các khu giải  trí, các tiện nghi dịch vụ mới xây dựng mà quyến rũ được khách du lịch quốc tế thì  cũng làm cho người dân địa phương  ở  đây sẽ  thích nghỉ  ngơi “tại nhà” – tại địa   phương của mình hơn. Khi đi du lịch trong nước, khách du lịch sẽ có xu hướng sử dụng hàng hóa trong   nươc nhiều hơn, góp phần kích thích nhu cầu nội địa người Việt Nam dùng hàng  Việt Nam. II/ TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI ĐÀ NẴNG. 1. Khái quát về du lịch Đà Nẵng Thành phố  Đà Nẵng nằm  ở  miền Trung Việt Nam với khoảng cách gần như  chia đều giữa thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đà Nẵng còn là trung tâm  của 3 di sản văn hóa thế  giới là Cố đô Huế, phố cổ  Hội An và thánh địa Mỹ  Sơn.  Không chỉ vậy, Đà Nẵng tọa lạc tại điểm cuối của tuyến hành lang kinh tế  Đông   Tây và là cửa ngõ ra biển Thái Bình Dương của các nước Myanma, Thái Lan, Lào  và Việt Nam. Đa dạng về cảnh quang thiên nhiên  9
  10. Tổng quan du lịch Nhóm 5 Đà Nẵng là một thành phố biển với bãi biển dài hơn 60 km. Với bãi biển đẹp,  trải dài thoai thoải và cát trắng miên man, Biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes của   Mỹ  bình chọn là 1 trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh. Có rất nhiều dịch vụ  biển cho bạn trải nghiệm như canoing, dù kéo, lướt ván, chèo thuyền chuối, motor  nước, lặn biển ngắm san hô. Không chỉ  trứ  danh bởi những bãi biển đẹp, Đà Nẵng cũng mang nét hấp dẫn  riêng biệt bởi vị thế tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, lại có bán đảo Sơn Trà  vươn ra biển. Nhờ vậy, Đà Nẵng có con đèo Hải Vân được mệnh danh "thiên hạ  đệ  nhất hùng quang" với cảnh quang nhìn ra biển vô cùng ngoạn mục và những   khúc lượn hiểm trở. Đà Nẵng còn có thương hiệu du lịch Bà Nà Hills. Được khám phá và xây dựng  từ thời Pháp thuộc, khu du lịch Bà Nà ngày càng hấp dẫn du khách với hệ thống cáp   treo đạt 2 kỷ lục thế giới và khu vui chơi giải trí trong nhà lớn nhất Đông Nam Á ­   Fantasy Park. Bà Nà nằm về phía Tây thành phố còn hướng về phía Đông Bắc, du khách tiếp  tục khám phá bán đảo Sơn Trà ­ khu rừng giữa thành phố  với hệ  động thực vật  phong phú, với những bãi tắm hoang sơ  mấp mô ghềnh đá. Rồi ngược về  Đông  Nam lại là danh thắng Ngũ Hành Sơn, không chỉ chứa đựng vẻ đẹp thiên nhiên mà  còn có bề dày giá trị văn hóa và tôn giáo. Môi trường sống thân thiện và sôi động Không chỉ được thiên nhiên ưu đãi cho nhiều cảnh quang đẹp, Đà Nẵng còn là  một thành phố đáng sống bởi sự trong lành và yên bình nơi đây. Từng liên tục giữ  thứ  hạng cao nhất nước về tốc độ  phát triển kinh tế  nhưng Đà Nẵng vẫn duy trì  tốt an ninh trật tự, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy   trong cộng đồng và rất hiếm khi xảy ra tình trạng kẹt xe. Đó là lí do mà du khách hoàn toàn thoải mái và yên tâm khi đi dạo khắp thành   phố. Đến với Đà Nẵng, du khách sẽ được thưởng thức nhiều món ăn đặc sản như  mì Quảng, bánh tráng thịt heo, hải sản tươi sống  ở  hơn 150 nhà hàng cao cấp và  đạt chuẩn. Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đang đưa các hoạt động giải trí vào du lịch: trải   nghiệm cảm giác đêm Đà Nẵng trên phố  du lịch Bạch  Đằng, thưởng thức các   chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền thống, tham gia các hoạt động vui chơi  giải trí sau 24h. Dễ tiếp cận Rất thuận lợi cho du khách đến với Đà Nẵng. Đà Nẵng có sân bay quốc tế với  công suất 6 triệu khách/năm và hiện có nhiều đường bay trực tiếp quốc tế. Cảng   nước sâu Tiên Sa là nơi thường xuyên tiếp nhận du thuyền cao cấp, đưa du khách  10
