Tiểu Luận: Thâm hụt ngân sách Việt Nam
lượt xem 126
download
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của nhà nước được đề cao hơn bao giờ hết. Để đảm trách vai trò này, nhà nước phải nắm bắt các công cụ tài chính - tiền tệ, trong đó cân đối ngân sách nhà nước được xem là một trong những công cụ sắc bén để nhà nước can thiệp toàn diện vào nến kinh tế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu Luận: Thâm hụt ngân sách Việt Nam
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH LỚP: T07 TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ THÂM HỤT NGÂN SÁCH VIỆT NAM NHÓM 8: Đặng Kim Ngọc Anh Nguyễn Thị Dung Trịnh Thị Mỹ Loan Trần Thị Thùy Ninh Ngô Thị Thanh Tâm Nguyễn Thị Mỹ Trinh Dương Thị Thùy Vân GVHD: Ths. Trần Mạnh Kiên 1
- Tp. Hồ Chí Minh, ngày 03/11/2012MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 4 2. NỘI DUNG....................................................................................................... 4 2.1. Khái niệm. phân loại................................................................................... 4 2.1.1. Ngân sách nhà nước.................................................................................... 4 2.1.2. Thâm hụt ngân sách nhà nước.................................................................... 4 2.1.3. Phân loại thâm hụt ngân sách nhà nước.................................................... 5 2.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước trong những năm gần đây. .5 2.2.1. Thực trạng kinh tế những năm gần đây.....................................................5 2.2.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách...................................................................6 a. Thu ngân sách nhà nước.......................................................................................6 b. Chi ngân sách nhà nước....................................................................................... 9 c. Thực trạng bội chi NSNN (thâm hụt NSNN)..................................................12 2.2.3. Hậu quả của thâm hụt NSNN đối với nền kinh tế.................................. 13 2.3. Nguyên nhân 2.3.1. Thất thu thuế nhà nước.............................................................................13 2.3.2. Đầu tư công kém hiệu quả........................................................................13 2.3.3. Nhà nước huy động vốn để kích cầu........................................................14 2.3.4. Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên.......................................................................................................................14 2.3.5. Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn.....................................................14 2.3.6. Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế.............14 2.4. Tác động đối với nền kinh tế.................................................................. 15 2.4.1. Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế......................................................15 2.4.2. Ảnh hưởng lạm phát..................................................................................15 2.4.3. Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế......................................17 2.4.4. Thâm hụt ngân sách và vấn đề thoái lui đầu tư.......................................17 2.4.5. Lãi suất.......................................................................................................19 2.4.6. Cán cân thương mại và tỉ giá....................................................................20 2.4.7. Tăng trưởng............................................................................................... 21 2.4.8. Hạ cánh cứng.............................................................................................21 2.5. Giải pháp.................................................................................................... 22 2
- 2.5.1. Phát hành tiền............................................................................................22 2.5.2. Vay nợ.........................................................................................................22 2.5.3. Tăng thuế.................................................................................................23 2.5.4. Cắt giảm chi tiêu........................................................................................23 2.5.5. Dự trữ ngoại hối....................................................................................... 23 3. KẾT LUẬN.................................................................................................... 23 TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
- 1. MỞ ĐẦU Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của nhà nước được đề cao hơn bao giờ hết. Để đảm trách vai trò này, nhà nước phải nắm bắt các công cụ tài chính - tiền tệ, trong đó cân đối ngân sách nhà nước được xem là một trong những công cụ sắc bén để nhà nước can thiệp toàn diện vào nến kinh tế. Nói đến ngân sách nhà nước thì không thể không nói đến tình trạng thâm hụt ngân sách_căn bệnh kinh niên của mọi nhà nước. Ngay cả khi Hoa Kỳ - một trong những cường quốc có nền kinh tế đ ứng đầu thế giới hiện nay cũng phải đối mặt với vấn đề này và tất nhiên V iệt Nam là một nước không ngoại lệ. Mức độ thâm hụt ngân sách ở nước ta đang có xu hướng gia tăng và ngày càng tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân cũng như toàn bộ nền kinh tế. Hay nói cách khác đay chính là một trong những nguy cơ làm khủng hoảng nền kinh tế, gia tăng lạm phát gây khó khăn cho chính phủ trong việc thực hiện các chính sach tài khóa và tiền tệ. Vậy thâm hụt ngân sách nhà nước là gì? Thực trạng vấn đề thâm hụt ngân sách diễn ra ở Việt Nam trong các năm qua như thế nào? Giải pháp nào đ ể xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước, ổn định vĩ mô nền kinh tế, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế và ki ềm chế lạm phát hiện nay? Bài tiểu luận này với đề tài "Thâm hụt ngân sách Việt Nam ” là quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra đáp án cho những câu hỏi trên. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái niệm, phân loại 2.1.1. Ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước: là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước; các quan hệ kinh tế tài chính giữa nhà nước với nền kinh tế trong quá trình phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính và quản lý nhà nước. Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất, để đảm bảo nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại đất nước. Là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, được biểu hiện trên 3 khía cạnh: - Kích thích sự tăng trưởng kinh tế ( vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế), chống độc quyền. - Giải quyết các vấn đề xã hội ( vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội) - Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát( điều chỉnh trong lĩnh vực thì trường). Vai trò của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. 2.1.2. Thâm hụt ngân sách nhà nước 4
- Thâm hụt Ngân sách nhà nước hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của Ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế tùy theo tỷ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây 2.1.3. Phân loại thâm hụt ngân sách nhà nước Thâm hụt cơ cấu: là các khoản thâm hụt được quyết định bởi các chính s ách tùy bi ế n c ủ a chính ph ủ nh ư quy ết đ ịnh thu ế suất, trợ cấp bảo hiểm hay quy mô chi tiêu cho gia đình, quốc phòng… Thâm hụt chu kì: là khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kì kinh tế, nghĩa là mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ: khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thât nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho trợ cấp tăng lên. 2.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước trong những năm gần đây 2.2.1. Thực trạng kinh tế những năm gần đây Vấn đề đáng quan tâm đến nền kinh tế Việt Nam hiện nay chính là lạm phát và tăng trưởng GDP. Theo ba báo cáo được đưa ra trong năm 2012 thời gian cuối tháng 7, đầu tháng 8 của JPMorgan Chase, HSBC và ANZ, với nỗ lực của Chính phủ, tốc độ lạm phát của Việt Nam đã liên tục giảm trong thời gian qua, tạo thuận lợi việc hạ lãi suất nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Năm 2011, các biện pháp thắt chặt tín dụng đã được áp dụng nhằm hạn chế nhu cầu. Kết quả, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 vừa qua chỉ tăng hơn 5% so với cùng kỳ, từ mức đỉnh 23% vào tháng 8 năm 2011 (theo báo cáo “Vietnam at a galance” của HSBC). Ngoài ra thâm hụt thương mại trong 7 tháng đầu năm 2012 chỉ còn 58 triệu USD, so với mức khoảng 6 tỷ USD cùng kỳ năm 2011. Tỷ giá VND/USD đã ổn định từ đầu năm đến nay, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng nhờ thâm hụt thương mại giảm và dòng vốn giải ngân FDI mạnh( trích báo cáo HSBC). Sự suy giảm của nhu cầu tại các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam thể hiện qua sự đi xuống của tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Theo số liệu ban đầu, mức tăng trưởng xuất khẩu của tháng 7/2012 đã giảm mạnh xuống còn 3% so với cùng kỳ năm 2011, từ mức tăng 16,9% trong tháng 6/2012. Cùng quan điểm, HSBC nhận định, ở thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp ở Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng nhu cầu thấp ở cả trong và ngoài nước. Chỉ số quản lý sức mua (PMI) của Việt Nam trong tháng 7, do HSBC thực hiện, đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ khi được công bố lần đầu vào tháng 4/2011. Theo HSBC, điều này phản ánh thực trạng người tiêu dùng không còn sẵn sàng chi tiêu do mức nợ cao hoặc do triển vọng tăng trưởng kinh tế kém. Việt Nam hiện không phải là quốc gia duy nhất phải đối mặt với sự suy giảm của nhu cầu tại thị trường nội địa. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nhu cầu tiêu dùng được HSBC dự báo có thể còn ở trong tình trạng trì trệ trong thời gian tới, trong khi những cải 5
- cách mang tính cơ cấu cần được thực hiện để giải quyết những vấn đề đã ăn sâu trong nền kinh tế. Trong khi đó, báo cáo đưa ra cuối tháng 7 của Ngân hàng JPMorgan Chase cho rằng, lạm phát cơ bản của Việt Nam (không tính tới các yếu tố giá nhiên liệu và lương thực-thực phẩm) vẫn ở mức 0,6% trong tháng 7 so với tháng 6 và ở mức 8% so với cùng kỳ năm 2011. Biểu đồ tăng trưởng thực GDP và lạm phát của Việt Nam 2.2.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách a. Thu ngân sách nhà nước Theo Quyết toán NSNN của MoF, trung bình giai đoạn 2007-2011, tổng thu ngân sách nhà nước của Việt Nam khá ổn định và vào khoảng 29,0% GDP. Theo số liệu thống kê từ đầu năm đến 15/8/2012 tổng thu NSNN ước tính đạt 418.500 tỷ đồng, bằng 56,5% dự toán năm Hình 1: Các nguồn thu của Việt Nam (% GDP) Nguồn: Quyết toán cà Dự toán NSNN 2003-2012 6
- Theo Ủy ban Tài chính ngân sách (TCNS), thu ngân sách tính đến hết tháng 9.2012 vẫn chủ yếu phụ thuộc vào tài nguyên (dầu khí), còn thu nội địa và thu cân đối xuất nhập khẩu giảm mạnh (tổng số giảm 25.500 tỉ đồng). Thu nội địa: Năm 2011 thu nội địa ước 390.000 tỷ đồng, đạt 102% dự toán năm, tăng 16,6% so cùng kỳ 2010 (trong đó: tính đến hết tháng 11/2011, thu từ kinh tế quốc doanh đạt 89,1% dự toán, tăng 12,1% so cùng kỳ; thu khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 98,7% dự toán, tăng 23,7% so cùng kỳ; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 94,0% dự toán, tăng 15,3% so với cùng kỳ…) Khoản thu đáng lưu ý trong giai đoạn 2008-2012 là thu từ thuế phí, tác động lớn đến NSNN cũng như đến toàn xã hội. Mức thu từ thuế và phí, không kể thu từ dầu thô của Việt Nam là rất cao so với các nước khác trong khu vực. Cụ thể, tính đến năm 2010 tỷ lệ thu từ thuế và phí/GDP của Việt Nam là 21,6% , Trung Quốc là 17,3%, Thái Lan và Ma-lay-xi-a xấp xỉ 15,5%, Phi-líp-pin là 13,0%, In-đô-nê-xia là 12.1%, và của Ấn Độ chỉ là 7,8%.(Nguồn: ADB Key Economic Indicator for Asia and the Pacific (2011)) Ngoại trừ năm 2009 khi Chính phủ thực hiện hàng loạt các biện pháp cắt và miễn giảm thuế nhằm kích thích tổng cầu thì thu thuế và phí, không kể dầu thô, của Việt Nam chưa có dấu hiệu giảm. Những ước tính sơ bộ của năm 2010 và 2011 từ Quyết toán NSNN cho thấy tỷ lệ này tiếp tục duy trì ở mức cao và thậm 7
