intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của Việt Nam thời kỳ 2008-2012

Chia sẻ: Bùi Cần | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

297
lượt xem
45
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của Việt Nam thời kỳ 2008-2012 được nghiên cứu với các nội dung: Tổng quan về ngân sách nhà nước, thực trạng thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ thời kỳ 2008 2012, những tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước đối với nền kinh tế, một số giải pháp kiến nghị, kết luận.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của Việt Nam thời kỳ 2008-2012

  1. LỜI MỞ ĐẦU  Khi Việt Nam chính thức trở  thành thành viên của Tổ  chức thương mại thế giới   (WTO) năm 2007, đây là cột mốc quan trọng trong sự  nghiệp công nghiệp hoá hiện đại  hoá đất nước. Việt Nam ngày càng tham gia nhiều hơn vào các thỏa thuận thương mại tự  do song phương, khu vực và thế  giới. Xu thế toàn cầu hóa khiến cho sự  ảnh hưởng lẫn   nhau của các nước lớn hơn, nhất là sự ảnh hưởng từ những nước mạnh.  Trong giai đoạn 2008­2012, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm do  ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như  xuất phát từ  nội tại của  nền kinh tế: tăng trưởng cao nhưng chưa  ổn định, lạm phát tăng cao (năm 2008) và đặc   biệt hơn nữa đó là tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước được  xem là một trong những công cụ  sắc bén để  nhà nước can thiệp toàn diện vào nến kinh   tế. Thông qua ngân sách Nhà nước sẽ tham gia vào viện điều chỉnh những vấn đề lớn của   nền kinh tế như: Tích lũy và tiêu dùng, xuất và nhập khẩu…Thâm hụt ngân sách sẽ  gây   sức ép làm tăng lãi suất thị trường, do đó cản trở nhu cầu đầu tư  của các nhà kinh doanh   làm giảm sự tăng trưởng kinh tế, lãi suất tăng làm giá trị  đồng nội tệ  tăng, dẫn đến tình  trạng siêu nhập. Ngoài ra thâm hụt ngân sách còn ảnh hưởng tới tình trạng lạm phát, sự  ổn định xã hội...Vì vậy ngân sách và vấn đề thâm hụt ngân sách là mối quan tâm sâu sắc   của mỗi quốc gia Hiện nay, thâm hụt ngân sách nhà nước là vấn đề  nan giải mà có thể nói chưa có  một giải pháp nào hữu hiệu nhất để chống lại nó bởi vì hầu hết những giải pháp đưa ra  đều để  lại những hệ  lụy về  sau. Để  hiểu rõ vấn đề  thâm hụt ngân sách Việt Nam giai  đoạn 2008­2012 đến nay như  thế  nào, trong bài tiểu luận "Thâm hụt ngân sách và nợ   chính phủ của Việt Nam thời kỳ 2008­2012”.
  2. Phần 1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1. 1. Ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước: là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước; các quan hệ kinh   tế tài chính giữa nhà nước với nền kinh tế trong quá trình phân phối, sử dụng các nguồn  lực tài chính và quản lý nhà nước. Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất, để đảm bảo nhà nước thực   hiện chức năng nhiệm vụ  của mình. Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong  toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại đất nước. Là công cụ  điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, được biểu hiện trên 3 khía cạnh: ­  Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế), chống   độc quyền. ­ Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội) ­ Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát  1.2. Thâm hụt ngân sách nhà nước Thâm hụt Ngân sách nhà nước hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình  trạng tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn  trả  của Ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể   ảnh hưởng tích cực   hoặc tiêu cực đến nền kinh tế  tùy theo tỷ  lệ  thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nếu t ình  trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ  gây Thâm hụt  NSNN gồm: Thâm hụt cơ cấu:  là các khoản thâm hụt được quyết định bởi các chính sách tùy  bi ế n c ủ a chính ph ủ  nh ư  quy ế t đ ị nh thu ế suất, trợ cấp bảo hiểm hay quy mô chi tiêu  cho gia đình, quốc phòng…  Thâm hụt chu kì: là khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kì kinh tế, nghĩa  là mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ: khi nền kinh tế suy  thoái, tỷ lệ thât nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân từ  thuế  giảm xuống trong khi chi ngân   sách cho trợ cấp tăng lên. Thâm hụt NSNN gồm: 1.3. Nợ chính phủ  Nợ  chính phủ  là một phần thuộc Nợ  công hoặc Nợ  quốc gia, là tổng giá trị  các  khoản tiền mà chính phủ  thuộc mọi cấp từ  trung  ương đến địa phương đi vay. Việc đi   vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ  là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ  chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng   sản phẩm quốc nội (GDP). Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:   ­ Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ  nước ngoài   (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).  ­ Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và   nợ dài hạn (trên 10 năm). Tác động của nợ chính phủ Về tính trung lập của nợ chính phủ Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có tác động đến nền kinh tế:
  3. ­ Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ  chính phủ ­kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu dùng làm  tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít  hơn (do đầu tư giảm) và thu nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn. ­ Quan điểm Barro­Ricardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế  được bù đắp  bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không làm tăng thu   nhập thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ  làm dịch chuyển thuế  từ  hiện tại sang   tương lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu   bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có   tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết   kiệm hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên  giá. Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ  hành vi của người  tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng. Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một   khoản nợ  chính phủ  lớn (tỷ  lệ  của nó so với GDP cao) làm cho sự  tăng trưởng của sản   lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau: ­ Nếu một quốc gia có nợ  nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường  xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút. ­ Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở  hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ  (trái phiếu chính phủ).  Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính  phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư. ­ Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ  nền kinh tế là một   tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước   lớn thì chính phủ  buộc phải tăng thuế  để  trả  lãi nợ  vay. Thuế  làm méo mó nền kinh tế,   gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. ­ Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ  để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out (đầu  tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên). ­ Chính phủ  muốn tăng chi tiêu công cộng để  kích cầu thì phát hành trái phiếu  chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện   qua việc chính phủ  phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi  suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu  cực đến động cơ  đầu tư  của khu vực tư  nhân, khiến họ  giảm đầu tư. Nó còn tác động   tích cực đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm   cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ  nước ngoài đổ  vào trong nước khiến cho tỷ  giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu ròng.   Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn vì có   những tác động phụ làm giảm tổng cầu. ­ Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ  là một hình thức nắm giữ tài sản thì  khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài  
  4. sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác động  tích cực từ  việc tăng chi tiêu chính phủ  (nhờ  phát hành công trái) và tăng tiêu dùng nói  trên. 
  5. Phần 2 THỤC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH VÀ NỢ CHÍNH PHỦ THỜI KỲ 2008­2012 2.1 Tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2008­2012 2. 1.1 Tình hình thế giới  Giai đoạn 2008­2012 thực sự là thời kỳ khó khăn của nền kinh tế thế giới với cuộc  đại suy thoái giai đoạn 2008­2009 và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu kéo dài đã 4 năm   vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại:  ­ Tình trạng sản xuất trì trệ  lan rộng trên tất cả  các nền kinh tế  các nước, kể  cả  các nền kinh tế lớn của thế giới như Mỹ; Trung Quốc; nhiều doanh nghiệp phá sản, tỷ lệ  người mất việc làm tăng cao... dẫn đến tăng trưởng kinh tế  toàn cầu suy giảm nghiêm  trọng, thậm chí có nhiều nền kinh tế đã sa vào suy thoái kép, nhiều Quốc gia không có đủ  sức lực để giải quyết bài toán tăng trưởng kinh tế và việc làm.  ­ Khủng hoảng tài chính toàn cầu đặc biệt tại khu vực được coi là thành trì vững   chắc về  kinh tế  của thế  giới là Châu Âu đầu năm 2012 rơi vào vòng xoáy của cuộc   khủng hoảng nợ  công với rất nhiều hệ lụy, rủi ro ngày càng lớn: nguy cơ  tan vỡ  chính  liên minh khu vực đồng Euro mạnh nhất thế  giới, sự  mong manh của các tập đoàn tài   chính mạnh, các chính sách kinh tế, các giải pháp tình thế  trong cuộc khủng hoảng, các  biện pháp thắt lưng buộc bụng càng làm nền kinh tế trì trệ, không thể tăng trưởng và tỷ  lệ thất nghiệp ngày càng cao. 2.1.2 Tình hình kinh tế ViệtNam Nền kinh tế Việt nam đã được hội nhập sâu rộng với Thế  giới, chịu các tác động   kể  cả  thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế thế giới, điều đó được thể  hiện rất rõ qua   các năm:  ­ Giá cả vật tư nguyên liệu không ổn định, lạm phát các năm luôn ở mức 2 con số;   lãi suất cho vay của Ngân hàng có thời điểm tới 25%; đồng tiền Việt nam liên tục mất  giá so với các đồng tiền mạnh của Thế  giới: năm 2008 khoảng 16.000VNĐ/1USD tăng  dần lên 19.000VNĐ năm 2009; có thời điểm tới 23.000VNĐ/1USD năm 2010 và đang  đứng ở mức gần 21.000VNĐ/1USD năm 2012. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tăng 5,03%   so với năm 2011. Con số này thấp hơn so với mức dự báo được đưa ra trước đó là 5,2 –   5,5% và càng thấp hơn mục tiêu đặt ra cho năm 2012 là 6,4%. Nếu xét trong bối cảnh   kinh tế hiện tại, với mục tiêu trọng tâm là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế  vĩ mô thì   việc tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt hơn 5% Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2001­2012
  6. 2.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam thời kỳ 2008­2012 Thâm hụt ngân sách là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước (ngân sách  chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường  hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách.  Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào thời điểm cuối năm 2012, tổng thu   cân đối ngân sách Nhà nước  ước đạt 741,5 nghìn tỷ  đồng, tăng 0,14% so với dự toán và  tăng 5,3% so với năm 2011. Trong khi đó, tổng chi ngân sách Nhà nước là 904,1 ngàn tỷ  đồng, tăng 0,11% so với dự  toán và tăng 14,6% so với năm 2011. Như  vậy bội chi ngân   sách nhà nước bằng 4,8% GDP. Cụ thể: 2.2.1. Thu ngân sách nhà nước Theo Quyết toán NSNN của MoF, trung bình giai đoạn 2007­2011, tổng thu ngân  sách nhà nước của Việt Nam khá ổn định và vào khoảng 29,0% GDP. Theo số liệu thống  kê từ đầu năm đến 15/8/2012 tổng thu NSNN ước tính đạt 418.500 tỷ đồng, bằng 56,5%  dự toán năm Hình 1: Các nguồn thu trong NSNN của Việt Nam (% GDP) Nguồn: Quyết toán và Dự toán NSNN 2003­2012 Theo Ủy ban Tài chính ngân sách (TCNS), thu ngân sách tính đến hết tháng 9.2012   vẫn chủ yếu phụ thuộc vào tài nguyên (dầu khí), còn thu nội địa và thu cân đối xuất nhập   khẩu giảm mạnh (tổng số giảm 25.500 tỉ đồng). Thu nội địa:
  7. Năm 2011 thu nội địa ước 390.000 tỷ đồng, đạt 102% dự  toán năm, tăng 16,6% so  cùng kỳ 2010 (trong đó: tính đến hết tháng 11/2011, thu từ kinh tế quốc doanh đạt 89,1%  dự toán, tăng 12,1% so cùng kỳ. Khoản thu đáng lưu ý trong giai đoạn 2008­2012 là thu từ  thuế phí, tác động lớn đến NSNN cũng như đến toàn xã hội. Tổng thu thuế và phí của nước ta chủ yếu đến từ 3 nguồn chính là thuế giá trị  gia  tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt đối với hàng  nhập khẩu. Trong đó, tỷ  trọng thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng giảm dần   từ 36% trong giai đoạn 2006 ­ 2008 xuống còn 28% trong giai đoạn 2009 ­ 2011. Trong khi   đó, tỷ trọng thu từ thuế giá trị  gia tăng và thuế  xuất nhập khẩu đang tăng nhanh. Sự  gia   tăng tỷ  trọng các khoản thu từ  thuế  XNK và thuế  tiêu thụ  đặc biệt đối với hàng nhập  khẩu đang từ  10% trong năm 2006 lên 18,4% trong năm 2009 và 14,5% trong năm 2010.  Kết quả  này cho thấy sự  phụ  thuộc lớn vào nguồn thuế  này khi lộ  trình cắt giảm thuế  được thực hiện theo cam kết với WTO sẽ khiến cho mức độ thâm hụt ngân sách của Việt  Nam có thể trở nên trầm trọng hơn trong những năm tới. Tỷ trọng các loại thuế trong tổng thu thuế và phí Mức thu từ  thuế  và phí, không kể  thu từ  dầu thô của Việt Nam là rất cao so với  các nước khác trong khu vực. Cụ  thể, tính đến năm 2010 tỷ  lệ  thu từ  thuế  và phí/GDP   của Việt Nam là 21,6% , Trung Quốc là 17,3%, Thái Lan và Ma­lay­xi­a xấp xỉ  15,5%,   Phi­líp­pin là 13,0%, In­đô­nê­xia là 12.1%, và của Ấn Độ chỉ  là 7,8%.(Nguồn: ADB Key   Economic Indicator for Asia and the Pacific (2011))
  8. Ngoại trừ năm 2009 khi Chính phủ thực hiện hàng loạt các biện pháp cắt và miễn  giảm thuế nhằm kích thích tổng cầu thì thu thuế và phí, không kể dầu thô, của Việt Nam   chưa có dấu hiệu giảm. Những  ước tính sơ  bộ  của năm 2010 và 2011 từ  Quyết toán   NSNN cho thấy  tỷ lệ này tiếp tục duy trì  ở  mức cao và thậm chí còn gia tăng, lần lượt  khoảng 22,6% và 24,4% GDP. Như  vậy, ngoài việc chịu “thuế  lạm phát” hàng năm  ở  mức hai con số, những chính sách bảo hộ và thuế chồng lên thuế đang khiến mỗi người   dân Việt Nam gánh chịu tỷ  lệ  thuế  phí/GDP cao gấp từ  1,4 đến 3 lần so với các nước   khác trong khu vực. Thu ngân sách thiếu bền vững  Các khoản thu không bền vững gồm thu từ viện trợ, thu từ bán nhà thuộc sở  hữu  nhà nước và giao đất, thu từ dầu thô Trong đó, thu từ  bán nhà thuộc sở  hữu nhà n ước và chuyển quyền sử  dụng đất  đang có xu hướng ngày càng giảm dần về quy mô tuyệt đối cũng như tỷ trọng trong tổng   thu và viện trợ, từ  9,3% năm 2007 xuống khoảng 6,6% trong năm 2011, khi các tài sản  loại này thuộc sỡ  hữu nhà nước đang dần cạn.  Thu từ  việc khai thác dầu thô và các tài  nguyên khác cũng có bản chất giống các khoản thu từ việc bán tài sản quốc gia và không  bền vững do nguồn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn. Cụ  thể, thu từ  dầu thô đã có tỷ  trọng liên tục giảm trong những năm qua trong tổng thu NSNN. Khoản thu này từ  chiếm   tới 28,8% trong tổng thu ngân sách năm 2006 đã giảm xuống chỉ  còn 11,6% trong năm  2011. Năm 2012 thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, dầu thô chỉ đạt dưới 70% dự toán.
  9.  Ngoài ra, thu từ viện trợ không hoàn lại cũng nên được loại trừ khi tính toán thâm  hụt ngân sách hàng năm do bản chất ngắn hạn không ổn định của chúng. 2.2.2. Chi ngân sách nhà nước Chi đầu tư phát triển: Tính sơ  bộ  trong khoảng 5 năm (2008­2012) tổng vốn đầu tư  phát triển mà ngân   sách nhà nước đã cấp ra  ước khoảng 782.825 tỷ  đồng chiếm trên 20% tổng chi NSNN   đặc biệt là vào năm 2009 chiếm khoảng 27,4% tổng chi NSNN. Theo Báo cáo Kinh tế vĩ   mô 2012 thì chi đầu tư  phát triển có xu hướng giảm nhẹ về tỉ trọng trong tổng chi ngân  sách, từ 28,3% năm 2010 xuống khoảng 24,6% trong năm 2011 nhờ việc nỗ lực cắt giảm   chi tiêu công nhằm bình ổn nền kinh tế. Báo cáo Kinh tế  vĩ mô 2012 cho biết, trong khi nhiều khoản thu ngân sách thiếu  tính bền vững, thì chi tiêu ngân sách của Việt Nam lại luôn  ở  mức cao và kéo dài nhiều   năm, quy mô chi tiêu ngân sách của Việt Nam chiếm tới hơn 30% GDP trong những năm   gần đây. Đáng chú ý là trong tổng chi tiêu ngân sách thì chi thường xuyên chiếm tỷ trọng   rất lớn, chi đầu tư  phát triển lại chiếm tỉ trọng nhỏ hơn rất nhiều và đang có xu hướng  giảm. Báo cáo nhấn mạnh chi thường xuyên đang tăng, từ mức 63,2% trong tổng chi ngân   sách năm 2003 lên 71,8% trong năm 2010 và 75,4% trong năm 2011. Điều này phần nào   cho thấy sự cồng kềnh và chi tiêu tốn kém của bộ máy công quyền.
  10. Nguồn: Quyết toán và dự toán NSNN các năm của Bộ Tài chính   Chi đầu phát triển càng ngày được chú trọng, tuy nhiên cũng còn hạn chế  trong việc giám sát chặt chẽ việc chi các khoản tiền.  Năm 2011, nguồn vốn đầu tư  của  NSNN, cùng với vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đưa vốn đầu tư phát   triển toàn xã hội năm 2011 đạt khoảng 34,5%GDP, góp phần tăng thêm năng lực mới cho  nền kinh tế. 9 tháng đầu năm 2012  ước tính tăng 5% so với cùng kỳ. Thực tế  việc thực   hiện chi ngân sách vẫn có thất thoát, làm lãng phí nguồn ngân sách và chưa đạt được hiệu  quả mong muốn. Chi thường xuyên Tỷ trọng chi thường xuyên đã tăng hơn 10 điểm % trong giai đoạn 2005­ 2012. Sự  gia tăng tỷ  trọng chi thường xuyên cũng có nghĩa là khó giảm thâm hụt ngân sách giai   đoạn tới hơn vì chi thường xuyên khó cắt giảm hơn chi cho đầu tư phát triển. Chi tiêu cho quản lý hành chính liên tục tăng với tốc độ  tăng giai đoạn 2008­2012   là 31,7 % mỗi năm trong khi con số này giai đoạn 2001­2005 chỉ là 17 %. Ví dụ  riêng số  chi quản lý hành chính cho các cơ  quan trung  ương đã tăng hơn 11 lần từ  3.000 tỉ đồng   năm 2004 lên 34.000 tỉ năm 2013 (dự toán). Điều này cho thấy Việt Nam không đạt được   kết quả tốt trong việc cải cách bộ máy hành chính để giảm chi tiêu công. Năm 2012, 9 tháng đầu năm  ước tính chi thường xuyên tăng 20,5%. Trong tổng   mức  chi  NSNN  9 tháng 605.000  tỉ   đồng,  chi  thường  xuyên  chiếm  tới  hơn 70%  (hơn  477.000 tỉ đồng), riêng chi quản lý hành chính gần 58.000 tỉ đồng. Chi thường xuyên đang  là nỗi lo lớn, việc tiêu xài hoang phí, “vung tay quá trán”, lạm chi đang khá phổ biến đặc  biệt chi cho lễ hội, khánh tiết, hội họp, đi công tác nước ngoài….. Chi trả nợ và viện trợ Trong quá trình phát triển, nước ta vẫn luôn cố  gắng đảm bảo các khoản thanh  toán nợ đầy đủ và đúng kì hạn cùng với việc viện trợ khi cần cần thiết. Số tiền này tăng   từ 58.390 tỷ đồng năm 2008 đến 101.000 tỷ đồng năm 2011 nhằm đảm bảo tăng chi trả  nợ  ngoài nước do biến động chênh lệch tỷ  giá ngoại tệ  và tăng trả  nợ  gốc đối với các  khoản vay ngắn hạn để giảm áp lực bố trí trả nợ các năm sau. Việt Nam đang ngày càng   chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước(DNNN). Hầu hết các DNNN hoạt động   vẫn chưa có hiệu quả, thay vì tập trung vào các hoạt động kinh doanh cốt lõi thì các tập   đoàn này lại phát triển thành mạng lưới chằng chịt với hàng trăm các tổng công ty, công  ty con và công ty liên doanh. Điển hình như  tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam 
  11. (Vinashin). Chi phát triển sự nghiệp kinh tế­ xã hội Từ năm 2008 đến năm 2010 Chính phủ đã giải ngân được khoảng 31.690 tỷ đồng  từ vốn trái phiếu Chính phủ, đạt 79,21%. Các dự án y tế kế hoạch vốn Chính phủ giao là  5.600 tỷ  đồng, số  vốn giải ngân là 4.315,9 tỷ  đồng đạt 77,07%; Các dự  án giáo dục kế  hoạch vốn Chính phủ  giao là 6.180 tỷ   đồng,  số  vốn giải ngân là 4.600 tỷ   đồng đạt  74,43%; dự án giao thông đạt 73%; dự án thủy lợi gần 65%, nâng cấp bệnh viện đạt gần   73%; kiên cố trường lớp, nhà công vụ cho giáo viên gần 86%. Ngoài ra, Bộ Tài chính còn  triển khai tổ  chức thực hiện  ứng chi 6.467,5 tỷ để  bổ  sung vốn đẩy nhanh tiến độ  thực   hiện một số dự  án quan trọng, cấp bách, có khả  năng hoàn thành trong năm 2010. Trong  đó, đã trích dự  phòng ngân sách trung ương 730 tỷ  đồng và xuất cấp 14.000 tấn gạo từ  nguồn dự trữ quốc gia để hỗ trợ các tỉnh miền Trung khắc phục hậu quả b ão lũ; cứu đói,  hỗ trợ dân sinh; khôi phục cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các vùng bị thiên tai... Chi chương trình mục tiêu quốc gia Nhà nước ta đang chú trọng phát triển các chương trình mục tiêu quốc gia vì mục  tiêu phát triển nền kinh tế bền vững. Tất cả các mục chi tiêu của chương trình đều tăng  hơn 25% so với năm 2008. Trong đó, các khoản chi cho chương trình an toàn thực phẩm   và chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nằm trong ch ương trình mục  tiêu quốc gia tăng nhanh và mạnh. Với chương trình an toàn thực phẩm, năm 2009 tăng  khoảng 57.5% và năm 2010 tăng gần 164 % so với năm 2008. Còn với chương trình sử  dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, năm 2009 – 2010, tăng 2,2 – 3,3 lần so với năm   2008. Chi cải cách tiền lương Từ  năm 2008 đến năm 2011 qua 4 lần điều chỉnh, mức lương tối thiểu chung đã  được tăng từ 450.000 đồng lên 830.000 đồng/tháng. Mặc dù mức lương tối thiểu đã được  điều chỉnh lên tới 830.000 đồng/tháng và luôn duy trì tốc độ  tăng bình quân từ  16–20%   hàng năm trong nhiều năm, song mức lương tối thiểu áp dụng với cán bộ công chức vẫn   giữ   ở  mức bằng mức lương tối thiểu chung và luôn nằm  ở  vùng thấp nhất nếu so sánh  với mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực doanh nghiệp. Cụ  thể, lương công  chức mới chỉ bằng 59,3% mức lương tối thiểu vùng thấp nhất và bằng 41,5% mức lương  tối thiểu vùng cao nhất của doanh nghiệp quy định tại Nghị định số 70/2011/NĐ­CP ngày  22/8/2011 của Chính phủ. Trong năm 2012, với đề  án tăng lương tối thiểu lên mức 1,05   triệu đồng, ngân sách nhà nước dự kiến sẽ cần thêm khoảng 11.000 tỷ đồng. Tùy theo cơ  chế thị trường mà có sự điều chỉnh tiền lương cho hợp lý. Ngoài các khoản chi trên, nhà nước ta còn sử dụng một phần nguồn ngân sách cho  các khoản chi khác như: chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc  các lĩnh vực cần thiết có sự  tham gia của nhà nước, chi cho các quỹ  hỗ  trợ  đầu tư  quốc   gia, quỹ  hỗ  trợ  phát triển, chi sự  nghiệp như  sự  nghiệp giáo dục, văn hóa, thể  thao,  nghiên cứu khoa học công nghệ…Những khoản chi ngày càng phát sinh lớn nên việc cân   đối thu­chi là điều vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế­xã hội. 2.2.3. Thực trạng bội chi NSNN (thâm hụt NSNN) Trong giai đoạn 2008­2012 bội chi NSNN có chuyển biến khá phức tạp, chính vì  thu­chi bất cân đối đã dẫn đến nhiều ảnh hưởng xấu. Đặc biệt trong năm 2009, nền kinh  
  12. tế toàn cầu gặp khủng hoảng, lạm phát tại Việt Nam khoảng 6,88% tác động rất lớn tới   việc sử dụng NSNN. Theo tính toán IMF thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm 2009 lên   đến 9%, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho là 9,8%, khác với con số 6,9% mà Việt   Nam đưa ra. Theo Tổng cục Thống kê công bố ngày 27/10/2012 con số bội chi ngân sách  đã lên tới hơn 155.000 tỉ  đồng, vượt dự  toán cả  năm Quốc hội phê duyệt là 140.200 tỉ  đồng (vượt hơn 10,7% kế  hoạch bội chi cả năm 2012). Với thực trạng này có thể  thấy  thâm hụt ngân sách đang  ở mức báo động và nhà nước ta cần phải có sự  điều chỉnh kịp   thời, hạn chế mức thâm hụt. Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP trong các năm 2008­2012 Tình hình bội chi ngân sách nhà nước ta trong những năm gần đây xấp xỉ  khoảng  5%  ở  trong mức giới hạn cho phép. Những khoản vay chủ  yếu được đầu tư  cho phát  triển, ngoài ra còn khoản tích lũy được từ  nguồn thu thuế, phí và lệ  phí. Theo Báo cáo   Kinh tế vĩ mô 2012 do UBKT công bố ngày 4/9/2012, thâm hụt ngân sách của Việt Nam   đã diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỷ qua và có mức độ  ngày càng gia tăng.   Cụ thể, thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình trong   giai đoạn 2003 ­ 2007 chỉ là 1,3% GDP, nhưng con số này đã tăng hơn gấp đôi lên 2,7%   GDP trong giai đoạn 2008 ­ 2012.  Thâm hụt ngân sách của Việt Nam qua các năm (%GDP)
  13. Đặc biệt những năm gần đây, thâm hụt ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng  nhanh của nợ  công. Tổng nợ  công của Việt Nam đã tăng từ  khoảng 40% GDP từ  cuối  năm 2007 lên tới 57% GDP vào cuối năm 2010 và chỉ giảm đôi chút vào năm 2011. Cùng  thời gian đó, nợ nước ngoài của Việt Nam cũng tăng từ 32% lên tới gần 42% GDP. Nợ công của Việt Nam qua các năm (%GDP)           Tuy nhiên, những con số này có thể chưa phản ánh đúng bản chất của thâm hụt tài   khóa ở Việt Nam hiện nay. Các tổ chức quốc tế đưa ra những con số thâm hụt ngân sách   khác xa với con số báo cáo của Bộ Tài chính. Cụ thể, chỉ tính riêng năm 2009, con số thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả  nợ gốc theo báo cáo của MoF là 3,7% GDP, trong khi đó con số tương ứng của Ngân hàng  Phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cao hơn nhiều, lần lượt là 6,6%   và 9,0% GDP. Trung bình trong hai năm 2009­2010, con số thâm hụt ngân sách của Việt   Nam thuộc diện cao nhất so với các nước trong khu vực, vào khoảng 6% GDP/năm. Con  số này gấp khoảng 6 lần so với con số tương  ứng của Indonesia, g ấp 3 l ần so v ới Trung   Quốc, và gấp khoảng gần 2 lần so với Thái Lan. Thâm hụt ngân sách ở một số nước châu Á 2009 ­ 2010 (%GDP) Theo số liệu của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), chỉ tính riêng hai năm  2010 và 2011, tổng giá trị  trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ  bảo lãnh mỗi năm  
  14. được phát hành vào khoảng 110 ngàn tỉ  đồng, cao hơn rất nhiều so với con số báo cáo  trong Quyết toán ngân sách Nhà nước. 2.3. Nợ chính phủ Nợ chính phủ là một phần của nợ công, theo thống kê về thâm hụt ngân sách và nợ  công của Việt Nam hiện có nhiều nguồn khác nhau. Ngay bản thân quyết toán ngân sách  nhà nước hàng năm của Bộ  Tài chính cũng đưa ra hai con số về mức độ  thâm hụt ngân   sách đó là: thâm hụt ngân sách bao gồm cả chi trả nợ gốc; và thâm hụt ngân sách không   bao gồm chi trả nợ gốc.   Cuối năm 2010, nợ  chính phủ  sẽ  chiếm 45,5% GDP, do điều chỉnh tăng bội chi  ngân sách lên trên 5% GDP (năm 2009 là 6,9% GDP và năm 2010 là 6,2% GDP), cùng với   việc tăng phát hành trái phiếu chính phủ (trong hai năm 2009 và 2010 là 120.000 tỷ đồng).  Ủy ban Tài chính ­ Ngân sách đã đưa ra cảnh báo này khi đánh giá tình hình thu, chi ngân   sách   Nhà   nước   năm   2009   và   những   tháng   đầu   năm   2010   tại   phiên   họp   của   Ủy   ban  Thường vụ Quốc hội ngày 7/5. Những con số được dẫn trong báo cáo cho thấy nợ Chính   phủ  đang tăng cao: từ  33,7% GDP năm 2007 và năm 2010 chiếm 45,5%GDP. Cuối năm   2011 nợ chính phủ sẽ chiếm 43,1% GDP. Nợ   Chính   phủ   trong   giai   đoạn   2010   –   2012   là   khoảng   690.910   tỷ   đồng   (VnEconomy, 3­6). Cụ thể: Nguồn huy động nợ là từ phát hành trái hành trái phiếu Chính  phủ trong nước 288.739 tỷ đồng; Vay nước ngoài của Chính phủ 256.918 tỷ đồng; và huy  động từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước là 165.253 tỷ đồng.
  15. Phần 3 NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI  NỀN KINH TẾ Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc nhà n ước buộc phải phát  hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, dễ gây lạm phát. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ  có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư  tư  nhân, hay gia tăng thâm hụt cán   cân tài khoản vãng lai. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối   với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng kì vọng lạm phát của  người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in  thêm tiền để tài trợ thâm hụt.  3.1 Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế Với S là tiết kiệm tư  nhân, (T – G) (thuế  ­ chi tiêu của chính phủ) là tiết kiệm  chính phủ, cũng chính là chênh lệch giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T –   G) = 0 tức NSNN cân bằng, trường hợp (T – G) > 0 NSNN có thặng dư, trường hợp (T –   G) 
  16. 3.4. Thâm hụt ngân sách và vấn đề thoái lui đầu tư  Khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các dự án của mình trong ngắn hạn, theo mô hình  số nhân, nếu không có thay đổi nào trong thị tr ường tài chính thì GDP sẽ tăng lên ΔG x Số  nhân của nền kinh tế. Nhưng khiGDP tăng lên, nhu cầu về  tiền giao dịch cũng tăng lên.  Mức GDP cao hơn có chiều hướng đi đến thắt chặt tiền tệ (đặc biệt là trong trường hợp  NHTW quan tâm đến lạm phát). Lãi suất tăng và thắt chặt tín dụng sẽ  có chiều hướng  bóp nghẹt hay “thoái lui” đầu tư  và những chi tiêu có nhạy cảm với l ãi suất. Kết quả là  dẫn đến tổng cầu giảm, sản lượng và công ăn việc làm giảm xuống. Tuy nhiên, do có phản ứng tiền tệ, nên lãi suất tăng lên, làm giảm đầu tư  và xuất   khẩu ròng. Vậy, trong trường hợp cực đoan thoái lui 100%, phản  ứng này mạnh đến nỗi   đường chi tiêu (tổng cầu) mới dịch chuyển xuống quay trở lại vị trí của đường tổng cầu   ban đầu. Nói cách khác là thắt chặt tiền tệ đã làm triệt tiêu toàn bộ sự mở rộng tài khóa . Chi tiêu Chính phủ làm tăng tổng cầu, nhưng lãi suất cao hơn dẫn đến sự giảm sút  của đầu tư và xuất khẩu ròng (do việc tăng tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ). Cuối cùng   lãi suất phải tăng đủ  mạnh để  giảm đầu tư  và xuất khẩu ròng đúng bằng lượng G đã  tăng lên. 3.5. Lãi suất Thâm hụt tài khóa sẽ làm giảm tiết kiệm chính phủ, giảm tiết kiệm quốc gia, do   vậy làm giảm cung và làm tăng lãi suất vốn vay trên thị  trường. Sự gia tăng của lãi suất  cuối cùng sẽ làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân. Đây chính là hiệu ứng lấn át đầu tư  tư  nhân của chi tiêu công. Hay nói cách khác, khi chi tiêu công thái quá sẽ  dẫn đến thâm  hụt ngân sách. Chính phủ  buộc phải vay nợ  thông qua phát hành trái phiếu và làm giảm  lượng vốn vay trên thị trường mà đáng lẽ ra khu vực tư nhân có thể tiếp cận được với giá  thấp.
  17. Trong những năm gần đây, cơ  cấu nợ  của Việt Nam có chiều hướng thay đổi   chuyển từ  vay nợ  nước ngoài sang vay nợ  trong nước. Nợ  nước ngoài hiện nay chiếm  khoảng 58% và đang có xu hướng giảm, còn nợ trong nước là 42% và đang có xu hướng  tăng lên. Việc vay nợ lớn trong nước tuy nhiên lại chèn ép mạnh đầu tư  của khu vực tư  nhân và làm giảm tăng trưởng kinh tế một khi đồng vốn vay không được khu vực công sử  dụng hiệu quả. 3.6. Tăng trưởng Chính sách tài khóa có thể tác động đến tăng trưởng sản lượng của một nền kinh   tế qua hai kênh. Thứ nhất, nó có thể làm thay đổi tiết kiệm và đầu tư, và do vậy là năng   lực sản xuất trong dài hạn của một quốc gia. Thứ hai, nó có thể làm thay đổi hiệu quả sử  dụng nguồn lực, và do vậy làm thay đổi cả  sản lượng hiện tại lẫn tăng trưởng trong   tương lai. Trong thời kì suy thoái kinh tế, mở rộng tài khóa và chấp nhận thâm hụt ngân   sách  ở  một mức độ  nhất định có thể  giúp sản lượng trong nước tăng trở  lại nhờ  kích  thích tổng cầu. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế đã ở  gần mức sản l ượng tiềm năng và trước  đó nền kinh tế  liên tục thâm hụt tài khóa thì hiệu quả của chính sách là rất hạn chế, có   thể dẫn đến lạm phát cao, lãi suất cao, thâm hụt vãng lai và bất ổn tài chính. Bài học kích  thích tổng cầu Việt Nam trong năm 2009 và hậu quả của nó trong năm 2010­2011 là ví dụ  điển hình.  Chính phủ  thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất nhằm khôi phục lại niềm tin vào đồng   nội tệ. Vòng luẩn quẩn giữa thâm hụt tài khóa ­ thâm hụt th ương mại ­ thâm hụt tài khóa  có thể  tiếp tục diễn ra khi các chính sách kiểm soát giá và thương mại này làm giảm  nguồn thu thuế, đặc biệt là thu từ hàng nhập khẩu. Điều này làm cho việc kiềm chế thâm  hụt ngân sách càng khó khăn hơn và việc tăng hoặc áp thuế/phí mới là những biện pháp  cuối cùng Chính phủ  có thể  sử dụng. Gánh nặng thuế/phí cao sẽ làm giảm động cơ  sản   xuất, giảm tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân, nền kinh tế sẽ có tăng trưởng thấp   hoặc là âm.
  18. Phân 4 ̀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ 4.1 Phát hành tiền Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủ  có thể  tài trợ  số  thâm hụt của m ình  bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở,đặc biệt là trong trường hợp nền kinh tế đất  nước suy thoái.Khi sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tiềm năng th ì việc tài trợ  số thâm hụt của chính phủ bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở sẽ góp phần thực  hiện những mục đích của chính sách ổn định hoá kinh tế thông qua việc đưa nền kinh tế  tiến đến gần mức sản lượng tiềm năng mà không gây lạm phát. Ngược lại,khi nhu cầu  của nền kinh tế  quá mạnh (sản lượng thực tế  cao hơn mức sản lượng tiềm năng) thì  chính phủ  không nên tài trợ  số  thâm hụt của mình bằng cách tăng nhanh lượng tiền cơ  sở ,vì như vậy sẽ càng kích tổng cầu lên cao và đẩy sản lượng thực tế vượt xa mức sản   lượng tiềm năng,hậu quả là làm tăng lạm phát  4.2 Vay nợ ­ Vay nợ trong nước: Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới h ình thức  phát hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ  ghi nhận nợ của  nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để  vay các dân   cư, các tổ  chức kinh tế  ­ xã hội và các ngân hàng. Ở  Việt Nam, Chính phủ  thường uỷ  nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc;  trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình.  ­ Vay nợ nước ngoài: Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn  vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ  nước ngoài từ  các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB),  Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính  phủ, tổ chức quốc tế... 4.3 Tăng thuế Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không dễ áp dụng và rất tốn kém. Tăng thuế có   khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế, phụ thuộc vào hiệu   quả làm việc của hệ thống thu,phụ thuộc vào hiệu suất của từng sắc thuế. Trong thời kỳ  kinh tế suy thoái, hoạt động kinh tế mờ nhạt thì tăng thuế không những không khả thi mà  còn cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh,trực tiếp làm tăng số lượng nợ đọng thuế của   các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm  giảm nguồn thu ngân sách. 4.4 Cắt giảm chi tiêu Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi   quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để  tiết kiệm các khoản  đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư  vào những dự  án mang tính chủ  đạo, hiệu quả  nhằm   tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế ­ x ã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc  không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt  để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các c ơ quan nhà 
  19. nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần  thiết.
  20. KẾT LUẬN Thâm hụt NSNN xảy ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới.  Việc xử lí vấn đề này  hết sức nan giải, bởi nó không chỉ tác động đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự  phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Có nhiều cách để  chính phủ  bù đắp thâm hụt  NSNN, nhưng phải sử dụng cách nào thì còn phải tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh   của mỗi quốc gia, bởi mỗi cách có ưu nhược điểm làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ  mô. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần phải tính toán kĩ lưỡng để đưa ra các giải pháp phù  hợp với thực trạng hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam đang hoạt động theo cơ  chế  thị  trường và có sự quản lí vĩ mô của nhà nước.  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2