  11. Tổng quan du lịch Nhóm 5 đến với Đà Nẵng. Đà Nẵng còn là trạm dừng chính của các tuyến xe lửa và xe  khách. 2. Các tác động kinh tế gắn với du lịch Đà Nẵng 2.1 Cải thiện cán cân thương mại quốc gia. Theo Sở  Văn hóa, Thể  thao và Du lịch TP Đà Nẵng cho biết, trong năm 2013,   tổng lượng khách du lịch đến Đà Nẵng đạt trên 3,1 triệu lượt khách, tăng 17,2% so   với năm 2012. Trong đó khách quốc tế đạt trên 743.000 lượt, tăng 17,8%, khách nội   địa đạt gần 2.347.000 lượt người, tăng 17%. Tổng thu du lịch đạt 7.784,1 tỷ  đồng,  tăng 29,8%. Trong năm 2013 du lịch Đà Nẵng thu về  khoảng 1.872 tỷ  đồng ngoại   tệ, góp phần làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ cho quốc gia. Lần đầu tiên kim ngạch  xuất khẩu của thành phố đạt trên 1.3 tỷ USD. Trong đó có 92 chuyến tàu biển cập cảng Tiên Sa với 102.465 lượt khách, tăng  91% so với năm 2012; lượng khách đường bộ  từ  Lào, Thái Lan đến Đà Nẵng đạt  27.000 lượt. Ông Trần Chí Cường, Phó Giám đốc Sở Văn hóa­Thể thao và Du lịch cho biết,   ngành du lịch thành phố  phấn đấu năm nay sẽ  đón 3,6 triệu lượt khách, trong đó  khách quốc tế đạt 820 ngàn lượt. Tổng thu từ  du lịch đạt 8.820 tỷ đồng. Ước tính  thu về khoảng 2.010 tỷ đồng ngoại tệ. 2.2 Tạo cơ hội việc làm. Đà Nẵng đã thu hút được rất nhiều các lao động và những người từ   khắp nơi   đến sinh sống và làm việc, theo số liệu báo cáo của tổng cục thống kê thì tỉ lệ nhập   cư ở Đà Nẵng năm 2010 là 2.5% là khả quan nhưng ước tính đến năm 2015 thì con  số  đó đã lên đến 3.8%.  Theo số  liệu tháng 6 năm 2013 hiện tổng lượng lao động  ngành du lịch trên địa bàn TP Đà Nẵng gần 14.000 người song tỉ lệ lao động được   đào tạo đúng chuyên môn về du lịch chỉ chiếm 40,6%. Đội ngũ lao động trong hoạt   động lữ  hành khoảng 796 người (chiếm 5,7%), đội ngũ hướng dẫn viên du lịch   chiếm 4,2% nguồn nhân lực du lịch.  Thông tin từ  Hiệp hội du lịch TP Đà Nẵng,  ước tính đến năm 2015, khách du  lịch đến Đà Nẵng đạt 4 triệu lượt, ngành du lịch cần thêm hơn 20.000 lao động.   Trong khi đó, số  sinh viên tốt nghiệp mỗi năm chỉ  đáp  ứng 1/5 nhu cầu. Chưa kể  nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành du lịch lại thiếu trầm trọng hơn bao giờ  hết. Mặc dù lượng khách du lịch đến Đà Nẵng đang tăng nhanh qua các năm nhưng   nguồn nhân lực để  phục vụ  cho sự  phát triển này vẫn chưa tương xứng và mang  tính chắp vá. Đáng lưu ý hơn, số lao động có trình độ  ngoại ngữ  chỉ  chiếm 38% trong tổng   số  lao động du lịch trên toàn TP.  Trong đó, thị  trường khách du lịch Nga đến Đà  Nẵng chiếm khá cao và được đánh giá là rất tiềm năng. Thời gian lưu trú của khách  11
  12. Tổng quan du lịch Nhóm 5 Nga cũng dài hơn, ít nhất là 15 ngày. Họ rất phóng khoáng trong chi tiêu, mua sắm  và ăn uống miễn sao được phục vụ  tốt nhất. Thế  nhưng khi khảo sát tại một số  khách sạn ven biển nơi khách Nga lưu trú, nhân viên, hướng dẫn viên du lịch đều   không biết tiếng Nga. Có chăng cũng chỉ vài người và chỉ trao đổi những câu thông  dụng như chào hỏi, tên, tuổi. Vậy nên du khách đã gặp không ít khó khăn trong việc   trao đổi, tiếp nhận thông tin liên quan đến các điểm vui chơi, ăn uống hay những   nhu cầu khác. Đó mới chỉ là vấn đề nan giải trong mảng hướng dẫn viên du lịch, còn đối với   đội ngũ đầu bếp, phục vụ  buồng phòng, nhân viên bàn, lễ  tân cũng đang còn khan   hiếm. Tỉ  lệ  lao động được đào tạo đúng chuyên môn về  du lịch còn thấp, chiếm  40,6% số  lao động toàn ngành. Theo thống kê, có 90% lực lượng lao động du lịch  được đào tạo ngoại ngữ  nhưng chủ  yếu trình độ  A, B; đặc biệt thiếu trầm trọng  đội ngũ biết ngôn ngữ Nhật, Đức, Nga… Vấn đề này đã làm đau đầu các nhà quản  lí. Nguyên nhân của tình trạng này chính là sự phát triển nhanh và ồ ạt các cơ  sở  lưu trú. Đến nay, có trên 350 khách sạn, gần 16 ngàn phòng khách sạn 4 và 5 sao.   Dự kiến trong tương lai không xa, Đà Nẵng sẽ phát triển nhiều hơn nữa các cơ sở  lưu trú. Trong khi đó, chương trình đào tạo tại các trường chưa sát với thực tế.   Không chỉ chất mà lượng của nguồn nhân lực cho ngành du lịch đều chưa đáp ứng   nhu cầu của nhà tuyển dụng.  Từ thực tế đó đã làm nảy sinh vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp du lịch  về  thu hút nguồn nhân lực ngày càng gay gắt. Các khách sạn, khu nghỉ mát, doanh  nghiệp buộc phải tuyển dụng một số lượng lớn nhân viên chưa qua đào tạo chuyên   môn để lấp khoảng trống thiếu hụt nhân lực. Hệ quả là chất lượng dịch vụ du lịch   đi xuống. 