- chí còn gia tăng, lần lượt khoảng 22,6% và 24,4% GDP. Như vậy, ngoài việc chịu “thuế lạm phát” hàng năm ở mức hai con số, những chính sách bảo hộ và thuế chồng lên thuế đang khiến mỗi người dân Việt Nam gánh chịu tỷ lệ thuế phí/GDP cao gấp từ 1,4 đến 3 lần so với các nước khác trong khu vực. Về thuế thu nhập, Việt Nam có các thang bậc thuế suất khá tương đồng so với các nước trong khu vực, song khoảng thu nhập chịu các thang thuế suất tương ứng lại thấp, nên tính chung số thuế phải nộp là khá cao so với khu vực. Ví d ụ mức thu nhập phải chịu thuế 10% tại Việt Nam khoảng 3.450 - 5.175 USD một năm, thì ở Thái Lan là 4.900 - 16.400 USD, Trung Quốc là 3.800 - 9.500 USD một năm. Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện được thu ở mức 25% đối với mọi doanh nghiệp, trong khi tại các nước, thuế suất dao động 2 - 30%. Tuy nhiên, số liệu thống kê những năm gần đây cho thấy, chiếm khoảng 20% GDP trong toàn nền kinh tế nhưng các doanh nghiệp FDI lại chỉ đóng góp trên dưới 10% tổng thu ngân sách nhà nước. Nhiều doanh nghiệp trong khu vực này liên tục báo lỗ nhưng lại xin mở rộng đầu tư. Như vậy với tổng mức thu thuế/GDP cao đã hạn chế khả năng tích lũy, làm giảm đầu tư phát triển, và năng cao năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân, xuất hiện các hành vi gian lận về thuế của các doanh nghiệp. Bên cạnh thuế thu nhập, Việt Nam còn áp dụng nhiều khoản thuế cao khác đánh vào tiêu dùng như thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế nhập khẩu. Đặc biệt, ngoài các khoản thuế và phí, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải trả các chi phí không chính thức cao. Theo kết quả điều tra Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Cấp tỉnh (PCI) năm 2011, mặc dù đã giảm nhưng vẫn còn có tới hơn 52% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ phải chi trả dưới dạng tiền lót tay cho các cán bộ hành chính địa phương, 7% số doanh nghiệp phải chi trả tới hơn 10% tổng thu nhập của họ cho các khoản chi phí không chính thức; có tới 56% doanh nghiệp tham gia đấu thầu các dự án của nhà nước cho biết việc chi trả hoa hồng là phổ biến. Điều này đã góp phần làm gia tăng sự bất công giữa các nhóm lợi ích và đ ại đa s ố dân chúng, đồng thời làm suy giảm niềm tin vào bộ máy công quyền. Con đường giảm thâm hụt ngân sách thông qua tăng thuế suất và cơ sở đánh thuế là rất hạn chế. Việc tăng thu chỉ có thể được thực hiện nhờ các biện pháp nâng cao tỉ lệ tuân thủ, chống thất thu và buôn lậu. Thu ngân sách thiếu bền vững Các khoản thu không bền vững gồm thu từ viện trợ, thu từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước và giao đất, thu từ dầu thô. Nguồn: Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 quyết toán ngân sách nhà nước (NSNN) hàng năm của Bộ Tài chính (MoF) cho thấy, tổng thu thuế và phí ở nước ta chủ yếu đến từ 3 nguồn chính, gồm: thuế giá trị gia tăng (VAT); thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN); thuế xuất nhập khẩu (XNK) và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu. Trong đó, tỷ trọng thuế TNDN đang có xu hướng giảm dần từ 36% trong giai đoạn 2006-2008 xuống còn 28% trong giai đoạn 2009-2011. Trong khi đó, tỷ trọng thu thuế VAT và thuế XNK lại tăng nhanh. Sự gia tăng tỷ trọng các khoản thu từ thuế XNK và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu đang từ 10% trong năm 2006 lên 18,4% trong năm 2009 và 14,5% trong năm 2010. Kết quả này cho thấy sự phụ thuộc lớn vào 8
- nguồn thuế này khi lộ trình cắt giảm thuế được thực hiện theo cam kết với WTO sẽ khiến cho mức độ thâm hụt ngân sách của Việt Nam có thể trở nên trầm trọng hơn trong những năm tới. Đặc biệt, thu từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước và chuyển quyền sử dụng đất đang có xu hướng ngày càng giảm dần về quy mô tuyệt đối cũng như tỷ trọng trong tổng thu và viện trợ, từ 9,3% năm 2007 xuống khoảng 6,6% trong năm 2011, khi các tài sản loại này thuộc sỡ hữu nhà nước đang dần cạn. Đ ể có cái nhìn sâu hơn về bức tranh tài khóa, chúng ta nên có them thước đo thâm hụt ngân sách loại trừ các khoảng thu từ việc bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Việc đ ưa những khoản thu này vào tính toán cán cân ngân sách sẽ làm giảm mức độ nghiêm trọng của tình trạng bội chi từ những con số báo cáo. Về bản chất, việc này cũng giống như việc một cá nhân bán tài sản đi để chi tiêu. Khoản vay nợ của anh ta có thể giảm nhưng tài sản của anh ta cũng giảm tương ứng, tức là anh ta đã nghèo đi. Thu từ việc khai thác dầu thô và các tài nguyên khác cũng có bản chất giống các khoản thu từ việc bán tài sản quốc gia và không bền vững do nguồn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn. Cụ thể, thu từ dầu thô đã có tỷ trọng liên tục giảm trong những năm qua trong tổng thu NSNN. Khoản thu này từ chiếm tới 28,8% trong tổng thu ngân sách năm 2006 đã giảm xuống chỉ còn 11,6% trong năm 2011. Năm 2012 thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, dầu thô chỉ đạt dưới 70% dự toán. Ngoài ra, thu từ viện trợ không hoàn lại cũng nên được loại trừ khi tính toán thâm hụt ngân sách hàng năm do bản chất ngắn hạn không ổn định của chúng. b. Chi ngân sách nhà nước Chi đầu tư phát triển: Bảng chi đầu tư phát triển (2008-2012) 2010 (ước 2011 (dự 2012 (dự 2008 2009 thực hiện) toán) toán) Tổng chi (không bao 549.784 661.972 588.210 676.360 852.760 gồm chi trả nợ gốc) Chi đầu tư phát triển 119.462 181.363 150.000 152.000 180.000 Đơn vị: Tỷ đồng Nguồn: Quyết toán của Bộ tài chính (Cân đối thu – chi NSNN) Tính sơ bộ trong khoảng 5 năm (2008-2012) tổng vốn đầu tư phát triển mà ngân sách nhà nước đã cấp ra ước khoảng 782.825 tỷ đồng luôn chiếm trên 20% tổng chi NSNN đặc biệt là vào năm 2009 chiếm khoảng 27,4% tổng chi NSNN. Theo Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 thì chi đầu tư phát triển có xu hướng giảm nh ẹ về tỉ trọng trong tổng chi ngân sách, từ 28,3% năm 2010 xuống khoảng 24,6% trong năm 2011 nhờ việc nỗ lực cắt giảm chi tiêu công nhằm bình ổn nền kinh tế. Chi đầu phát triển càng ngày được chú trọng, tuy nhiên cũng còn hạn chế trong việc giám sát chặt chẽ việc chi các khoản tiền. Ví dụ trong năm 2008, dự án 9
