intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam

Chia sẻ: Dsfcf Dsfcf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

205
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam nhằm trình bày về khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới, tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam, giải pháp để vượt qua khủng hoảng, tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ 2007 – 2012.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG THỰC HIỆN: NHÓM 8 LỚP: QTKD D3K22 Tháng 4/2013 0
  2. MỤC LỤC NỘI DUNG: DANH MỤC HÌNH ẢNH ................................................................................................................... 2 ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................................................... 3 I. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TÀI CHÍNH THẾ GIỚI................................................................... 4 1. Khủng hoảng tài chính ................................................................................................................... 4 1.1. Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính ................................................................................... 4 1.2. Phân loại khủng hoảng tài chính.......................................................................................... 4 1.2.1. Khủng hoảng ngân hàng........................................................................................... 4 1.2.2. Khủng hoảng trên thị trường tài chính .................................................................... 4 1.2.3. Khủng hoảng tài chính thế giới ................................................................................ 5 1.2.4. Khủng hoảng trong các tập đoàn kinh tế................................................................. 5 2. Khái niệm suy thoái kinh tế ........................................................................................................... 5 2.1. Nguyên nhân suy thoái kinh tế ............................................................................................ 5 2.2. Một số mô hình suy thoái kinh tế ........................................................................................ 5 3. Suy thoái kinh tế thế giới................................................................................................................ 8 II. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM...............................................................................................................................................11 1. Kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008..................................................11 1.1. Tình hình chung của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng.......................................................11 1.2. Bức tranh nền kinh tế Việt Nam 2012............................................................................................................14 1.2.1. Nghịch lý – mâu thuẫn – giải quyết lạm phát.................................................................................14 1.2.2. Nền kinh tế khởi sắc ..............................................................................................................................15 1.2.3. Tình hình sa sút, tồn kho và xu hướng suy thoái kinh tế..............................................................17 2. Giải pháp để vượt qua khủng hoảng ..........................................................................................................................20 2.1. Tự do hóa tài chính phải trên cơ sở luật pháp và sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước.......................20 2.2. Thận trọng khi đưa các công cụ phái sinh vào giao dịch ...........................................................................21 2.3. Tách bạch người quản trị và người điều hành công ty ...............................................................................21 2.4. Thông tin tài chính và nhân sự của các tổ chức niêm yết cần minh bạch..............................................21 2.5. Lường trước sự khó khăn, hợp tác liên kết kinh doanh và tận dụng cơ hội khai thác thị trường mới ..................................................................................................21 2.6. Nhà nước luôn theo dõi và đưa ra những định hướng hỗ trợ cho các Doanh nghiệp........................22 2.7. Chính sách Nhà nước và Doanh nghiệp thắt lưng, buộc bụng, vượt khó.............................................22 2.8. Chính phủ điều hành chính sách tiền tệ, linh hoạt, hiệu quả......................................................................22 2.9. Các Doanh nghiệp Việt Nam đừng bỏ qua sự ủng hộ của người tiêu dùng trong nước ....................................................................................................23 2.10. Thông thoáng môi trường đầu tư.....................................................................................................................23 III. KẾT LUẬN...............................................................................................................................................................................24 1
  3. DANH MỤC HÌNH ẢNH: H.1: Suy thoái hình chữ V, như trường hợp suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ năm 1953 ........................................ 6 H.2: Suy thoái hình chữ U, như trường hợp suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ trong các năm 1973-1975 .............................................................................................................................................. 6 H.3: Suy thoái hình chữ W, như trường hợp suy thoái kinh tế Hoa Kỳ những năm 80.................................. 7 H.4: Suy thoái hình chữ L, như trường hợp Thập kỷ mất mát (Nhật Bản)......................................................... 7 H.5: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ 2007 – 2012 ..................................................................................... 12 H.6: Biểu đồ FDI dự kiến/thực tế của Việt Nam từ 2000 – 2012.......................................................................... 12 H.7: Chỉ số VNIndex từ 2007 – 2009 .......................................................................................................................... 13 H.8: tỷ lệ nợ xấu từ 2008 – 2012................................................................................................................................... 13 H.9: Lạm phát ở Việt Nam từ 2004 – 2012................................................................................................................ 14 H.10: Tăng trưởng GDP Việt Nam từ 2000 – 2012................................................................................................ 15 H.11: Dự trữ ngoại tệ Việt Nam 2005 – 2012........................................................................................................... 16 H.12: CPI theo tháng từ 2011 – 2012 ......................................................................................................................... 17 H.13: Xu hướng đơn đặt hàng và đơn đặt hàng xuất khẩu mới .......................................................................... 18 H.14: Hàng tồn kho giảm chậm và vẫn ở mức cao (Nguồn: MPI)..................................................................... 19 H.15: Đóng góp của các yếu tố vào tăng trưởng GDP.......................................................................................... 19 H.16: Ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ.................................................................................................... 20 2
  4. ĐẶT VẤN ĐỀ: Khủng hoảng kinh tế là một trong những hiện tượng thể hiện sự xáo trộn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nó xuất hiện theo chu kỳ mà các nhà kinh tế học tư sản gọi đó là “chu kỳ kinh tế”. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến đời sống kinh tế - xã hội rất lớn khiến sức mua sụt giảm, thị trường thu hẹp, sản xuất bị đình đốn, người lao động bị mất việc làm, thu nhập giảm sút, nền kinh tế trì trệ, ảm đạm... Trong lịch sử phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa đã chứng kiến nhiều cơn khủng hoảng, trong đó, sức tàn phá của cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 được xem là cơn đại hồng thủy trong kinh tế lớn nhất của thế kỷ XX. Theo Alan Greenspan, cựu Thống đốc Quỹ dự trữ Liên bang Mỹ (FED), trong một thế kỷ đại khủng hoảng chỉ xuất hiện một lần, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ năm 2008, được A. Greenspan đánh giá là cuộc đại suy thoái của thế kỷ XXI. Bởi vì, xuất phát từ Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính đã lan sang hàng loạt các trung tâm kinh tế lớn trên thế giới như EU, Nhật, Trung Quốc, Nga... và kéo nền kinh tế thế giới đi xuống, khiến chính phủ các nước có nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) đứng đầu là Mỹ phải tổ chức cuộc họp thượng đỉnh vào ngày 15/11/2008 tại Mỹ để tìm giải pháp ngăn chặn. Tuy nhiên, cho đến nay nền kinh tế toàn cầu vẫn trong tình trạng rất xấu và chưa có dấu hiệu phục hồi. Sức tàn phá của khủng hoảng kinh tế là rất lớn, vậy Việt Nam đã chịu tác động như thế nào trước cuộc suy thoái kinh tế thế giới hiện nay? Những giải pháp nào cần thực hiện để đối phó với các tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam? 3
  5. I. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TÀI CHÍNH THẾ GIỚI: 1. t c : Khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh khoản của các tập đoàn tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính. 1.1. Dấu hiệu c a Kh ng ho ng tài chính: - Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền. - Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng. - Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định. 1.2. t c : 1.2.1. Khủng hoảng ngân hàng Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài chính. 1.2.2. Khủng hoảng trên thị trường tài chính: Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các “bong bóng” đầu cơ. Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu, bất động sản), nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích đầu cơ, với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng chung trên thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá, họ không cần hiểu biết nguyên do khi nào cần mua vào, khi nào cần bán ra nên gọi là “tâm lý bầy đàn”. 4
  6. 1.2.3. Khủng hoảng tài chính thế giới: Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ quốc gia, gây khủng hoảng tiền tệ. 1.2.4. Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế: Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản vay để đầu tư dẫn tới phá sản. Do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, khi đó các doanh nghiệp không vay được vốn để đầu tư hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng. 2. Khái niệm suy thoái kinh tế: Suy thoái kinh tế là một định nghĩa về sự liên quan suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kì đình lạm. Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng kinh tế. Sự tan vỡ tàn phá nền kinh tế là suy sụp và đổ vỡ kinh tế. sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). 2.1. Nguyên nhân c a suy thoái kinh tế: Những nhà kinh tế học chủ nghĩa Keynes và những lý thuyết gia theo lý thuyết chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về nguyên nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Trường phái kinh tế học Áo giữ quan điểm rằng lạm phát bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ suy thoái đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả trong giai đoạn “tăng trưởng” hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo thuyết tiền tệ tin rằng những thay đổi triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu mà là quản lý chính sách tiền tệ. Thoạt đầu ta thấy có sự mâu thuẫn nhưng thực tế chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tác động rất nhiều đến tổng cầu của nền kinh tế. Vậy nên trung hòa ta xem hai quan điểm đối lập này trở thành thống nhất. Khi có sự bất cập trong chính sách tiền tệ và tài khóa dẫn đến cung trên thị trường vốn và tài sản thay đổi dẫn đến suy thoái. 2.2. Một số mô hình suy thoái kinh tế: Suy thoái hình chữ V: Đây là kiểu suy thoái mà pha suy thoái ngắn, tốc độ suy thoái lớn; đồng thời, pha phục phồi cũng ngắn và tốc độ phục hồi nhanh; điểm đồi chiều giữa hai phá này rõ ràng. Đây là mô hình suy thoái phổ biến nhất. 5
  7. H.1: Suy thoái hình chữ V, như trường hợp suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ năm 1953 Suy thoái hình chữ U: Đây là kiểu suy thoái mà pha phục hồi xuất hiện rất chậm. Nền kinh tế sau một thời kỳ suy thoái mạnh tiến sang thời kỳ vất vả để thoát khỏi suy thoái. Trong thời kỳ thoát khỏi suy thoái, có thể có các quý tăng trưởng dương và tăng trưởng âm xen kẽ nhau. H.2: Suy thoái hình chữ U, như trường hợp suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ trong các năm 1973-1975 6
  8. Suy thoái hình chữ W: Đây là kiểu suy thoái liên tiếp. Nền kinh tế vừa thoát khỏi suy thoái được một thời gian ngắn lại tiếp tục rơi ngay vào suy thoái. H.3: Suy thoái hình chữ W, như trường hợp suy thoái kinh tế Hoa Kỳ những năm 80 Suy thoái hình chữ L: Đây là kiểu suy thoái mà nền kinh tế rơi vào suy thoái nghiêm trọng rồi suốt một thời gian dài không thoát khỏi suy thoái. Một số nhà kinh tế gọi tình trạng suy thoái không lối thoát này là khủng hoảng kinh tế. H.4: Suy thoái hình chữ L, như trường hợp Thập kỷ mất mát (Nhật Bản). 7
  9. 3. Suy thoái kinh tế thế giới: Nền kinh tế thế giới có dấu hiệu khủng hoảng từ sự sụp đổ của nền kinh tế hàng đầu thế giới là nền kinh tế Mỹ và dấu hiệu mất dần ngai vị là đồng tiền mạnh của đồng USD. Câu chuyện kinh tế Mỹ khởi đầu từ khủng hoảng các hợp đồng tín dụng mà cụ thể là cho vay tiêu dùng và cho vay bất động sản thế chấp, tổng số khoảng 12 ngàn tỷ USD, trong đó 3 đến 4 ngàn tỷ USD là nợ xấu dưới chuẩn. Những người không có khả năng trả nợ cũng được cho vay. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Thị trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng băng và sụt giảm. Chiến lược trên được đưa ra với mục đích giảm rủi ro cho những khoản vay bất động sản. là những hợp đồng đó được chuyên gia tài chính Phố Wall gom lại và phát hành chứng khoán phái sinh, được bảo đảm bởi những hợp đồng cho vay thế chấp này để bán ra trên khắp các thị trường quốc tế. Loại sản phẩm phái sinh này được đánh giá cao bởi các tổ chức định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Không chỉ dừng lại ở đó, nhiều công ty bảo hiểm, trong đó có AIG, còn sẵn sàng bảo lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này. Khi các chứng khoán này mất giá thảm hại, thị trường không có người mua, nên các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tài chính nắm hàng ngàn tỷ USD chứng khoán đó không bán được, mất khả năng thanh khoản, và mất khả năng thanh toán, đi đến gục ngã hoặc phá sản. Những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản. Những nạn nhân đáng kể đầu tiên "dính trấu" đều liên quan trực tiếp tới hoạt động cho vay dưới chuẩn như Northern Rock và Countrywide Financial vào hai tháng 8 và 9/2007. Northern Rock, ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, vào tháng 9/2007, sau khi mất thanh khoản nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay thế chấp bất động sản, đã phải cầu cứu Ngân hàng Trung ương Anh. Nhà đầu tư ùn ùn kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn ngân hàng này. Trước đó, Country Financial, tập đoàn tài chính chuyên cho vay thế chấp địa ốc của Mỹ cũng bị phá sản do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến tháng 1/2008, ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of America, đã mua lại Country Financial với giá 4 tỷ đôla. 8
  10. Tiếp đến, vào ngày 17/2/2008, Nothern Rock chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiện Nothern Rock và Country Financial là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn cầu cũng như làn sóng sáp nhập, phá sản, và bị Chính phủ tiếp quản của các định chế tài chính. Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai nhà cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác. Vào ngày 15/9/2008, Ngân hàng Đầu tư lớn thứ 4 nước Mỹ Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau, Washington Mutual tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ đôla. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, ngân hàng đầu tư số một nước Mỹ, Merill Lynch cũng bị thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ đôla vào AIG, tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới, để tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ hơn. Tháng 9 và 10/2008 cũng trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Kể từ sau giai đoạn này, biến động tại phố Wall trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục năm đã bị phá. Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 cũng chứng kiến các cơn sốt dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu, từ mức 90 đôla một thùng vào đầu năm đã leo lên trên 100 đôla vào 20/2/2008 và lập kỷ lục trên 147 đôla một thùng vào 11/7/2008. Dầu leo thang kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên 1.000 đôla một ounce vào 17/3/2008. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008, giá dầu bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân cho hiện tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn kinh tế. Hiện giá loại nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 đôla một thùng, mất hơn 100 đôla, tương ứng gần 70%, so với giá trị ban đầu, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC. FED quyết định dùng 700 tỷ đôla để mua lại nợ xấu của các Ngân hàng. Trước khi được thông qua vào ngày 1/10/2008, kế hoạch hỗ trợ lớn chưa từng có trong lịch sử đã vấp phải không ít phản đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc biệt tại vòng bỏ phiếu vào ngày 29/9/2008, Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch trên tạo ra một cú sốc thực sự với phố Wall, khiến chỉ số Dow Jones trải qua ngày giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử. Không lâu sau khi kế hoạch trên được thông qua, vào ngày 13-14/10/2008, các quốc gia châu Âu đã công bố gói giải pháp hỗ trợ kinh tế khổng lồ có trị giá lên tới 2.300 tỷ đôla. Iceland là nước đầu tiên có nguy cơ phá sản trên quy mô quốc gia. Cơn bão khủng hoảng tài chính do cho vay bất động sản dưới chuẩn tràn lan đã nhấn chìm hệ thống ngân hàng của quốc gia từng có thu nhập đầu người cao nhất thế giới. Chính phủ Iceland đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán, và quốc hữu hóa những ngân hàng hàng đầu. Từ đó, đồng nội tệ krona của nước này mất giá trầm trọng và gần như bị xóa sổ. Trước tình hình 9
  11. trên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã phải can thiệp bằng cách bơm tiền vào Iceland, Hungary, và Ukraine để ngăn chặn những kết cục tồi tệ hơn có thể xảy ra. Tại châu Á, kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng won mất giá hơn 40% kể từ đầu 2008 và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ Nhật, và EU tuyên bố rơi vào suy thoái. Mỹ, lần đầu tiên sau 8 năm, chính thức thừa nhận đã lâm vào tình trạng trên từ tháng 12/2007. Điều tương tự cũng xảy ra với Nga, cường quốc kinh tế lớn thứ 4 thế giới. Giá dầu sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng nghiêm trọng tới hai mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Nga là dầu mỏ và kim loại, góp phần khiến quốc gia này rơi vào suy thoái. Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều năm. Mỹ và EU lại một lần nữa rung chuyển khi vào giữa tháng 12 vụ lừa đảo lớn chưa từng có do Benard Madoff thực hiện bị phanh phui. Với mức lừa đảo kỷ lục với khoảng 65 tỷ USD suốt 30 năm qua, ông lấy tiền của khách hàng mà không đầu tư một đồng xu nào. Ông ta dựng lên một kim tự tháp tài chính trả tiền lời cho khách hàng cũ bằng tiền ký gửi của khách hàng mới cho tới khi khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho nhiều người phải rút lại tiền, mà khách hàng mới thì không có. Lợi dụng ảnh hưởng và uy tín của Madoff tại phố Wall, quỹ đầu tư của Madoff, hoạt động theo mô hình Ponzi, đã thu hút được hơn 50 tỷ đôla từ các nhà đầu tư, trong đó có nhiều ngân hàng lớn tại châu Âu. Nhiều khách hàng của Madoff đang đối mặt với nguy cơ mất trắng tiền đầu tư. Vụ scandal trên hiện vẫn chưa có hồi kết với những câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống giám sát tài chính Mỹ cũng như sự dính líu của quan chức tại Washington tới Madoff. Đó là những sự rung chuyển khôn lường của năm 2008 một năm nhiều biến động kinh tế. 4 năm sau với báo cáo của Liên Hiệp Quốc về "Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2013" công bố ngày 18/12/2012 cho biết tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu đã suy giảm đáng kể trong năm 2012 và được dự đoán sẽ tiếp tục ảm đạm trong hai năm tới. Bản báo cáo, do Vụ Kinh tế và các Vấn đề Xã hội của Liên hợp quốc (UNDESA) doạn thảo, dự đoán nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 2,4% trong năm 2013 và 3,2% trong năm 2014 - thấp hơn đáng kể so với dự báo của LHQ cách đây nửa năm. Báo cáo nêu rõ: "Bốn năm sau khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế thế giới vẫn đang phải chật vật để phục hồi. Trong năm 2012, tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu đã suy giảm hơn nữa. Nhiều nền kinh tế phát triển đang rơi vào một cuộc suy thoái kép". Trong buổi công bố báo cáo, Rob Vos - người đứng đầu nhóm soạn thảo báo cáo này - cho rằng "cuộc khủng hoảng ngày càng tồi tệ tại khu vực đồng euro và 'vách đá tài chính' của Mỹ là những nguy cơ có thể khiến sản lượng toàn cầu giảm từ 1 đến 3%". Bản báo cáo còn cho rằng nhịp độ phát triển như hiện nay sẽ không thể đủ để giúp nhiều quốc 10
  12. gia vượt qua cuộc khủng hoảng việc làm. Không chỉ vậy, với các chính sách hiện hành cùng xu hướng tăng trưởng, châu Âu và Mỹ sẽ cần ít nhất là 5 năm để bù đắp những thiệt hại do tình trạng thất nghiệp gây ra sau cuộc Đại Suy thoái giai đoạn 2008-2009. Sự yếu kém của các nền kinh tế phát triển là nguyên nhân cốt lõi khiến kinh tế toàn cầu chững lại. Báo cáo cho rằng hầu hết các nền kinh tế này, nhất là tại châu Âu đang vướng trong vòng xoáy khủng hoảng với nhiều vấn đề nhức nhối như tỷ lệ thất nghiệp cao, sự mong manh của ngành tài chính, các rủi ro của cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng lớn, cùng các biện pháp thắt lưng buộc bụng và tăng trưởng trì trệ. Báo cáo cho biết, một số nền kinh tế châu Âu và cả khu vực đồng euro đều đang trong giai đoạn suy thoái. Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp tại châu Âu thậm chí đã tăng lên con số kỷ lục 12%. Nền kinh tế Mỹ năm 2012 cũng chững lại đáng kể và tăng trưởng dự kiến cũng sẽ chỉ đạt mức 1,7% trong năm tới. Trong khi đó, Nhật Bản được dự đoán là sẽ tiếp tục chứng kiến tình trạng giảm phát. Nhịp độ phát triển như hiện nay sẽ không thể đủ để giúp nhiều quốc gia vượt qua cuộc khủng hoảng việc làm. Không chỉ vậy, với các chính sách hiện hành cùng xu hướng tăng trưởng, châu Âu và Mỹ sẽ cần ít nhất là 5 năm để bù đắp những thiệt hại do tình trạng thất nghiệp gây ra sau cuộc Đại Suy thoái giai đoạn 2008-2009. Sự yếu kém của các nền kinh tế phát triển là nguyên nhân cốt lõi khiến kinh tế toàn cầu chững lại. Báo cáo nhấn mạnh rằng hầu hết các nền kinh tế này, nhất là tại châu Âu đang mắc kẹt trong vòng xoáy khủng hoảng với nhiều vấn đề nhức nhối như tỷ lệ thất nghiệp cao, sự mong manh của ngành tài chính, các rủi ro của cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng lớn, cùng các biện pháp thắt lưng buộc bụng và tăng trưởng trì trệ. Một số nền kinh tế châu Âu và cả khu vực đồng euro đều đang trong giai đoạn suy thoái. Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp tại châu Âu thậm chí đã tăng lên con số kỷ lục 12%. Nền kinh tế Mỹ năm 2012 cũng chững lại đáng kể và tăng trưởng dự kiến cũng sẽ chỉ đạt mức 1,7% trong năm tới. Trong khi đó, Nhật Bản được dự đoán là sẽ tiếp tục chứng kiến tình trạng giảm phát. II. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM: 1. Kinh tế Việt Nam trước tác động c a kh ng ho ng tài chính toàn cầu 2008: 1.1. Tình hình chung c a kinh tế Việt Nam Trong thời kỳ kh ng ho ng: Sự suy thoái toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế các nước, rõ nhất vẫn là hệ thống tài chính, ngân hàng của mỗi nước. Tại Việt Nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật… là những thị trường truyền thống nhập khẩu hàng sản xuất từ Việt Nam đang bị khủng hoảng, mức sinh hoạt của người dân tại đó bị sụt giảm, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buộc bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu … Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam đang trên đà sụt giảm, từ mức 8,46% năm 2007 xuống còn 6,31% năm 2008 và chỉ còn 5,32% năm 2009. Hiện tại tốc độ tăng trưởng trong năm 2012 là 5.03% ( nguồn từ thông báo cục thống kê cuối tháng 12-2012) 11
  13. Từ tác động của khủng hoảng toàn cầu ảnh hưởng đến các thị trường Mỹ, EU, Nhật…chính sự khó khăn của thị trường, ảnh hưởng đến sản phẩm của Việt Nam, có thời điểm nông sản xuất khẩu giảm mạnh so với thời điểm giá cao nhất trong năm: Gạo giảm 58%, Cao su giảm 48%, Cà phê giảm 24%... cả những tháng đầu năm 2009 so với 2008 Tổng kim ngạch xuất khẩu Nông, Lâm ,Thủy sản… giảm 15%. H.5: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ 2007 – 2012 Ngoài ra, đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân được. H.6: Biểu đồ FDI dự kiến/thực tế của Việt Nam từ 2000 – 2012 12
  14. Đối với thị trường chứng khoán, có khả năng nhà đầu tư nước ngoài phải thu hồi nguồn vốn và bán chứng khoán. Điều này tác động đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào sẽ làm giảm giá chứng khoán trên TTCK Việt Nam. H.7: Chỉ số VNIndex từ 2007 – 2009 Sự tác động khủng hoảng Thế giới làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn khi bị từ chối hợp đồng, sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho ngày càng nhiều. Ngoài ra các doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng ngân hàng làm lãi suất cho vay cao vượt xa khả năng kinh doanh của doanh nghiệp (lãi suất cho vay tăng từ 14% năm (năm 2007) lên 24%/năm (năm 2010). Tuy rằng ngân hàng nhà nước đã đưa mức lãi trần nhưng đều không đạt kết quả do các ngân hàng thương mại không thực hiện triệt để. Nợ xấu ngân hàng ngày càng có xu hướng gia tăng. H.8: tỷ lệ nợ xấu từ 2008 – 2012 13
  15. Số doanh nghiệp đã tuyên bố phá sản tăng 21,8% so với năm 2010 và công nhân là những nạn nhân gánh hậu quả, thực tế là thất nghiệp ngày càng nhiều hơn. Doanh số bán lẻ và tiêu dùng dịch vụ năm 2011 chỉ tăng 4% mức tăng thấp nhất từ trước đến nay. Bên cạnh đó, tình hình nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam cũng không tốt hơn xuất khẩu. Thu nhập người dân không theo kịp mức độ tăng giá, đồng thời tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng lên. Điều đó khiến cho người dân quản lý chi tiêu chặt chẽ hơn, sức mua giảm hẳn. Sức mua giảm khiến các doanh nghiệp cũng hạn chế nhập khẩu, chỉ nhập ở mức độ cầm chừng hoặc co cụm, hạn chế phát triển và mở rộng. H.9: Lạm phát ở Việt Nam từ 2004 – 2012 Xuất nhập khẩu giảm, gây khó khăn cho các doanh nghiệp dịch vụ, sản xuất các phụ liệu đi kèm cũng bị ảnh hưởng như: bao bì, đóng gói, vận chuyển…, lượng hàng tồn kho tăng... Hàng tồn kho, giống như nợ xấu, được coi là một “cục máu đông”, rất nguy hại cho lưu thông kinh tế. Ôm một khối lượng lớn hàng tồn kho, doanh nghiệp không thu hồi được vốn, không thể trả nợ ngân hàng, từ đó nợ xấu gia tăng. Mặt khác, hàng tồn kho luôn là yếu tố triệt tiêu động lực sản xuất của doanh nghiệp, đẩy nhiều doanh nghiệp vào tình trạng phá sản hoặc đóng cửa. Trên bình diện vĩ mô, hàng tồn kho cản trở mạnh mẽ sự lưu thông trong nền kinh tế. 1.2. Bức tranh nền kinh tế Việt Nam ăm 2012 1.2.1. Nghịch lý – mâu thuẫn – giải quyết lạm phát: Tình huống thứ nhất: dù cho tỉ lệ lạm phát hạ nhanh, nhập siêu giảm mạnh trong những tháng đã qua của năm 2012 nền kinh tế gần như trì trệ, nền kinh tế đã nỗ lực hết sức để đạt nhưng không thể đạt được đã gây ra quan ngại với mức độ sâu sắc không kém tình trạng lạm phát cao và nhập siêu lớn của những năm trước. Tình huống thứ hai: hệ thống ngân hàng thừa thanh khoản, nhưng một bộ phận rất lớn doanh nghiệp vẫn thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng do không thể (do nợ xấu), hoặc do khó tiếp cận vốn vay (do lãi suất quá cao), thậm chí, hoặc do không muốn vay (do không tiêu thụ 14
  16. được sản phẩm, hàng tồn kho lớn). Sự ách tắc này đang đe dọa sự tồn vong của các doanh nghiệp lẫn hệ thống ngân hàng – hai lực lượng chủ thể - chủ lực của kinh tế thị trường. Tình huống thứ ba: nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, tuy đã được Đại hội Đảng XI ghi nhận là vấn đề chiến lược cấp bách hàng đầu, được nhiều nghiên cứu nhìn nhận là giải pháp “căn cơ” để đưa nền kinh tế thoát khỏi xu hướng khó khăn gay gắt kéo dài đang làm suy kiệt nền kinh tế, vậy mà cho đến nay, sau gần 2 năm, hầu như vẫn chưa được triển khai trên thực tế, trừ một vài công việc có tính khởi động (xây dựng dự án) ở một vài lĩnh vực. Hội nghị Trung ương 3, khóa XI, diễn ra cách đây gần một năm, yêu cầu triển khai thực hiện sớm tái cơ cấu nền kinh tế một cách quyết liệt và gay gắt hiếm thấy, với 3 tuyến nhiệm vụ ưu tiên được định rõ. Thế nhưng sau một năm, trong khi tình hình kinh tế tiếp tục giảm sút nhanh, vẫn chưa cảm nhận được tính ưu việt trong thực tiễn rõ ràng của Nghị quyết đó. Những hành động tái cơ cấu đang diễn ra phần lớn mang nặng tính tình thế, phản ứng ngắn hạn, chưa bài bản, hệ thống và triệt để, đủ để tạo sự xoay chuyển căn bản trong cơ chế phân bổ nguồn lực quốc gia. Nó chỉ cải thiện trong ngắn hạn rồi sau đó mọi thứ lại quay về vị trí ban đầu. 1.2.2. Nền kinh tế khởi sắc: CPI giảm thấp. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng chỉ 6.81% kể từ tháng 12/2011. So với mức lạm phát hơn 18% của năm ngoái và so với mong mỏi nhiều năm là kéo được mức lạm phát xuống thấp, rõ ràng đây là một kết quả đáng kể. Tăng trưởng GDP: Năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 5,03%, thấp nhất trong một thập kỷ qua. Tăng trưởng kinh tế năm 2012 không đạt mục tiêu đề ra nhưng trong bối cảnh Việt Nam phải thực hiện mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát - mà các giải pháp thực hiện mục tiêu này thường có hiệu ứng phụ là tăng trưởng kinh tế bị suy giảm và trong bối cảnh suy giảm chung của kinh tế toàn cầu: 3,8% năm 2011; 3,3% năm 2012 (IMF, 2012) thì tốc độ tăng 5,03% này là chấp nhận được. H.10: Tăng trưởng GDP Việt Nam từ 2000 – 2012 15
  17. Nhập siêu, mối quan ngại lớn của nhiều năm gần đây, căn bệnh kinh niên trầm kha của nền kinh tế bỗng nhiên được “xử lý gọn”, đảo ngược thành xuất siêu. Năm 2012 Việt Nam xuất siêu 0.48 tỷ USD. Đây là một thành tích thực sự hiếm hoi trong suốt mấy chục năm đổi mới. Nó đáng được coi là một “kỳ tích” nếu so với những con số nhập siêu cao ngất ngưởng khoảng 10 tỷ USD của các năm trước. Dự trữ ngoại tệ được cải thiện đáng kể. Lượng dự trữ ngoại tệ đã tăng gấp đôi so với đầu năm, đạt mang lại một sự bảo đảm an toàn cao hơn cho nền kinh tế trong điều kiện nó đang gặp nhiều khó khăn và đối mặt với không ít rủi ro từ phía thị trường thế giới. H.11: Dự trữ ngoại tệ Việt Nam 2005 – 2012 Tổng cầu của nền kinh tế trong 9 tháng đầu năm tuy chưa thật sự mạnh nhưng đã có chuyển động tích cực. Xu hướng này thể hiện ở mức tăng 17,9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng dần trong năm 2012, từ mức tăng 6,5% so với cùng kỳ của 6 tháng đầu năm, lên 6,8% qua 8 tháng đầu năm. Bên cạnh những chuyển biến tích cực về “lượng”, trong nền kinh tế cũng bắt đầu triển khai một số cải cách mạnh nhằm vào hệ thống thể chế để cải thiện chất. Tháng 4/2012, Quốc hội đã ra Nghị quyết không cho phép mở thêm Khu Công nghiệp mới. Đây là nỗ lực nhằm chống lại việc mở rộng tràn lan các Khu Công nghiệp, vừa lãng phí, vừa làm hư hỏng thể chế, gây bức xúc lớn trong xã hội, nhất là trong khu vực nông thôn, Tiếp theo đó, tháng Bảy, Chính phủ ra quyết định, trong số 15 Khu Kinh tế ven biển đã được thành lập, sẽ chỉ tập trung ưu tiên đầu tư cho 5 Khu thay vì dàn trải cho tất cả như trước đây. Những nỗ lực cải cách nhằm thay đổi chất lượng thể chế như vậy vẫn còn ít, thậm chí, có thể nói quá ít nếu so với yêu cầu tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng – là những nhiệm vụ được xác định là cấp bách, rất cơ bản và mang tầm chiến lược. Thêm vào đó, những cải cách ít ỏi này vẫn mang đậm dấu ấn của cách phản ứng tình thế từ phía Chính phủ và khu vực kinh tế nhà nước trước áp lực thực tiễn gay gắt hơn là được diễn ra theo một chương trình hành động được thiết kế bài bản, hệ thống. 16
  18. Nỗ lực và định hướng hành động là như vậy, song việc xác định nguồn lực bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chiến lược đó, ở hầu hết các địa phương, gần như trong mọi trường hợp, chỉ là áng chừng một cách cảm tính hoặc bị chi phối bởi các quan hệ lợi ích nhóm. Về nguyên tắc, nó cũng chưa lường được một cách thỏa đáng tổng chi phí điều chỉnh – một con số thường là không nhỏ. Song vượt lên những nghi ngại mang tính kỹ thuật chuyên môn, vấn đề tái cơ cấu đang được khởi động. Dù chưa bảo đảm tính nhất quán, đáp ứng yêu cầu công khai, minh bạch, nó đã chứng tỏ công cuộc tái cơ cấu đầu tư công đang bắt đầu diễn ra “thật” và đúng hướng. Công cuộc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại cũng đang được triển khai. Tuy tiến độ và kết quả ít được công khai, song những gì được ghi nhận cho thấy đã có những nỗ lực thực tiễn và kết quả bước đầu, chứ không dừng lại ở các Chương trình hành động trên giấy và những cuộc tranh luận hội trường. 1.2.3. Tình hình sa sút, tồn kho và xu hướng suy thoái kinh tế: Thứ nhất, cho dù tốc độ tăng trưởng GDP được cải thiện theo từng quý nhưng vẫn giảm so với năm trước. Với mức tăng trưởng GDP cả năm là 5.03% vẫn thấp hơn so với dự báo là 6,0-6,5%. Thứ hai, lạm phát hạ nhanh, thậm chí nhanh hơn mức dự kiến, làm cho nền kinh tế liên tục mấy tháng bị “âm”. Xu hướng giảm nhanh như vậy gây lo ngại sự “lạnh đi” đột ngột của cơ thể kinh tế vốn đang bi suy yếu kéo dài. Đã có những ý kiến đề cập đến tình trạng thiểu phát, kéo theo đó là xu hướng trì trệ trong tăng trưởng GDP. Cũng cần lưu ý đúng mức đến xu hướng CPI chuyển hướng nhanh từ “âm” sang “dương” trong tháng 8 và 9 trong khi các thao tác nới lỏng tiền tệ chỉ mới bắt đầu. H.12: CPI theo tháng từ 2011 – 2012 Hình H.12 cho thấy qua các tháng, CPI có biên độ dao động khá lớn và mức độ đảo chiều cao. Biên độ dao động CPI lớn chứng tỏ nền kinh tế nước ta trong 9 tháng qua vẫn trong trạng thái bất ổn cao. Đồng thời, hiệu ứng tâm lý và cách thức phản ứng chính 17
  19. sách trước động thái CPI (sử dụng hàng loạt các biện pháp hành chính với mong muốn đối phó nhanh với lạm phát, để dễ dàng và thuận tiện hơn cho bộ máy điều hành) cho thấy mức độ nhạy cảm rất cao của cơ thể kinh tế đối với các tác động đảo chiều, ngay cả khi tác động đó chưa mạnh. Thứ ba, thành tích “đột ngột” chuyển nhập siêu thành xuất siêu phản ánh một thực trạng đáng lo ngại: năng lực hấp thụ đầu vào của nền kinh tế bị suy yếu. Nền kinh tế nước ta có một đặc điểm nổi bật là phụ thuộc nặng vào đầu vào nhập khẩu4. Vì vậy, thành tích giảm nhập siêu đồng nghĩa với một mặt, sản xuất trong nước gặp khó khăn nghiêm trọng, năng lực hấp thụ đầu vào yếu đi rõ rệt; hai là triển vọng tăng trưởng không mấy lạc quan trong năm 2013. Gắn với “thành tích” giảm nhập siêu, còn một chỉ số khác cũng rất đáng quan tâm. Đó là số lượng đơn đặt hàng của nền kinh tế được ký kết qua các tháng. Đây là chỉ số phản ánh đầu ra của nền kinh tế, mang tính dự báo cao. Xu hướng đơn đặt hàng của nền kinh tế qua các tháng (Hình H.13) cho thấy động thái đầu ra vẫn còn kém sáng sủa (chưa khôi phục mức trung bình 50 điểm), tương tự động thái đầu vào. Với xu hướng này, khó có thể trông đợi triển vọng cải thiện mạnh mẽ tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2013. H.13: Xu hướng đơn đặt hàng và đơn đặt hàng xuất khẩu mới Thứ tư, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm rõ rệt trong khi đây là lĩnh vực đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng chung, là động lực và đầu tàu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng đầu năm tăng khoảng 4,8% so với cùng kỳ năm 2011, chỉ bằng 61,5% mức tăng cùng kỳ năm trước (7,8%). Cần lưu ý rằng tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp thấp, trong khi tốc độ tăng chi phí trung gian cao lên, làm tốc độ tăng giá trị tăng thêm của công nghiệp thấp xuống, kéo theo sự sụt giảm của tốc độ tăng GDP. Tổng hợp lại, cho đến hết quý III, tăng trưởng công nghiệp vẫn có xu hướng chậm lại, chưa “thoát đáy”; cũng chưa lộ ra những yếu tố mới cho phép dự báo một sự thay đổi mang tính đột biến trong công nghiệp để xoay chuyển xu thế tăng trưởng GDP. 18
  20. Thứ năm, tốc độ tăng tồn kho giảm nhưng vẫn duy trì ở mức cao. Hình H.14 dưới đây chỉ rõ động thái đó: H.14: Hàng tồn kho giảm chậm và vẫn ở mức cao (Nguồn: MPI) Năm 2012, tồn kho lớn kéo dài đang là yếu tố chính làm suy yếu hệ thống doanh nghiệp, đẩy nhiều doanh nghiệp vào tình trạng phá sản hoặc đóng cửa. Trên bình diện vĩ mô, hàng tồn kho cản trở mạnh mẽ sự lưu thông trong nền kinh tế. Thứ sáu, ở mặt cung, trong mối liên hệ tương thông và tương thuộc với mặt cầu, tình hình cũng nghiêm trọng không kém. Nền kinh tế nước ta có đặc điểm nổi bật là tăng trưởng lệ thuộc ngày càng nặng vào vốn đầu tư (Hình H.15). H.15: Đóng góp của các yếu tố vào tăng trưởng GDP Với một nền kinh tế đang “mất sức”, việc dư nợ tín dụng qua 9 tháng đầu năm chỉ tăng hơn 2% cho thấy một xu hướng bất thường đang xảy ra (không thể hấp thụ nổi vốn dù đang rất khát vốn). Tính bất thường này còn thể hiện rõ hơn qua sự kiện là cho đến hết tháng 6 thì tăng trưởng tín dụng vẫn chỉ đạt mức “âm”. Hoạt động cho vay mới bắt đầu phục hồi từ tháng 7, nhưng cũng rất yếu ớt. Nghĩa là quá trình “lưu thông máu” cho một cơ thể đang bị ốm nặng, đã bị đình trệ trong suốt nửa năm. Nên đây sẽ là điều khó tin nhưng 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2