2.3 Quảng bá cho sản xuất địa phương. Không chỉ có bãi biển đẹp quyến rũ bậc nhất thế giới, ẩm thực tại đây còn hớp   hồn các thực khách bốn phương với đủ các loại đồ ăn, nhất là hải sản tươi sống từ  đại dương giàu có. Dường như  tất cả  những sản vật từ  biển như: cá, tôm, cua,   ghẹ, sò, mực… đều được người dân địa phương khai thác và các nhà hàng đã dày  công chế  biến, nâng lên thành nghệ  thuật  ẩm thực. Mỗi loại hải sản đều có thể  chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn du khách. Ngoài   sản   vật   biển   là   ẩm   thực   “đinh”,   đến Đà   Nẵng,   du   khách   còn   được  thưởng thức hàng chục món ăn truyền thống khá phổ  biến như: mỳ  Quảng, bún   chả cá, bánh tráng cuốn thịt heo, bánh xèo, chả bò, hến xào, tré, cơm gà, bánh canh...  Tất cả được chế biến theo khẩu vị riêng của người Đà Nẵng và không ít nhà hàng,  quán ăn rất bình dân nhưng lại khá đông du khách tìm đến theo kiểu “người đi  trước chỉ người đi sau”. Những món dân gian này dĩ nhiên giá cả  hợp túi tiền của   12
  13. Tổng quan du lịch Nhóm 5 du khách và dường như, cũng là một trong những điều mà họ nhắc đến mỗi khi đặt   chân tới thành phố  bên sông Hàn. Văn hóa  ẩm thực vì thế  trở  thành một mắt xích   khá quan trọng trong việc phát triển du lịch ở Đà Nẵng.  Tuy nhiên, du khách biết đến ẩm thực Đà Nẵng chủ yếu qua lời kể của bạn bè,   qua sự giới thiệu trực tiếp của hướng dẫn viên, hoặc là vô tình đến ăn, chứ chưa có  nhiều thông tin, hay  ấn tượng gì đặc biệt với  ẩm thực Đà Nẵng, nên dù có những  đặc sản ngon, đa dạng thì Đà Nẵng cũng chưa là “thỏi nam châm” để  thu hút du   khách sành ăn. Du lịch Đà Nẵng phát triển nhưng văn hóa  ẩm thực, những sản phẩm quan  trọng góp phần thành công cho du lịch lại không được đầu tư  một cách đúng đắn,   điều đó đã bỏ  lỡ  cơ  hội quảng bá sản phẩm nông nghiệp, thủy hải sản của Đà  Nẵng với du khách, tạo sự  nổi tiếng cho công nghiệp chế  biến, cũng như  nông   nghiệp của địa phương. Tuy nhiên Đà Nẵng lại rất thành công trong việc phát triển sản xuất phục vụ  du lịch, khôi phục và duy trì các làng nghề truyền thống, từ đó đẩy mạnh sản xuất,   tăng số lượng sản phẩm thủ công mĩ nghệ ở các làng nghề. Một trong số các làng   nghề truyền thống tại Đà Nẵng du khách thường xuyên ghé thăm khi đến với thành  phố  trẻ  là làng Đá mĩ nghệ  Non Nước thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành  Sơn, TP Đà Nẵng. Theo một số  nghệ  nhân lớn tuổi trong làng thì làng nghề  đã có truyền thống  300­400 tuổi. Một vài tấm bia hiện tại  ở những ngôi chùa cổ  trên đất Quảng Nam  đã khẳng định điều đó. Hiện nay, ngay tại thắng cảnh Ngũ Hành Sơn nổi tiếng vẫn  còn nhà thờ Thạch Nghệ tổ sư. Tác phẩm nghệ  thuật bằng đá nơi đây đã có mặt  ở  nhiều nước  Âu, Mỹ. Để  làm nên những sản phẩm mỹ nghệ khá phong phú và đa dạng bằng đá cẩm thạch   như: Tượng Phật, tượng thánh, tượng người, tượng muông thú, vòng đá đeo tay...  người   thợ   thủ   công   phải   trải   qua   nhiều   công   đoạn   chạm   trổ   công   phu,   tỉ   mỉ.  Nguyên liệu để  làm nên các sản phẩm này là đá cẩm thạch, trước đây được khai   thác ở núi Ngũ Hành Sơn. Đá núi Ngũ Hành Sơn có nhiều vân ngũ sắc, mang vẻ đẹp cao sang, là mặt hàng  được ưa chuộng trong xây dựng và kiến trúc. Nhưng hiện nay, do nhu cầu thị hiếu   thẩm mỹ  ngày càng cao, các cơ  sở  điêu khắc đá phải nhập khẩu nhiều loại đá có  chất lượng cao của nhiều nước như Ấn Độ, Mi­an­ma, các nước Trung Đông về để  chế tác theo yêu cầu của khách hàng. Hiện nay, làng đá mỹ  nghệ Non Nước có khoảng hơn 300 cơ sở sản xuất với   hàng nghìn nhân công làm việc bận rộn suốt ngày đêm. Các cơ sở này nằm sát ngay  danh thắng Ngũ Hành Sơn, rất thuận tiện cho việc trưng bày, mua bán sản phẩm,   13
  14. Tổng quan du lịch Nhóm 5 góp phần quảng bá văn hóa, du lịch miền đất Quảng đến với công chúng và bạn bè   quốc tế. Ngoài ra Đà Nẵng còn rất nhiều làng nghề  khác như:   Làng chiếu Cẩm Nê  thuộc xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố  Đà Nẵng. Cách trung tâm thành  phố  về  phía Tây Nam khoảng 14km. Nơi  đây nổi tiếng với các loại chiếu hoa  truyền thống. Bằng những nguyên liệu đơn giản, với một khung dệt kết cấu tinh   tế, mỹ thuật, nghệ nhân làng Cẩm Nê đã cung cấp cho khắp nơi trong Nam, ngoài   Bắc. Ngoài làng chiếu hoa Cẩm Nê nằm bên con sông yên thơ  mộng, quanh vùng  còn có làng nghề nong rổ Yến Nê, làng nón La Bông nổi tiếng. Cuối cùng, du khách cũng không thể  bỏ  qua làng làm bánh khô mè Cẩm Lệ,  thuộc phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Bánh khô mè được   làm từ bột gạo, bột nếp, đường kính, gừng và mè. Bánh khô mè thường được dâng   cúng ông bà tổ  tiên trong những ngày giỗ  tết và làm quà tặng cho bạn bè, người   thân cũng như các du khách. 2.4 Tăng nguồn thu cho nhà nước. Trong 10 năm qua, hoạt động của ngành du lịch Đà Nẵng đã đạt được kết quả  khả quan. Từ những số liệu thống kê doanh thu của ngành du lịch phía trên đề cập,   một phần doanh thu đó sẽ  được đưa vào ngân sách nhà nước thông qua các khoản   thuế  như  thuế  khởi hành phải trả   ở  các sân bay hoặc thuế  phòng cộng thêm vào  hóa đơn thanh toán lưu trú tại khách sạn, thuế  máy bay tiếp đất, thuế  nhiên liệu  máy bay hoặc thuế giá trị gia tăng đối với các hàng hóa  dịch vụ,... Bên cạnh những khoản thuế thu được, thành phố Đà Nẵng đã đầu tư phát triển  cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị, các công trình công cộng để phục vụ dân sinh và  phát triển du lịch; đẩy mạnh các dự án đầu tư  du lịch; mở rộng cơ sở lưu trú phục  vụ  du lịch; xây dựng hàng loạt sản phẩm du lịch mới, có sức hấp dẫn và thu hút  khách du lịch; triển khai các chương trình xúc tiến, quảng bá du lịch trong và ngoài  nước; đẩy mạnh liên kết hợp tác phát triển du lịch giữa Thừa Thiên­Huế  ­ Đà  Nẵng ­ Quảng Nam với chương trình giới thiệu “Ba địa phương – một điểm đến”.  Hiện nay, thành phố Đà Nẵng đang đưa các hoạt động giải trí vào du lịch: trải   nghiệm cảm giác đêm Đà Nẵng trên phố  du lịch Bạch  Đằng, thưởng thức các   chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền thống, tham gia các hoạt động vui chơi  giải trí sau 24h. Đà Nẵng hiện có sân golf 18 lỗ đã đạt nhiều giải thưởng quốc tế sẵn sàng đáp  ứng sở thích của những yêu golf. Chỉ tính riêng năm 2013, hàng loạt khách sạn mới đi vào hoạt động như Olalani   Resort   &   Condotel,   Novotel   Premier   Han   River,   Northern   Hotel,   M ường   Thanh   Hotel, Melia Danang, Pulchra Danang, đó là chưa kể  lượng khách sạn có quy mô  nhỏ khác đua nhau mọc lên… 14
  15. Tổng quan du lịch Nhóm 5 Cùng với sự phát triển ấy, con số dự báo của ngành du lịch Đà Nẵng, đến năm  2015, sẽ có khoảng gần 16.000 phòng khách sạn 4 và 5 sao. Sân bay quốc tế  Đà Nẵng mới được đưa vào hoạt động cuối năm 2011 góp  phần làm tăng thêm 94,3% số lượng khách đến bằng đường hàng không.  Đến nay,  TP Đà Nẵng đã có 16 đường bay quốc tế, trong đó có 4 đường bay trực tiếp thường  kỳ và 12 đường bay trực tiếp thuê chuyến, tăng 8 đường bay so với năm ngoái. Dự  kiến trong tháng 12 sẽ có thêm 4 đường bay mới đến Đà Nẵng gồm: Hạ Môn, Thái   Nguyên, Cáp Nhĩ Tân, Ninh Ba.  Trong năm 2014, Đà Nẵng sẽ  chú trọng đẩy mạnh khai thác thị  trường du lịch  nước ngoài thông qua các đường bay trực tiếp như Nhật Bản; Hàn Quốc; Thái Lan  và các khách du lịch qua tuyến hành lang kinh tế Đông, Tây; Tập trung phát triển du  lịch đường sông hình thành sản phẩm du lịch mới, độc đáo thu hút du khách. TP sẽ  chú trọng hơn đến phát phát triển thương hiệu du lịch mới tại Bà Nà như: Khu làng   Pháp; cáp kéo từ Bà Nà đến khu Bynight, vườn hoa bốn mùa… Đồng thời tiếp tục   kêu gọi các nhà đầu tư  vào các khu bán đảo Sơn Trà, đỉnh đèo Hải Vân, nâng cấp  khu danh thắng Ngũ Hành Sơn trở thành điểm du lịch quốc gia. 2.5 Tạo cơ sở để giúp phát triển các vùng đặc biệt Từ  khi Đà Nẵng trở  thành đô thị  loại 1 đến nay, ngành du lịch thành phố  phát   triển vượt bật với sự tăng trưởng không ngừng về lượng du khách, doanh thu và thị  trường… Hiện nay, ngành du lịch đã được Đà Nẵng chọn như một ngành trọng tâm  trong phát triển kinh tế  của thành phố  và đã có những đầu tư  rất quan trọng. Đặc  biệt, mới đây Đà Nẵng lọt vào “Top 10 điểm đến hấp dẫn hàng đầu châu Á năm   2013” do độc giả  Tạp chí du lịch trực tuyến Smart Travel Asia bình chọn đã góp   phần đưa thương hiệu du lịch Đà Nẵng vươn tầm ra quốc tế. Việc đầu tư cho ngành du lịch đã giúp các vùng đặc biệt tại Đà Nẵng có nhiều  điều kiện để phát triển hơn. Hiện nay, Đà Nẵng đã có rất nhiều vùng đặc biệt thu  hút sự quan tâm của một lượng lớn khách du lịch, có thể kể đến như: Bán đảo Sơn  Trà, Bà Nà Hills, đèo Hải Vân, danh thắng Ngũ Hành Sơn,... Nằm cách trung tâm thành phố  Đà Nẵng chỉ  10 km về  phía Đông Bắc nhưng   bán đảo Sơn Trà lại sở hữu một cảnh sắc thiên nhiên độc đáo nhờ thảm động thực  vật đa dạng cùng với hệ  sinh thái biển phong phú. Sở  hữu cảnh quan thiên nhiên  làm say lòng người và địa thế  tại một khu vực biệt lập với khu dân cư, bán đảo  được chính quyền thành phố Đà Nẵng cấp phép quy hoạch trở thành trung tâm du  lịch nghỉ dưỡng cao cấp. Các công trình hạ  tầng kỹ  thuật như đường sá, hệ  thống  cấp điện, nước đã bắt đầu được đầu tư  xây dựng đồng bộ  và sớm hoàn chỉnh để  phục vụ cho tất cả các dự án đầu tư du lịch. Từ một vùng đất say ngủ, giờ đây Sơn   Trà đang chứng kiến sự  chuyển mình rõ rệt. Hiện tại trên các tuyến đường lớn   đang được xây dựng men theo sườn núi, các dự  án cũng đang cấp tập triển khai,  15
  16. Tổng quan du lịch Nhóm 5 điển hình là khu Mercure Sơn Trà Resort đang khá tất bật cho giai đoạn làm cọc   móng, xây biệt thự  mẫu từ  cuối năm 2011. Ngoài ra, bán đảo Sơn Trà đang được   đầu tư khai thác các tour du lịch sinh thái. Sức bật của một vùng núi rừng hoang dã   được tiếp sức với sự kích cầu của thành phố  Đà Nẵng và các nhà đầu tư  trong và   ngoài nước tương lai sẽ biến Sơn Trà thành một đô thị  du lịch tầm cỡ. Hàng năm,   bán đảo Sơn Trà không chỉ đón hàng trăm ngàn lượt du khách đến tham quan các địa   danh du lịch như chùa Linh Ứng, Bảo tàng văn hóa nghệ thuật Đồng Đình, đỉnh Bàn   Cờ  Tiên, đồi Vọng Cảnh… mà còn nghỉ  dưỡng tại những khu du lịch biển, khu  nghỉ dưỡng trên bán đảo. Không chỉ  trứ  danh bởi những bãi biển đẹp, Đà Nẵng cũng mang nét hấp dẫn  riêng biệt bởi vị thế tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, lại có bán đảo Sơn Trà  vươn ra biển. Nhờ vậy, Đà Nẵng có con đèo Hải Vân được mệnh danh "thiên hạ  đệ  nhất hùng quang" với cảnh quang nhìn ra biển vô cùng ngoạn mục và những   khúc lượn hiểm trở. Từ ngày hầm đường bộ Hải Vân dài nhất Việt Nam được đưa   vào sử  dụng, xe cộ lưu thông Bắc Nam dễ  dàng và an toàn hơn trước và đèo Hải   Vân dần trở  thành điểm đến của những người say mê thưởng ngoạn thiên nhiên   hay cho những "cua rơ" muốn thử sức trên những con đèo dốc lượn. Hiện tại, Viện   quy hoạch xây dựng thành phố Đà Nẵng đang hoàn thiện phương án quy hoạch, mở  rộng khu du lịch đỉnh đèo Hải Vân. Theo phương án này, toàn bộ  khu quy hoạch   trên đỉnh đèo Hải Vân có diện tích khoảng 6.000m2, nằm trong phần đất thuộc   quản lý của Đà Nẵng; trong đó, sẽ quy hoạch tổng mặt bằng, bố trí và tổ chức lại   giao thông, các khu vực dịch vụ  phục vụ  du lịch. Đặc biệt, tiến hành quy hoạch  đồng bộ  một dãy khoảng 12­15 ki­ốt bán đồ  lưu niệm đồng bộ  về  kiến trúc, theo  mẫu thiết kế  chung tạo thành điểm nhấn cho cảnh quan nơi đây. Với di tích Hải   Vân Quan (phần diện tích thuộc Đà Nẵng), thành phố sẽ  đầu tư  nghiên cứu, thiết   kế  lại vùng cảnh quan và sẽ  tiến hành tôn tạo, sắp xếp lối đi, thiết kế  sân vườn,   sàn vọng cảnh, trồng thêm cây xanh phù hợp với di tích. Với sự đầu tư và sắp xếp   quy hoạch một cách bài bản, dựa trên việc tôn trọng không gian thiên nhiên sẵn có,   đèo Hải Vân hứa hẹn sẽ  thực sự  trở  thành một điểm đến hấp dẫn mà du khách   không thể bỏ qua. Đà Nẵng còn có thương hiệu du lịch Bà Nà Hills, được khám phá và xây dựng   từ thời Pháp thuộc. Khu du lịch Bà Nà Hills là một ví dụ về một chiến lược đầu tư  của thành phố Đà Nẵng. Khởi động cách đây hơn mười năm với nhiều nghiên cứu  tiền dự  án, tiếp theo là quy hoạch, rồi đầu tư  cơ  sở  hạ  tầng, bao gồm đường và   điện, và sau đó là kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư  song song với ban hành các   chính sách. Cho đến nay, khu du lịch Bà Nà ngày càng hấp dẫn du khách với hệ  thống cáp treo đạt 2 kỷ lục thế giới và khu vui chơi giải trí trong nhà lớn nhất Đông   Nam Á ­ Fantasy Park. Lợi nhuận vật chất từ “khu công nghiệp không khói” Bà Nà   16
  17. Tổng quan du lịch Nhóm 5 có thể  chưa đáng bao nhiêu so với tổng vốn đầu tư, nhưng hứa hẹn nhiều lợi ích  phi vật chất và lợi ích khai thác lâu dài. 2.6 Khuyến khích nhu cầu nội địa. Một trong những lý do thu hút khách du lịch đến với Đà Nẵng là việc thành phố  này đã được du khách cũng như các tạp chí, tổ chức du lịch uy tín của quốc tế bình   chọn là 1 trong 10 điểm đến mới, hấp dẫn nhất, nổi bật nhất châu Á năm 2013 và   2014. Theo thông tin từ các hãng lữ hành, lượng khách du lịch đến thành phố Đà Nẵng  cuối tháng 3 vừa qua tăng từ 10­20%, nhất là nguồn khách từ 2 đầu đất nước. Hiện Đà Nẵng đang vào mùa khai thác nguồn khách nội địa. Đây là nguồn   khách chính và tiềm năng của du lịch thành phố .  Tại khu du lịch Bà Nà, sau 1 tuần thực hiện chương trình "Tri ân người dân  Quảng Nam, Đà Nẵng” với gói khuyến mãi giá vé đặc biệt, địa điểm này đã thu hút  hơn 80.000 lượt khách, mỗi ngày đón trung bình từ  10.000 ­ 12.000 lượt du khách,  cá biệt hơn 18.000 lượt, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Thống kê tháng 8 năm 2009, qua báo cáo của các công ty du lịch thì khách nội  địa đến với Đà Nẵng tăng trên 30%. Đặc biệt trong tháng 7, tháng cao điểm, tổng  doanh thu du lịch trong tháng này lên gần 79 tỷ đồng, tăng 11%.  Đã có thời điểm UBND thành phố  phải đề  nghị  Vietnam Airlines tăng thêm  chuyến bay mới đủ  để  chở  khách nội địa. Riêng Bà Nà mỗi ngày có khoảng 800   đến 1000 khách, các khách sạn ven biển hay khách sạn ở trung tâm thành phố cũng  nhiều ngày cháy phòng.  Việc thu hút khách nội địa, góp phần kích thích nhu cầu tiêu dùng người Việt   Nam dùng hàng Việt Nam, giảm đáng kể lượng khách đi du lịch outbout. Đóng góp  vào quá trình làm giảm thâm hụt cán cân thương mại quốc gia. 2.7 Một số vấn đề tồn tại khác. 2.7.1 Sự rò rỉ hiệu quả bội, thâm hụt cán cân thương mại. Phát triển du lịch  ở  Đà Nẵng đang ngày càng phát triển mạnh các khu nghỉ  dưỡng cao cấp, các nhà hàng mọc lên như nấm. Tuy nhiên, những khu nghỉ dưỡng,   khách sạn đều thuộc sở hữu bởi các công ty hay tập đoàn quốc tế chứ  không phải  người địa phương. Ngoại trừ  thuế  thu được từ  các khu nghỉ  dưỡng, khách sạn thì  không có gì đảm bảo chắc chắn là các khu nghỉ dưỡng, khách sạn sẽ sử dụng hàng  hóa,   nguyên   nhiên   vật   liệu,   các   dịch   vụ   và   nhất   là   người   dân   lao   động   ở   địa   phương, trình độ  lao động  ở  Đà Nẵng còn kém và hầu như  Đà Nẵng phải tuyển   một lực lượng đông đảo các lao động ở các nơi khác đến làm việc ở đây. Điều này  có thể mang lại sự thất thoát lớn về  tài chính và không hoàn toàn mang lại lợi ích   17
  18. Tổng quan du lịch Nhóm 5 cho người dân địa phương mà phát triển du lịch vốn được trông mong nhiều là sẽ  làm được điều này. 2.7.2 Phân bố thu nhập không đồng đều Về  mặt văn hóa xã hội thì phát triển du lịch Đà Nẵng cũng đã dần bộc lộ  rất   nhiều bất cập trong quá trình phát triển. Sự  phát triển đã tạo ra sự phân bố  không   đồng đều trong thu nhập của người dân. Chúng ta cũng có thể  dễ  dàng nhận thấy  được sự khác biệt về thu nhập giữa các nhóm người trong từng khu vực khác nhau  của tỉnh. Người dân chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, những điểm du lịch và   chính  ở  nững nơi này người dân có thu nhập cao (Hải châu, Thanh khê) mức thu  nhập hơn 20% dân cư ở quận Hải Châu lên đến 6 triệu đồng/ tháng, còn các vùng   nông thôn (Hòa Vang, Liên Chiểu, Cẩm Lệ…) có thu nhập thấp thu nhập của hộ  gia đình ở đây dưới 3.5 triệu đồng/ tháng. 2.7.3 Tỷ lệ dân nhập cư cao dẫn đến những vấn đề xã hội đáng lo ngại. Ước tính dân số  Đà Nẵng đạt 1 triệu người vào năm 2014, với tỷ  lệ  nhập cư  ngày càng tăng là một vấn đề  rất đáng lo ngại: tỷ lệ  dân cư  cao sẽ  dẫn đến hiện   tượng đất chật người đông, đất đai trở  nên ngày càng khan hiếm và đắt đỏ, ô   nhiễm môi trường ngày càng nặng nề hơn, các tệ nạn xã hội, an ninh…và còn rất  nhiều bất cập khác trong việc nhập cư đông như vậy. 2.7.4 Vấn đề phát triển du lịch bền vững: Về kinh tế: Hình ảnh du lịch Đà Nẵng trên thị trường quốc tế còn khá mờ nhạt   và hiệu quả kinh doanh du lịch của thành phố chưa cao. Bên cạnh đó ngành du lịch  của thành phố vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định như: Lượng khách du lịch quốc   tế tăng chậm, lượng khách nội địa tăng cao nhưng ngày khách lưu trú và sức chi tiêu  mua sắm của khách còn thấp. Số lượng đơn vị kinh doanh du lịch tăng nhưng năng  lực và chất lượng vẫn còn ở mức thấp. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực  du lịch và lữ hành có quy mô nhỏ, thiếu vốn để đầu tư mở rông, trình độ quản lý và  tính năng động còn hạn chế. Các cơ sở vui chơi giải trí của Đà Nẵng còn hạn chế  về số lượng và chất lượng. Đầu tư  cơ sở hạ tầng nhiều nhưng Đà Nẵng lại đang   rất nghèo sản phẩm du lịch. Hàng lưu niệm còn ít, đơn điệu và công tác tuyên   truyền, xúc tiến du lịch còn nhiều hạn chế. Về văn hóa­xã hội: Nguồn nhân lực du lịch bị thiếu hụt. Đà Nẵng có lợi thế ở  gần các địa điểm du lịch nổi tiếng như  Hội An, Huế… nhưng  đây cũng là một  thách thức cho du lịch Đà Nẵng vì mức độ  cạnh tranh rất cao. Chính quyền chưa   thực sự  chú trọng đến việc chia sẻ  lợi ích với cộng đồng địa phương cũng như  khuyến khích sự tham gia vào hoạt động du lịch của dân cư địa phương. Về môi trường: Nhận thức của doanh nghiệp cũng như người dân về phát triển   du lịch bền vững, phát triển du lịch có kèm theo bảo vệ môi trường còn kém.Việc  đánh giá tác động môi trường của các dự án, xác định và xây dựng kế hoạch bảo vệ  18
  19. Tổng quan du lịch Nhóm 5 môi trường còn sơ  sài.Vấn đề  ô nhiễm môi trường  ở  Đà Nẵng cũng khá đáng lo  ngại  ảnh hưởng đến phát triển du lịch đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm   đất. 2.7.5 Quản lý nhà nước Chiến lược phát triển du lịch sẽ bị đe dọa trước đề xuất hạn chế miễn thị thực  nhập cảnh (visa) đang được Bộ  Công an đề  xuất trong Dự  thảo Luật Nhập cảnh,  xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam. Điều này cũng tác động đến   sự phát triển du lịch của Đà Nẵng do những quy định chặt chẽ trong Luật Du lịch,   gây trở  ngại với khách du lịch khi đến thăm quan tại Việt Nam nói chung và Đà   Nẵng nói riêng. Thuế kinh doanh du lịch với các doanh nghiệp, công ty kinh doanh   du lịch và lữ hành còn cao gây cản trở mở rộng quy mô của chúng, không thúc đẩy  đầu tư, miễn giảm chi phí dẫn đến chi phí các loại hình du lịch cao, làm giảm   lượng khách đến tham quan du lịch do chi phí quá cao. 2.7.6 Tính thời vụ: Do chịu  ảnh hưởng của của các yếu tố  tự  nhiên khắc nghiệt và thất thường  nên hoạt động kinh doanh du lịch  ở Đà Nẵng mang tính thời vụ  rõ rệt.Về  mùa hè   (từ  tháng 3 đến tháng 9 hằng năm) hầu hết các khách sạn và nhà nghỉ  đều không   còn phòng, các dịch vụ trên bãi biển sôi động và náo nhiệt, và ngược lại trong mùa   mưa hoạt động của ngành chỉ tập trung cho khách công vụ, hội nghị… III/   CÁC   BIỆN   PHÁP   KHẮC   PHỤC   VẤN   ĐỀ   TỒN   TẠI   VỀ   TÁC   ĐỘNG   KINH TẾ CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI ĐÀ NẴNG. 1. Đào tạo nguồn nhân lực. Để giúp cho thành phố Đà Nẵng ngày càng phát triển, và thoát khỏi hiện tượng  rò rỉ  tiền ra các vùng khác thì Đà Nẵng cần khai thác hết được những những thế  mạnh mà thiên nhiên đã ban tặng cho mình và cũng như tận dụng hết những nguồn   lực mà Đà Nẵng đang có như nguồn lực thế mạnh của Đà Nẵng đó chính là du lịch   vì thế  Đà Nẵng cần bồi dưỡng thêm nhiều lực lượng lao động có kinh nghiệm  trong ngành du lịch­ khách sạn. Hoàn thiện cơ cấu nguồn nhân lực trong ngành du   lịch trên quan điểm tập trung ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có trình độ  nhất là nguồn nhân lực có trình độ  cao như  đội ngũ quản lí giỏi, đội ngũ chuyên  gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và nhất là phải biết được nhiều   thứ tiếng. Hình thành hệ thống các cơ sở đào tạo du lịch trên địa bàn thành phố gắn   lý thuyết với thực hành ở các cấp dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học trên đại   học. Đà Nẵng cần tận dụng được tối đa những nguồn lực sẵn có nhằm nâng cao  mức sống dân cư cũng như giúp cho thành phố ngày càng phát triển. Mở  rộng và phát triển thị  trường lao  động ngoài nước. Thành lập Công ty  chuyên doanh xuất khẩu lao động thành phố; xây dựng chính sách khuyến khích  19
  20. Tổng quan du lịch Nhóm 5 xuất khẩu lao động và chuyên gia. Đầu tư  phát triển hệ thống thông tin thị  trường   lao động. Hình thành ngân hàng việc làm. Xây dựng và thiết lập hệ thống thông tin  thị  trường lao động thành phố. Đẩy mạnh các hoạt động chợ  việc làm, sàn giao  dịch việc làm. 2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra thành phố  cần  ưu tiên đầu tư  phát triển hạ  tầng giao thông phục vụ  cho du lịch. Trong đó, đặc biệt cần nâng cao năng lực vận chuyển đường hàng   không bằng cách xây dựng các sân bay căn cứ  tại Đà Nẵng nhằm giảm bớt việc   phải điều máy bay hàng không từ Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đến, giảm chi  phí và tăng cường sự chủ  động cho hành khách đi và hành khách đến. Tăng cường  đẩy mạnh xúc tiến du lịch và nghiên cứu mở rộng thị  trường. Phối hợp lực lượng   thông tin đối nội và đối ngoại, đặc biệt chú trọng sự phối hợp thường xuyên, chặt   chẽ  với Tổng cục du lịch và các cơ  quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại   nước ngoài nhằm tăng cường quảng bá du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Đà   Nẵng nói riêng nhằm thu hút ngày càng nhiều khách quốc tế đến du lịch Đà Nẵng.   Quan tâm hơn đến việc tuyên truyền du lịch Đà Nẵng tại các cửa khẩu quốc tế, các   trung tâm và đô thị du lịch lớn. Thu hút khách du lịch bằng cách tăng cường và phát triển sản phẩm theo hướng   củng cố, nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch. Phát triển các sản phẩm du   lịch tiềm năng và thực hiện các biện pháp tăng cường lòng trung thành của khách du  lịch. Đưa ra những giải pháp nhằm ứng phó với tình hình suy thoái kinh tế thế giới   hiện nay. Tiến hành đầu tư và phát triển các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành và dịch vụ  du lịch. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch đặc biệt về hệ thống giao thông:   Đường bộ, đường sắt và đường hàng không và hoàn thiện hệ  thống viễn thông­ công nghệ  thông tin. Phát triển cả  về  số  lượng và chất lượng các cơ  sở  lưu trú   phục vụ  cho du lịch, đội ngũ nguồn nhân lực. Nâng cấp và xây dựng thêm các khu  vui chơi­giải trí, các khu resort, các khu mua sắm lớn, hiện đại và đa dạng hóa về  chủng loại hàng hóa, các khu thể  thao phù hợp với điều kiện địa hình của thành  phố. Các cơ quan chính quyền phải ban hành những chính sách  ưu đãi đầu tư, thu   hút và lựa chọn những dự án xây dựng khách sạn, nhà nghỉ cao cấp với quy mô lớn,   đẳng cấp quốc tế, kêu gọi xây dựng hạ  tầng xanh, thân thiện với môi trường lại  tiết kiệm chi phí. 3. Các chính sách, đầu tư, hỗ trợ từ nhà nước. Nhà nước cần đưa ra các chính sách hỗ trợ hoạt động xuất nhập cảnh đối với   người nước ngoài khi vào Việt Nam như  miễn visa người nước ngoài trong khu   vực Đông Nam Á. Tiến hành đầu tư, hỗ  trợ  về  cơ  sở  vật chất và kỹ  thuật cho   ngành du lịch và giảm thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp, công ty để tạo điều  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2