- xử lý nước thải khu công nghiệp Vĩnh Niệm – Hải Phòng vốn đã cấp phát 3 t ỷ đồng và dự án xử lý nước thải Khu du lịch Vịnh Tùng Dinh (Cát Bà, Hải Phòng) vốn đã cấp phát 23,52 tỷ đồng hoàn thành nhưng không hoạt động gây lãng phí NSNN; năm 2009, có nhiều khoản chi tăng đột biến, trong tổng chi hơn 561.200 tỷ đồng (tăng 14,2% so với dự toán) thì chi đầu tư phát triển tăng vượt dự toán đ ến 60,8%. Công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn nhiều sai phạm và tăng hơn so với năm trước. Tình trạng xây dựng dở dang, nợ khối lượng xây dựng cơ bản,…vẫn xảy ra. Từ năm 2011 đến nay, chi đầu tư phát triển tiếp tục tăng. Năm 2011, nguồn vốn đầu tư của NSNN, cùng với vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đưa vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2011 đạt khoảng 34,5%GDP, góp phần tăng thêm năng lực mới cho nền kinh tế. 9 tháng đ ầu năm 2012 ước tính tăng 5% so với cùng kỳ. Thực tế việc thực hiện chi ngân sách vẫn có thất thoát, làm lãng phí nguồn ngân sách và chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Chi trả nợ và viện trợ: Trong quá trình phát triển, nước ta vẫn luôn cố gắng đảm bảo các khoản thanh toán nợ đầy đủ và đúng kì hạn cùng với việc viện trợ khi cần cần thiết. Số tiền này tăng từ 58.390 tỷ đồng năm 2008 đến 101.000 tỷ đồng năm 2011 nhằm đảm bảo tăng chi trả nợ ngoài nước do biến động chênh lệch tỷ giá ngoại tệ và tăng trả nợ gốc đối với các khoản vay ngắn hạn để giảm áp lực bố trí trả nợ các năm sau. Hiện nay, theo thống kê cho biết 9 tháng đầu năm ước tính chi trả nợ tăng 0,5%. Bên cạnh đó trong giai đoạn này, Việt Nam đang ngày càng chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước(DNNN). Hầu hết các DNNN hoạt động vẫn chưa có hiệu quả, thay vì tập trung vào các hoạt động kinh doanh cốt lõi thì các tập đoàn này lại phát triển thành mạng lưới chằng chịt với hàng trăm các tổng công ty, công ty con và công ty liên doanh. Điển hình như tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Vi ệt Nam (Vinashin). Tháng 12/2010 Vinashin chính thức mất khả năng thanh toán 60 triệu USD vốn gốc, một phần trong khoản nợ 600 triệu USD phát hành năm 2007, cho các chủ nợ quốc tế. Chính phủ Việt Nam đã bị Elliott Advisers LP, một trong các chủ nợ, gửi đơn kiện lên Tòa thượng thẩm London đòi bồi thường cho những khoản nợ không được thanh toán. Mặc dù gần đây Elliott Advisers LP đã rút đơn kiện do một công ty trong nước đã đứng ra mua lại nợ cho Vinashin, Vinashin đã và đang được tái cấu trúc nhưng hậu quả mà nó gây ra đối với toàn nền kinh tế sẽ còn kéo dài. Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh Từ năm 2008 đến năm 2010 Chính phủ đã giải ngân được khoảng 31.690 tỷ đồng từ vốn trái phiếu Chính phủ, đạt 79,21%. Các dự án y tế kế hoạch vốn Chính phủ giao là 5.600 tỷ đồng, số vốn giải ngân là 4.315,9 tỷ đồng đạt 77,07%; Các dự án giáo dục kế hoạch vốn Chính phủ giao là 6.180 tỷ đồng, số vốn giải ngân là 4.600 tỷ đồng đạt 74,43%; dự án giao thông đạt 73%; dự án thủy l ợi gần 65%, nâng cấp bệnh viện đạt gần 73%; kiên cố trường lớp, nhà công vụ cho giáo viên gần 86%. Ngoài ra, Bộ Tài chính còn triển khai tổ chức thực hiện ứng chi 6.467,5 tỷ để bổ sung vốn đẩy nhanh tiến độ thực hiện một số dự án quan trọng, cấp bách, có khả năng hoàn thành trong năm 2010. Trong đó, đã trích dự phòng ngân sách trung ương 730 tỷ đồng và xuất cấp 14.000 tấn gạo từ nguồn dự tr ữ 10
- quốc gia để hỗ trợ các tỉnh miền Trung khắc phục hậu quả bão lũ; cứu đói, hỗ trợ dân sinh; khôi phục cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các vùng bị thiên tai... Để thực hiện chính sách phát triển kinh tế bền vững, nhà nước tăng cường hỗ trợ xã hội bằng việc tăng khoản chi an sinh xã hội, chi hỗ trợ cho quốc phòng, an ninh. Nhìn chung cho tới nay đã đạt được những thành công nhất đ ịnh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống chung của xã hội Chi chương trình mục tiêu quốc gia Nhà nước ta đang chú trọng phát triển các chương trình mục tiêu quốc gia vì mục tiêu phát triển nền kinh tế bền vững. Tất cả các mục chi tiêu của chương trình đều tăng hơn 25% so với năm 2008. Trong đó, các khoản chi cho chương trình an toàn thực phẩm và chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nằm trong chương trình mục tiêu quốc gia tăng nhanh và mạnh. Với chương trình an toàn thực phẩm, năm 2009 tăng khoảng 57.5% và năm 2010 tăng gần 164 % so với năm 2008. Còn với chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, năm 2009 – 2010, tăng 2,2 – 3,3 lần so với năm 2008. Năm 2012, sửa đổi một số điều trong quyết định số 135/2009/QĐ-TTG về Quy chế quản lý và điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015. Trong đó có 16 chương trình sau: 1- Việc làm và dạy nghề; 2- Giảm nghèo bền vững; 3- Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; 4- Y tế; 5- Dân số và Kế hoạch hóa gia đình; 6- Vệ sinh an toàn thực phẩm; 7- Văn hóa; 8- Giáo dục và đào tạo; 9- Phòng, chống ma túy; 10- Phòng, chống tội phạm; 11- S ử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; 12- Ứng phó với biến đổi khí hậu; 13- Xây dựng nông thôn mới; 14- Phòng, chống HIV/AIDS; 15- Đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; 16- Khắc phục và cải thiện ô nhiễm môi trường. Phát triển việc xây dựng mô hình mới. Qua đó có thể thấy nhà nước đang mở rộng chương trình mục tiêu quốc gia, do vậy việc chi cho chương trình mục tiêu quốc gia thực sự cần thiết. Chi cải cách tiền lương Theo Đề án Cải cách chính sách tiền lương được duyệt, trong những năm qua Chính phủ đã thực hiện việc điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung. Từ năm 2008 đến năm 2011 qua 4 lần điều chỉnh, mức lương tối thiểu chung đã được tăng từ 450.000 đồng lên 830.000 đồng/tháng. Mặc dù mức lương tối thiểu đã được điều chỉnh lên tới 830.000 đồng/tháng và luôn duy trì tốc độ tăng bình quân từ 16–20% hàng năm trong nhiều năm, song mức lương tối thiểu áp dụng với cán bộ công chức vẫn giữ ở mức bằng mức lương tối thiểu chung và luôn nằm ở vùng thấp nhất nếu so sánh với mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực doanh nghiệp. Cụ thể, lương công chức mới chỉ bằng 59,3% mức lương tối thiểu vùng thấp nhất và bằng 41,5% mức lương tối thiểu vùng cao nhất của doanh nghiệp quy định tại Nghị định số 70/2011/NĐ-CP ngày 22/8/2011 của Chính phủ. Trong năm 2012, với đề án tăng lương tối thiểu lên mức 1,05 triệu đồng, ngân sách nhà nước dự kiến sẽ cần thêm khoảng 11.000 tỷ đồng. Tùy theo cơ chế thị trường mà có sự điều chỉnh tiền lương cho hợp lý. Chi thường xuyên 11
- Có thể nói các khoản chi thường xuyên của NSNN là tương đối ổn đ ịnh, không có biến động mạnh. Song, việc quản lý khoản chi này vẫn không đảm bảo yêu cầu. Bởi mỗi năm, có hơn 7.000 khoản chi sai quy định. Nếu các khoản này không được kiểm tra, thì Nhà nước sẽ mất đi hơn 500 tỷ đồng, gây tổn thất cho NSNN. Năm 2012, 9 tháng đầu năm ước tính chi thường xuyên tăng 20,5%. Trong tổng mức chi NSNN 9 tháng 605.000 tỉ đồng, chi thường xuyên chiếm tới hơn 70% (hơn 477.000 tỉ đồng), riêng chi quản lý hành chính gần 58.000 tỉ đồng. Chi thường xuyên đang là nỗi lo lớn, việc tiêu xài hoang phí, “vung tay quá trán”, lạm chi đang khá phổ biến đặc biệt chi cho lễ hội, khánh tiết, hội họp, đi công tác nước ngoài….. Ngoài các khoản chi trên, nhà nước ta còn sử dụng một phần nguồn ngân sách cho các khoản chi khác như: chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước, chi cho các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, quỹ hỗ trợ phát triển, chi sự nghiệp như sự nghiệp giáo dục, văn hóa, thể thao, nghiên cứu khoa học công nghệ…Những khoản chi ngày càng phát sinh lớn nên việc cân đối thu-chi là điều vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội. c. Thực trạng bội chi NSNN (thâm hụt NSNN) Qua các số liệu trong bảng thống kê có thể thấy tình hình bội chi ngân sách nhà nước ta trong những năm gần đây xấp xỉ khoảng 5% ở trong mức giới hạn cho phép. Những khoản vay chủ yếu được đầu tư cho phát triển, ngoài ra còn khoản tích lũy được từ nguồn thu thuế, phí và lệ phí. Theo Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 do UBKT công bố ngày 4/9/2012, thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỷ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Cụ thể, thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai đoạn 2003 - 2007 chỉ là 1,3% GDP, nhưng con số này đã tăng hơn gấp đôi lên 2,7% GDP trong giai đoạn 2008 - 2012. 12
- Trong Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu” đã chỉ ra rằng thâm hụt ngân sách diễn ra liên tục trong hơn một thập kỉ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Các tổ chức quốc tế đưa ra những con số khác xa với báo cáo của Bộ Tài chính. Cụ thể, tính riêng năm 2009, con số thâm hụt ngân sách chỉ tính riêng năm 2009 không bao gồm chi trả nợ gốc theo báo cáo c ủa Bộ Tài chính là 3,7% GDP, trong khi đó con số tương ứng của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cao hơn nhiều, lần lượt là 6,6% và 9,0% GDP. Trung bình trong hai năm 2009-2010, con số thâm hụt ngân sách của Việt Nam thuộc diện cao nhất so với các nước trong khu vực, vào khoảng 6% GDP/năm. Con số này gấp khoảng 6 lần so với con số tương ứng của Indonesia, gấp 2 lần so với Thái Lan. Trong giai đoạn 2008-2012 thực trạng bội chi NSNN có chuyển biến khá phức tạp, chính vì thu-chi bất cân đối đã dẫn đến nhiều ảnh hưởng xấu. Đặc biệt trong năm 2009, nền kinh tế toàn cầu gặp khủng hoảng, lạm phát tại Vi ệt Nam khoảng 6,88% tác động rất lớn tới việc sử dụng NSNN. Theo tính toán IMF thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm 2009 lên đến 9%, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho là 9,8%, khác với con số 6,9% mà Việt Nam đưa ra. Tình hình thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu NSNN tuy đã có kết quả tích cực, song vẫn thấp so với tiềm năng và yêu cầu. Tình trạng lãng phí trong 1 số lĩnh vực như đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai vẫn chậm được khắc phục (thậm chí có trường hợp do động cơ tham nhũng dẫn đến các vi phạm về quản lý, kéo theo hậu quả lãng phí); trong đó đặc biệt là những tồn tại, hạn chế trong quy hoạch, kế hoạch ( bao gồm cả quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất…). Theo Tổng cục Thống kê công bố ngày 27/10/2012 con số bội chi ngân sách đã lên tới hơn 155.000 tỉ đồng, vượt dự toán cả năm Quốc hội phê duyệt là 140.200 tỉ đồng (vượt hơn 10,7% kế hoạch bội chi cả năm 2012). Với thực trạng này có thể thấy thâm hụt ngân sách đang ở mức báo động và nhà nước ta cần phải có sự điều chỉnh kịp thời, hạn chế mức thâm hụt cho đến cuối năm nay. 2.2.3. Hậu quả của thâm hụt NSNN đối với nền kinh tế Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, dễ gây lạm phát. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn 13
- làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng kì vọng lạm phát của người dân và của các nhà đ ầu t ư vì họ cho r ằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Bên cạnh đó thâm hụt ngân sách cũng tác động chung tới toàn bộ nền kinh tế và liệu thâm h ụt ngân sách càng nghiêm trọng thì khoản chi của Chính phủ sẽ lấy từ đâu?Thực sự đó là trăn trở lớn đối với nền kinh tế hiện nay của nước ta. Tóm l ại, thâm hụt ngân sách cao và kéo dài sẽ đe dọa tới sự ổn định vĩ mô. 2.3. Nguyên nhân 2.3.1 Thất thu thuế nhà nước Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ…tuy nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẽ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà nước…. Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên,việc miễn thuế, giảm thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác gây thâm hụt ngân sách nhà nước. 2.3.2 Đầu tư công kém hiệu quả Trên thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả, đã gây lãng phí nguồn ngân sách nhà nước và kiềm hãm sự phát triển của các vùng miền, là nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách trở trầm trọng. càng nên 2.3.3. Nhà nước huy động vốn để kích cầu Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phi ếu Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, s ẽ làm mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8-12%GDP 2.3.4. Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách và áp lực với bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách. Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp l ực bội chi NSNN. 14
- 2.3.5 Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn. Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thi ếu c ơ ch ế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính. Chi tiêu c ủa chính phủ một khi vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực không hiệu quả dẫn tới thâm hụt ngân sách nhà nước và cuối cùng là gây ra lạm phát. 2.3.6. Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác đ ịnh được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường tương đ ương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng đ ể chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không. 2.4. Tác động đối với nền kinh tế Đặc biệt, thâm hụt ngân sách cao, do hậu quả của những chính sách kích thích kinh tế kéo dài thông qua chi tiêu công, đang tiếp tục là những nguy cơ ti ềm ẩn làm xấu thêm các chỉ số kinh tế vĩ mô và đe dọa sự ổn định của nền kinh tế trong tương lai. Thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây lên tới xấp xỉ 5-6% GDP. Để làm rõ tác động của thâm hụt ngân sách tới các biến số vĩ mô quan trọng của nền kinh tế bao gồm tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, cán thương mại và tỉ giá hối đoái chúng ta thực hiện phân tích định tính các kênh truyền dẫn có thể có của thâm hụt ngân sách và các biện pháp tài trợ thâm hụt lên các biến số này. 2.4.1. Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế Với S là tiết kiệm tư nhân, (T – G) (thuế - chi tiêu của chính phủ) là ti ết kiệm chính phủ, cũng chính là chênh lệch giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T – G) = 0 tức NSNN cân bằng, trường hợp (T – G) > 0 NSNN có thặng dư, trường hợp (T – G) < 0 NSNN bội chi. Trong bối cảnh NSNN bội chi, chính phủ phải tìm cách bù đắp bội chi bằng cách vay trong nước hoặc nước ngoài. Vay trong nước làm cho tiết kiệm tư nhân giảm, tổng đầu tư giảm; để duy tri được mức tổng đầu tư chính phủ phải lựa chọn phương án đi vay nước ngoài. Mỗi khi chính phủ chi tiêu quá một đồng vượt số thu ngân sách, buộc phải tài tr ợ bằng cách tăng nợ công một đồng. 2.4.2. Ảnh hưởng lạm phát Nhìn vào những nước đã từng trải qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in tiền nhằm tài trợ cho thâm hụt 15
- ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất y ếu dẫn tới vi ệc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến l ượt nó dẫn tới lạm phát. Về cơ bản, hầu hết chính phủ các nước đều dùng các biện pháp sau để khắc phục bội chi NSNN: vay trong nước, vay nước ngoài hoặc phát hành tiền. Tùy từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà các nguồn bù đắp bội chi đ ược s ử dụng riêng rẽ hay kết hợp. Từ đó cũng gây ra tác động lên nền kinh tế khác nhau. Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng cách phát hành trái phiếu (kể cả phát hành trong nước và phát hành ra nước ngoài), thi tất yếu chính phủ phải trả tiền nợ gốc và lãi trái phiếu trong tương lai đồng thời gây áp lực lên xã hội bằng việc tăng thuế. Tuy nhiên bằng cách này, bội chi NSNN sẽ không gây lạm phát và đặc biệt trong trường hợp bội chi được tài trợ cho các dự án đầu tư sinh lợi thì nó lại là động lực cho sự phát triển của nên kinh tế trong dài hạn. Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng việc phát hành tiền, hành động này ngay lập tức làm cho lượng tiền cung ứng trong lưu thông tăng. Cung tiền tăng là một yếu tố quan trọng làm tăng tổng cầu. Trong bối c ảnh suy thoái kinh tế tăng cung tiền có tác dụng kích thích nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư tăng tổng sản phẩm tiến tới mức tiềm năng, ảnh hưởng lạm phát là tối thiếu. Tuy nhiên duy trì bội chi kéo dài trong thời kỳ kinh tế tăng trường phát hành tiền sẽ gây ra lạm phát cao, rất nguy hại. Những khoản chi tiêu chính phủ không được tài trợ bởi thu thuế hoặc các khoản thu khác có thể góp phần dẫn đến sự dư thừa của tổng cầu và gây lạm phát. Điều này đặc biệt dễ xảy ra khi chi tiêu chính phủ được tài tr ợ bằng cách làm tăng cung tiền trong nền kinh tế. Nếu chỉ một phần nhỏ thâm hụt tài khóa được tài trợ bằng cách tăng cung tiền thì có thể không gây l ạm phát. Tuy nhiên, nếu việc tài trợ này là lớn và liên tục trong nhiều năm thì chắc chắn nền kinh t ế cuối cùng sẽ phải trải qua lạm phát cao và kéo dài. Điều này có thể đ ược giải thích đơn giản thông qua vai trò quyết định trong dài hạn của cung tiền đ ối với lạm phát của nền kinh tế. Sự gia tăng của cung tiền có thể không làm tăng l ạm phát nếu như nền kinh tế đang tăng trưởng và cầu tiền giao dịch tăng theo, hoặc khi các thị trường tài sản khác đang kém hấp dẫn. Sự gia tăng cung tiền lúc đó có thể được hấp thụ hết bởi sự gia tăng của cầu tiền và do vậy không gây ra s ự gia tăng giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Tuy nhiên, khi khu vực tư nhân đã hài lòng với lượng tiền mà họ đang nắm giữ thì việc gia tăng cung tiền cuối cùng sẽ làm họ tăng chi tiêu và, trong điều kiện cung hàng hóa và dịch vụ không tăng theo kịp, nó sẽ kéo giá cả lên cao cho tới khi trạng thái cân bằng mới đ ược khôi phục. Những tác động này diễn ra rất giống với thực tế ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Thâm hụt tài khóa được tài trợ phần lớn bởi vay nợ thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và thậm chí là ứng trước ngân sách (một hình thức in tiền để chi tiêu). Tuy nhiên, trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh chủ yếu được bán cho các ngân hàng thương mại lớn. Lượng trái phiếu này sau đó được các ngân hàng thương mại cầm cố lại tại NHNN để lấy tiền. Cuối cùng, điều này sẽ làm tăng cung tiền và gây lạm phát trong nền kinh tế. Theo số liệu thống kê của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), tổng lượng trái 16
- phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh đang lưu hành có giá trị và khoảng 336 ngàn tỉ đồng, tương đương với hơn 13% GDP danh nghĩa và gần 12% cung tiền M2 của năm 2011. Như vậy, cùng với nhu cầu tín dụng cao của khu vực tư nhân, chi tiêu công tài trợ thông qua phát hành trái phiếu cũng đã gián tiếp dẫn đến sự gia tăng mạnh của cung tiền trong những năm gần đây. Về việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách: Đây là biện pháp đã được Chính phủ nhiều nước sử dụng; kể cả nước ta trong thời gian trước đây. Ưu điểm của biện pháp này là đơn giản, dễ thực hiện, trong một số trường hợp, việc phát hành thêm tiền cũng có tác dụng phân bố lại nguồn tiết kiệm trong nền kinh tế, đặc biệt là phân bố lại vốn đầu tư giữa Nhà nước và các nhà đầu t ư tư nhân. Trong trường hợp này, lợi thuộc về Nhà nước, thiệt hại rơi vào nhà đầu tư t ư nhân, vì thực chất phát hành tiền đã trở thành một loại " thuế" vô hình đánh vào nguồn thu nhập dân cư, hậu quả gây ra cho nền kinh tế là lạm phát. Và lạm phát lại là một trong những nguyên nhân tạo ra sự bất ổn trong nền kinh tế, làm cho hoạt động sản xuất khó khăn và trì trệ hơn. Chính vì vậy trong những năm gần đây Nhà nước ta cũng như các nước khác không sử dụng biện pháp phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước trong những trường hợp không thật sự cần thiết. Thâm hụt ngân sách là một trong những nguyên nhân gây lạm phát và mất cân bằng vĩ mô. Theo PGS, TS Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính - Tiền tệ ( Bộ Kế hoạch và Đầu tư): “Chính những yếu kém trong ngân sách (thu ngân sách nhà nước không đủ chi và bù đắp thâm hụt ngân sách không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành) là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát...” Xét về mặt thu ngân sách thì thất thu ngân sách hằng năm dẫn đ ến một lượng tiền không nhỏ chưa được thu vào ngân sách nhà nước để đáp ứng chi ngân sách, làm mất cân đối thu - chi ngân sách, tức là thâm hụt ngân sách. Điều này làm tăng số nợ của chính phủ (nếu chính phủ phải vay trong nước và vay nước ngoài để bù đắp) hoặc phải phát hành tiền. lượng tiền không nhỏ thất thu ở trên cộng với lượng tiền mới đưa ra lưu thông sẽ tạo sức ép và gây nên lạm phát. Xét về mặt chi ngân sách thì có một số lượng tiền không nhỏ đã bị lãng phí, thất thoát thông qua việc đầu tư công, thông qua việc chi tiêu của các cơ quan nhà nước, thông qua việc làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. đ ầu tư, chi tiêu kém hiệu quả góp phần làm tăng thâm hụt ngân sách nhà nước, làm tăng nợ nần của chính phủ và tăng sức ép đối với lạm phát. Xét về thâm hụt ngân sách thì tỉ lệ thâm hụt so với GDP hằng năm vẫn còn cao, chiếm trên dưới 5%. Việc xử lí số thu vượt dự toán cần được dành cho việc trả nợ, dành cho việc giảm thâm hụt ngân sách, dành cho việc tăng số dự phòng, quỹ dự trữ quốc gia. Trong khi số chi thường xuyên thường vượt dự toán cao hơn cũng tạo sức ép lạm phát. 2.4.3. Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế Quy mô nợ công của Chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho tiêu dùng hay đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ chấp nhận bội chi để tài trọ cho các dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời trong 17
- dài hạn, thì chính lợi tức từ dự án lại tạo ra và làm tăng nguồn thu trong dài hạn cho ngân sách nhà nước, giúp NSNN trả được gốc và lãi cho các khoản vay tài trợ bội chi trong quá khứ. Trường hợp bội chi NSNN được sử dụng cho mục đích tiêu dùng tức thời thì phần lớn ảnh hưởng của nó chỉ tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn (tại thời điểm bội chi xảy ra), và trong dài hạn nó không tạo ra một nguồn thu tiềm năng cho ngân sách mà chính nó làm nặng nề hơn khoản nợ công trong tương lai. 2.4.4. Thâm hụt ngân sách và vấn đề thoái lui đầu tư Khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các dự án của mình trong ngắn hạn, theo mô hình số nhân, nếu không có thay đổi nào trong thị trường tài chính thì GDP sẽ tăng lên ΔG x Số nhân của nền kinh tế. Nhưng khi GDP tăng lên, nhu cầu về tiền giao dịch cũng tăng lên. Mức GDP cao hơn có chiều hướng đi đến thắt chặt tiền tệ (đặc biệt là trong trường hợp NHTW quan tâm đến lạm phát). Lãi suất tăng và thắt chặt tín dụng sẽ có chiều hướng bóp nghẹt hay “thoái lui” đầu tư và những chi tiêu có nhạy cảm với lãi suất. Kết quả là dẫn đến tổng cầu giảm, sản l ượng và công ăn việc làm giảm xuống. Tuy nhiên, cơ chế thoái giảm này chỉ áp dụng cho thâm hụt cơ cấu. Không áp dụng cho thâm hụt chu kỳ (thâm hụt tăng do suy thoái) vì suy thoái gây ra giảm cầu tiền và dẫn đến lãi suất giảm. Thoái lui không được áp dụng trong các cuộc đại suy thoái là một nhắc nhở: không có liên hệ nghiễm nhiên nào giữa thâm hụt và đầu tư. Tác động của thâm hụt cơ cấu: Hầu hết các nhà kinh tế học vĩ mô đ ều đồng ý rằng: Thoái lui thực sự chỉ là một hiệu ứng phụ của chi tiêu Chính ph ủ. Tuy nhiên, vẫn có tranh luận trong vấn đề đầu tư bị giảm đi bao nhiêu và những khu vực nào chịu tác động nhiều nhất. Thoái lui hoàn toàn là trường hợp cực đoan nhất của thoái lui khi mà phản ứng tiền tệ là quá mạnh. Giả sử rằng, khi mà NHTW xác định bất kỳ sự tăng lên nào trong sản lượng cũng đ ều có nguy cơ gây ra lạm phát. Bởi vậy, NHTW sẽ tăng lãi suất lên đủ để bù lại mọi tác động mở rộng của các chương trình Chính phủ. Tuy nhiên, do có phản ứng tiền tệ, nên lãi suất tăng lên, làm giảm đầu tư và xuất khẩu ròng. Vậy, trong trường hợp cực đoan thoái lui 100%, phản ứng này mạnh đến nỗi đường chi tiêu (tổng cầu) mới dịch chuyển xuống quay trở lại vị trí của đường tổng cầu ban đầu. Nói cách khác là thắt chặt tiền tệ đã làm triệt tiêu toàn bộ sự mở rộng tài khóa. 18
- Chi tiêu Chính phủ làm tăng tổng cầu, nhưng lãi suất cao hơn dẫn đến sự giảm sút của đầu tư và xuất khẩu ròng (do việc tăng tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ). Cuối cùng lãi suất phải tăng đủ mạnh để giảm đầu tư và xuất khẩu ròng đúng bằng lượng G đã tăng lên. Tóm lại, trong trường hợp cực đoan của phản ứng tiền tệ mạnh, đầu tư bị thoái lui 100% do sự tăng lên trong chi tiêu của Chính phủ. Thoái lui có thể xảy ra khi NHTW có hành động nhằm triệt tiêu tác động mở rộng tài khóa thông qua thắt chặt tiền tệ. Từ đồ thị trên ta có thể thấy: Trước tiên, tăng chi tiêu bằng tiền cho hàng hóa và dịch vụ làm dịch chuyển đường tổng cầu (C+I+G+NX) lên đến đường tổng cầu mới (C+I+G’+NX). Tiếp theo, phản ứng của tiền tệ làm tăng lãi suất và làm giảm những bộ phận nhạy cảm với lãi suất, dẫn đến tổng cầu giảm xuống đường (C+I”+G’+NX”) và điểm cân bằng mới là điểm E”, đúng với điểm cân bằng lúc ban đầu tại điểm E. Trong trường hợp này đầu tư và xuất khẩu ròng bị chi tiêu của Chính phủ làm thoái lui hoàn toàn. Mục đích của việc nghiên cứu cơ chế này là giúp ta có giải pháp để phối hợp giữa các chính sách kinh tế trong việc ổn định hóa nền kinh tế. Một trường hợp cực đoan liên quan đến nghịch lý của tiết kiệm, xảy ra khi đầu tư trên thực tế được khuyến khích bằng những thâm hụt lớn. Lập luận này có cơ sở như sau: Lãi suất cao không khuyến khích đầu tư. Mặt khác sản l ượng cao hơn kích thích đầu tư do các doanh nghiệp mua nhiều vốn hơn và nhà xưởng hiện tại được tận dụng nhiều hơn. Từ đó đầu tư có thể được chính sách tài khóa kích thích khi năng lực sản xuất còn chưa được sử dụng hết. Nghịch lý này có thể xuất hiện khi nguồn lực chưa được sử dụng hết và sản lượng được quyết định bởi tổng cầu chứ không phải bởi phía cung. 2.4.5. Lãi suất Khi không chịu các ràng buộc hành chính thì lãi suất sẽ được quyết định bởi cung cầu trên thị trường vốn vay, tức là nơi gặp gỡ giữa tiết kiệm của các hộ gia đình và đầu tư của các doanh nghiệp. Tổng của tiết kiệm chính phủ và tiết kiệm tư nhân, hay còn gọi là tiết kiệm quốc gia, sẽ phản ánh cung còn đ ầu tư đ ại diện cho phía cầu của thị trường vốn vay. Thâm hụt tài khóa sẽ làm giảm tiết kiệm chính phủ, giảm tiết kiệm quốc gia, do vậy làm giảm cung và làm tăng lãi suất vốn vay trên thị trường. Sự gia tăng của lãi suất cuối cùng sẽ làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân. Đây chính là hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân của chi tiêu công. Hay nói cách khác, khi chi tiêu công thái quá sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách. Chính 19
- phủ buộc phải vay nợ thông qua phát hành trái phiếu và làm giảm lượng vốn vay trên thị trường mà đáng lẽ ra khu vực tư nhân có thể tiếp cận được với giá thấp. Trong những năm gần đây, cơ cấu nợ của Việt Nam có chiều hướng thay đổi chuyển từ vay nợ nước ngoài sang vay nợ trong nước. Nợ nước ngoài hiện nay chiếm khoảng 58% và đang có xu hướng giảm, còn nợ trong nước là 42% và đang có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, đây chưa hẳn là một xu hướng tốt phản ánh sự giảm lệ thuộc vào nước ngoài. Điều này thực chất phản ánh các khoản vay ưu đãi của nước ngoài đối với Việt Nam đang ngày càng giảm. Lãi suất thương mại của nợ nước ngoài cao cộng với rủi ro tỉ giá buộc chúng ta phải chuyển dần sang vay nợ trong nước. Việc vay nợ lớn trong nước tuy nhiên lại chèn ép mạnh đầu tư của khu vực tư nhân và làm giảm tăng trưởng kinh tế một khi đồng vốn vay không được khu vực công sử dụng hiệu quả. Trái phiếu chính phủ phát hành qua các năm (ngàn tỉ đồng) Trung bình trong hai năm 2010 và 2011 Chính phủ Việt Nam đã vay nợ hơn 110 ngàn tỉ đồng mỗi năm thông qua phát hành trái phiếu trong nước. Con số này xấp xỉ gấp đôi so với 56 ngàn tỉ đồng mỗi năm của giai đoạn 2007-2009. Lãi suất vốn vay trên thị trường tiền tệ trong thời kì 2010-2011 cũng cao hơn gấp đôi so với lãi suất của giai đoạn 2007-2009. Đây chính là ví dụ điển hình của hiện tượng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân. Nghiêm trọng hơn, khả năng huy động vốn trong nước thông qua phát hành trái phiếu của Chính phủ nhiều khi không phải được hình thành một cách tự nhiên theo quy luật cung cầu của thị trường. Trong những năm 2010-2011, với mức trần lãi suất trái phiếu chính phủ dao động trong khoảng từ 10-12%/năm, trong khi lãi suất cho vay trên thị trường lên tới hơn 20%/năm, thông thường sẽ không có một ngân hàng thương mại nào sẵn lòng mua trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, đây lại là hai năm thành công nhất đối với việc phát hành trái phiếu chính phủ. Bản chất ẩn sau hiện tượng này đó là việc các ngân hàng thương mại có thể bán/cầm cố trái phiếu chính phủ tại NHNN tại mức lãi suất chiết khấu thấp, sau đó cho các ngân hàng thiếu hụt thanh khoản vay với lãi suất cao nhằm hưởng lợi lớn. Hành động này đã khiến cho có thời kì vốn chỉ chạy loanh quanh từ thị trường trái phiếu chính phủ sang thị trường liên ngân hàng, và ngược l ại mà không đến được khu vực tư nhân. 2.4.6. Cán cân thương mại và tỉ giá Thâm hụt cán cân thương mại: Bù đắp bội chi NSNN bằng cách tăng vay nợ góp phần làm tăng lãi suất. Lãi suất thị trường của nước này tăng lên cao so với các đồng tiền các nước khác trên thế giới thì người nước ngoài sẽ tìm kiếm đồng 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Kinh tế vĩ mô: Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thực trạng và giải pháp
23 p | 2997 | 482
-
Tiểu luận môn Tài chính học: Thâm hụt ngân sách nhà nước - Thực trạng và giải pháp
23 p | 1358 | 339
-
Tiểu luận: Thâm hụt ngân sách Việt Nam: Thực trạng, Nguyên nhân và Giải pháp
35 p | 1469 | 260
-
Tiểu luận: Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp
45 p | 635 | 86
-
Tiểu luận: Trình bày các biện pháp mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Lấy số liệu thực tế làm ví dụ minh họa trong 5 năm trở lại đây
18 p | 326 | 72
-
Tiểu luận Thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của Việt Nam thời kỳ 2008-2012
21 p | 296 | 45
-
Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và tăng trưởng kinh tế
17 p | 220 | 43
-
Tiểu luận: Bội chi ngân sách nhà nước
21 p | 248 | 36
-
Học tập lạm phát và xử lý lạm phát của các nước trên thế giới để áp dụng vào Việt Nam - 2
20 p | 91 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Mối quan hệ giữa nợ công và thâm hụt ngân sách tại Việt Nam
86 p | 68 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động thâm hụt ngân sách nhà nước tại Việt Nam (2002-2012)
51 p | 76 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế Việt Nam
87 p | 47 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách tại Việt Nam
78 p | 54 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
94 p | 34 | 8
-
Tiểu luận: Thực trạng lạm phát Việt Nam
10 p | 96 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của cung tiền và thâm hụt ngân sách đến lạm phát ở các nước Châu Á - Thái Bình Dương
98 p | 45 | 5
-
Luận văn thạc sĩ Kinh tế: Thâm hụt tài khóa và lạm phát - Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam thông qua phương pháp kiểm định biên
95 p | 36 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn