Tiểu luận Thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của Việt Nam thời kỳ 2008-2012
lượt xem 45
download
Tiểu luận Thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của Việt Nam thời kỳ 2008-2012 được nghiên cứu với các nội dung: Tổng quan về ngân sách nhà nước, thực trạng thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ thời kỳ 2008 2012, những tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước đối với nền kinh tế, một số giải pháp kiến nghị, kết luận.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận Thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của Việt Nam thời kỳ 2008-2012
- LỜI MỞ ĐẦU Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2007, đây là cột mốc quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Việt Nam ngày càng tham gia nhiều hơn vào các thỏa thuận thương mại tự do song phương, khu vực và thế giới. Xu thế toàn cầu hóa khiến cho sự ảnh hưởng lẫn nhau của các nước lớn hơn, nhất là sự ảnh hưởng từ những nước mạnh. Trong giai đoạn 20082012, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như xuất phát từ nội tại của nền kinh tế: tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định, lạm phát tăng cao (năm 2008) và đặc biệt hơn nữa đó là tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước được xem là một trong những công cụ sắc bén để nhà nước can thiệp toàn diện vào nến kinh tế. Thông qua ngân sách Nhà nước sẽ tham gia vào viện điều chỉnh những vấn đề lớn của nền kinh tế như: Tích lũy và tiêu dùng, xuất và nhập khẩu…Thâm hụt ngân sách sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất thị trường, do đó cản trở nhu cầu đầu tư của các nhà kinh doanh làm giảm sự tăng trưởng kinh tế, lãi suất tăng làm giá trị đồng nội tệ tăng, dẫn đến tình trạng siêu nhập. Ngoài ra thâm hụt ngân sách còn ảnh hưởng tới tình trạng lạm phát, sự ổn định xã hội...Vì vậy ngân sách và vấn đề thâm hụt ngân sách là mối quan tâm sâu sắc của mỗi quốc gia Hiện nay, thâm hụt ngân sách nhà nước là vấn đề nan giải mà có thể nói chưa có một giải pháp nào hữu hiệu nhất để chống lại nó bởi vì hầu hết những giải pháp đưa ra đều để lại những hệ lụy về sau. Để hiểu rõ vấn đề thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 20082012 đến nay như thế nào, trong bài tiểu luận "Thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ của Việt Nam thời kỳ 20082012”.
- Phần 1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1. 1. Ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước: là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước; các quan hệ kinh tế tài chính giữa nhà nước với nền kinh tế trong quá trình phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính và quản lý nhà nước. Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất, để đảm bảo nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại đất nước. Là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, được biểu hiện trên 3 khía cạnh: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế), chống độc quyền. Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội) Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát 1.2. Thâm hụt ngân sách nhà nước Thâm hụt Ngân sách nhà nước hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của Ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế tùy theo tỷ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nếu t ình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây Thâm hụt NSNN gồm: Thâm hụt cơ cấu: là các khoản thâm hụt được quyết định bởi các chính sách tùy bi ế n c ủ a chính ph ủ nh ư quy ế t đ ị nh thu ế suất, trợ cấp bảo hiểm hay quy mô chi tiêu cho gia đình, quốc phòng… Thâm hụt chu kì: là khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kì kinh tế, nghĩa là mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ: khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thât nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho trợ cấp tăng lên. Thâm hụt NSNN gồm: 1.3. Nợ chính phủ Nợ chính phủ là một phần thuộc Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay. Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nợ chính phủ thường được phân loại như sau: Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước). Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm). Tác động của nợ chính phủ Về tính trung lập của nợ chính phủ Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có tác động đến nền kinh tế:
- Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và thu nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn. Quan điểm BarroRicardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá. Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi của người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng. Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau: Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút. Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư. Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên). Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu. Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài
- sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công trái) và tăng tiêu dùng nói trên.
- Phần 2 THỤC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH VÀ NỢ CHÍNH PHỦ THỜI KỲ 20082012 2.1 Tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 20082012 2. 1.1 Tình hình thế giới Giai đoạn 20082012 thực sự là thời kỳ khó khăn của nền kinh tế thế giới với cuộc đại suy thoái giai đoạn 20082009 và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu kéo dài đã 4 năm vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại: Tình trạng sản xuất trì trệ lan rộng trên tất cả các nền kinh tế các nước, kể cả các nền kinh tế lớn của thế giới như Mỹ; Trung Quốc; nhiều doanh nghiệp phá sản, tỷ lệ người mất việc làm tăng cao... dẫn đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm nghiêm trọng, thậm chí có nhiều nền kinh tế đã sa vào suy thoái kép, nhiều Quốc gia không có đủ sức lực để giải quyết bài toán tăng trưởng kinh tế và việc làm. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đặc biệt tại khu vực được coi là thành trì vững chắc về kinh tế của thế giới là Châu Âu đầu năm 2012 rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng nợ công với rất nhiều hệ lụy, rủi ro ngày càng lớn: nguy cơ tan vỡ chính liên minh khu vực đồng Euro mạnh nhất thế giới, sự mong manh của các tập đoàn tài chính mạnh, các chính sách kinh tế, các giải pháp tình thế trong cuộc khủng hoảng, các biện pháp thắt lưng buộc bụng càng làm nền kinh tế trì trệ, không thể tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao. 2.1.2 Tình hình kinh tế ViệtNam Nền kinh tế Việt nam đã được hội nhập sâu rộng với Thế giới, chịu các tác động kể cả thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế thế giới, điều đó được thể hiện rất rõ qua các năm: Giá cả vật tư nguyên liệu không ổn định, lạm phát các năm luôn ở mức 2 con số; lãi suất cho vay của Ngân hàng có thời điểm tới 25%; đồng tiền Việt nam liên tục mất giá so với các đồng tiền mạnh của Thế giới: năm 2008 khoảng 16.000VNĐ/1USD tăng dần lên 19.000VNĐ năm 2009; có thời điểm tới 23.000VNĐ/1USD năm 2010 và đang đứng ở mức gần 21.000VNĐ/1USD năm 2012. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tăng 5,03% so với năm 2011. Con số này thấp hơn so với mức dự báo được đưa ra trước đó là 5,2 – 5,5% và càng thấp hơn mục tiêu đặt ra cho năm 2012 là 6,4%. Nếu xét trong bối cảnh kinh tế hiện tại, với mục tiêu trọng tâm là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì việc tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt hơn 5% Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 20012012
- 2.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam thời kỳ 20082012 Thâm hụt ngân sách là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào thời điểm cuối năm 2012, tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước ước đạt 741,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,14% so với dự toán và tăng 5,3% so với năm 2011. Trong khi đó, tổng chi ngân sách Nhà nước là 904,1 ngàn tỷ đồng, tăng 0,11% so với dự toán và tăng 14,6% so với năm 2011. Như vậy bội chi ngân sách nhà nước bằng 4,8% GDP. Cụ thể: 2.2.1. Thu ngân sách nhà nước Theo Quyết toán NSNN của MoF, trung bình giai đoạn 20072011, tổng thu ngân sách nhà nước của Việt Nam khá ổn định và vào khoảng 29,0% GDP. Theo số liệu thống kê từ đầu năm đến 15/8/2012 tổng thu NSNN ước tính đạt 418.500 tỷ đồng, bằng 56,5% dự toán năm Hình 1: Các nguồn thu trong NSNN của Việt Nam (% GDP) Nguồn: Quyết toán và Dự toán NSNN 20032012 Theo Ủy ban Tài chính ngân sách (TCNS), thu ngân sách tính đến hết tháng 9.2012 vẫn chủ yếu phụ thuộc vào tài nguyên (dầu khí), còn thu nội địa và thu cân đối xuất nhập khẩu giảm mạnh (tổng số giảm 25.500 tỉ đồng). Thu nội địa:
- Năm 2011 thu nội địa ước 390.000 tỷ đồng, đạt 102% dự toán năm, tăng 16,6% so cùng kỳ 2010 (trong đó: tính đến hết tháng 11/2011, thu từ kinh tế quốc doanh đạt 89,1% dự toán, tăng 12,1% so cùng kỳ. Khoản thu đáng lưu ý trong giai đoạn 20082012 là thu từ thuế phí, tác động lớn đến NSNN cũng như đến toàn xã hội. Tổng thu thuế và phí của nước ta chủ yếu đến từ 3 nguồn chính là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu. Trong đó, tỷ trọng thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng giảm dần từ 36% trong giai đoạn 2006 2008 xuống còn 28% trong giai đoạn 2009 2011. Trong khi đó, tỷ trọng thu từ thuế giá trị gia tăng và thuế xuất nhập khẩu đang tăng nhanh. Sự gia tăng tỷ trọng các khoản thu từ thuế XNK và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu đang từ 10% trong năm 2006 lên 18,4% trong năm 2009 và 14,5% trong năm 2010. Kết quả này cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nguồn thuế này khi lộ trình cắt giảm thuế được thực hiện theo cam kết với WTO sẽ khiến cho mức độ thâm hụt ngân sách của Việt Nam có thể trở nên trầm trọng hơn trong những năm tới. Tỷ trọng các loại thuế trong tổng thu thuế và phí Mức thu từ thuế và phí, không kể thu từ dầu thô của Việt Nam là rất cao so với các nước khác trong khu vực. Cụ thể, tính đến năm 2010 tỷ lệ thu từ thuế và phí/GDP của Việt Nam là 21,6% , Trung Quốc là 17,3%, Thái Lan và Malayxia xấp xỉ 15,5%, Philíppin là 13,0%, Inđônêxia là 12.1%, và của Ấn Độ chỉ là 7,8%.(Nguồn: ADB Key Economic Indicator for Asia and the Pacific (2011))
- Ngoại trừ năm 2009 khi Chính phủ thực hiện hàng loạt các biện pháp cắt và miễn giảm thuế nhằm kích thích tổng cầu thì thu thuế và phí, không kể dầu thô, của Việt Nam chưa có dấu hiệu giảm. Những ước tính sơ bộ của năm 2010 và 2011 từ Quyết toán NSNN cho thấy tỷ lệ này tiếp tục duy trì ở mức cao và thậm chí còn gia tăng, lần lượt khoảng 22,6% và 24,4% GDP. Như vậy, ngoài việc chịu “thuế lạm phát” hàng năm ở mức hai con số, những chính sách bảo hộ và thuế chồng lên thuế đang khiến mỗi người dân Việt Nam gánh chịu tỷ lệ thuế phí/GDP cao gấp từ 1,4 đến 3 lần so với các nước khác trong khu vực. Thu ngân sách thiếu bền vững Các khoản thu không bền vững gồm thu từ viện trợ, thu từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước và giao đất, thu từ dầu thô Trong đó, thu từ bán nhà thuộc sở hữu nhà n ước và chuyển quyền sử dụng đất đang có xu hướng ngày càng giảm dần về quy mô tuyệt đối cũng như tỷ trọng trong tổng thu và viện trợ, từ 9,3% năm 2007 xuống khoảng 6,6% trong năm 2011, khi các tài sản loại này thuộc sỡ hữu nhà nước đang dần cạn. Thu từ việc khai thác dầu thô và các tài nguyên khác cũng có bản chất giống các khoản thu từ việc bán tài sản quốc gia và không bền vững do nguồn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn. Cụ thể, thu từ dầu thô đã có tỷ trọng liên tục giảm trong những năm qua trong tổng thu NSNN. Khoản thu này từ chiếm tới 28,8% trong tổng thu ngân sách năm 2006 đã giảm xuống chỉ còn 11,6% trong năm 2011. Năm 2012 thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, dầu thô chỉ đạt dưới 70% dự toán.
- Ngoài ra, thu từ viện trợ không hoàn lại cũng nên được loại trừ khi tính toán thâm hụt ngân sách hàng năm do bản chất ngắn hạn không ổn định của chúng. 2.2.2. Chi ngân sách nhà nước Chi đầu tư phát triển: Tính sơ bộ trong khoảng 5 năm (20082012) tổng vốn đầu tư phát triển mà ngân sách nhà nước đã cấp ra ước khoảng 782.825 tỷ đồng chiếm trên 20% tổng chi NSNN đặc biệt là vào năm 2009 chiếm khoảng 27,4% tổng chi NSNN. Theo Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 thì chi đầu tư phát triển có xu hướng giảm nhẹ về tỉ trọng trong tổng chi ngân sách, từ 28,3% năm 2010 xuống khoảng 24,6% trong năm 2011 nhờ việc nỗ lực cắt giảm chi tiêu công nhằm bình ổn nền kinh tế. Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 cho biết, trong khi nhiều khoản thu ngân sách thiếu tính bền vững, thì chi tiêu ngân sách của Việt Nam lại luôn ở mức cao và kéo dài nhiều năm, quy mô chi tiêu ngân sách của Việt Nam chiếm tới hơn 30% GDP trong những năm gần đây. Đáng chú ý là trong tổng chi tiêu ngân sách thì chi thường xuyên chiếm tỷ trọng rất lớn, chi đầu tư phát triển lại chiếm tỉ trọng nhỏ hơn rất nhiều và đang có xu hướng giảm. Báo cáo nhấn mạnh chi thường xuyên đang tăng, từ mức 63,2% trong tổng chi ngân sách năm 2003 lên 71,8% trong năm 2010 và 75,4% trong năm 2011. Điều này phần nào cho thấy sự cồng kềnh và chi tiêu tốn kém của bộ máy công quyền.
- Nguồn: Quyết toán và dự toán NSNN các năm của Bộ Tài chính Chi đầu phát triển càng ngày được chú trọng, tuy nhiên cũng còn hạn chế trong việc giám sát chặt chẽ việc chi các khoản tiền. Năm 2011, nguồn vốn đầu tư của NSNN, cùng với vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đưa vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2011 đạt khoảng 34,5%GDP, góp phần tăng thêm năng lực mới cho nền kinh tế. 9 tháng đầu năm 2012 ước tính tăng 5% so với cùng kỳ. Thực tế việc thực hiện chi ngân sách vẫn có thất thoát, làm lãng phí nguồn ngân sách và chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Chi thường xuyên Tỷ trọng chi thường xuyên đã tăng hơn 10 điểm % trong giai đoạn 2005 2012. Sự gia tăng tỷ trọng chi thường xuyên cũng có nghĩa là khó giảm thâm hụt ngân sách giai đoạn tới hơn vì chi thường xuyên khó cắt giảm hơn chi cho đầu tư phát triển. Chi tiêu cho quản lý hành chính liên tục tăng với tốc độ tăng giai đoạn 20082012 là 31,7 % mỗi năm trong khi con số này giai đoạn 20012005 chỉ là 17 %. Ví dụ riêng số chi quản lý hành chính cho các cơ quan trung ương đã tăng hơn 11 lần từ 3.000 tỉ đồng năm 2004 lên 34.000 tỉ năm 2013 (dự toán). Điều này cho thấy Việt Nam không đạt được kết quả tốt trong việc cải cách bộ máy hành chính để giảm chi tiêu công. Năm 2012, 9 tháng đầu năm ước tính chi thường xuyên tăng 20,5%. Trong tổng mức chi NSNN 9 tháng 605.000 tỉ đồng, chi thường xuyên chiếm tới hơn 70% (hơn 477.000 tỉ đồng), riêng chi quản lý hành chính gần 58.000 tỉ đồng. Chi thường xuyên đang là nỗi lo lớn, việc tiêu xài hoang phí, “vung tay quá trán”, lạm chi đang khá phổ biến đặc biệt chi cho lễ hội, khánh tiết, hội họp, đi công tác nước ngoài….. Chi trả nợ và viện trợ Trong quá trình phát triển, nước ta vẫn luôn cố gắng đảm bảo các khoản thanh toán nợ đầy đủ và đúng kì hạn cùng với việc viện trợ khi cần cần thiết. Số tiền này tăng từ 58.390 tỷ đồng năm 2008 đến 101.000 tỷ đồng năm 2011 nhằm đảm bảo tăng chi trả nợ ngoài nước do biến động chênh lệch tỷ giá ngoại tệ và tăng trả nợ gốc đối với các khoản vay ngắn hạn để giảm áp lực bố trí trả nợ các năm sau. Việt Nam đang ngày càng chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước(DNNN). Hầu hết các DNNN hoạt động vẫn chưa có hiệu quả, thay vì tập trung vào các hoạt động kinh doanh cốt lõi thì các tập đoàn này lại phát triển thành mạng lưới chằng chịt với hàng trăm các tổng công ty, công ty con và công ty liên doanh. Điển hình như tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
- (Vinashin). Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội Từ năm 2008 đến năm 2010 Chính phủ đã giải ngân được khoảng 31.690 tỷ đồng từ vốn trái phiếu Chính phủ, đạt 79,21%. Các dự án y tế kế hoạch vốn Chính phủ giao là 5.600 tỷ đồng, số vốn giải ngân là 4.315,9 tỷ đồng đạt 77,07%; Các dự án giáo dục kế hoạch vốn Chính phủ giao là 6.180 tỷ đồng, số vốn giải ngân là 4.600 tỷ đồng đạt 74,43%; dự án giao thông đạt 73%; dự án thủy lợi gần 65%, nâng cấp bệnh viện đạt gần 73%; kiên cố trường lớp, nhà công vụ cho giáo viên gần 86%. Ngoài ra, Bộ Tài chính còn triển khai tổ chức thực hiện ứng chi 6.467,5 tỷ để bổ sung vốn đẩy nhanh tiến độ thực hiện một số dự án quan trọng, cấp bách, có khả năng hoàn thành trong năm 2010. Trong đó, đã trích dự phòng ngân sách trung ương 730 tỷ đồng và xuất cấp 14.000 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia để hỗ trợ các tỉnh miền Trung khắc phục hậu quả b ão lũ; cứu đói, hỗ trợ dân sinh; khôi phục cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các vùng bị thiên tai... Chi chương trình mục tiêu quốc gia Nhà nước ta đang chú trọng phát triển các chương trình mục tiêu quốc gia vì mục tiêu phát triển nền kinh tế bền vững. Tất cả các mục chi tiêu của chương trình đều tăng hơn 25% so với năm 2008. Trong đó, các khoản chi cho chương trình an toàn thực phẩm và chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nằm trong ch ương trình mục tiêu quốc gia tăng nhanh và mạnh. Với chương trình an toàn thực phẩm, năm 2009 tăng khoảng 57.5% và năm 2010 tăng gần 164 % so với năm 2008. Còn với chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, năm 2009 – 2010, tăng 2,2 – 3,3 lần so với năm 2008. Chi cải cách tiền lương Từ năm 2008 đến năm 2011 qua 4 lần điều chỉnh, mức lương tối thiểu chung đã được tăng từ 450.000 đồng lên 830.000 đồng/tháng. Mặc dù mức lương tối thiểu đã được điều chỉnh lên tới 830.000 đồng/tháng và luôn duy trì tốc độ tăng bình quân từ 16–20% hàng năm trong nhiều năm, song mức lương tối thiểu áp dụng với cán bộ công chức vẫn giữ ở mức bằng mức lương tối thiểu chung và luôn nằm ở vùng thấp nhất nếu so sánh với mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực doanh nghiệp. Cụ thể, lương công chức mới chỉ bằng 59,3% mức lương tối thiểu vùng thấp nhất và bằng 41,5% mức lương tối thiểu vùng cao nhất của doanh nghiệp quy định tại Nghị định số 70/2011/NĐCP ngày 22/8/2011 của Chính phủ. Trong năm 2012, với đề án tăng lương tối thiểu lên mức 1,05 triệu đồng, ngân sách nhà nước dự kiến sẽ cần thêm khoảng 11.000 tỷ đồng. Tùy theo cơ chế thị trường mà có sự điều chỉnh tiền lương cho hợp lý. Ngoài các khoản chi trên, nhà nước ta còn sử dụng một phần nguồn ngân sách cho các khoản chi khác như: chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước, chi cho các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, quỹ hỗ trợ phát triển, chi sự nghiệp như sự nghiệp giáo dục, văn hóa, thể thao, nghiên cứu khoa học công nghệ…Những khoản chi ngày càng phát sinh lớn nên việc cân đối thuchi là điều vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tếxã hội. 2.2.3. Thực trạng bội chi NSNN (thâm hụt NSNN) Trong giai đoạn 20082012 bội chi NSNN có chuyển biến khá phức tạp, chính vì thuchi bất cân đối đã dẫn đến nhiều ảnh hưởng xấu. Đặc biệt trong năm 2009, nền kinh
- tế toàn cầu gặp khủng hoảng, lạm phát tại Việt Nam khoảng 6,88% tác động rất lớn tới việc sử dụng NSNN. Theo tính toán IMF thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm 2009 lên đến 9%, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho là 9,8%, khác với con số 6,9% mà Việt Nam đưa ra. Theo Tổng cục Thống kê công bố ngày 27/10/2012 con số bội chi ngân sách đã lên tới hơn 155.000 tỉ đồng, vượt dự toán cả năm Quốc hội phê duyệt là 140.200 tỉ đồng (vượt hơn 10,7% kế hoạch bội chi cả năm 2012). Với thực trạng này có thể thấy thâm hụt ngân sách đang ở mức báo động và nhà nước ta cần phải có sự điều chỉnh kịp thời, hạn chế mức thâm hụt. Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP trong các năm 20082012 Tình hình bội chi ngân sách nhà nước ta trong những năm gần đây xấp xỉ khoảng 5% ở trong mức giới hạn cho phép. Những khoản vay chủ yếu được đầu tư cho phát triển, ngoài ra còn khoản tích lũy được từ nguồn thu thuế, phí và lệ phí. Theo Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 do UBKT công bố ngày 4/9/2012, thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỷ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Cụ thể, thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai đoạn 2003 2007 chỉ là 1,3% GDP, nhưng con số này đã tăng hơn gấp đôi lên 2,7% GDP trong giai đoạn 2008 2012. Thâm hụt ngân sách của Việt Nam qua các năm (%GDP)
- Đặc biệt những năm gần đây, thâm hụt ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng nhanh của nợ công. Tổng nợ công của Việt Nam đã tăng từ khoảng 40% GDP từ cuối năm 2007 lên tới 57% GDP vào cuối năm 2010 và chỉ giảm đôi chút vào năm 2011. Cùng thời gian đó, nợ nước ngoài của Việt Nam cũng tăng từ 32% lên tới gần 42% GDP. Nợ công của Việt Nam qua các năm (%GDP) Tuy nhiên, những con số này có thể chưa phản ánh đúng bản chất của thâm hụt tài khóa ở Việt Nam hiện nay. Các tổ chức quốc tế đưa ra những con số thâm hụt ngân sách khác xa với con số báo cáo của Bộ Tài chính. Cụ thể, chỉ tính riêng năm 2009, con số thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc theo báo cáo của MoF là 3,7% GDP, trong khi đó con số tương ứng của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cao hơn nhiều, lần lượt là 6,6% và 9,0% GDP. Trung bình trong hai năm 20092010, con số thâm hụt ngân sách của Việt Nam thuộc diện cao nhất so với các nước trong khu vực, vào khoảng 6% GDP/năm. Con số này gấp khoảng 6 lần so với con số tương ứng của Indonesia, g ấp 3 l ần so v ới Trung Quốc, và gấp khoảng gần 2 lần so với Thái Lan. Thâm hụt ngân sách ở một số nước châu Á 2009 2010 (%GDP) Theo số liệu của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), chỉ tính riêng hai năm 2010 và 2011, tổng giá trị trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh mỗi năm
- được phát hành vào khoảng 110 ngàn tỉ đồng, cao hơn rất nhiều so với con số báo cáo trong Quyết toán ngân sách Nhà nước. 2.3. Nợ chính phủ Nợ chính phủ là một phần của nợ công, theo thống kê về thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam hiện có nhiều nguồn khác nhau. Ngay bản thân quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm của Bộ Tài chính cũng đưa ra hai con số về mức độ thâm hụt ngân sách đó là: thâm hụt ngân sách bao gồm cả chi trả nợ gốc; và thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc. Cuối năm 2010, nợ chính phủ sẽ chiếm 45,5% GDP, do điều chỉnh tăng bội chi ngân sách lên trên 5% GDP (năm 2009 là 6,9% GDP và năm 2010 là 6,2% GDP), cùng với việc tăng phát hành trái phiếu chính phủ (trong hai năm 2009 và 2010 là 120.000 tỷ đồng). Ủy ban Tài chính Ngân sách đã đưa ra cảnh báo này khi đánh giá tình hình thu, chi ngân sách Nhà nước năm 2009 và những tháng đầu năm 2010 tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 7/5. Những con số được dẫn trong báo cáo cho thấy nợ Chính phủ đang tăng cao: từ 33,7% GDP năm 2007 và năm 2010 chiếm 45,5%GDP. Cuối năm 2011 nợ chính phủ sẽ chiếm 43,1% GDP. Nợ Chính phủ trong giai đoạn 2010 – 2012 là khoảng 690.910 tỷ đồng (VnEconomy, 36). Cụ thể: Nguồn huy động nợ là từ phát hành trái hành trái phiếu Chính phủ trong nước 288.739 tỷ đồng; Vay nước ngoài của Chính phủ 256.918 tỷ đồng; và huy động từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước là 165.253 tỷ đồng.
- Phần 3 NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc nhà n ước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, dễ gây lạm phát. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng kì vọng lạm phát của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. 3.1 Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế Với S là tiết kiệm tư nhân, (T – G) (thuế chi tiêu của chính phủ) là tiết kiệm chính phủ, cũng chính là chênh lệch giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T – G) = 0 tức NSNN cân bằng, trường hợp (T – G) > 0 NSNN có thặng dư, trường hợp (T – G)
- 3.4. Thâm hụt ngân sách và vấn đề thoái lui đầu tư Khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các dự án của mình trong ngắn hạn, theo mô hình số nhân, nếu không có thay đổi nào trong thị tr ường tài chính thì GDP sẽ tăng lên ΔG x Số nhân của nền kinh tế. Nhưng khiGDP tăng lên, nhu cầu về tiền giao dịch cũng tăng lên. Mức GDP cao hơn có chiều hướng đi đến thắt chặt tiền tệ (đặc biệt là trong trường hợp NHTW quan tâm đến lạm phát). Lãi suất tăng và thắt chặt tín dụng sẽ có chiều hướng bóp nghẹt hay “thoái lui” đầu tư và những chi tiêu có nhạy cảm với l ãi suất. Kết quả là dẫn đến tổng cầu giảm, sản lượng và công ăn việc làm giảm xuống. Tuy nhiên, do có phản ứng tiền tệ, nên lãi suất tăng lên, làm giảm đầu tư và xuất khẩu ròng. Vậy, trong trường hợp cực đoan thoái lui 100%, phản ứng này mạnh đến nỗi đường chi tiêu (tổng cầu) mới dịch chuyển xuống quay trở lại vị trí của đường tổng cầu ban đầu. Nói cách khác là thắt chặt tiền tệ đã làm triệt tiêu toàn bộ sự mở rộng tài khóa . Chi tiêu Chính phủ làm tăng tổng cầu, nhưng lãi suất cao hơn dẫn đến sự giảm sút của đầu tư và xuất khẩu ròng (do việc tăng tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ). Cuối cùng lãi suất phải tăng đủ mạnh để giảm đầu tư và xuất khẩu ròng đúng bằng lượng G đã tăng lên. 3.5. Lãi suất Thâm hụt tài khóa sẽ làm giảm tiết kiệm chính phủ, giảm tiết kiệm quốc gia, do vậy làm giảm cung và làm tăng lãi suất vốn vay trên thị trường. Sự gia tăng của lãi suất cuối cùng sẽ làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân. Đây chính là hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân của chi tiêu công. Hay nói cách khác, khi chi tiêu công thái quá sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách. Chính phủ buộc phải vay nợ thông qua phát hành trái phiếu và làm giảm lượng vốn vay trên thị trường mà đáng lẽ ra khu vực tư nhân có thể tiếp cận được với giá thấp.
- Trong những năm gần đây, cơ cấu nợ của Việt Nam có chiều hướng thay đổi chuyển từ vay nợ nước ngoài sang vay nợ trong nước. Nợ nước ngoài hiện nay chiếm khoảng 58% và đang có xu hướng giảm, còn nợ trong nước là 42% và đang có xu hướng tăng lên. Việc vay nợ lớn trong nước tuy nhiên lại chèn ép mạnh đầu tư của khu vực tư nhân và làm giảm tăng trưởng kinh tế một khi đồng vốn vay không được khu vực công sử dụng hiệu quả. 3.6. Tăng trưởng Chính sách tài khóa có thể tác động đến tăng trưởng sản lượng của một nền kinh tế qua hai kênh. Thứ nhất, nó có thể làm thay đổi tiết kiệm và đầu tư, và do vậy là năng lực sản xuất trong dài hạn của một quốc gia. Thứ hai, nó có thể làm thay đổi hiệu quả sử dụng nguồn lực, và do vậy làm thay đổi cả sản lượng hiện tại lẫn tăng trưởng trong tương lai. Trong thời kì suy thoái kinh tế, mở rộng tài khóa và chấp nhận thâm hụt ngân sách ở một mức độ nhất định có thể giúp sản lượng trong nước tăng trở lại nhờ kích thích tổng cầu. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế đã ở gần mức sản l ượng tiềm năng và trước đó nền kinh tế liên tục thâm hụt tài khóa thì hiệu quả của chính sách là rất hạn chế, có thể dẫn đến lạm phát cao, lãi suất cao, thâm hụt vãng lai và bất ổn tài chính. Bài học kích thích tổng cầu Việt Nam trong năm 2009 và hậu quả của nó trong năm 20102011 là ví dụ điển hình. Chính phủ thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất nhằm khôi phục lại niềm tin vào đồng nội tệ. Vòng luẩn quẩn giữa thâm hụt tài khóa thâm hụt th ương mại thâm hụt tài khóa có thể tiếp tục diễn ra khi các chính sách kiểm soát giá và thương mại này làm giảm nguồn thu thuế, đặc biệt là thu từ hàng nhập khẩu. Điều này làm cho việc kiềm chế thâm hụt ngân sách càng khó khăn hơn và việc tăng hoặc áp thuế/phí mới là những biện pháp cuối cùng Chính phủ có thể sử dụng. Gánh nặng thuế/phí cao sẽ làm giảm động cơ sản xuất, giảm tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân, nền kinh tế sẽ có tăng trưởng thấp hoặc là âm.
- Phân 4 ̀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ 4.1 Phát hành tiền Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủ có thể tài trợ số thâm hụt của m ình bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở,đặc biệt là trong trường hợp nền kinh tế đất nước suy thoái.Khi sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tiềm năng th ì việc tài trợ số thâm hụt của chính phủ bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở sẽ góp phần thực hiện những mục đích của chính sách ổn định hoá kinh tế thông qua việc đưa nền kinh tế tiến đến gần mức sản lượng tiềm năng mà không gây lạm phát. Ngược lại,khi nhu cầu của nền kinh tế quá mạnh (sản lượng thực tế cao hơn mức sản lượng tiềm năng) thì chính phủ không nên tài trợ số thâm hụt của mình bằng cách tăng nhanh lượng tiền cơ sở ,vì như vậy sẽ càng kích tổng cầu lên cao và đẩy sản lượng thực tế vượt xa mức sản lượng tiềm năng,hậu quả là làm tăng lạm phát 4.2 Vay nợ Vay nợ trong nước: Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới h ình thức phát hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội và các ngân hàng. Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình. Vay nợ nước ngoài: Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế... 4.3 Tăng thuế Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không dễ áp dụng và rất tốn kém. Tăng thuế có khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế, phụ thuộc vào hiệu quả làm việc của hệ thống thu,phụ thuộc vào hiệu suất của từng sắc thuế. Trong thời kỳ kinh tế suy thoái, hoạt động kinh tế mờ nhạt thì tăng thuế không những không khả thi mà còn cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh,trực tiếp làm tăng số lượng nợ đọng thuế của các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm giảm nguồn thu ngân sách. 4.4 Cắt giảm chi tiêu Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế x ã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các c ơ quan nhà
- nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
- KẾT LUẬN Thâm hụt NSNN xảy ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc xử lí vấn đề này hết sức nan giải, bởi nó không chỉ tác động đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thâm hụt NSNN, nhưng phải sử dụng cách nào thì còn phải tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi quốc gia, bởi mỗi cách có ưu nhược điểm làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần phải tính toán kĩ lưỡng để đưa ra các giải pháp phù hợp với thực trạng hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam đang hoạt động theo cơ chế thị trường và có sự quản lí vĩ mô của nhà nước.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Kinh tế vĩ mô: Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thực trạng và giải pháp
23 p | 2996 | 482
-
Tiểu luận môn Tài chính học: Thâm hụt ngân sách nhà nước - Thực trạng và giải pháp
23 p | 1357 | 339
-
Tiểu luận: Thâm hụt ngân sách Việt Nam: Thực trạng, Nguyên nhân và Giải pháp
35 p | 1469 | 260
-
Tiểu Luận: Thâm hụt ngân sách Việt Nam
26 p | 446 | 126
-
Tiểu luận: Thâm hụt ngân sách, tiết kiệm quốc gia và tăng trưởng kinh tế bền vững ở các nền kinh tế mới nổi: hướng tiếp cận dựa trên dữ liệu bảng GMM
22 p | 266 | 74
-
Tiểu luận: Trình bày các biện pháp mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Lấy số liệu thực tế làm ví dụ minh họa trong 5 năm trở lại đây
18 p | 326 | 72
-
Tiểu luận: Bội chi ngân sách nhà nước
21 p | 248 | 36
-
Tiểu luận: Thâm hụt ngân sách, tiết kiệm quốc gia và tăng trưởng kinh tế bền vững ở các nền kinh tế mới nổi: hướng tiếp cận dựa trên dữ liệu bảng GMM động
29 p | 153 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Mối quan hệ giữa nợ công và thâm hụt ngân sách tại Việt Nam
86 p | 66 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động thâm hụt ngân sách nhà nước tại Việt Nam (2002-2012)
51 p | 74 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế Việt Nam
87 p | 46 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách tại Việt Nam
78 p | 52 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
94 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của bộ ba bất khả thi lên sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách
82 p | 41 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển ở Châu Á – Thái Bình Dương
78 p | 74 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của cung tiền và thâm hụt ngân sách đến lạm phát ở các nước Châu Á - Thái Bình Dương
98 p | 45 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của thâm hụt ngân sách đến lạm phát - Trường hợp các quốc gia Đông Nam Á
111 p | 47 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn